Tìm hiểu sự vận dụng lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử về đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam hiện nay | Tiểu luận môn Triết học Mác – Lênin
Nhìn lại tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam, chúng ta thấy rõ thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc diễn ra từ năm 1954 sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và trong cả nước từ năm 1975. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin (LLCT130105)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP HỒ CHÍ MINH BỘ MÔN TRIẾT HỌC
Tiểu luận cuối kỳ ***
TÌM HIỂU SỰ VẬN DỤNG LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA
DUY VẬT LỊCH SỬ VỀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LỚP HP: LLCT130105_21_1_49
GVHD: TS. TRẦN THỊ THẢO THỰC HIỆN: NHÓM 3
HỌC KỲ - NĂM HỌC 1 2021-2022
DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KỲ 1 NĂM HỌC 2021 - 2022
Nhóm 3 - Lớp LLCT 130105_21_1_49
Tên đề tài: Tìm hiểu sự vận dụng lý luận của Chủ nghĩa Duy vật Lịch Sử về đấu
tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam hiện nay STT
HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN MÃ SINH VIÊN % HOÀN THÀNH 1 NGÔ CHÍ BẢO 21110375 100% 2 LÊ BÁ ĐIỀN 21110421 100% 3 LÊ HỮU HUY 21110471 100% 4 TRẦN THÀNH LỢI 21110536 100% 5 NGUYỄN QUỲNH NHI 21110582 100% 6 PHAN MINH QUÂN 21110740 100% 7
TRẦN NGỌC NHỰT THANH 21110647 100% 8 LÊ TRẦN HỮU TRÍ 21110699 100% Ghi chú:
- Tỉ lệ % = 100% : mức độ phần trăm của từng sinh viên tham gia
- Trưởng nhóm: Lê Trần Hữu Trí
SĐT: 0815 547 912
Điểm số:...........................................................................................................................
Nhận xét của giáo viên:
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………....
Tp Thủ Đức, ngày...tháng...năm 20…
Ký xác nhận của giảng viên MỤC LỤC A - PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài: 1
2. Mục tiêu của tiểu luận: 2
3. Phương pháp nghiên cứu: 2 B - NỘI DUNG 3
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ GIAI CẤP VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP 3
1.1. Lý luận về giai cấp 3 1.1.1 Định nghĩa 3
1.1.2. Nguồn gốc của giai cấp 4
1.1.3 Kết cấu xã hội - giai cấp 5
1.2 Lý luận về đấu tranh giai cấp 5 1.2.1. Định nghĩa 5
1.2.2. Tính tất yếu và thực chất của đấu tranh giai cấp 6
1.2.3. Vai trò của đấu tranh giai cấp trong sự phát triển của xã hội 6
1.3. Đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản 7
1.3.1. Đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản khi chưa có chính quyền 7
1.3.2. Đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội 8
CHƯƠNG 2: ĐẤU TRANH GIAI CẤP Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI 10 2.1. Đặc điểm 10 2.2. Nội Dung 12
2.2.1. Trên lĩnh vực kinh tế 13
2.2.2. Trên lĩnh vực chính trị 14
2.2.3. Trên lĩnh vực văn hóa - tư tưởng 16
2.3. Vai trò và trách nhiệm của sinh viên trong đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay 18
2.3.1. Vai trò của sinh viên: 18
2.3.2. Trách nhiệm của sinh viên 18 C - KẾT LUẬN 20
D - TÀI LIỆU THAM KHẢO 22 A - PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Nhìn lại tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam, chúng ta thấy rõ thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc diễn ra từ năm 1954 sau khi kết thúc cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và trong cả nước từ năm 1975 sau khi cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước thắng lợi. Bước đầu xây dựng Đảng và Nhà nước ta gặp phải
nhiều khó khăn trong việc tạo lập cơ sở vật chất của xã hội mới, khi mà bản thân điều
kiện vật chất của chúng ta còn nhiều hạn chế và nghèo nàn. Ngoài ra, còn có sự chống
phá của các thế lực trong và ngoài nước. Nhất là từ sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô và nhiều nước Đông Âu sụp đổ, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào thì vấn
đề đi lên chủ nghĩa xã hội lại được đặt ra và trở thành tâm điểm thu hút mọi sự bàn
thảo, thậm chí tranh luận gay gắt, liệu đi lên xã hội chủ nghĩa có phải là con đường
đúng đắn? Quy kết nguyên nhân tan rã của Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa
Đông Âu là do sai lầm của chủ nghĩa Marx - Lenin và sự lựa chọn con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Nếu biết cách khắc phục sai lầm thì CNXH là con đường đúng
đắn, bởi lẽ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, không phân
chia thành giai cấp, không có bóc lột, áp bức giai cấp và đối kháng giai cấp, tạo ra một
trật tự xã hội hòa hợp và hướng đến công bằng xã hội.
Việt Nam là một trong số ít nước trên thế giới chọn tiến lên theo con đường chủ
nghĩa xã hội với mục tiêu cuối cùng là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, nhưng
để làm được điều đó phải thông qua sự đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản thông
qua bước trung gian quá độ. Chính vì thế, Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng những lý
luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử về giai cấp và đấu tranh giai cấp, học hỏi và áp
dụng vào thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam. Vậy những lý luận của chủ nghĩa
duy vật lịch sử về đấu tranh giai cấp nói gì? Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng ra sao?
