Tính độc lập của Ngân hàng Trung ương

Tiểu luận học phần Tài chính tiền tệ với chủ đề Tính độc lập của Ngân hàng Trung ương giúp bạn tham khảo và hoàn thành tốt bài tiểu luận của mình đạt kết quả cao.

lOMoARcPSD|17327 243
ĐỀ I : TÍNH ĐỘC LẬP CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
NỘI DUNG
ĩ. Sự ra đòi Ngân hàng Trung ương và chức năng Ngân hàng Trung ương 1.Tìm hiếu
về ngân hàng Trung ương 2.Sự ra đòi NHTW, Bán chất và chức năng Ngân hàng
Trung ương II. Vài nét về tính độc lập của NHTW 1 .Tính độc lập của NHTW
2.Ổn định giá cả cùa nền kỉnh tế 3.Kinh nghiệm của Ngân Hàng dự trữ Newzealand
III. Tính độc lập của NHNN Việt Nam hiện nay và một số đề xuất 1.Tính độc lập của
NHNN Việt Nam hiện nay 2.Một số đề xuất
I. S RA ĐỜI NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG VÀ CHỨC NĂNG NHTW
l. Tìm hiểu về Ngân hàng Trung ương
“Có 3 phát minh vĩ đại từ khi bắt đầu sự sống của loài người: lửa, bánh xe và Ngân hàng
Trung ương" - Will Rogers, một nhà văn hài hước người Mỹ đã vui tính tổng kết như thế.
Từ một góc nhìn cụ thể của nền kinh tế hàng hoá về Ngân hàng Trung ương (NHTW), đa
số chúng ta nhất định phải thốt lên: Đúng vậy!
NHTW như cng ta biết ngày nay thực sự một trong những pt minh lớn nhất trong
thế k20 - Lần đề cập đầu tiên được ghi nhận bằng tiếng Anh với ki niệm "NHTW
Centrol Bank” vào năm 1873 do Walter Bagehot, sau này là Tổng biên tập của tờ báo
The Economist Anh quốc, người đã sử dụng cụm từ Centrol Bank” để đcập đến một
Ngân hàng sự độc quyền trong việc phát hành giấy bạc Ngân hàng, và trụ sở chính của
cần phải đặt tại Thủ đô hoặc Trung tâm tài chính của một quốc gia. Chỉ trong thời gian
50 năm sau đó và nhất từ giữa thế kỷ 20 đến nay, thuật ngnày đã được sử dụng rộng
rãi trên phạm vi quốc tế. Vào những năm đầu thế kỷ 20, trên thế giới chỉ có 18 NHTW, thì
hiện nay con số này đã là 173 NHTW.
lOMoARcPSD|17327 243
Nhiệm vụ ban đầu của NHTW không phải là việc thực thi CSTT hay hỗ trợ hệ thống các
Ngân hàng Trung gian, mà chỉ đơn giản là tài trợ cho chi tiêu của Chính phủ. NHTW lâu
đời nhất trên thế giới là Ngân hàng Thụy Điển, được thành lập vào m 1668 và sứ mệnh
ban đầu được sử dụng như là một công cụ đế bù đắp các khoản chi tiêu quân sự. NHTW
thứ hai là NHTW Anh quốc được thành lập năm 1694 nhằm tài trợ cho cuộc chiến tranh
với Pp
Hoa Kỳ đã quản lý nền kinh tế của mình mà không có NHTW cho tới đầu thế kỷ 20. Các
Ngân hàng tư nhân thường phát hành những đồng tiền giấy tiền xu của bản thân. Hậu
quả là các cuộc khủng hoảng Ngân hàng đã diễn ra khá thường xuyên. Chỉ riêng ở nước
Mỹ vào năm 1791 có tới 7000 loại tiên - Đã làm ách tăc sản xuât, lun thông. Người có đủ
ng lực giải quyết mâu thuẫn này chính là Nhà nước và từ đây Nhà nước đã can thiệp
với mức độ nhất định vào hoạt động Ngân hàng bằng cách ban hành các đạo luật chỉ cho
phép một số Ngân hàng đủ điều kiện qui định mới được phép phát hành k phiếu Ngân
ng. Nhưng sau thời kỳ các cuộc khủng hoảng trầm trọng diễn ra liên tục, Quỹ Dự trữ
liên bang Mỹ mới được thành lập vào năm 1913 đế trở thành NHTW duy nhất được phát
nh tiền tại Mỹ và chủ yếu giữ quyền lực trong giám sát các Ngân hàng và hoạt động với
tư cách là người cho vay cuối cùng. Ngày nay Quỹ Dự trữ liên bang Mỹ là một trong số ít
những NHTW vẫn còn giữ trách nhiệm giám sát Ngânng; tại phần lớn các quốc gia
trên thế giới thì công việc này đã được giao cho một Uỷ Ban độc lập của Nhà nước.
Thời kỳ các NHTW được gọi là bước vào thời kỳ NHTW hiện đại chính là từ khi hoạt
động của các NHTW tập Trung chức năng, quyền lực tối cao vào việc thực thi chính sách
tiền tệ. Bắt đầu cho thời kỳ này cũng mới rất gần đây, vào những năm đầu thập niên 70
của thế kỷ 20, khi mà mối liên hệ ban đầu giữa tiền và vàng cuối cùng đã bị phá v hệ
thống về chế độ tỷ giá hối đoái cố định bị sụp đổ hoàn toàn vàom 1971. Khi các quốc
gia dựa vào chế bộ bản vị vàng hay các tỷ giá bị cố định thì chính sách tiền tệ bthúc ép
bởi nhu cầu duy trì các cân đối hàng - tiền. Chỉ t khi các tỷ giá hối đoái đã được phép thả
nổi thì mỗi quốc gia đã có thể bắt đầu thực hiện chính sách tiền tệ của riêng mình dựa chủ
yếu trên quan hệ cung - cầu của bản thân tiền tệ.
Đầu tiên, các chính phủ của các quốc gia nắm giữ quyền kiểm soát chặt chẽ các phương
tiện kiểm soát tiền tệ, Chính phủ luôn “ra lệnh” cho các NHTW phải thay đổi lãi suất cho
phù hợp với tình hình. Nhưng khi lạm phát liên tục bùng nổ, Chính phủ mới nhận thấy
được tầm quan trọng của việc duy trì tính độc lập của NHTW trong việc điều hành cnh
sách tiền tệ. Các nhà chính trị dường như cố tạo ra một sự bùng nổ (đột biến) trước khi có
cuộc bầu cử, hy vọng rằng lạm phát sẽ không gia tăng cho đến sau khi cuộc kiểm phiếu đã
hoàn tất, nhưng một NHTW độc lập cách biệt với những sức ép chính trị sẽ phải ưu tiên
thường xuyên, thậm chí duy nhất về mục tiêu hoạt động trong việc bình ổn giá cả. Do vậy,
nếu có được một sự độc lập với Chính phủ, thì các chính sách sẽ trở n linh hoạt hơn,
người lao động và các Doanh nghiệp sẽ điều chỉnh mức lương và giá cả cho phù hợp với
việc thắt chặt về chính sách. Những cuộc tranh luận diễn ra, sức ép của thị trường thông
qua các quan hệ lợi ích của người sử dụng tiền sẽ buộc NHTW phải cắt giảm lạm phát tới
mức tổng thiệt hại phải là nhỏ nhất về sản lượng, thu nhập và công ăn việc làm. Do vậy,
nhiều công trình nghn cứu trong những năm đầu thập niên 1990 đã thừa nhận rằng
lOMoARcPSD|17327 243
những quốc gia có NHTW độc lập thực sự thì tại quốc gia đó có xu hướng mức lạm
phát sè ở mức đủ thấp một cách hợp lý nhất.
Tuy nhiên cho đến nay hầu nchưa có một NHTW nào độc lập hoàn toàn. Trước khi
NHTW châu Au ECB được thành lập, Ngân hàng Trung ương Đức Ngân ng tính
độc lập cao nhất trên thế giới, nhưng Chính phủ Đức vẫn đã bỏ qua lời
khuyên của Ngân hàng này trong việc thiết lập một cơ chế tỷ giá thích hợp cho việc thống
nhất tiền tệ, sau đó ớc Đức đã phải gánh chịu những sức ép về lạm phát. Các NHTW
khác, như Ngân hàng Anh quốc, được trao sự độc lập hoàn toàn trong việc thiết lập chính
sách tiền tệ, nhưng mục tiêu lạm phát lại do Chính phủ đề ra.
Các NHTW độc lập hầu nkiểm soát được mức lạm phát thấp hơn những dđoán của
các Bộ trưởng tài chính. Nhưng sự độc lập này không phải phương thuốc chữa bách
bệnh: NHTW cũng sẽ thể mắc các sai lầm. Một ví dụ minh hoạ đó là Ngân hàng
Reichsbank của Đức vẫn độc lập như luật định khi mà nước Đức rơi vào thời kỳ siêu lạm
phát trong nhng năm 1923 -1927. Đơn giản là khi nền sản xuất vì lý do bất khả kháng đã
rơi o tình trạng kiệt quệ, người dân không thể kiếm được đủ ăn hàng ngày khi trong tay
đang sẵn có tiền thì tiền ng trở nên nghĩa! Hàng do đó mới là i quyết định sức mua
của tiền, n tiền chchuẩn mực của phân phối khi nền kinh tế đầy đủ cái để phân
phối và một cơ chế thị trường.
Thời xa xưa, các thủy thủ khi đi biển đều mang một niềm tin rằng Trái đất bằng phang
lo lắng sẽ có lúc họ bị rơi ra khi bờ của Trái đất. May thay, việc phát hiện ra Trái đất
hình tròn đã xoá đi nỗi u uất đó. Những tư tưởng kinh tế về chính sách tiền tệ và lạm phát
ng xảy ra tương tự như vậy. Rút cuộc là nền sản xuất nói chung chứ không phải bản
thân NHTW cứu vãn được điều đó. Tuy vậy, sự phát minh ra NHTW không phải ngẫu
nhiên mà được ví như một trong những phát minh vĩ đại nhất của loài người! Lịch sử đã
sàng lọc tự nhiên và suy tôn một Ngân hàng thông thường thành NHTW với tư cách
Ngân hàng giỏi nhất trong các Ngân hàng hiện có, được Nhà nước và cộng đồng giao cho
quyền lực phát hành duy nhất đồng tiền quốc gia và chi phối tất cả các định chế Trung
gian tài chính còn lại thông qua các nghiệp vụ của mình - Các nghiệp vụ có lợi nhuận và
vị lợi đều mang tính Nhà nước và bị cộng đồng kiểm soát trở lại đối với NHTW bằng
sự ổn định hay không sức mua của đồng tiền do NHTW phát hành.
Trong thập niên 1960, chính sách tiền tệ đã được chứng minh là tác nhân trực tiếp có thể
làm giảm tỷ lệ thất nghiệp. Nen tảng lý thuyết của cơ sở này là đường cong Phillips, đặt
tên theo Bill Phillips, nhà kinh tế học người New Zealand theo học tại trường Đại học
Kinh tế London. Ong Phillips, cũng là một kỹ sư cơ khí, đã tạo ra một cỗ máy nhằm biểu
diễn cơ chế hoạt động của các nền kinh tế, sử dụng nước để biểu thị khái niệm về tính
lỏng. Năm 1958 ông ta đã khởi xướng một công trình nghn cứu trong đó chỉ ra rằng
trong giai đoạn 1861 đến 1957, một số dạng của sự thoả hiệp giữa việc tăng lương và thất
nghiệp dường như đã được sử dụng ở nước Anh: khi tỷ lệ thất nghiệp cao, lạm phát thấp.
Điều đó dường như đã làm chúng ta ngộ nhận đế suy đoán rằng các NHTW thế thường
xuyên cắt giảm được tỷ lệ thất nghiệp thông qua việc nới lỏng tỷ lệ lạm phát?
lOMoARcPSD|17327 243
Một thập niên sau đó, Milton Friedman và Edmun Phels, đã thách thức với lý thuyết này.
về sự thoả hiệp giữa lạm phát và thất nghiệp, hai nhà khoa học này cho rằng, chỉ có tính
xu hướng đúng trong ngắn hạn, và rằng đó không phải là một qui luật.
Các n kinh tế này đã chứng minh: Một khi mọi người đều thấm đẫm mồ hôi bởi tỷ lệ
lạm phát cao hơn, họ sẽ đòi hỏi tiền lương cao hơn. Đen lượt nó, sức mua của một đơn vị
tiền tệ nhỏ đối với mệnh giá cũng sẽ là quá trình xoá dần những “ân huệ” tăng lương
trước đó và thất nghiệp vì vậy sẽ tăng trở lại lên tới tỷ lệ "thất nghiệp tự nhiên". Sức mua
của một đơn vị tiền tệ do đó có khả năng đo lường hiệu quả của thị trường lao động.
Nghĩa là sẽ không có và không thế ảo tưởng về sự thoả hiệp mang tính lâu dài giữa lạm
phát và thất nghiệp: Trong dài hạn, chính sách tiền tệ sẽ quyết định trạng thái của lạm
phát. Neu các nhà hoạch định chính sách ra sức cố gắng duy trì thất nghiệp dưới mức thất
nghiệp tự nhiên, thì lạm phát sẽ bị đẩy lên cao hơn ngoài ý chí chủ quan mong muốn.
Đúng như hai ông Friedman Phelps đã dự đoán, mức lạm phát có liên quan tới tỷ lệ thất
nghiệp đã tăng trong suốt giai đoạn những năm 1970, và các nhà hoạch định chính sách đã
phải từ bmô hình đường cong Phillips. Ngày nay, mọi người đều nhất trí rộng rãi rằng
chính sách tiền tệ nên tập Trung vào việc duy tmức lạm phát thấp. Nhưng điều y không
nghĩa là, như thường được hiểu, rằng các NHTW là ’những người thu nhặt lạm pt”,
... phải hiếu rang NHTW người chịu thiệt thòi vì buộc phải chịu trách nhiệm trước
người lao động về tình trạng lạm phát vượt quá những ngưỡng cho phép. Neu không có sự
thohiệp tính dài hạn, lạm pt thấp thường kng làm cản trở thường xuyên sự tăng
trưởng. Hơn thế nữa, qua việc duy trì lạm pt thấp và ổn định, một NHTW, về thực tế, đã
duy trì ổn định sản ợng và việc làm. Ngài Don Brash, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ New
Zealand, đã diễn giải cơ chế hoạt động của điều đó thông qua sử dụng biểu đồ NAIRU:
Đường thẳng thể hiện mức tăng trưởng của sản lượng khi nền kinh tế duy trì sự n định
trong i hạn; đường cong lượn sóng thể hiện sản lượng thực tế. Khi nền kinh tế sản xuất
dưới mức tiềm ng (ví dụ, thất nghiệp cao hơn mức NAIRU), tại điểm A, lạm phát sẽ giảm
cho tới khi "khe hsản lượng" bị loại bỏ. Khi sản lượng vượt quá mức tiềm ng, tại điếm
B, lạm phát sẽ tăng do cầu vượt quá khả năng sản xuất. Khi lạm phát đang giảm (điểm
A) , thì các NHTW sẽ cắt giảm lãi suất nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc
làm; khi lạm phát đang tăng lên (điểm B), c NHTW sẽ tăng tý lệ lãi suất nhằm giảm bớt
mức tăng trưởng. Như vậy, nếu chính sách tiền tệ tập Trung vào việc duy trì lạm pt ổn
định ở mức thấp, thì điều đó sẽ tạo điều kiện cho việc tạo công ăn việc làm và duy trì tăng
trưởng mang tính bền vững. Như vậy cốt lõi vấn đề là quan hệ giữa năng lực sản xuất ra
sản lượng với số lượng lao động có việc làm chứ không phải quan hệ vỏ giữa lạm phát
cao với thất nghiệp thấp! Mặc dù ngay cả cái quan hệ vỏ này cũng chỉ diễn ra trong ngắn
hạn.
Hệ thống Dự trữ Liên Bang Mỹ đều hiếu một ch cặn kmối liên hnày giữa lạm phát
khe hở sản lượng. Những dấu hiệu ban đầu khi thành lập NHTW Châu Âu (ECB) cũng
cho thấy rằng ECB đã nhận thức rất rõ phạm vi mà họ có thế duy trì an toàn lạm phát với
mức lãi suất thấp nhưng chỉ trong thời gian ngắn nhằm thúc đẩy tăng trưởng và việc làm.
Ngân hàng ECB cũng đã lặp lại lời tuyên bố rằng mức lãi suất thấp hơn không thể làm
giảm tỷ lệ thất nghiệp. Điều này hoàn toàn đúng không
lOMoARcPSD|17327 243
thể chi cãi trong dài hạn, nhưng nếu một nền kinh tế đang hoạt động dưới mức tiềm năng
tỷ lệ thất nghiệp đang cao hơn mức thất nghiệp tự nhiên NAIRU, thì lãi suất thcắt
giảm một ch an toàn, và từ đó sản lượng sẽ được thúc đẩy, mà mức lạm pt không cần
tăng...
Vậy là: Những sưu tầm và bình luận nêu trên đã góp phần khẳng định rằng nền sản xuất
ng h và những người hưởng thụ từ nền sản xuất này luôn luôn ủng hộ và hoan
nghênh một NHTW thông minh và độc lập hoàn toàn với Chính phủ. NHTW là một Định
chế tài chính chứ không phải là một định chế chính trị. Chỉ khi là NHTW độc lập thì gánh
nặng của nền sản xuất mới có thể đè lên vai họ với trọng trách: “NHTW là người chịu
trách nhiệm trước người lao động về tình trạng lạm phát vượt quá những ngưỡng cho
phép.
2. Sự ra đời Ngân hàng Trung ương và chức năng Ngân hàng Trung ương
Ngày nay, sứ mệnh của hầu hết c Ngân hàng Trung ương trên thế giới là chịu trách
nhiệm xây dng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia thông qua các công cụ và giải
pháp nhằm đạt tới các mục tiêu chính sách đã đề ra; chịu trách nhiệm về sự vận hành trôi
chảy của hệ thống thanh toán và sự bình ổn của hệ thống tài chính và Ngân hàng Trung
ương là người cho vay cứu cánh cuối cùng. Vì vậy, mục tiêu hoạt động đầu tiên và cũng là
quan trọng nhất của Ngân hàng Trung ương là mục tiêu của chính sách tiền tệ. Mục tiêu
cuối cùng của chính sách tiền tệ hầu như thống nhất ở các nước đó là ổn định giá trị đồng
bản tệ, tạo tiền đề thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm. Ngoài các mục
tiêu vĩ mô này, tuỳ thuộc vào trạng thái của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ, các Ngân
ng Trung ương còn có thể lựa chọn cho mình thêm một số mục tiêu cụ thế khác.
Ngân hàng Trung ương (có khi gọi là Ngân hàng dự trữ, hoặc cơ quan hữu trách về tiền
tệ) là cơ quan đặc trách quản lý hệ thống tiền tệ của quốc gia/nhóm quốc gia/vùng lãnh
thố và chịu trách nhiệm thi hành chính sách tiền tệ. Mục đích hoạt động của Ngân hàng
Trung ương là ổn định giá trị của tiền tệ, ổn định cung tiền, kiểm soát lãi suất, cứu các
Ngân hàng thương mại có nguy cơ đố vỡ. Hầu hết các Ngân hàng Trung ương thuộc sở
hữu của Nhà nước, nhưng vẫn có một mức độ độc lập nhất định đối với Chính phủ.
a) Sự ra đòi của Ngân hàng Trung ương
Ngân hàng Trung ương ra đời chính thức đầu tiên Châu Âu, vào thế kỷ 17. Khi ấy, tiền
mặt lưu hành vẫn chủ yếu dưới dạng vàng và bạc, tuy rằng, các tờ cam kết thanh toán đã
được sử dụng rộng rãi như là những biểu hiện của giá trị ở cả Châu Âu và Cu Á. Ngược
lại 500m trước đấy, Tổ chức Hiệp sĩng Đền thời Trung cổ
sử dụng một cơ chế có thế nói là hình mẫu đầu tiên của Ngân hàng Trung ưoĩig. Các
giấy tờ cam kết thanh toán của họ được chấp nhận rộng rãi, và nhiều người cho rằng các
hoạt động này đặt nền tảng cơ bản cho hệ thống Ngân hàng hiện đại. Cùng thời gian đó,
lOMoARcPSD|17327 243
Thành Cát Tư Hãn phát hành tiền giấy Trung Hoa, và áp đặt sử dụng loại tiền này bằng
bạo lực nhằm thu giữ vàng bạc.
Ngân hàng Trung ương đầu tiên Ngân hàng Thụy Điển năm 1668 với sự giúp đỡ của
các doanh nhân Hà Lan. Ngân hàng Anh ra đời tiếp sau đó năm 1694 bởi doanh nhân
người Scotland là William Paterson tại London theo yêu cầu của chính phủ Anh với mục
đích tài trợ cuộc nội chiến lúc đó. Cục Dự trữ Liên bang của Mỹ được thành lập theou
cầu của Quốc hội tại đạo luật mang tên hai nghị sĩ đệ trình là Glass và Owen, Tổng thống
Woodrow Wilson ký đo luật ngày 23 tháng 12 năm 1913.
Ngân hàng Trung ương Trung Quốc bắt đàu các chức năng Ngân hàng Trung ương năm
1979 cùng với chính sách cải cách kinh tế. Vai trò Ngân hàng Trung ương của nó được
đẩy mạnh năm 1989 khi đất nước này chuyển đổi sâu sắc hơn sang nền kinh tế hướng
xuất khẩu. Tới năm 2000, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đã là một Ngân hàng Trung
ương về mọi mặt, với cơ cấu và hoạt động có tham khảo Ngân hàng Trương ương Châu
Au vốn là mô hình Ngân hàng Trung ương mới nhất, chi phối Ngân hàng Trung ương của
các quốc gia thành viên mà vẫn để quyền quản lý kinh tế quốc gia cho các Ngân hàng đó.
B) Bản chất NHTW
Ngân hàng Trung ương là ngân hàng phát hành công quản, có thể biệt lập hoặc phụ thuộc
o chính phủ, vừa thực hiện chức năng độc quyền phát hành giấy bạc ngân ng vào lun
thông, vừa thực hiện quản lý nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ - tín dụng - nn hàng.
C) Chức năng của Ngân hàng Trung ưong
Ngân hàng Trung ương liên quan đến ba chức năng bản, đó phát hành tiền tệ, Ngân
ng của các tổ chức tín dụng, Ngân ng của Chính phủ. Tuy nhiên, không phải Ngân
ng Trung ương nào cũng mang đầy đủ ba chức năng này.
Phát hành tiền tệ
phần lớn các nước, Ngân hàng Trung ương quan duy nhất có quyền phát hành tiền
tệ. Ở một số nước khác, Ngân hàng Trung ương cơ quan duy nhất phát hành tiền giấy,
n tiền kim loại với ch tiền btrthì do chính phủ phát nh. Cục Dự trữ Liên
bang- Ngân hàng Trung ương của Mỹ- không có chức năng phát hành tiền, thay vào đó là
Bộ Tài chính đảm nhiệm chức năng y. Cũng có thông tin cho rằng Chính phủ Mỹ không
quyền phát hành đồng Đô-la, mà là do Cục Dự Trữ Liên Bang.
Ngân hàng của các tố chức tín dụng
Ngân hàng Trung ương thực hiện ng việc tái chiết khấu các hối phiếu đối với các tổ chức
tín dụng, cấp vốn thông qua cho vay đối với các t chức này (đồng thời qua đây kiểm soát
lãi suất).
lOMoARcPSD|17327 243
Ngân hàng Trung ương còn mua và bán các giấy tờ có giá, qua đó điều tiết lượng vốn trên
thị trường.
Ngân hàng Trung ương quyền u cầu c Ngân hàng thương mại mở tài khon tại chỗ
mình và c Ngân ng phải gửi o i khoản của hmột lượng tiền nhất định. Thông
thường lượng tiền y được quy định tương đương với một tỷ lệ nào đó tiền gửi vào Ngân
ng thương mại, gọi là tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Trong trường hợp có tố chức tín dụng gặp nguy cơ đố vỡ làm ảnh hưởng đến cả hệ thống
tài chính của quốc gia, Ngân hàng Trung ương sẽ tái cấp vốn cho tổ chức tín dụng đó để
cứu . Vì thế, Ngân ng Trung ương được gọi nời cho vay cuối ng (hay người
cho vay cứu cánh).
Ngân hàng cúa Chính phủ
Ở nhiều nước, Ngân hàng Trung ương người quản lý tiền cho chính phủ. Chính phủ sẽ
mở tài khoản giao dịch không lãi suất tại Ngân hàng Trung ương. Tuy nhiên, một số
nước, chẳng hạn như ở Việt Nam, chức năng này do kho bạc đảm nhiệm.
Ngân hàng Trung ương còn làm đại diện cho chinh phủ khi can thiệp vào thị trường ngoại
hối.
II. Vài nét về tính độc lập của NHTW 1. Tính độc lập của NHTW
Xem xét tính độc lập của NHTW là một vấn đề lớn, đòi hỏi phải nghiên cứu thật
chuyên sâu, rạch ròi. Tuy nhiên, trong phạm vi báo cáo này, chúng ta chí nghiên cứu để
tiếp cận vấn đề này ở mức độ lược và cơ bản nhất với mục đích là phát hiện ra những
vấn đề chính trongnh độc lâp của NHTW đe từ đó chứng minh được vai t của nó đối
với sự ổn định của một quốc gia.