Để làm rõ vấn đề trên nhóm chúng em quyết định tìm hiểu vấn đề này và trình bày đề
tài tiểu luận: “Tìm hiểu sự vận dụng lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử về đấu tranh
giai cấp trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam hiện nay”. 1
Vì đây là lần đầu làm bài tiểu luận và chúng em đã rất cố gắng hoàn thành
nhưng trong quá trình làm bài không thể tránh khỏi những sai sót nên chúng em kính
mong nhận được sự góp ý, chỉnh sửa của cô để thêm phần hoàn thiện hơn.
Chúng em xin trân trọng cảm ơn!
2. Mục tiêu của tiểu luận:
- Biết và hiểu được những lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử về giai cấp và đấu tranh giai cấp.
- Biết về cách mà Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng những lý luận trên vào thời kỳ
quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
- Biết được vai trò và trách nhiệm của sinh viên trong thời kỳ quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Vận dụng những hiểu biết trên góp phần phát triển đất nước và xã hội.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Các phương pháp nghiên cứu của nhóm 3:
- Tham khảo tài liệu trên Internet.
- Tham khảo tài liệu giáo trình của giáo viên. - Tham khảo qua sách, vở. 2 B - NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ GIAI CẤP VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP
Lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp đã có vai trò sống còn trong việc
hoạch định đường lối, chính sách trong cuộc đấu tranh hoàn thành sứ mệnh lịch sử
nhân loại của các giai cấp cộng sản, giai cấp thống trị và giai cấp công nhân. Và được
xem là chỗ dựa vững chắc cho chủ nghĩa Marx - Lênin phát triển không ngừng xuyên
suốt dòng lịch sử. Trong đó, các nhà triết học gia của chủ nghĩa Marx cũng đã luận giải
một cách có hệ thống logic, thực tế vấn đề giai cấp, qua bức thư G. Veyd Mayer ngày
5-3-1852 đã mô tả tóm lược về giai cấp rất rõ ràng như sau: “Cái mới mà tôi đã làm là
chứng minh rằng: một là sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn với những giai đoạn phát
triển lịch sử nhất định của sản xuất, thứ hai đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên
chính vô sản, thứ ba bản thân những chuyên chính này chỉ là bước quá độ tiến tới thủ
tiêu mọi giai cấp và tiến tới xã hội không giai cấp”.
Trải qua dòng lịch sử, khoảng thời gian trước thời đại C. Marx, phần lớn các
nhà triết học và tầng lớp tư sản bấy giờ đều nhận thức được sự tồn tại của “giai cấp”,
tuy nhiên họ lại không thể đưa ra một định nghĩa khoa học về nó bởi nhiều khía cạnh
khác nhau như lập trường cũng như nhận thức. Nhưng thực tế, họ muốn làm phai nhòa
sự phân biệt giai cấp và đấu tranh giai cấp với mục đích bảo vệ sự thống trị, qua đó thực hiện sự bóc lột.
1.1. Lý luận về giai cấp 1.1.1 Định nghĩa
Ở khía cạnh của C.Marx, ông tìm ra rằng phân cấp tầng lớp xã hội là hệ quả tất
yếu của sự đi lên của lịch sử xã hội, thể hiện trên nhiều mặt sản xuất, cụ thể là các tập
đoàn người này áp đặt sự áp bức lên tập đoàn người kia. Như vậy chỉ có thể nói rằng
giai cấp chỉ đi đến và dừng lại ở mục đích kinh tế. Bên cạnh đó, với sự thừa hưởng hệ
thống lý luận của C. Marx và Ph. Ăngghen - một vĩ nhân đã song hành và mở rộng lối
đi của C. Marx, V.I Lênin đã nêu lên những cái nhìn chung nhất về giai cấp và gây
dựng nên tập lý luận định nghĩa khoa học về giai cấp: “Người ta gọi là giai cấp, những
tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong hệ thống sản xuất 3
xã hội nhất định trong lịch sử khác nhau về quan hệ của họ đối với tư liệu sản xuất, về
vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội và như vậy là khác nhau về cách tiếp tục
về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người,
mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác đó có địa vị khác
nhau trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định” qua tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại”.
Đầu tiên, sự định nghĩa giai cấp nêu lên đặc trưng cơ bản của giai cấp là những
tầng lớp người có “địa vị kinh tế - xã hội” khác biệt, cùng tồn tại trong cùng một bộ
máy sản xuất nhất định ở một giai đoạn xác định trong lịch sử. Mà dấu hiệu đi đến và
sắp xếp địa vị kinh tế - xã hội của các giai cấp chính là sự kết nối qua lại giữa kinh tế -
vật chất trong cùng phương thức sản xuất giữa các tập đoàn người khác nhau. Một
cách rõ ràng và thực tế thì sự tồn tại của giai cấp chính là sự biểu hiện cho mối quan hệ
giữa “bóc lột và bị bóc lột”, là sự chiếm hữu lao động của tập đoàn người này lên tập
đoàn người kia nhờ sự chênh lệch về địa vị trong cùng một xã hội. Định nghĩa này của
V.I Lênin được đưa ra và mang giá trị không nhỏ ở cả mặt lý luận và thực tiễn, song
hành là chỗ dựa vững vàng dễ xác định rõ ràng vai trò, chỗ đứng của các tập đoàn
người trong lịch sử loài người, đặc biệt là các cuộc đấu tranh giai cấp nhằm xóa bỏ chế
độ và xây dựng lại cái mới.