Trong suốt những năm 90 của thế kỷ XX, tính độc lập của NHTW được xem như nền
tảng của nhng cải cách về mặt thế chế đế giảm sự can thiệp bất hợp lí của chính trị đến
quá trình xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ nhằm đạt mục tiêu ổn định giá cả. Lý
do dẫn đến cuộc cải tổ này đó là việc xây
dựng điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) nhằm đạt được mục tiêu ổn định giá cả. Lý
do dẫn đến cuộc cải tổ này đó là việc xây dng và điều hành CSTT mà có sự can thiệp
chính trị thường chỉ đạt được những mục tiêu ngắn hạn. Điều này sẽ làm gia tăng tính
tạm thời và kng bền vững của kinh tế vĩ mô, đặc biệt là nguy cơ bùng nổ lạm pt và
theo đó hạn chế tăng trưởng kinh tế và làm gia tăng tỷ lệ thất nghiệp.
Tính độc lập của NHTW được thể hiện thông qua việc xác định rồ cơ chế hoạch định
CSTT thế nào, NHTW được toàn quyền quyết định việc sử dụng các công cụ để thực
thi CSTT hay không cũng như nêu rõ trách nhiệm của NHTW nói chung và thống đốc nói
riêng trong trường hợp mục tiêu không đạt được như mục tiêu đã đặt ra.
lOMoARcPSD|17327 243
2. Ồn định giá cả của nền kinh tế
Ôn định giá cả, ổn định sức mua của đồng tiền là nhiệm vụ đầu tiên và quan trọng nhất
của một Ngân hàng Trung ương (NHTW). Duy trì mức lạm phát thấp và hợp lí trong một
khoảng thời giani là dấu hiệu cho sự hoạt động hiệu quả một NHTW. Nhiều học giả đã
cho rằng một phần lớn trong kết quả của sự lạm phát từ nửa đầu thập kỉ 80 của thể kỉ XX
trên toàn thế giới sự đóng góp quan trọng của những mô hình NHTW độc lập. Bài viết
không xem xét toàn bộ những nội dung trongnh độc lập của NHTW, thay vào đó, chúng
ta chỉ nghiên cứu đế tiếp cận vấn đề này ở mức độ sơ lược và cơ bản nhất với mục đích
phát hiện ra những vấn đề chính trong tính độc lập của NHTW, từ đó chứng minh được
vai trò của nó đối với sự n định giá của một quốc gia qua một minh chứng điến hình
nhất, chúng ta đưa ra một số đề xuất như là một tiếng nói đóng góp thêm vào nhiệm vụ on
định giá cả ở VIỆT NAM hiện nay
Thứ nhất, vấn đề ổn định giá trị đồng của đồng tiền là một điều kiện cần nếu muốn
sự tăng truởng bền vững. Không một nền kinh tế nào thể tăng trưởng bền vững nếu
phải đối mặt với mức lạm phát quá cao.
Thứ hai, sự đánh đối giữa tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp diễn ra không lâu dài.
Đường cong Philips mô tả mối quan hệ thực nghiệm về tỷ lệ thất nghiệp thấp hay tỷ lệ
tăng trưởng cao có thể đạt được trong ngắn hn thông qua chính sách mở rộng và tý lệ lạm
phát cao. Tuy nhiên, trong dài hạn, sự tăng trưởng kinh tế và giảm thất nghiệp kng được
duy trì, bởing lực của nền kinh tế có giới hạn, trong khi đó, tỷ lệ lạm phát có thể tiếp
tục tăng.
Thứ ba, ổn định giá cả sẽ thúc đẩy hệ thống kinh tế hoạt động có hiệu quả hơn và do
đó làm tăng được mức sống hội. Neu giá cả khôngn định sẽ khiến cho xã hội phải
nh chịu một số phí tốn kinh tế mà chi phí cơ hội là một ví dụ rõ ràng nhất. Ngoài ra,
tình trạng giá cả bất ổn còn có thể khiến các quyết định đầu tư sản xuất trở nên khó khăn
hơn, lòng tin của công chúng đối với hệ thống tài chính tiền tệ sụt giảm, các áp lực về tiền
lương, thuế khoa tăng lên rất nhanh,...
3. Kinh nghiệm Ngân hàng dự trữ của newzealand
a) giới thiệu khái quát
- Công trình nghiên cứu lay New Zealand (cụ thể là Ngân hàng Dự trữ New
Zealand) làm Trung tâm để xem xét, so sánh và đánh giá. Không phải ngẫu nhiên
người ta lay New Zealand làm Trung tâm nghiên cứu. Lịch sử cho thấy New Zealand
là một trong số các quốc gia đầu tiên và thành công nhất của OECD trong việc bình ổn
giá cả, thực hiện chính sách lạm phát mục tiêu và là quốc gia có nhng bước cải cách
căn bản đầu tiên trong hoạt động của NHTW. vấn đề này sẽ được tác giả trình bày
hơn ở phần sau.
- Biểu đồ 1: mô tả sự biến động mức lạm phát qua các giai đoạn.
- Biểu đồ 2: thể hiện sự thay đổi tính độc lập của NHTW mỗi quốc gia trong 2
giai đoạn khác nhau. Đe đo lường tính độc lập, ở 2 khoảng thời gian này các nhà
nghiên cún đã lựa chọn một vài nhân tố chung bao gồm: độc lập về mặt nhân sự
(Personnel independence), độc lập về mặt tài chính (Financial independence) và độc
lOMoARcPSD|17327 243
lập về mặt chính sách (Policy independence), riêng độc lập về mặt chính sách bao gồm
độc lập về mục tiêu (Goal independence) và độc lập trong sử dụng các công cụ
(Instrument independence). Từ đó, họ lượng hóa tính độc lập này thông qua Điếm số
độc lập (Independence Score).
- Biểu đồ 3: khảo sát mối quan hệ giữa tính độc lập của NHTW với tỷ lệ lạm
phát.
Trục hnh biểu diễn Điểm số độc lập, trục tung phản ánh tỷ lệ lạm phát.
Hầu hết những quốc gia Công
nghiệp đều đă đạt được một sự giảm lạm
phát rõ rệt: tỷ lệ giảm hàng năm Trung
bình từ 5,6% trong giai đoạn 1955-1988
xuống còn 2,7% trong giai đoạn 19882000
(xem biểu đồ 1). Một trong những câu
chuyn thành công kc thường nhất
New Zealand, với 7,6% trong khoảng thời
gian đầu xuống còn 2,7% trong giai đoạn
sau. Nhiều học giả đã quy sự cải tiến này
cho chính sách lạm phát mục tiêu mà New
Zealand đã thực hiện vào năm 1989,
nhưng điều này sẽ là phiến diện nếu chỉ tin
o một mình sự ảnh hưởng của chính
sách lạm phát mục tiêu.
Quay trở lại thời điếm năm 1989, hoạt động của Ngân hàng Dự trữ New Zealand
đã có bước đột phá với 2 cải cách lớn: thứ nhất, Ngân hàng Dự trữ được độc lập nhiều
hơn với Chính phủ. Thứ hai, đã thiết lập được một chính sách lạm phát mục tiêu rõ ràng
mà sau này nhiều quốc gia đã lần lượt áp dụng. Xét về sự độc lập tối thiểu ca một
NHTW, Ngân hàng Dự trữ New Zealand lúc bấy giờ đứng vào tốp đầu tiên.
3. Thành công của Ngân hàng Dự trữ New Zealand
Trước năm 1989, Ngân hàng Dự trữ New Zealand là một “đại lý” của Chính phủ và
được trao rất ít sự độc lập. NHTW này chỉ hoạt động với tư cách là cố vấn cho Chính phủ
New Zealand, vì vậy CSTT của như là một công cụ hoạt động theo ý muốn của Bộ Tài
chính.
Biếu đồ 2 minh họa điều này. Lịch sử cho thấy, New Zealand đã được xếp vào loại
những quốc gia có Điểm số độc lập của NHTW thấp nhất và tỷ lệ lạm phát của nó đứng
o loại cao nhất trong thế giới c nước Công nghiệp. Suốt thập niên 70, mức độ lạm
phát của New Zealand luôn ở ngưỡng 2 con số, đôi lúc lên đến 18%.
Đáp lại điều đó, để ổn định giá cả, từ những năm 1989, Ngân hàng Dự trữ New Zealand
đã có một sự chuyển mình mạnh mẽ trong điều hành. Điều này thể hiện qua việc Quốc hội
New Zealand đã nhanh chóng sửa đổi các đo luật có liên quan, xây dựng và hoàn thiện
các đạo luật mới trong đó khẳng định tiên quyết rằng “Chức năng chủ yếu của Ngân
hàng Dự trữ New Zealand là trực tiếpy dựng và hoàn thiện Chính sách tiền tệ
lOMoARcPSD|17327 243
hướng vào việc đạt được các mục tiêu kinh tế và duy trì sự ốn định giá cả.., Bên cạnh
đó, có thế kể ra một số những thay đối căn bản trong hoạt động điều hành CSTT của Ngân
ng Dự trữ New Zealand:
- Đe ổn định giá cả, Quốc hội New Zealand đã đưa Chính sách lạm phát mục
tiêu vào trong hiến pháp. Việc lượng hóa mục tiêu lạm phát là kết quả của sự trao đổi
“công bằng, nghiêm túc” giữa Chính phủ và NHTW.
- NHTW New Zealand được phép xem xét tác động và đề xuất nhng kiến nghị
đế giải quyết những tình huống có thể ảnh hưởng đến sự ốn định giá, như sự biến động
của kim ngạch xuất nhập khẩu, các loại thuế,...
- NHTW New Zealand được thực sự độc lập trong việc theo đuổi mục tiêu
CSTT mà kng bị hạn chế về mặt kỹ thuật, ngoại trừ trường hợp là việc thực hiện CSTT
phải cân nhắc đến tính hiệu quả và sự ổn định của hệ thống tài chính. Đặc biệt, Ngân hàng
y được toàn quyền quyết định các điều kiện tiền tệ (như các khối tiền M1, M2, M3, lãi
suất, tỷ giá,...) trên cơ sở một thỏa ước với Bộ Tài chính và sự cân nhắc các ý kiến đóng
p của các cơ quan chức năng khác.
- Trong quá trình quản lý ổn định giá, Ngân hàng Dự trữ đã rút ra một số kết
luận sau đây:
+ “Việc làm giảm lạm phát và duy trì mức lạm phát mong muon thấp là tương
đối dễ ng so với việc kiểm soát chặt chẽ mức lạm phát trong phạm vi khung lạm
phát
+ Việc theo đuối quá nhiều mục tiêu sẽ hạn chế năng lực và tính chủ động của một
NHTW, hay nói ch khác, “việc NHTW tập Trung giải quyết quá nhiều trách nhiệm đối
i Chính phủ sẽ làm giảm sút tính linh hoạt của nó”.
Những chủ trương mới này đã cho phép NHTW đề ra được chính sách lạm phát
mục tiêu tương ứng với từng thời kỳ và có được những địa vị pháp lý cũng như tính chủ
động cao hơn trong giải quyết các mục tiêu trên. Ngoài ra,ng giới hạn đầy nghiêm
khắc những tình huống, những hoàn cảnh mà một Thống đốc có thể bị xa thải, hay nói
cách khác, việc thay đối nhiệm kỳ của Nội Các Chính phủ kng ảnh hưởng đến hoạt
động của Ban lãnh đo NHTW.
Biểu đồ 2 chỉ ra rằng Điểm số độc lập của Ngân hàng Dự trữ New Zealand đã có
sự tăng tốc mạnh mẽ, từ 25 điểm giai đoạn 1955-1988 lên đến 89 giai đoạn 1989-2000
được xem như là một bước ngoặt lớn. Có thể thấy rõ, trong thời kỳ thứ nhất Ngânng
Dự trữ New Zealand có số điểm thấp nhất trong số các quốc gia Công nghiệp được nghiên
cứu, tuy nhiên giai đoạn sau, nó bức phá lên tốp những NHTW có sự độc lập cao nhất.
Biểu đồ 2 cũng cho thấy, hầu hết những quốc gia Công nghiệp đang nghiên cứu đều nằm
nửa trên của tuyến 45 độ, ngụ ý rằng tính độc lập được xem như là một xu hướng chung
trong những khoảng thời gian càng tiến gần đến hiện tại.
Chúng ta cũng nhận thấy rằng tỷ lệ lạm phát của New Zealand đã giảm từ 7,6%
(cao hơn mức Trung bình của các quốc gia Công nghiệp) trong giai đoạn thứ nhất xuống
n 2,7% (dưới mức Trung bình) trong thời kỳ sau. Vậy thì một câu hỏi được đặt ra là bao
nhiêu sự thành công trong kết quả này có sự đóng góp của sự tăng lên trong mức đđộc
lập của NHTW New Zealand ?
lOMoARcPSD|17327 243
Biểu đồ 3 cho thấy trong thời kỳ thứ nhất đã có một mối quan hệ khăng khít giữa
tính độc lập của NHTW và mức lạm phát (trong nhóm các quốc gia nghn cứu), hayi
cách khác, khi NHTW của những nước này có quá ít tính độc lập thì mức lạm pt chung
thường rất cao và ngược lại. Giai đoạn thứ hai cho thấy mối quan hệ này đã trở nên kém
rõ ràng hơn, tuy nhiên biểu đồ 3 vẫn cho thấy có một mối quan hệ rất mật thiết giữa tính
độc lập và tỷ lệ lạm phát bình quân. Hơn nữa, sự tác động của tính độc lập của NHTW
o mức lạm phát là xuyên suốt mọi thời gian, và kết quả này không chỉ đúng với New
Zealand mà còn phù hợp với c quốc gia còn lại.
Từ những kết quả ở biểu đồ 3, chúng ta có thể khang định chắc chắn rằng sự giảm
xuống trong tỷ lệ lạm pt ở New Zealand (trung bình 4,2%) nhchủ yếu vào sự tăng lên
mạnh mẽ tính độc lập của Ngân ng Dự trữ New Zealand. Và người ta tính toán rằng nếu
như New Zealand trong giai đoạn thnhất Điểm số độc lập của NHTW cao như ngày
nay thì mức lạm phát sẽ chỉ là 3,4% thay vì 7,6% như đã tồn tại. Biểu đồ 3 cũng khiến các
nhà kinh tế đi đến một sự tổng kết rằng nếu sự ng lên trong tính độc lập của NHTW
thì mức lạm phát chung trên toàn thế giới sẽ giảm từ 5,6% xuống còn 3,8%. Thực tế, tỷ lệ
lạm phát bình qn trên toàn thế giới 5,6% (giai đoạn 1955-1988) và 2,7% (giai đoạn
1988-2000).
Như vậy, với những bằng chng đưa ra cho thấy rằng đã một mối quan hệ về
mặt nguyên tắc hết sức rồ ràng giữa tính độc lập của một NHTW và mức độ lạm phát trong
i hạn. Một NHTW độc lập là cách thức hữu hiệu nhất để đảm bảo duy trì một mức lạm
phát thấp hợp lý.
III.Tính độc lập của NHNN Việt Nam hin nay và một số đề xuất
1. Tính độc lập của NHNN Việt Nam hiện nay
Điều 3 Luật NHNN khẳng định: Quốc hội quyết định và giám sát việc thực hiện
CSTT quốc gia, mức lạm phát dự kiến hằng năm trong moi tương quan với cân đoi
Ngân sách nhà nước và mức tăng trưởng kinh tế.... Chỉnh phủ xây dựng CSTT quốc
gia, mức lạm phát dự kiến hằng năm trình Quốc hội quyết định; tố chức thực hiện
CSTT quốc gia; quyết định lượng tiền cung ứng bố sung cho lưu thông hằng năm, mục
đích sử dụng so tiền này và định kỳ báo cáo Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; quyết định
c chỉnh sách cụ thế khác vàc giải pháp thực hiện
Điều 4 Luật NHNN quy định: Chính phủ thành lập Hội đồng tư vấn CSTT quắc
gia để tư vấn cho Chỉnh phủ trong việc quyết định những vấn đề thuộc về nhiệm v,
quyền hạn của Chính phủ về CSTT. Nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng tư vấn
CSTT quốc gia do Chỉnh phủ quy định. ”
Như vậy, hiện tại mặc dù được quy định là NHTW của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, nhưng thẩm quyền của NHNN trong xây dựng và điều hành CSTT n
hạn chế, NHNN có mức độ độc lập thấp và chịu sự can thiệp hành chính toàn diện của
Chính phủ. NHNN chí là cơ quany dựng dự án CSTT Quốc gia để Chính phủ trình
Quốc hội quyết định, trên cơ sở đó, NHNN tổ chức thực hiện; việc quyết định lượng tiền
bổ sung vào lưu thông hằng năm cũng do Chính phủ quyết định, NHNN có trách nhiệm
điềunh trong phạm vị đã được duyệt,... Trong khi
lOMoARcPSD|17327 243
chức ng NHTW chưa được khẳng định t, NHNN lại có trách nhiệm thực hiện nhiều
nhiệm vthuộc về chức ng quản nhà nước. Ngoài ra, vì là cơ quan của Chính phủ nên
khi NHNN phải thực hiện những nhiệm vkhông p hợp với mục tiêu của CSTT,
chẳng hn ni cấp vốn để kinh doanh, xoá nợ c khoản vay của NHTM Nhà nước...
Đây ng một trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả hoạt động của NHNN,
nhất là trong việc thực hiện mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền.
Một mô hình NHTW độc lập hơn sẽ giúp kiểm soát tt lạm phát và làm giảm thâm hụt
Ngân sách nhưng không có bằng chứng rõ ràng đối với tăng trưởng kinh tế.
Liệu một Ngân hàng Trung ương (NHTW) độc lập có giúp duy trì mức lạm pt thấp và
đóng góp vào tăng trưởng kinh tế cao hơn hay không? Và liệu một mô hình NHTW độc
lập có thích hợp trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam hiện nay hay không? Bài viết này
nhằm trả lời hai câu hỏi trên.
Các bằng chứng thực nghiệm
Thập niên 1990 đã chng kiến nhiều nước, trong đó có cả những nước đã và đang phát
triến, thực hiện quá trình chuyến đối mô hình NHTW sang hướng làm tăng tính độc lập
hơn cho tố chức này. Khuynh hướng này vừa tác động, vừa chịu tác động bởi các phân
tích thực nghiệm về mối quan hệ giữa sự độc lập của NHTW với các biến số kinh tế vĩ mô
chính.
Quan hệ với lạm phát: Nghiên cứu của Alesina và Summers (1993) dựa trên các quan sát
giai đoạn từ năm 1955-1988 cho thấy có mối quan hệ nghịch biến giữa tính độc lập của
NHTW với lạm pt bình qn và với sự biến thiên của chỉ số lạm phát. Ket quả này
ng phù hợp với những kết quả nghiên cứu khác của Cukierman, Webb và Neyapti
(1992), Debelle và Fischer (1994).
Điều này mang lại nhiều ý nghĩa cho Việt Nam bởi kiềm chế lạm pt đã từng một
ưu tiên chính sách của Chính phủ và trong tương lai lạm phát vẫn luôn một nguy cơ
lớn tiềm ẩn đối với nền kinh tế Việt Nam.
Quan hệ vói thâm hụt Ngân ch:
Nghiên cứu của Pollard (1993) về mối quan hệ giữa tính độc lập của NHTW với cán n
Ngân ch trong giai đoạn từ năm 1973-1989 đã chứng minh rằng những nước NHTW
độc lập cao thì t lệ thâm hụt Ngân sách càng giảm.
Theo Pollard, khi các quan hệ cho vay theo chỉ định hay ứng vốn cho Ngân sách không
n chịu sự chi phối của chính phủ thì sẽ tạo ra một ký luật trong chi tiêu tốt hơn, qua đó
p phần làm tăng tính minh bạch và tạo ra một cán cân Ngân sách bn vững hơn.
Cùng với lạm phát, thâm hụt Ngân sách Việt Nam cũng là một thách thức lớn cho các
nhà hoạch định chính sách. Với tình trạng thâm hụt Ngân sách hàng năm trên dưới 5%
lOMoARcPSD|17327 243
GDP và luôn kéo dài trong nhiều năm đã không những làm xói mòn tính kỷ luật trong chi
tiêu Ngân sách mà còn làm tăng gánh nặng nquốc gia (kể cả ntrong nước và nước
ngi).
Quan hệ với tăng trưởng kinh tế: Nghiên cứu của Alesina và Summers (1993), của Barro
(1991), De Long và Summers (1992), Levine và Renelt (1992) không thấy mối quan hệ
ý nghĩa về mặt thống kê giữa tính độc lập của NHTW với tăng trưởng sản lượng thực tế
sau khi kiểm soát các yếu tố khác tác động đến tăng trưởng kinh tế.
Chẳng hạn, Thụy S là nước có NHTW độc lập nhất nhưng lại có mức độ tăng trưởng
thực và sự biến thiên tăng trưởng kinh tế thực thấp hơn mức bình quân của các nước trong
mẫu. Trong khi đó, Tây Ban Nha là nước có NHTW độc lập kng cao nhưng lại tốc
độ tăng trưởng kinh tế tốt nhất.
Các lý thuyết kinh tế phát triển đã chứng minh rằng tăng trưởng kinh tế là sự phức hợp
của nhiều yếu tố và chính sách khác nhau. Cho nên mặc dù kng có mối quan hệ có ý
nghĩa về mặt thống kê giữa mức độ độc lập của NHTW với tăng trưởng kinh tế nhưng
một chính sách tiền tệ có hiệu lực và hiệu quả sẽ góp phần vào tăng trưởng kinh tế ổn
định hơn.
> Đã đếnc Việt Nam cần một NHTW độc lập hơn.
Thực tế cho thấy Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam có mức độ độc lập thấp và chịu
sự can thiệp hành chính toàn diện của Chính phủ. Đây cũng là một trong những nguyên
nhân làm hạn chế hiệu quả hoạt động của NHNN, nhất là trong việc thực hiện mục tiêu
kiểm soát lạm phát và ốn định thị trường tiền tệ và hệ thống tài chính thời gian qua.
Vì vậy, nâng cao tính độc lập của NHNN là một trong những điều kiện tiên quyết để tạo
tiền đề căn bản trong hiệu quả hoạt động và là nền tảng quan trọng bảo đảm trước hết
NHNN thực sự là NHTW và sau đó là tiến tới một NHTW hiện đại.
Trong khuôn khổ bài nghiên cứu này, nhóm phân tích đưa ra một số đề xuất chính sách
chính nhằm tạo điều kiện và cơ sở để NHNN có thể độc lập hơn, qua đó kỳ vọng làm cho
chính sách tiền tệ trở nên hiệu lực, hiệu quả hơn đối với các mục tiêu kiếm soát lạm
phát, giảm thâm hụt Ngân sách và ổn định hệ thống tài chính.
về địa vị pháp lý: Trong dự thảo Luật NHNN sửa đối, được NHNN soạn thảo chuẩn bị
trình Chính phủ, địa vị pháp lý của NHNN vẫn được giữ nguyên, tức là cơ quan ngang bộ
của Chính phủ. Điều này cho thấy chính bản thân NHNN vẫn chưa sẵn sàng cho một địa
vị mới có tính độc lập hơn đối với Chính phủ.
Tuy nhiên, cho dù NHNN đã sẵn sàng cho một vị thế độc lập mới thì với cấu trúc thể
chính trị hiện nay cộng với những quan hệ có tính “thông lệ” giữa NHNN với các cơ quan
khác của Chính phủ thì mục tiêu độc lập hoàn toàn với các quyết sách Chính phủ là chưa
khả thi.
lOMoARcPSD|17327 243
Khi địa vị pháp lý kng được độc lập thì khả năng độc lập về mục tiêu và q trình thực
thi chính sách cũng ít nhiều bị giới hạn. Áp dụng cách thức gián tiếp theo hướng làm tăng
tính độc lập của NHTW trong điều kiện môi trường kinh tế - chính trị như hiện nayViệt
Nam, có vẻ là cách thức có hiệu quả nhất trong ngắn hn và trung hạn.
Bước đi đầu tiên có tính thử nghiệm cho một NHTW độc lập là cho phép NHNN được
độc lập trong việc lựa chọn mục tiêu chính sách ưu tiên trong nhóm các mục tiêu được
chọn lựa phù hợp với điều kiện nền kinh tế vĩ mô mà không nhất thiết phải phù hợp với
các chính sách khác của Chính phủ.
về mục tiêu: Luật cần đưa ra một hoặc một nhóm các mục tiêu chính sách cụ thể, rõ ràng
thống nhất. Quốc hội cần loại bỏ những mục tiêu chung và không rõ ràng như đảm bảo
quốc png an ninh hay nâng cao đời sống nhân dân.
Nghiên cứu mục tiêu chính sách của các NHTW trên thế giới cho thấy chúng thường tập
Trung vào các mục tiêu chính như kiểm soát lạm phát, duy trì công ăn việc làm, tăng
trưởng kinh tế, ốn định hệ thống tiền tệ và thị trường tài chính (Cecchetti,
2008).
NHNN nên được trao quyền lựa chọn mục tiêu cho từng thời kphù hợp với điều kiện
kinh tế vĩ mô mà không chịu sự can thiệp hay chỉ đạo từ phía Chính phủ hay các cơ quan
liên quan khác.
về quyết định thực thi chính sách: Thống đốc phải được trao quyền quyết định trong việc
thực thi các chính sách tiền tệ và tự chịu trách nhiệm về các quyết định đó chứ kng nên
thông qua Chính phủ. Điều này không những góp phần làm tăngnh chủ động cho
NHNN mà còn làm giảm độ trễ ngoài của chính sách tiền tệ - một yếu tố quan trọng làm
giảm tính hiệu lực của chính sách.
về quan hệ vói Ngân ch: Đe đảm bảo hiệu quả của chính ch tiền tệ, những nhiệm v
khác như tạm ứng chi Ngân sách cũng nên được quy định lại đế Thống đốc quyền từ chối
trong mục tiêu thâm hụt Ngân sách được Quốc hội pduyệt hàng năm chđộng trong
việc điều hành cung, cầu tiền trên thị trường.
về tố chức chế tài chính: Thực hiện tốt chính sách tiền tệ đòi hỏi NHNN phải thu t
được đội n lớn những chun gia đầu ngành vtài chính, Ngân ng nên cần phải cạnh
tranh với các Ngân hàng thương mại trong việc thu hút chuyên gia vmôi trường làm việc
chế độ lương thưởng.