1.1.2. Nguồn gốc của giai cấp
Nguyên nhân gián tiếp (sâu xa) của nguồn gốc giai cấp là sự đi lên của lực
lượng sản xuất đẩy lên làm cho lao động tăng năng xuất, làm xuất hiện “dư thừa” của
cải đóng vai trò như một nhân tố kích thích khiến cho các tập đoàn người chiếm đoạt
lao động của kẻ khác. Khi mà xã hội loài người phát triển đến một mức độ nhất định,
“việc làm chung, hưởng chung” không còn đóng vai trò duy trì sự tồn tại và phát triển,
thì việc sản xuất tư hữu cũng dần xuất hiện và thay thế, sự phân công lao động và tích
trữ tạo thành “của dư” ngày một thường xuyên và phát triển hơn, tài sản trở thành nhân
tố kích thích khiến cho sự chiếm đoạt xuất hiện giữa người này và người khác. Trong
khi đó, nguyên nhân trực tiếp lại là sự tồn tại của “chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất”
và có mối quan hệ đồng thời tức là giai cấp chỉ tồn tại khi “chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất” vẫn còn xuất hiện. 4
1.1.3 Kết cấu xã hội - giai cấp
Nhưng kết cấu xã hội – giai cấp bất kì khi nào cũng được cấu tạo từ hai “giai
cấp cơ bản” và những “giai cấp không cơ bản”, hay các giai cấp xã hội trung gian.
Trong đó, “giai cấp cơ bản” là đại diện cho giai cấp gắn liền với phương thức sản xuất
thống trị, là sản phẩm chính phương thức này. Có thể kể tới giai cấp chủ nô và nô lệ
trong xã hội chiếm hữu nô lệ; giai cấp tư sản và vô sản trong xã hội tư bản chủ nghĩa
hay giai cấp địa chủ và nông dân trong xã hội phong kiến. Bên cạnh đó, giai cấp còn
liên quan tới phương thức sản xuất tàn dư, hoặc mầm mống trong xã hội có thể kể đến
như nô lệ tại những thời điểm đầu tiên trong xã hội phong kiến; địa chủ, chủ nô trong
xã hội tư bản… hay mầm mống xã hội như tiểu chủ, tiểu thương, tư sản, vô sản ở thời
điểm cuối của xã hội phong kiến. Trong tiến trình lịch sử, các giai cấp “cơ bản”,
“không cơ bản” có sự chuyển đổi chính vì do sự thay thế và đi lên của các phương
thức sản xuất luôn diễn ra không ngừng.
Ngoài ra, sự tồn tại của các nhóm xã hội và tầng lớp có thể kể đến như trí thức,
dân sĩ hay tu hành… cũng được công nhận, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển
xã hội tùy thuộc vào các điều kiện lịch sử cụ thể mà các tầng lớp này gia tăng sự ảnh
hưởng của mình. Một điều nữa là các tầng lớp này luôn bị tách ra bởi sự vận động của “vật chất xã hội”.
1.2 Lý luận về đấu tranh giai cấp 1.2.1. Định nghĩa
Đấu tranh giai cấp hay còn biết đến với mâu thuẫn giai cấp được định nghĩa là
sự căng thẳng hoặc đối chọi trong xã hội, xuất phát từ sự cạnh tranh về những lợi ích ở
mặt kinh tế và nhu cầu khác nhau giữa các tầng trong xã hội. Hay cụ thể hơn được
diễn giải: “Đấu tranh giai cấp là đấu tranh của một bộ phận nhân dân này chống lại bộ
phận khác, cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động
chống lại bọn có đặc quyền, đặc lợi và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người
công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp
tư sản” trong điều kiện lịch sử mới, V.I Lênin đã kế thừa và phát triển tư tưởng của C.
Marx và Ph. Ăngghen chỉ rõ. 5
1.2.2. Tính tất yếu và thực chất của đấu tranh giai cấp
“Đấu tranh giai cấp là tất yếu do sự đối lập về lợi ích căn bản không thể điều
hòa được giữa các giai cấp”. Xuất phát từ lợi ích đơn thuần giữa giai cấp bị trị và giai
cấp thống trị, đấu tranh giai cấp xuất hiện và tồn tại như một sự tự nhiên dựa trên điều
kiện “ở đâu và khi nào còn áp bức, bóc lột thì ở đó và khi đó còn đấu tranh giai cấp”
chống lại áp bức bóc lột. Và cũng chính thực tế cho thấy, lịch sử loài người một phần
đã diễn tả và chứng minh.
“Đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của các tập đoàn người to lớn có lợi ích
căn bản đối lập nhau trong một phương thức sản xuất xã hội nhất định”. Trong xã hội
có giai cấp, đấu tranh giai cấp chính là sự đối chọi giữa hai giai cấp cơ bản trong cùng
một phương thức sản xuất thống trị, vì lợi ích của hai tập đoàn người này là trái ngược
nhau: nô lệ và chủ nô, nông dân và địa chủ, vô sản và tư sản và các giai cấp trung gian,
cơ bản không bị cuốn vào cùng với giai cấp cơ bản tham gia cuộc đấu tranh. “Về cơ
bản các giai cấp, tầng lớp xã hội còn lại đều có lợi ích ít, nhiều gắn với đánh đổ giai
cấp thống trị bóc lột”.
“Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của quần chúng lao động
bị áp bức, bóc lột chống lại giai cấp áp bức, bóc lột nhằm lật đổ ách thống trị của
chúng”. Sự đàn áp về thể chế chính trị, xã hội và về cả mặt tinh thần của giai cấp thống
trị lên giai cấp bị trị, chiếm đoạt thành quả lao động, lấy đi những đặc quyền, lợi ích
của giai cấp bị trị bằng chính sức mạnh của bộ máy thống trị. Từ đó dẫn đến những
mâu thuẫn gay gắt không thể dung hòa và cuối cùng đi đến hiện tượng đấu tranh giai
cấp, nói một cách khác là để lật đổ ách thống trị của giai cấp bóc lột, đàn áp.
1.2.3. Vai trò của đấu tranh giai cấp trong sự phát triển của xã hội
Vai trò của đấu tranh giai cấp luôn được nhấn mạnh, nhất là trong cuộc đấu
tranh giữa giai cấp tư sản và vô sản, C. Marx và Ph. Ăngghen luôn đề cao và coi đó là
“ đòn bẩy vĩ đại của cuộc cách mạng xã hội hiện đại”, là “động lực quan trọng trực
tiếp của lịch sử”. Nó được thể hiện trong những thời kì đổi mới xã hội, thúc đẩy tiến
trình phát triển mọi khía cạnh đời sống xã hội, nhìn vào thực tế các mặt như kinh tế, tư
tưởng, chính trị hay văn hóa, thậm chí là lý luận xã hội … đều mang ít nhiều bản chất
của cuộc đấu tranh giai cấp. Thông qua đấu tranh giai cấp, các giai cấp cũng đạt được 6
sự trưởng thành về nhiều mặt, tự nâng cấp chính bản thân giai cấp cũng như góp phần
làm xóa bỏ phần các phần tử phản động. Mỗi cuộc đấu tranh giai cấp đều đi đến mục
tiêu giải quyết một số nhiệm vụ nhất định, tùy hoàn cảnh và tính chất, quy mô và mức
độ của các mục tiêu này phải được giải quyết. Chính vì tính chất “quy mô và triệt để”
đó mà đấu tranh giai cấp vô sản được coi là “ đòn bẩy vĩ đại nhất”. Hiện nay cuộc đấu
tranh giai cấp vẫn còn tiếp diễn, nhưng mà gắn liền với các nhiệm vụ đấu tranh cho
“độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội” và vẫn đóng vai trò cơ sở thúc đẩy “quan
trọng nhất” cho đến thời đại hôm nay.
1.3. Đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản
1.3.1. Đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản khi chưa có chính quyền
Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản thể hiện qua ba hình thức đấu tranh
cơ bản đó là: đấu tranh kinh tế, đấu tranh chính trị (là hình thức cao nhất) và đấu tranh tư tưởng
Đấu tranh kinh tế: Mục đích của đấu tranh kinh tế là bảo vệ quyền lợi của công
nhân như: tăng lương, giảm giờ làm...giúp cho công nhân cải thiện điều kiện sống. Các
cuộc đấu tranh kinh tế được thể hiện dưới nhiều hình thức như: đình công, biểu tình,
đập phá máy móc…Nhìn chung đấu tranh kinh tế của giai cấp vô sản ở giai đoạn này
đã đem đến nhiều thuận lợi cho các cuộc đấu tranh sau này từ việc tập trung, củng cố
lực lượng cho đến giác ngộ quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh giai cấp, tuy
nhiên bên cạnh đó vẫn còn nhiều hạn chế đó là chưa xóa bỏ được sự áp bức, bóc lột
của giai cấp tư sản và không đạt được mục tiêu cuối cùng là xóa bỏ chủ nghĩa tư bản
Đấu tranh chính trị: Là hình thức cao nhất của giai cấp vô sản. Mục đích của
đấu tranh chính trị là lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, phản động, đem chính
quyền về cho giai cấp vô sản từ đó tổ chức ra chính đảng của giai cấp vô sản. Đấu
tranh chính trị được thể hiện dưới những hình thức cụ thể, theo từng mức độ khác nhau
nhưng tham gia vào nghị viện tư sản và dựa vào đó để tố cáo chính sách của nhà nước
tư sản, ngoài ra còn tổ chức các cuộc mít-tinh, bãi công, biểu tình…Đấu tranh chính trị
có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc giác ngộ và bảo vệ lợi ích của giai cấp vô sản từ
đó củng cố, phát triển lực lượng cách mạng. Tuy nhiên để lật đổ nhà nước tư sản, giai
cấp vô sản phải sử dụng bạo lực cách mạng. 7
Đấu tranh tư tưởng: Mục đích của đấu tranh tư tưởng là xóa bỏ tư tưởng của
giai cấp tư sản, đồng thời khắc phục những tư tưởng lạc hậu trong phong trào cách
mạng, đấu tranh chống những tư tưởng lệch lạc, truyền bá và bảo vệ hệ tư tưởng Chủ
nghĩa Marx–Lenin, giáo dục nhân dân thấm nhuần đường lối chiến lược của Đảng.
Đấu tranh tư tưởng được thể hiện qua nhiều hình thức, cả công khai và bí mật như: đấu
tranh qua báo chí, nghệ thuật, tuyên truyền cổ động quần chúng nhân dân.