Hơn nữa, đcho việc thực thi chính sách có tính phản biện cao, Thống đốc cần được trao
quyền chđộng trong việc thành lập Ban vấn chính sách tiền tệ, trong đó quy tụ khoảng
10 người, gồm những chun gia đầu ngành kinh nghiệm quản vấn tại các NHTW
của các nước phát triển am hiếu về điều kiện kinh tế Việt Nam.
lOMoARcPSD|17327 243
Thống đốc cần được trao quyền trong việc quy định sử dụng những khoản thặng dư trong
hoạt động Ngân quỹ, chuyển tiền điện tử hay quản lý quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia, đế có
thể có cơ chế tiền lương phù hợp hơn. Hơn nữa, các khoản thu chi sẽ hợp lý hơn khi NHNN
được quyền tự chủ trong thu chi đặc biệt là trong việc quản lý biên chế các chi nhánh và vụ,
cục.
về trách nhiệm giải trình: Nâng cao tính độc lập và tự chcủa NHNN đối với c mục
tiêu và quyết định chính sách phải đi m với trách nhiệm giải trình đầy đủ minh bạch.
Thống đốc NHNN theo định kỳ hoặc theo đề nghị phải có trách nhiệm giải trình trước Quốc
hội về các quyết định chính sách trong giới hạn chức năng và thẩm quyền được giao phó.
Kết luận
Các bàng chng thực nghiệm cho thấy một mô hình NHTW độc lập hơn sẽ giúp kiểm soát
tốt lạm phát và làm giảm thâm hụt Ngân sách nhưng không có bằng chứng rõ ràng đối với
tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, duy trì lạm phát thấp và một cán cân Ngân sách cân bằng cũng những mục tiêu
quan trọng vì nó không những tạo điều kiện cho việc phân bổ có hiệu quả hơn các nguồn lực
của nền kinh tế mà n giúp duy trì tính ổn định của hệ thốngi chính nn kinh tế, p
phần vào tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an sinh hội.
Phân tích bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay cho thấy lạm phát cao đi kèm với bất ốn vĩ
đă làm bộc l nhiều hạn chế trong việc xây dựng và thực thi c chính sách tiền tệ một
trong những nguyên nhân quan trọng do NHNN thiếu tính độc lập trong việc hoạch địch
thực thi chính sách.
Nâng cao tính độc lập của NHNN Việt Nam về địa vị pháp lý, về công cụ và mục tiêu
chính sách cũng như về tổ chức, nhân sự và tài chính là những yêu cầu cần thiết nhằm tạo
cơ sở cho sự can thiệp có hiệu quả hơn của NHNN vào hệ thống kinh tế, góp phàn kiềm
chế lạm phát, duy trì tính ổn định và thúc đy tăng trưởng kinh tế Việt Nam bền vững hơn.
Tính độc lập của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong thực thi CSTT
Trong quá trình sửa đổi Luật Ngân hàng Nhà nước theo hướng tạo cho NHNN cơ s
pháp lý để đối mới hoạt động của NHNN, một trong những vấn đề đang được thảo luận,
đó là luật pháp phải khẳng định được một vị trí độc lập nhất định của NHNN trong hoạt
động của mình. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở đây là qui định mức độ độc lập như thế nào cho
phù hợp với thể chế kinh tế, chính trị, lịch sử văn hoá của Việt Nam.
Thực te, NHTW cácớc trên thế giới hiện nay đều có sự độc lập nhất định trong hoạt
động 3 lĩnh vực: Điều nh CSTT, Giám sát các TCTDQuản trđiều nh nội bộ, tuy
nhiên mức độ độc lập không giống nhau. Độc lập về Điều nh CSTT, theo tổng kết ca
IMF sự độc lập của NHTW các nước có thể chia ra làm 4 mức độ:
lOMoARcPSD|17327 243
(1) Mức độ cao nhất là “Độc lập trong việc thiết lập mục tiêu”: Ngân hàng
Trung ương có trách nhiệm quyết định chính sách tiền tệ và chế độ tỷ giá nếu như
không được thả nổi (Ví dụ như Hệ thống dự trữ liên bang Mỹ- Fed được lựa
chọn mục tiêu hoạt động trong số các mục tiêu có thể xung đt với nhau là tuyển
dụng nhân côngn định giá cả).
(2) Mức độ độc lập thứ 2 là “Độc lập trong việc xây dựng chỉ tiêu hoạt
động”: NHTW được trao trách nhiệm quyết định chính sách tiền tệ và chế độ tỷ
giá nhưng khác với kiểu Độc lập về mục tiêu, Độc lập trong việc xây dựng chỉ tiêu
hoạt động có một mục tiêu chyếu đã được xác định rồ ràng trong Luật. Ví dụ,
trong Điều lệ tổ chức và hoạt động của ECB quy định mục tiêu là ổn định giá cả,
ECB được quyết định chỉ tiêu hoạt động.
(3) Mức độ độc lập thấp hơn là “Độc lập trong việc lựa chọn công cụ điều
nh”: Chính phủ hoặc Quốc hội quyết định chỉ tiêu chính sách tiền tệ, có sự bàn
bạc, thỏa thuận với NHTW. NHTW có trách nhiệm hoàn thành chỉ tiêu.
(4) Mức độ độc lập thấp nhất là “Mức độ độc lập bị hạn chế thậm chí
không có”: Chính phủ sẽ quyết định chính sách (cả mục tiêu lẫn chỉ tiêu hoạt
động) cũng như là can thiệp vào quá trình triển khai thực thi chính sách.
Đối chiếu với các mức độ độc lập nêu trên, thì NHNN Việt Nam hiện nay đangmức
độ độc lập thấp nhất. Theo Luật NHNN, NHNN không độc lập trọng việc thiết lập mục
tiêu, không độc lập trong xây dựng chỉ tiêu hoạt động thậm ckhông tự chtrong
việc lựa chọn công cụ điều hành. Cụ thể: về mục tiêu, theo Điều 1 Luật
NHNN, NHNN thực hiện nhiều mục tiêu xung đột lẫn nhau như ổn định giá trị đồng tiền,
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa; về xây dựng chỉ
tiêu hoạt động, thì Quốc hội quyết định và giám sát việc thực hiện CSTT quốc gia, mức
lạm phát dự kiến hàng năm trong mối tương quan với cân đối NSNN và mức tăng trưởng
kinh tế (Điều 3 Luật NHNN). Chính ph xây dựng dự án CSTT quốc gia, mức lạm phát
dự kiến hàng năm trình Quốc hội quyết định (Điều 3 Luật NHNN); về việc tự chủ trong
lựa chọn công cụ điều hành, Chính phủ tổ chức thực hiện CSTT quốc gia; quyết định
lượng tiền cung ứng bố sung cho lưu thông hàng năm, mục đích sử dụng số tiền này và
định kỳ báo cáo ủy ban thường vụ Quốc hội, quyết định chính sách cụ thế khác và các giải
pháp thực hiện (Điều 3 Luật NHNN); NHNN xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia
để Chính phủ xem xét trình Quốc hội quyết định tố chức thực hiện chính sách này
(Điều 5 Luật NHNN); NHNN cấp, thu hồi giấy pp thành lập và hoạt động của các
TCTD, trù’ tờng hợp do Thủ tướng Chính phủ quyết định (Điều 5 Luật NHNN); Việc
trả lãi đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc của từng loại hình TCTD, từng loại tiền gửi trong
từng thời kỳ do Chính phủ quy đnh (Điều 20, Luật NHNN); trong trường hợp đặc biệt,
khi được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, NHNN cho vay đối với các TCTD tạm thời
mất khả năng chi trả, có nguy cơ y mất an toàn cho hệ thống các TCTD (Điều 30 Luật
NHNN); NHNN tạm ứng cho NSTW để xử lý thiếu hụt tạm thời quỹ NSNN theo quyết
lOMoARcPSD|17327 243
định của Thủ tướng Chính phủ. Khoản tạm ứng này phải được hoàn trả trong năm Ngân
sách, trừ trường hợp đặc biệt do Thủ tướng Chính phủ quyết định (Điều 32); NHNN tổ
chức thực hiện việc in, đúc, bántrong nước và ngi nước các loại tiền mẫu, tiền lưu
niệm được thiết kế phục vụ cho mục đích sưu tầm hoặc mục đích khác theo quy định của
Chính phủ (Điều 27 Luật NHNN); Chính phủ ban hành quy chế nghiệp vụ phát hành tiền
bao gồm các quy định về việc in, đúc, bảo quản, vận chuyển, phát hành, thu hồi, thay thế,
tiêu hu tiền và chi phí cho các hoạt động nghiệp vụ phát hành tiền. Bộ Tài chính kiểm tra
việc thực hiện quy chế nghiệp vụ phát hành tiền; Bộ Tài chính, Bộ Nội Vụ giám sát quá
trình in đúc, tiêu huỷ tiền. (Điều 28 Luật NHNN); Bộ Tài chính kiểm tra việc quản lý Dự
trữ ngoại hối Nhà nước do NHNN thực hện theo quy định của Chính phủ (Điều 38); tổ
chức, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thế của Thanh tra Ngân hàng do Chính phủ quy định (Điều
50)
Các quy định trên cho thấy tính độc lập trong hoạt động của NHNNVN còn rất thấp,
nhất là trong việc xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ. Điều này có ảnh hưởng nhất
định đến việc nâng cao năng lực hoạt động cuả NHNN với vai trò là một NHTW trong bối
cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy, cần thiết phải có sự thay đổi các
qui định trong Luật NHNN hiện tại để có thế nâng cao hơn nữa vị thế độc lập của
NHNN.
Với thực tế hiện nay, NHNN là một cơ quan của Chính phủ, Thng đốc NHNN là
Thành viên của Chính phủ và chức năng nhiệm vụ của các bộ, ngành hiện nay thì mức độ
độc lập trong thực thi CSTTn ở mức tự chủ trong việc lựa chọn công cụ điều hành
phù hợp hơn cả. Tại Quyết định 112 của Thủ tướng Chính phủ p duyệt đề án phát triển
ngành Ngân hàng Việt Nam đến 2020 cũng đã ghi rõ “ ...Ngân hàng Nhàớc độc lập, tự
chủ trong việc xây dựng, điềunh chính sách tiền tệ, lãi suất và tỷ giá hối đoái”.
Ờ mức độ tự chủ này, Ngân hàng Nhà nước có đủ thẩm quyền để quyết định cung tiền,
lựa chọn các công cụ CSTT một cách tốt nhất sao cho đạt được các tiêu chí về CSTT, cơ
chế tỷ giá và lạm phát được Chính phủ hoặc Quốc hội giao trên cơ sở ý kiến đệ trình của
NHNN. Sở dĩ phải giao cho NHNN thẩm quyền quyết định cung tiền, lựa chọn các công
cụ CSTT trong điều hành là vì: xuất phát từ một thực tế làc thông tin kinh tế có tác
động đến tiền tệ và các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô thu thập được, nói chung là không có sự
hoàn hảo và những đặc tính kỹ thuật của thị trường tài chính là rất phức tạp, đòi hỏi cơ
quan quản lý phải có tính linh hoạt, mềm dẻo trong cách tiếp cận, quyết định nhanh trước
những thay đổi của thị trường. Điều này càng có sức thuyết phục hơn khi mà các Ngân
ng Trung ương đang nhanh chóng tiến tới sử dụng các công cụ gián tiếp để đạt tới các
mục tiêu chính sách tiền tệ của họ. Hình thức tự chủ này cũng đòi hỏi NHNN phải có một
sự hiếu biết sâu sắc về sự vận hành của các thị trường tài chính và các công cụ quản
vốn khả dụng của hệ thống Ngân hàng, năng lực phân tích và dự báo. Ngoài ra, hình thức
tự chủ này còn cho phép có sự phối hợp hài hoà giữa chính sách tiền tệ với các mục tiêu
của chính sách kinh tế tổng thể của một nước trong một giai đoạn nht định, thường từ 3
tới 5 năm. Đồng thời nâng cao tính trách nhiệm của NHNN trong việc giải trình đầy đủ
lOMoARcPSD|17327 243
những hành động của mình về chính sách tiền tệ trước Quốc hội và Chính phủ, tính công
khai minh bạch đày đủ về hoạt động của NHNN. Nhưng mặt khác nó cũng hạn chế sự can
thiệp của các nhà chính trị đến các quyết sách của NHNN....
Tại hầu hết các nước, Ngân hàng Trung ương (màta gọi là Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam) là một tổ chức điều tiết độc lập không nằm trong bộ máy hành pháp. Ở nước ta
Ngân hàng Nhà nước thuộc Chính phủ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước là thành viên của
Chính phủ có hàm tương đương Bộ trưởng.
Đe cải cách hệ thống Ngân hàng chúng ta đang tiến dần tới việc xây dựng một Ngân hàng
Trung ương độc lập hơn. vấn đề này đã và đang được bàn luận và hy vọng Luật Ngân
ng Nhà nước sửa đối sẽ đi theo hướng đó.
Neu là tổ chức điều tiết độc lập, Ngân hàng Nhà nước có thế chủ động trong chính sách
tiền tệ của mình nhằm bảo vệ sức mạnh của đồng tiền, ngăn chặn lạm phát, phục vụ sự
phát triển của đất nước mà không quá phụ thuộc vào công việc hàng ngày của cơ quan
nh pháp.
Do là một tố chức thuộc Chính phủ và nhất là khi Chính phủ còn "chủ quản" nhiều doanh
nghiệp nhà nước nên đôi khi Ngân hàng Nhà nước rất khó xử khi có "mệnh lệnh" trái
ngược với sứ mệnh và các chính sách tiền tệ và các quy chế điều tiết hệ thống Ngân hàng
thương mại của mình. Có thể nêu ra quá nhiều các tình huống như vậy đã từng xảy ra
trong vài chục năm qua.
Khoanh nlà một thí dụ. Cách đây hơn chục năm Ngân hàng Nhà nước đã nhận được
lệnh khoanh nợ các khoản nợ của rất nhiều doanh nghiệp nhà nước. Giải quyết việc
khoanh nợ đã kéoi cả chục năm rất tốn kém và phức tạp. Lẽ ra việc khoanh nợ, hoãn
nợ, thậm chí xoá nợ là việc thường xun của các Ngân hàng thương mại phải làm trong
hoạt động bình thường của mình.
Tuy nhiên, trong quá khứ nhiều Ngân hàng quốc doanh đã phải cho khách hàng này,
khách hàng nọ vay theo mnh lệnh hành cnh từ trên xuống. Hiện nay việc này đã giảm
đi, song vẫn còn có khả năng xảy ra và gây méo mó cho hoạt động của hệ thống Ngân
ng.
Trong tình hình khủng hong kinh tế toàn cầu, với gói kích thích kinh tế bằng h trợ i
suất 4% rất có khả năng hiện tượng trên lại tái xuất hiện. Gói hỗ trợ lãi suất ngắn hạn chủ
yếu để cho các doanh nghiệp vừa nh, các doanh nghiệp xuất khấu, v.v... Còn i hỗ tr
lãi suất 4% Trung dài hạn đã được mở ra cho các dự án đầu tư, đóng tàu, v.v... và khả năng
đó càng tăng cao hơn.
Rất có thể xảy ra tình huống giả định sau. Đe giúp đỡ các doanh nghiệp nhà nước, nhất là
các tập đoàn. Chính phủ có thể "chỉ thị" hay "thông báo" cho Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam hướng dẫn các Ngân hàng thương mại: cho vay có hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp
lOMoARcPSD|17327 243
cụ thể nào đó (bình thường các Ngân hàng thương mại có thế rất đắn đo, cân nhắc và
thể kng cho vay); nếu dư nợ của một doanh nghiệp vượt quá 15% vốn tự có của Ngân
ng (theo quy định thì không Ngân hàng nào được cho 1 kch hàng hay nm khách
ng liên quan, thí dụ các công ty trong 1 tập đoàn, vay q 15% vốn tự có của mình)
thì bằng mệnh lệnh hành chính có thể vượt qua quy chế này; khoanh nợ cho doanh nghiệp
đó; nếu có nquá hn thì chưa đưa doanh nghiệp đó vào danh sách có nợ xấu (và vì thế
c khoản vay mới sẽ rất khó); v.v... Tình huống như thế đã từng xảy ra rất nhiều lần trong
quá khứ.
Gặp tình huống như vậy Ngân hàng Nhà nước thực sự k xử, cứ như phải "đứng trước
hai làn đạn": làm theo mệnh lệnhnh chính thì trái với c quy định, không làm theo thì
bị tội "bất tuân lệnh" cấp trên. Đấy là những tình hung khó xử cần tránh.
Hiện nay cũng rất có thể xảy ra các mệnh lệnh hành chính như đã tùng xảy ra thời xưa.
Giả như việc đó thực sự xảy ra, thì không hiểu Ngân hàng Nhà nước ứng x ra sao. Thật
khó phải loại bỏ sự nhập nhng vàhồ này, không tạo điều kiện cho bất cứ ai vi phạm
quy định. Neu Ngân hàng Nhà nước là cơ quan điều tiết độc lập và luật cấm sự can thiệp
nh chính như vậy của cơ quan hành pháp thì những cơ hội như thế không còn hay được
giảm rất nhiều, hệ thống có khả năng vận hành lành mạnh.
Hệ thống Ngân hàng là hệ thống thần kinh của nền kinh tế, hệ thống ấy hoạt động trục
trặc sẽ ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của đất nước. Đe tránh những hiệnngy méo
như vậy, để hội nhập sâu hơn và hiệu quả hơn thì việc nghiên cún sửa Luật Ngân hàng
Nhà nước và Luật Ngânng thương mại theo hướng đế Ngân hàng Trung ương là một t
chức điều tiết độc lập là rất quan trọng và cấp bách.
Các bằng chứng thực nghiệm cho thấy một hình NHTW độc lập hơn sẽ giúp
kiểm soát tốt lạm phát và làm giảm thâm hụt Ngân sách nhưng không bằng
chứng rõ ràng đối với tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, duy trì lạm phát thấp và một cánn Ngân sách cân bằng cũng là những mục
tiêu quan trọng vì nó không những tạo điều kiện cho việc phân bổ có hiệu quả hơn các
nguồn lực của nền kinh tế mà còn giúp duy trì tính ổn định của hệ thống tài chính và nền
kinh tế, góp phần vào tăng trưởng kinh tế và đảm bo an sinh xã hội.
Phân tích bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay cho thấy lạm phát cao đi kèm với bất ổn
vĩ mô đã làm bộc lộ nhiều hạn chế trong việc xây dựng và thực thi các chính sách tiền tệ
mà một trong những nguyên nhân quan trọng là do NHNN thiếu tính độc lập trong việc
hoạch địch và thực thi chính sách.
lOMoARcPSD|17327 243
Nâng cao tính độc lập của NHNN Việt Nam về địa vị pháp lý, về công cụ và mục tiêu
chính sách cũng như về tổ chức, nhân sự và tài chính là những yêu cầu cần thiết nhằm tạo
cơ sở cho sự can thiệp có hiệu quả hơn của NHNN vào hệ thống kinh tế, góp phần kiềm
chế lạm phát, duy trì tính ổn định và thúc đy tăng trưỏng kinh tế Việt Nam bền vững hơn.
Một mô hình NHTW độc lập hơn sẽ giúp kiểm soát tt lạm phát và làm giảm thâm hụt
Ngân sách nhưng không có bằng chứng rõ ràng đối với tăng trưởng kinh tế.
2. Một số đề xuất
- NHNN phải được quyền quyết định các định hướng, giải pháp trong
y dựng và điều hành CSTT quốc gia cũng như trong việc thực hiện các chức
ng
khác của NHTW. Tất nhiên, song song với các thẩm quyền được trao, NHNN phải chịu
trách nhiệm trước Quốc hội về kết quả điều hành CSTT thực hiện các chức năng của
NHTW.
Cần tránh khuynh hướng cho rằng, nâng cao vai trò độc lập của NHTW nghĩa
NHTW thoát ly hoàn toàn khỏi Chính phủ. Mục tiêu cuối cùng của CSTT và cũng là mục
tiêu hoạt động của NHTW là ổn định giá cả, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, cần
thiết lập các quy định pháp lý về mối quan hệ giữa NHTW với Chính phủ nhằm bảo đảm
hoạt động của NHTW hỗ trợ tốt cho các chương trình kinh tế của Chính phủ:
+ NHTW tham gia vào việc soạn thảo các chương trình, chính sách kinh tế của
Chính phủ và đề đạt ý kiến của mình về các quyết định của Chính phủ; tư vấn cho Chính
phủ về những vấn đề quan trọng liên quan đến nhiệm vụ và thẩm quyền của NHTW.
+ NHTW và các Bộ, Ngành thuộc Chính phủ duy trì cơ chế trao đối, cung cấp
thông tin để theoi, nắm bắt kịp thời các diễn biến vĩ mô của nền kinh tế.
-Tiến tới thực hiện Chính sách lạm phát mục tiêu. Lạm phát mục tiêu là một trong
những khuôn khổ CSTT mà theo đó, NHTW hoặc Chính ph thông báo một số mục tiêu
Trung dài hạn về lạm phát và NHTW cam kết đạt được những mục tiêu này. Đe làm được
điềuy, NHNN phải có quyền đặc biệt để theo đuổi mục tiêu lạm phát và tự mình đặt ra
các công cụ của CSTT. Bên cạnh đó, dân chúng cũng phải được thông báo về khuôn khố
CSTT việc thực hiện CSTT.
- Tăng cường tính độc lập về mặt t chức nhân sự của NHNN. Theo đó,
nhiệm kỳ của Ban lãnh đạo NHTW có thể dài hơn nhiệm kỳ của Chính phvà
Quốc hội, hoặc xen kẽ giữa các nhiệm kỳ của Chính phủ. Như vậy, quá trình ra
quyết định của NHTW sẽ không bị ảnh hưởng bởi chu kỳ thành lập Chính phủ,
chu kỳ lập kế hoạch kinh tế. Thống đốc sẽ bị ảnh hưởng một khi Chính phủ thay
đổi nhân sự do hết nhiệm kỳ.
- Đe đảm bảo tính độc lập về hoạt động, cần có qui định cụ thể về chức
ng “Là Ngân hàng của Chính phủ” theo hướng NHNN sẽ không cho Ngân ch
vay trụ’c tiếp. NHNN chỉ cấp tín dụng gián tiếp cho Chính phủ thông qua việc cho
Ngân sách vay trên thị trường thứ cấp có hạn mức, và lấy trái phiếu Chính phủ làm
tài sản đảm bảo khi cho các Ngân hàng thương mại vay.
| 1/20

Preview text:

lOMoARc PSD|17327243
ĐỀ TÀI : TÍNH ĐỘC LẬP CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG NỘI DUNG
ĩ. Sự ra đòi Ngân hàng Trung ương và chức năng Ngân hàng Trung ương 1.Tìm hiếu
về ngân hàng Trung ương 2.Sự ra đòi NHTW, Bán chất và chức năng Ngân hàng Trung ương II. Vài
nét về tính độc lập của NHTW 1 .Tính độc lập của NHTW
2.Ổn định giá cả cùa nền kỉnh tế 3.Kinh nghiệm của Ngân Hàng dự trữ Newzealand
III. Tính độc lập của NHNN Việt Nam hiện nay và một số đề xuất 1.Tính độc lập của
NHNN Việt Nam hiện nay 2.Một số đề xuất

I. Sự RA ĐỜI NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG VÀ CHỨC NĂNG NHTW
l. Tìm hiểu về Ngân hàng Trung ương
“Có 3 phát minh vĩ đại từ khi bắt đầu sự sống của loài người: lửa, bánh xe và Ngân hàng
Trung ương" - Will Rogers, một nhà văn hài hước người Mỹ đã vui tính tổng kết như thế.
Từ một góc nhìn cụ thể của nền kinh tế hàng hoá về Ngân hàng Trung ương (NHTW), đa
số chúng ta nhất định phải thốt lên: Đúng vậy!
NHTW như chúng ta biết ngày nay thực sự là một trong những phát minh lớn nhất trong
thế kỷ 20 - Lần đề cập đầu tiên được ghi nhận bằng tiếng Anh với khái niệm là "NHTW
Centrol Bank” vào năm 1873 do Walter Bagehot, sau này là Tổng biên tập của tờ báo
The Economist Anh quốc, người đã sử dụng cụm từ “Centrol Bank” để đề cập đến một
Ngân hàng có sự độc quyền trong việc phát hành giấy bạc Ngân hàng, và trụ sở chính của
nó cần phải đặt tại Thủ đô hoặc Trung tâm tài chính của một quốc gia. Chỉ trong thời gian
50 năm sau đó và nhất là từ giữa thế kỷ 20 đến nay, thuật ngữ này đã được sử dụng rộng
rãi trên phạm vi quốc tế. Vào những năm đầu thế kỷ 20, trên thế giới chỉ có 18 NHTW, thì
hiện nay con số này đã là 173 NHTW. lOMoARc PSD|17327243
Nhiệm vụ ban đầu của NHTW không phải là việc thực thi CSTT hay hỗ trợ hệ thống các
Ngân hàng Trung gian, mà chỉ đơn giản là tài trợ cho chi tiêu của Chính phủ. NHTW lâu
đời nhất trên thế giới là Ngân hàng Thụy Điển, được thành lập vào năm 1668 và sứ mệnh
ban đầu được sử dụng như là một công cụ đế bù đắp các khoản chi tiêu quân sự. NHTW
thứ hai là NHTW Anh quốc được thành lập năm 1694 nhằm tài trợ cho cuộc chiến tranh với Pháp
Hoa Kỳ đã quản lý nền kinh tế của mình mà không có NHTW cho tới đầu thế kỷ 20. Các
Ngân hàng tư nhân thường phát hành những đồng tiền giấy và tiền xu của bản thân. Hậu
quả là các cuộc khủng hoảng Ngân hàng đã diễn ra khá thường xuyên. Chỉ riêng ở nước
Mỹ vào năm 1791 có tới 7000 loại tiên - Đã làm ách tăc sản xuât, lun thông. Người có đủ
năng lực giải quyết mâu thuẫn này chính là Nhà nước và từ đây Nhà nước đã can thiệp
với mức độ nhất định vào hoạt động Ngân hàng bằng cách ban hành các đạo luật chỉ cho
phép một số Ngân hàng đủ điều kiện qui định mới được phép phát hành kỳ phiếu Ngân
hàng. Nhưng sau thời kỳ các cuộc khủng hoảng trầm trọng diễn ra liên tục, Quỹ Dự trữ
liên bang Mỹ mới được thành lập vào năm 1913 đế trở thành NHTW duy nhất được phát
hành tiền tại Mỹ và chủ yếu giữ quyền lực trong giám sát các Ngân hàng và hoạt động với
tư cách là người cho vay cuối cùng. Ngày nay Quỹ Dự trữ liên bang Mỹ là một trong số ít
những NHTW vẫn còn giữ trách nhiệm giám sát Ngân hàng; tại phần lớn các quốc gia
trên thế giới thì công việc này đã được giao cho một Uỷ Ban độc lập của Nhà nước.