Ba hình thức đấu tranh này có quan hệ mật thiết với nhau, chúng hỗ trợ lẫn
nhau, nhưng có vai trò không ngang nhau. Chúng đan xen lẫn nhau, vừa được dùng
làm tiền đề, vừa là cơ sở, vừa bổ sung cho nhau. Cuộc đấu tranh chính trị có ý nghĩa
quyết định đến thắng lợi. Tùy theo giai đoạn, điều kiện thích hợp để sử dụng những
con đường đấu tranh phù hợp.
1.3.2. Đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
Đấu tranh giai cấp là một vấn đề tất yếu. Với mục đích là xây dựng chủ nghĩa
xã hội chưa hoàn thành, giai cấp vô sản còn gặp nhiều khó khăn, nhiều thế lực thù địch
tìm mọi cách chống phá cách mạng, nền kinh tế nhỏ và có nhiều thành phần vẫn tồn tại
và nảy sinh nhiều sự áp bức bóc lột. Những hạn chế đó chỉ bị xóa bỏ thông qua cuộc
đấu tranh của giai cấp vô sản
Đấu tranh giai cấp được diễn ra trong điều kiện mới, điều đó đã đem đến nhiều
sự thuận lợi. Cơ cấu và địa vị của giai cấp vô sản thay đổi về cơ bản, dẫn đến sự so
sánh lực lượng có lợi cho giai cấp vô sản: từ bị trị và bóc lột trở thành lãnh đạo, từ
nông dân sang công nhân,...Các thế lực chống phá cách mạng ngày càng giảm và phân
hóa theo hướng xóa bỏ hoàn toàn. Bên cạnh đó vẫn còn tồn tại rất nhiều khó khăn, đó
là thiếu kinh nghiệm quản lí xã hội, tuy còn ít nhưng các thế lực thù địch tìm mọi cách
để chống phá lực lượng cách mạng, tư tưởng của xã hội cũ và của giai cấp thống trị còn nhiều
Đấu tranh giai cấp có những nội dung mới, với mục đích là xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội trên mọi lĩnh vực từ kinh tế, chính trị cho đến tư tưởng...Từ đó
có hai nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, lâu dài nhất trong cuộc đấu tranh được đặt ra, có
mối quan hệ chặt chẽ và làm tiền đề cho nhau. Một là, bảo vệ thành quả cách mạng.
Hai là, cái tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới - nhiệm vụ cơ bản, quyết định thắng lợi. 8
Đấu tranh giai cấp có hình thức mới. Các hình thức đấu tranh đa dạng phong
phú như đổ: máu và không đổ máu, bạo lực và hòa bình, quân sự và kinh tế, giáo dục
và hành chính...Nhiệm vụ của các hình thức đó là đem lại lợi ích cho cuộc đầu tranh về
nhiều mặt. Về kinh tế, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Về chính trị, xây dựng và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, hoàn
thành hệ thống chính trị. Về tư tưởng - văn hóa, xác định vai trò của chủ nghĩa Marx-
Lenin đồng thời xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. 9
CHƯƠNG 2: ĐẤU TRANH GIAI CẤP Ở VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI 2.1. Đặc điểm
Quá trình đi lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã bỏ qua chế độ tư bản, đặc biệt
sau khi đã giành được độc lập việc đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ là một việc
mang tính chất tất yếu, không chỉ cần thiết thay đổi cả về phát triển đất nước trong các
lĩnh vực kinh tế - xã hội mà còn về cả việc thay đổi, thanh lọc các lực lượng đi ngược
lại với lợi ích của quốc gia, dân tộc…, không chỉ của chế độ cũ mà cả các lực lượng
hậu thuẫn của nước ngoài.
Việt Nam là một trong số ít nước trên thế giới chọn tiến lên theo con đường chủ
nghĩa xã hội với mục tiêu cuối cùng là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, nhưng
để làm được điều đó phải thông qua sự đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản thông
qua bước trung gian quá độ. Như vậy quá độ ở Việt Nam là quá độ gián tiếp, từ một
đất nước nhuốm màu đen tối của chế độ nửa thực dân phong kiến với trình độ sản xuất
kinh tế còn rất thấp, tiến lên chủ nghĩa xã hội mà bỏ qua chế độ tư bản. Thời kì này sự
bóc lột giai cấp vẫn còn rất nặng nề, và các mâu thuẫn vẫn tồn tại. Để phát triển bền
vững một nền kinh tế đã chịu nhiều ảnh hưởng nặng nề do chiến tranh, một nền kinh tế
sản xuất có quy mô nhỏ, nhưng lại phân hóa đa thành phần theo cơ chế thị trường đã
xuất hiện và trở nên phổ biến, nhưng phải chống lại khuynh hướng tự đi lên chủ nghĩa
tư bản bởi nó là một quá trình diễn ra mang tính tự phát; vì vậy việc giữ vững con
đường đi lên xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực kinh tế vẫn luôn là một tiêu chí cần đề cao
lên hàng đầu trong việc phát triển đất nước.