Thời kỳ các NHTW được gọi là bước vào thời kỳ NHTW hiện đại chính là từ khi hoạt
động của các NHTW tập Trung chức năng, quyền lực tối cao vào việc thực thi chính sách
tiền tệ. Bắt đầu cho thời kỳ này cũng mới rất gần đây, vào những năm đầu thập niên 70
của thế kỷ 20, khi mà mối liên hệ ban đầu giữa tiền và vàng cuối cùng đã bị phá vỡ và hệ
thống về chế độ tỷ giá hối đoái cố định bị sụp đổ hoàn toàn vào năm 1971. Khi các quốc
gia dựa vào chế bộ bản vị vàng hay các tỷ giá bị cố định thì chính sách tiền tệ bị thúc ép
bởi nhu cầu duy trì các cân đối hàng - tiền. Chỉ từ khi các tỷ giá hối đoái đã được phép thả
nổi thì mỗi quốc gia đã có thể bắt đầu thực hiện chính sách tiền tệ của riêng mình dựa chủ
yếu trên quan hệ cung - cầu của bản thân tiền tệ.
Đầu tiên, các chính phủ của các quốc gia nắm giữ quyền kiểm soát chặt chẽ các phương
tiện kiểm soát tiền tệ, Chính phủ luôn “ra lệnh” cho các NHTW phải thay đổi lãi suất cho
phù hợp với tình hình. Nhưng khi lạm phát liên tục bùng nổ, Chính phủ mới nhận thấy
được tầm quan trọng của việc duy trì tính độc lập của NHTW trong việc điều hành chính
sách tiền tệ. Các nhà chính trị dường như cố tạo ra một sự bùng nổ (đột biến) trước khi có
cuộc bầu cử, hy vọng rằng lạm phát sẽ không gia tăng cho đến sau khi cuộc kiểm phiếu đã
hoàn tất, nhưng một NHTW độc lập cách biệt với những sức ép chính trị sẽ phải ưu tiên
thường xuyên, thậm chí duy nhất về mục tiêu hoạt động trong việc bình ổn giá cả. Do vậy,
nếu có được một sự độc lập với Chính phủ, thì các chính sách sẽ trở nên linh hoạt hơn,
người lao động và các Doanh nghiệp sẽ điều chỉnh mức lương và giá cả cho phù hợp với
việc thắt chặt về chính sách. Những cuộc tranh luận diễn ra, sức ép của thị trường thông
qua các quan hệ lợi ích của người sử dụng tiền sẽ buộc NHTW phải cắt giảm lạm phát tới
mức tổng thiệt hại phải là nhỏ nhất về sản lượng, thu nhập và công ăn việc làm. Do vậy,
nhiều công trình nghiên cứu trong những năm đầu thập niên 1990 đã thừa nhận rằng lOMoARc PSD|17327243
những quốc gia có NHTW độc lập thực sự thì tại quốc gia đó có xu hướng là mức lạm
phát sè ở mức đủ thấp một cách hợp lý nhất.
Tuy nhiên cho đến nay hầu như chưa có một NHTW nào là độc lập hoàn toàn. Trước khi
NHTW châu Au ECB được thành lập, Ngân hàng Trung ương Đức là Ngân hàng có tính
độc lập cao nhất trên thế giới, nhưng Chính phủ Đức vẫn đã bỏ qua lời
khuyên của Ngân hàng này trong việc thiết lập một cơ chế tỷ giá thích hợp cho việc thống
nhất tiền tệ, và sau đó nước Đức đã phải gánh chịu những sức ép về lạm phát. Các NHTW
khác, như Ngân hàng Anh quốc, được trao sự độc lập hoàn toàn trong việc thiết lập chính
sách tiền tệ, nhưng mục tiêu lạm phát lại do Chính phủ đề ra.
Các NHTW độc lập hầu như kiểm soát được mức lạm phát thấp hơn những dự đoán của
các Bộ trưởng tài chính. Nhưng sự độc lập này không phải là phương thuốc chữa bách
bệnh: NHTW cũng sẽ có thể mắc các sai lầm. Một ví dụ minh hoạ đó là Ngân hàng
Reichsbank của Đức vẫn độc lập như luật định khi mà nước Đức rơi vào thời kỳ siêu lạm
phát trong những năm 1923 -1927. Đơn giản là khi nền sản xuất vì lý do bất khả kháng đã
rơi vào tình trạng kiệt quệ, người dân không thể kiếm được đủ ăn hàng ngày khi trong tay
đang sẵn có tiền thì tiền cũng trở nên vô nghĩa! Hàng do đó mới là cái quyết định sức mua
của tiền, còn tiền chỉ là chuẩn mực của phân phối khi mà nền kinh tế có đầy đủ cái để phân
phối và một cơ chế thị trường.
Thời xa xưa, các thủy thủ khi đi biển đều mang một niềm tin rằng Trái đất bằng phang và
lo lắng sẽ có lúc họ bị rơi ra khỏi bờ của Trái đất. May thay, việc phát hiện ra Trái đất
hình tròn đã xoá đi nỗi u uất đó. Những tư tưởng kinh tế về chính sách tiền tệ và lạm phát
cũng xảy ra tương tự như vậy. Rút cuộc là nền sản xuất nói chung chứ không phải bản
thân NHTW cứu vãn được điều đó. Tuy vậy, sự phát minh ra NHTW không phải ngẫu
nhiên mà được ví như một trong những phát minh vĩ đại nhất của loài người! Lịch sử đã
sàng lọc tự nhiên và suy tôn một Ngân hàng thông thường thành NHTW với tư cách là
Ngân hàng giỏi nhất trong các Ngân hàng hiện có, được Nhà nước và cộng đồng giao cho
quyền lực phát hành duy nhất đồng tiền quốc gia và chi phối tất cả các định chế Trung
gian tài chính còn lại thông qua các nghiệp vụ của mình - Các nghiệp vụ có lợi nhuận và
vô vị lợi đều mang tính Nhà nước và bị cộng đồng kiểm soát trở lại đối với NHTW bằng
sự ổn định hay không sức mua của đồng tiền do NHTW phát hành.
Trong thập niên 1960, chính sách tiền tệ đã được chứng minh là tác nhân trực tiếp có thể
làm giảm tỷ lệ thất nghiệp. Nen tảng lý thuyết của cơ sở này là đường cong Phillips, đặt
tên theo Bill Phillips, nhà kinh tế học người New Zealand theo học tại trường Đại học
Kinh tế London. Ong Phillips, cũng là một kỹ sư cơ khí, đã tạo ra một cỗ máy nhằm biểu
diễn cơ chế hoạt động của các nền kinh tế, sử dụng nước để biểu thị khái niệm về tính
lỏng. Năm 1958 ông ta đã khởi xướng một công trình nghiên cứu trong đó chỉ ra rằng
trong giai đoạn 1861 đến 1957, một số dạng của sự thoả hiệp giữa việc tăng lương và thất
nghiệp dường như đã được sử dụng ở nước Anh: khi tỷ lệ thất nghiệp cao, lạm phát thấp.
Điều đó dường như đã làm chúng ta ngộ nhận đế suy đoán rằng các NHTW có thế thường
xuyên cắt giảm được tỷ lệ thất nghiệp thông qua việc nới lỏng tỷ lệ lạm phát? lOMoARc PSD|17327243
Một thập niên sau đó, Milton Friedman và Edmun Phels, đã thách thức với lý thuyết này.
về sự thoả hiệp giữa lạm phát và thất nghiệp, hai nhà khoa học này cho rằng, chỉ có tính
xu hướng đúng trong ngắn hạn, và rằng đó không phải là một qui luật.
Các nhà kinh tế này đã chứng minh: Một khi mọi người đều thấm đẫm mồ hôi bởi tỷ lệ
lạm phát cao hơn, họ sẽ đòi hỏi tiền lương cao hơn. Đen lượt nó, sức mua của một đơn vị
tiền tệ nhỏ đối với mệnh giá cũ cũng sẽ là quá trình xoá dần những “ân huệ” tăng lương
trước đó và thất nghiệp vì vậy sẽ tăng trở lại lên tới tỷ lệ "thất nghiệp tự nhiên". Sức mua
của một đơn vị tiền tệ do đó có khả năng đo lường hiệu quả của thị trường lao động.
Nghĩa là sẽ không có và không thế ảo tưởng về sự thoả hiệp mang tính lâu dài giữa lạm
phát và thất nghiệp: Trong dài hạn, chính sách tiền tệ sẽ quyết định trạng thái của lạm
phát. Neu các nhà hoạch định chính sách ra sức cố gắng duy trì thất nghiệp dưới mức thất
nghiệp tự nhiên, thì lạm phát sẽ bị đẩy lên cao hơn ngoài ý chí chủ quan mong muốn.
Đúng như hai ông Friedman và Phelps đã dự đoán, mức lạm phát có liên quan tới tỷ lệ thất
nghiệp đã tăng trong suốt giai đoạn những năm 1970, và các nhà hoạch định chính sách đã
phải từ bỏ mô hình đường cong Phillips. Ngày nay, mọi người đều nhất trí rộng rãi rằng
chính sách tiền tệ nên tập Trung vào việc duy trì mức lạm phát thấp. Nhưng điều này không
có nghĩa là, như thường được hiểu, rằng các NHTW là ’’những người thu nhặt lạm phát”,
...mà phải hiếu rang NHTW là người chịu thiệt thòi vì buộc phải chịu trách nhiệm trước
người lao động về tình trạng lạm phát vượt quá những ngưỡng cho phép. Neu không có sự
thoả hiệp có tính dài hạn, lạm phát thấp thường không làm cản trở thường xuyên sự tăng
trưởng. Hơn thế nữa, qua việc duy trì lạm phát thấp và ổn định, một NHTW, về thực tế, đã
duy trì ổn định sản lượng và việc làm. Ngài Don Brash, Thống đốc Ngân hàng Dự trữ New
Zealand, đã diễn giải cơ chế hoạt động của điều đó thông qua sử dụng biểu đồ NAIRU:
Đường thẳng thể hiện mức tăng trưởng của sản lượng khi nền kinh tế duy trì sự ốn định
trong dài hạn; đường cong lượn sóng thể hiện sản lượng thực tế. Khi nền kinh tế sản xuất
dưới mức tiềm năng (ví dụ, thất nghiệp cao hơn mức NAIRU), tại điểm A, lạm phát sẽ giảm
cho tới khi "khe hở sản lượng" bị loại bỏ. Khi sản lượng vượt quá mức tiềm năng, tại điếm
B, lạm phát sẽ tăng do cầu vượt quá khả năng sản xuất. Khi lạm phát đang giảm (điểm
A) , thì các NHTW sẽ cắt giảm lãi suất nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc
làm; khi lạm phát đang tăng lên (điểm B), các NHTW sẽ tăng tý lệ lãi suất nhằm giảm bớt
mức tăng trưởng. Như vậy, nếu chính sách tiền tệ tập Trung vào việc duy trì lạm phát ổn
định ở mức thấp, thì điều đó sẽ tạo điều kiện cho việc tạo công ăn việc làm và duy trì tăng
trưởng mang tính bền vững. Như vậy cốt lõi vấn đề là quan hệ giữa năng lực sản xuất ra
sản lượng với số lượng lao động có việc làm chứ không phải quan hệ vỏ giữa lạm phát
cao với thất nghiệp thấp! Mặc dù ngay cả cái quan hệ vỏ này cũng chỉ diễn ra trong ngắn hạn.