Ngày nay vẫn còn một bộ phận không nhỏ “các thế lực thù địch” ngoài nước
vẫn đang tìm cách liên lạc với bọn phản động trong nước nhằm dùng nhiều âm mưu,
thủ đoạn để khiến nước ta luôn trong tình thế bất ổn. Không chỉ vậy, dù rằng trong
nhiều năm qua tình thế thù địch có giảm xuống nhưng nhờ vào tài lực của nước ngoài
và sự thiếu hiểu biết của một bộ phận người dân bị chúng “dắt mũi”, với các chiêu bài
quen thuộc như lợi dụng dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc… để chống phá cách
mạng Việt Nam. Thực hiện “ diễn biến hòa bình ” nhằm vô hiệu hóa các lực lượng vũ 10
trang và xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng là một hành động diễn ra nhờ sự hậu thuẫn
của chủ nghĩa đế quốc.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Những “giá trị xấu xí”
còn tồn động trong tư tưởng, tập quán của giai cấp phong kiến, chủ nghĩa thực dân
kiểu mới…Nhưng trong thời kì hội nhập phát triển kinh tế, văn hóa xã hội và đặc biệt
là sự hội nhập quốc tế gây ảnh hưởng không hề nhỏ đến sự phát triển của đất nước,
chúng không thể tự động mất đi mà phải thông qua các quá trình đấu tranh nhằm loại
bỏ các tệ nạn. Như vậy đấu tranh giai cấp ở Việt Nam vẫn diễn ra tuy nhanh chóng
nhưng vẫn hết sức phức tạp trong các lĩnh vực đời sống xã hội.
Cùng với sự biến động của kinh tế - xã hội, và sự phát triển của thế giới theo
hướng phát triển ngoại giao, đấu tranh giai cấp ở Việt Nam đã diễn ra điều kiện mới
cùng với những thuận lợi cơ bản thì vẫn gặp không ít những khó khăn. Dịch chuyển
kinh tế theo hướng thị trường, cơ cấu xã hội – giai cấp ở nước ta có nhiều biến động,
tạo ra nhiều mặt lợi cho cách mạng. Giai cấp công nhân vẫn là giai cấp đông đảo nhất,
vẫn là giai cấp lãnh đạo sự nghiệp phát triển cách mạng. Các khối giai cấp về cả nông
dân, trí thức dù ở thời kì nào vẫn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam
nhưng nó được củng cố thêm trở thành nền tảng của xã hội mới. Việt Nam chỉ duy
nhất được lãnh đạo bởi Đảng cộng sản Việt Nam, do đó dù tình hình quốc tế có ra sao
đi nữa thì vai trò lãnh đạo đất nước vẫn phải được giữ vững và ngày càng được củng
cố. Như vậy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vẫn tiếp tục được hoàn
thiện trở thành một công cụ hiệu quả không chỉ trong cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt
Nam mà còn ở chiến trường chính trị quốc tế. Con đường phát triển của chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam đã diễn ra qua vài thập kỷ, có những nốt trầm và cũng có những nốt
thăng - đạt được nhiều thành tựu to lớn, tạo ra thời kỳ mới, biến đất nước còn nghèo
đói lạc hậu trở thành một thế lực mới trong khu vực. Mục tiêu ban đầu của cách mạng
xã hội chủ nghĩa là nhờ sự những thành quả của sự nghiệp cách mạng và nhiều tiền đề
về kinh tế được xem như bước đầu của thắng lợi. Sự phát triển theo hướng hội nhập
toàn cầu hóa của quốc tế, cùng với các cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện
đại đã đưa Việt Nam nhiều thời cơ, thách thức trên con đường phát triển của mình.
Trong thời đại mới, kinh tế thị trường là một điều kiện thuận lợi cơ bản để đất
nước ta từng bước phát triển từ một nước đang phát triển, vươn mình trở thành “con 11
rồng châu Á” tiếp theo của thế giới. Nhưng bên cạnh đó trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, cách mạng Việt Nam vẫn còn gặp muôn vàn khó khăn. Không chỉ các thế
lực thù địch vẫn đang tìm cách thực hiện âm mưu nhằm lật đổ, làm thay đổi chế độ
chính trị ở Việt Nam thông qua các chiêu bài quen thuộc “diễn biến hòa bình”, “nhân
quyền” nhằm lôi kéo gây tác động không nhỏ đến không chỉ một bộ phận người dân
kém hiểu biết mà còn ảnh hưởng đến nền kinh tế non trẻ đang từng bước phát triển.
Trong một thời đại mà sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung quốc, sự điều chỉnh chiến lược
của cường quốc và sự ảnh hưởng của đế quốc Mĩ, nhu cầu về thay đổi, điều chỉnh để
thích nghi với tình hình mới luôn là vấn đề nhức nhối đối với cách mạng Việt Nam. Vì
vậy nhiệm vụ đấu tranh giai cấp, thành công xây dựng chủ nghĩa xã hội là một nhiệm
vụ vô cùng gian nan mà đòi hỏi cả bộ máy chính trị và toàn dân cùng nhau thực hiện. 2.2. Nội Dung
Cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội không nhằm
mục đích gì khác ngoài hoàn thành thắng lợi mục tiêu cơ bản về xây dựng chủ nghĩa
xã hội và độc lập dân tộc, xây dựng một đất nước theo hướng đấu tranh loại bỏ đi các
phần tử nhằm làm suy thoái sự phát triển đất nước theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa bằng
các hành động mang tính chất chủ động đi lên theo con đường xã hội chủ nghĩa, do thế
giới vẫn đang xoay chuyển theo tư bản chủ nghĩa, việc bị cuốn theo là một việc hết sức khả thi.
Như vậy, mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, muốn
thành công thì nhân dân Việt Nam phải hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc xã hội chủ nghĩa. Vậy tại sao phải bảo vệ
tổ quốc xã hội chủ nghĩa? Vì đây là điều kiện cơ bản giữ vững nền độc lập chính trị ổn
định về thị trường thì mới tạo ra được các điều kiện thuận lợi cơ bản thu hút đầu tư,
tạo lập ra được các cơ sở - kinh tế để xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa, tăng
cường quốc phòng an ninh, tạo nên sức mạnh bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở nước
ta. Trong thời kỳ hiện nay, phát triển kinh tế để tạo lập ra các nội lực cho việc phát
triển đất nước, kết hợp với việc tăng cường bộ máy chính trị, nâng cao vai trò trên các
lĩnh vực văn hóa – tư tưởng vẫn là nội dung quan trọng nhất trong đấu tranh thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bản chất của những lĩnh vực này chính là những yếu tố 12
bản nguyên cơ bản nhất quyết định sự hình thành của một hệ thống đất nước theo
đường lối chủ nghĩa xã hội, đồng thời giành được thắng lợi trong sự nghiệp công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Tạo dựng ra được “vũ khí” trong công cuộc phục
hồi đất nước sau chiến tranh, khắc phục các tiêu cực trong những nhận thức lệch lạc
xuất hiện trong quần chúng nhân dân, thực hiện công bằng xã hội chống áp bức bất
công đấu tranh ngăn chặn và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa trước các thế lực thù địch.
Đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện
nay vẫn diễn ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều hình thức phong phú và đa dạng với nội
dung khác nhau nhằm giải quyết các hạn chế trong quá trình vận động đi lên.
2.2.1. Trên lĩnh vực kinh tế
Vai trò của kinh tế trong đấu tranh giai cấp ở Việt Nam là hoạt động cơ bản nhất
trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế khác nhau, các hình thức tổ chức kinh doanh và phân phối. Là bộ
phận quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài,
hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo kinh tế tập thể, củng cố
và không ngừng phát triển kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế tư nhân là một trong
những động lực của nền kinh tế. Mối quan hệ mua bán đảm bảo sự công bằng và tạo
động lực phát triển. Nguồn lực được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả công việc,
hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức góp vốn và các nguồn lực khác và phân phối theo
hệ thống an sinh, phúc lợi Nhà nước quản lý kinh tế, chỉ đạo, điều tiết và thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội thông qua pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính
sách và lực lượng vật chất.
Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây
dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ giữa
công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Trọng tâm là phát triển công nghiệp nặng và các 13
ngành công nghiệp cốt lõi của sản xuất và các ngành công nghiệp có lãi; phát triển
nông, lâm, ngư nghiệp với công nghệ, chất lượng ngày càng cao gắn với công nghiệp
chế tạo và xây dựng nông thôn mới; bảo đảm sự phát triển hài hòa giữa các vùng,
miền; đẩy mạnh phát triển nhanh các vùng kinh tế quan trọng, đồng thời tạo điều kiện
thuận lợi cho các vùng còn nhiều khó khăn phát triển, xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Đảng đề ra các mục tiêu phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ không ngoài
mục đích là vì sự phát triển toàn diện của của mọi cơ hội hợp tác, đoàn kết giữa các
cấp, các tầng lớp trong xã hội. Đảng khẳng định các nền kinh tế có thể cùng phát triển
trong nền kinh tế định hướng thị trường, tôn trọng các ý kiến khác nhau mà không làm
trái với lợi ích chung của dân tộc, xóa bỏ các mặc cảm về các định kiến phân biệt đối
xử về quá khứ , thành phần giai cấp hướng tới tương lai. Trước các thách thức của nền
kinh tế thị trường, đặc biệt là khả năng đi lệch theo hướng phát triển tư bản chủ nghĩa,
do đó Đảng và nhà nước vẫn thực hiện xuyên suốt các chủ trương phát triển kinh tế thị
trường dưới sự quản lý và giám sát chặt chẽ của nhà nước. Do đó giai cấp công nhân
phải trở thành lực lượng chủ đạo trong công tác về tư tưởng, chính trị xã hội để đại diện cho cả dân tộc.
Như vậy, lĩnh vực kinh tế có vai trò hết sức quan trọng trong công cuộc xây
dựng xã hội chủ nghĩa, góp phần không nhỏ trong công cuộc đấu tranh giai cấp trong
thời kỳ quá độ. Kinh tế là nguồn gốc dẫn đến sự phát triển của các lĩnh vực từ an ninh
chính trị tới quốc phòng. Phát triển kinh tế luôn là mục tiêu hàng đầu trong sự nghiệp
của toàn Đảng, toàn dân, toàn dân tộc, trong và ngoài nước.
2.2.2. Trên lĩnh vực chính trị
Để thực hiện thắng lợi trong cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ, lĩnh
vực chính trị quyết định sự hoàn thành tiến độ mục tiêu của các lĩnh vực khác, xây
dựng một nền chính trị ổn định không nhằm mục đích nào khác, xây dựng một môi
trường hòa bình ổn định thu hút vốn đầu tư nước ngoài phát triển kinh tế giải quyết
nhu cầu cấp bách trong công cuộc đấu tranh giai cấp hiện nay. Chính trị còn là yếu tố
then chốt trong sự vững mạnh của một quốc gia, một quốc gia có chính trị ổn định
chính là động lực tốt nhất cho sự vận động của đất nước vì vậy xây dựng và từng bước 14
hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực
tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ
cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm.
Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền của công dân, đảm
bảo hạnh phúc và sự phát triển tự do của tất cả mọi người. Quyền và nghĩa vụ của
công dân do hiến pháp và pháp luật quy định, quyền công dân gắn bó chặt chẽ với
nghĩa vụ dân sự. Nhân dân thực hiện quyền cai trị thông qua hoạt động của nhà nước,
của toàn bộ hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, đại diện. Nhà nước ta
là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất
cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, cơ sở là liên minh giữa các giai cấp
công hữu. Với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất; trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp có sự phân bổ, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước ban
hành pháp luật; tổ chức và quản lý xã hội thông qua pháp luật và không ngừng tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó với nhân dân,
thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân
dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế, biện pháp kiểm soát, ngăn chặn và
trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thiếu trách nhiệm, lạm quyền, phá hoại
quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động
đi ngược lại lợi ích của đất nước, của nhân dân. Tổ chức và chức năng của bộ máy nhà
nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, phân phối, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự
quản lý thống nhất của chính quyền trung ương.
Vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam chính là đầu lĩnh của giai cấp
công nhân, đồng thời là đội tiên phong của giai cấp vô sản ở Việt Nam. Đảng Cộng sản
Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của
nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Marx - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung
dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển 15
sáng tạo chủ nghĩa Marx - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát
triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là
tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường
cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi mục tiêu quan trọng.
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu
những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan
lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên
hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá
nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và
hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và
trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng
gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa
vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong
khuôn khổ hiến pháp và pháp luật.
Như vậy lĩnh vực chính trị thành công nhờ vào sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà
nước và sự đóng góp của toàn dân, toàn dân tộc trên cả nước. Đấu tranh giai cấp ở Việt
Nam vẫn tiếp tục diễn ra hết sức khẩn trương. Vì vậy, làm tốt vai trò của mỗi cá nhân
trên đất nước chính là góp một phần sức mạnh thúc đẩy đất nước phát triển theo mục tiêu chủ nghĩa xã hội.
2.2.3. Trên lĩnh vực văn hóa - tư tưởng
Nhu cầu sử dụng kết hợp nhiều hình thức các biện pháp nhằm giáo dục nâng cao
văn hóa - tư tưởng cho quần chúng nhân dân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
đấu tranh giai cấp diễn ra hết sức phức tạp do bộ phận không nhỏ tàn dư của chế độ cũ
và bọn phản động được hậu thuẫn của nước ngoài tiến hành thực hiện nhiều âm mưu
“diễn biến hòa bình”, “dân chủ”, “tôn giáo” nhằm vô hiệu hóa lực lượng quốc phòng,
làm lung lay đến tư tưởng chính trị trong nhân dân, ảnh hưởng đến bộ máy chính trị
của Đảng cộng sản Việt Nam. Do đó việc đề ra các biện pháp mạnh tay xử lý vấn đề
này là một trong các nội dung về tư tưởng mà nhà nước đang hết sức thực hiện. Đồng
thời đẩy mạnh quá trình giáo dục tư tưởng cho quần chúng nhân nhân, nâng cao dân 16
trí, phát triển cả về thể chất và tinh thần, có thể đối mặt với sự cám dỗ của vật chất,
tránh được những tư tưởng độc hại.
Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiến bộ, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển
toàn diện, thống nhất đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ và tiến
bộ; văn hóa gắn bó mật thiết và thấm vào đời sống xã hội tạo thành nền tảng tinh thần
vững chắc, là động lực nội sinh quan trọng để kế thừa và phát huy truyền thống văn
hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Nhằm tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại đồng thời xây dựng một xã hội mang tính dân chủ, công bằng và văn minh để
phục vụ cho lợi ích chung của xã hội, tạo nền móng vững chắc để phát triển những thế
hệ có trình độ tri thức, đạo đức, thể lực cao. Bên cạnh đó vẫn giữ được nét thẩm mỹ
trong văn hóa nhằm phát triển và nâng cao chất lượng sáng tạo văn học, nghệ thuật;
khẳng định và ca ngợi những giá trị chân, thiện, mỹ, phê phán cái lạc hậu, thấp kém,
chống những biểu hiện vô văn hóa. Bảo đảm quyền thông tin và quyền tự do sáng tạo
cho công dân. Phát triển các phương tiện thông tin hiện đại; thông tin đa dạng nhưng
phải có sự chọn lọc, phải mang tính thiết thực, có lợi ích rõ ràng; kịp thời phục vụ đắc
lực các công trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Giáo dục và đào tạo có nhiệm vụ nâng cao trình độ dân trí, phát triển nguồn
nhân lực, khuyến tài, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển đất nước, xây dựng
nền văn hóa, con người Việt Nam công nghệ. Nó là quốc sách quan trọng nhất; đầu tư
cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo, phù hợp với nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu
cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc
lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Tạo cơ
hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời.
Gắn kết chặt chẽ công tác bảo vệ, phòng ngừa và khắc phục hậu quả môi trường
với khắc phục sinh thái và bảo vệ môi trường. Phát triển năng lượng sạch, sản xuất
sạch và tiêu dùng sạch. Nghiên cứu, dự đoán và đề ra những kế hoạch chống biến đổi
khí hậu cho tương lai, song song với đó là thực hiện triển khai từng giai đoạn của kế
hoạch. Tất cả đều hướng tới mục tiêu đề ra những giải pháp đi đôi với thực tiễn để
phòng ngừa, ngăn chặn những biến đổi về khí hậu và thiên tai. Quản lý, bảo vệ, tái tạo
và sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên quốc gia. 17