Hệ thống Dự trữ Liên Bang Mỹ đều hiếu một cách cặn kẽ mối liên hệ này giữa lạm phát
và khe hở sản lượng. Những dấu hiệu ban đầu khi thành lập NHTW Châu Âu (ECB) cũng
cho thấy rằng ECB đã nhận thức rất rõ phạm vi mà họ có thế duy trì an toàn lạm phát với
mức lãi suất thấp nhưng chỉ trong thời gian ngắn nhằm thúc đẩy tăng trưởng và việc làm.
Ngân hàng ECB cũng đã lặp lại lời tuyên bố rằng mức lãi suất thấp hơn không thể làm
giảm tỷ lệ thất nghiệp. Điều này hoàn toàn đúng không lOMoARc PSD|17327243
thể chối cãi trong dài hạn, nhưng nếu một nền kinh tế đang hoạt động dưới mức tiềm năng
và tỷ lệ thất nghiệp đang cao hơn mức thất nghiệp tự nhiên NAIRU, thì lãi suất có thể cắt
giảm một cách an toàn, và từ đó sản lượng sẽ được thúc đẩy, mà mức lạm phát không cần tăng...
Vậy là: Những sưu tầm và bình luận nêu trên đã góp phần khẳng định rằng nền sản xuất
hàng hoá và những người hưởng thụ từ nền sản xuất này luôn luôn ủng hộ và hoan
nghênh một NHTW thông minh và độc lập hoàn toàn với Chính phủ. NHTW là một Định
chế tài chính chứ không phải là một định chế chính trị. Chỉ khi là NHTW độc lập thì gánh
nặng của nền sản xuất mới có thể đè lên vai họ với trọng trách: “NHTW là người chịu
trách nhiệm trước người lao động về tình trạng lạm phát vượt quá những ngưỡng cho phép.
2. Sự ra đời Ngân hàng Trung ương và chức năng Ngân hàng Trung ương
Ngày nay, sứ mệnh của hầu hết các Ngân hàng Trung ương trên thế giới là chịu trách
nhiệm xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia thông qua các công cụ và giải
pháp nhằm đạt tới các mục tiêu chính sách đã đề ra; chịu trách nhiệm về sự vận hành trôi
chảy của hệ thống thanh toán và sự bình ổn của hệ thống tài chính và Ngân hàng Trung
ương là người cho vay cứu cánh cuối cùng. Vì vậy, mục tiêu hoạt động đầu tiên và cũng là
quan trọng nhất của Ngân hàng Trung ương là mục tiêu của chính sách tiền tệ. Mục tiêu
cuối cùng của chính sách tiền tệ hầu như thống nhất ở các nước đó là ổn định giá trị đồng
bản tệ, tạo tiền đề thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm. Ngoài các mục
tiêu vĩ mô này, tuỳ thuộc vào trạng thái của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ, các Ngân
hàng Trung ương còn có thể lựa chọn cho mình thêm một số mục tiêu cụ thế khác.
Ngân hàng Trung ương (có khi gọi là Ngân hàng dự trữ, hoặc cơ quan hữu trách về tiền
tệ) là cơ quan đặc trách quản lý hệ thống tiền tệ của quốc gia/nhóm quốc gia/vùng lãnh
thố và chịu trách nhiệm thi hành chính sách tiền tệ. Mục đích hoạt động của Ngân hàng
Trung ương là ổn định giá trị của tiền tệ, ổn định cung tiền, kiểm soát lãi suất, cứu các
Ngân hàng thương mại có nguy cơ đố vỡ. Hầu hết các Ngân hàng Trung ương thuộc sở
hữu của Nhà nước, nhưng vẫn có một mức độ độc lập nhất định đối với Chính phủ.
a) Sự ra đòi của Ngân hàng Trung ương
Ngân hàng Trung ương ra đời chính thức đầu tiên Châu Âu, vào thế kỷ 17. Khi ấy, tiền
mặt lưu hành vẫn chủ yếu dưới dạng vàng và bạc, tuy rằng, các tờ cam kết thanh toán đã
được sử dụng rộng rãi như là những biểu hiện của giá trị ở cả Châu Âu và Châu Á. Ngược
lại 500 năm trước đấy, Tổ chức Hiệp sĩ dòng Đền thời Trung cổ
sử dụng một cơ chế có thế nói là hình mẫu đầu tiên của Ngân hàng Trung ưoĩig. Các
giấy tờ cam kết thanh toán của họ được chấp nhận rộng rãi, và nhiều người cho rằng các
hoạt động này đặt nền tảng cơ bản cho hệ thống Ngân hàng hiện đại. Cùng thời gian đó, lOMoARc PSD|17327243
Thành Cát Tư Hãn phát hành tiền giấy ở Trung Hoa, và áp đặt sử dụng loại tiền này bằng
bạo lực nhằm thu giữ vàng bạc.
Ngân hàng Trung ương đầu tiên Ngân hàng Thụy Điển năm 1668 với sự giúp đỡ của
các doanh nhân Hà Lan. Ngân hàng Anh ra đời tiếp sau đó năm 1694 bởi doanh nhân
người Scotland là William Paterson tại London theo yêu cầu của chính phủ Anh với mục
đích tài trợ cuộc nội chiến lúc đó. Cục Dự trữ Liên bang của Mỹ được thành lập theo yêu
cầu của Quốc hội tại đạo luật mang tên hai nghị sĩ đệ trình là Glass và Owen, Tổng thống
Woodrow Wilson ký đạo luật ngày 23 tháng 12 năm 1913.
Ngân hàng Trung ương Trung Quốc bắt đàu các chức năng Ngân hàng Trung ương năm
1979 cùng với chính sách cải cách kinh tế. Vai trò Ngân hàng Trung ương của nó được
đẩy mạnh năm 1989 khi đất nước này chuyển đổi sâu sắc hơn sang nền kinh tế hướng
xuất khẩu. Tới năm 2000, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đã là một Ngân hàng Trung
ương về mọi mặt, với cơ cấu và hoạt động có tham khảo Ngân hàng Trương ương Châu
Au vốn là mô hình Ngân hàng Trung ương mới nhất, chi phối Ngân hàng Trung ương của
các quốc gia thành viên mà vẫn để quyền quản lý kinh tế quốc gia cho các Ngân hàng đó. B) Bản chất NHTW
Ngân hàng Trung ương là ngân hàng phát hành công quản, có thể biệt lập hoặc phụ thuộc
vào chính phủ, vừa thực hiện chức năng độc quyền phát hành giấy bạc ngân hàng vào lun
thông, vừa thực hiện quản lý nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ - tín dụng - ngân hàng.
C) Chức năng của Ngân hàng Trung ưong
Ngân hàng Trung ương liên quan đến ba chức năng cơ bản, đó là phát hành tiền tệ, Ngân
hàng của các tổ chức tín dụng, và Ngân hàng của Chính phủ. Tuy nhiên, không phải Ngân
hàng Trung ương nào cũng mang đầy đủ ba chức năng này.
Phát hành tiền tệ
Ờ phần lớn các nước, Ngân hàng Trung ương là cơ quan duy nhất có quyền phát hành tiền
tệ. Ở một số nước khác, Ngân hàng Trung ương là cơ quan duy nhất phát hành tiền giấy,
còn tiền kim loại với tư cách là tiền bổ trợ thì do chính phủ phát hành. Cục Dự trữ Liên
bang- Ngân hàng Trung ương của Mỹ- không có chức năng phát hành tiền, thay vào đó là
Bộ Tài chính đảm nhiệm chức năng này. Cũng có thông tin cho rằng Chính phủ Mỹ không
có quyền phát hành đồng Đô-la, mà là do Cục Dự Trữ Liên Bang.
Ngân hàng của các tố chức tín dụng
Ngân hàng Trung ương thực hiện công việc tái chiết khấu các hối phiếu đối với các tổ chức
tín dụng, cấp vốn thông qua cho vay đối với các tổ chức này (đồng thời qua đây kiểm soát lãi suất). lOMoARc PSD|17327243
Ngân hàng Trung ương còn mua và bán các giấy tờ có giá, qua đó điều tiết lượng vốn trên thị trường.
Ngân hàng Trung ương có quyền yêu cầu các Ngân hàng thương mại mở tài khoản tại chỗ
mình và các Ngân hàng phải gửi vào tài khoản của họ một lượng tiền nhất định. Thông
thường lượng tiền này được quy định tương đương với một tỷ lệ nào đó tiền gửi vào Ngân
hàng thương mại, gọi là tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Trong trường hợp có tố chức tín dụng gặp nguy cơ đố vỡ làm ảnh hưởng đến cả hệ thống
tài chính của quốc gia, Ngân hàng Trung ương sẽ tái cấp vốn cho tổ chức tín dụng đó để
cứu nó. Vì thế, Ngân hàng Trung ương được gọi là người cho vay cuối cùng (hay người cho vay cứu cánh).
Ngân hàng cúa Chính phủ
Ở nhiều nước, Ngân hàng Trung ương là người quản lý tiền cho chính phủ. Chính phủ sẽ
mở tài khoản giao dịch không lãi suất tại Ngân hàng Trung ương. Tuy nhiên, ở một số
nước, chẳng hạn như ở Việt Nam, chức năng này do kho bạc đảm nhiệm.
Ngân hàng Trung ương còn làm đại diện cho chinh phủ khi can thiệp vào thị trường ngoại hối.
II. Vài nét về tính độc lập của NHTW 1. Tính độc lập của NHTW
Xem xét tính độc lập của NHTW là một vấn đề lớn, đòi hỏi phải nghiên cứu thật
chuyên sâu, rạch ròi. Tuy nhiên, trong phạm vi báo cáo này, chúng ta chí nghiên cứu để
tiếp cận vấn đề này ở mức độ sơ lược và cơ bản nhất với mục đích là phát hiện ra những
vấn đề chính trong tính độc lâp của NHTW đe từ đó chứng minh được vai trò của nó đối
với sự ổn định của một quốc gia.
Trong suốt những năm 90 của thế kỷ XX, tính độc lập của NHTW được xem như nền
tảng của những cải cách về mặt thế chế đế giảm sự can thiệp bất hợp lí của chính trị đến
quá trình xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ nhằm đạt mục tiêu ổn định giá cả. Lý
do dẫn đến cuộc cải tổ này đó là việc xây
dựng điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) nhằm đạt được mục tiêu ổn định giá cả. Lý
do dẫn đến cuộc cải tổ này đó là việc xây dựng và điều hành CSTT mà có sự can thiệp
chính trị thường chỉ đạt được những mục tiêu ngắn hạn. Điều này sẽ làm gia tăng tính
tạm thời và không bền vững của kinh tế vĩ mô, đặc biệt là nguy cơ bùng nổ lạm phát và
theo đó hạn chế tăng trưởng kinh tế và làm gia tăng tỷ lệ thất nghiệp.
Tính độc lập của NHTW được thể hiện thông qua việc xác định rồ cơ chế hoạch định
CSTT là thế nào, NHTW có được toàn quyền quyết định việc sử dụng các công cụ để thực
thi CSTT hay không cũng như nêu rõ trách nhiệm của NHTW nói chung và thống đốc nói
riêng trong trường hợp mục tiêu không đạt được như mục tiêu đã đặt ra. lOMoARc PSD|17327243
2. Ồn định giá cả của nền kinh tế
Ôn định giá cả, ổn định sức mua của đồng tiền là nhiệm vụ đầu tiên và quan trọng nhất
của một Ngân hàng Trung ương (NHTW). Duy trì mức lạm phát thấp và hợp lí trong một
khoảng thời gian dài là dấu hiệu cho sự hoạt động hiệu quả một NHTW. Nhiều học giả đã
cho rằng một phần lớn trong kết quả của sự lạm phát từ nửa đầu thập kỉ 80 của thể kỉ XX
trên toàn thế giới có sự đóng góp quan trọng của những mô hình NHTW độc lập. Bài viết
không xem xét toàn bộ những nội dung trong tính độc lập của NHTW, thay vào đó, chúng
ta chỉ nghiên cứu đế tiếp cận vấn đề này ở mức độ sơ lược và cơ bản nhất với mục đích
phát hiện ra những vấn đề chính trong tính độc lập của NHTW, từ đó chứng minh được
vai trò của nó đối với sự ổn định giá của một quốc gia qua một minh chứng điến hình
nhất, chúng ta đưa ra một số đề xuất như là một tiếng nói đóng góp thêm vào nhiệm vụ on
định giá cả ở VIỆT NAM hiện nay
Thứ nhất, vấn đề ổn định giá trị đồng của đồng tiền là một điều kiện cần nếu muốn có
sự tăng truởng bền vững. Không một nền kinh tế nào có thể tăng trưởng bền vững nếu
phải đối mặt với mức lạm phát quá cao.
Thứ hai, sự đánh đối giữa tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp diễn ra không lâu dài.
Đường cong Philips mô tả mối quan hệ thực nghiệm về tỷ lệ thất nghiệp thấp hay tỷ lệ
tăng trưởng cao có thể đạt được trong ngắn hạn thông qua chính sách mở rộng và tý lệ lạm
phát cao. Tuy nhiên, trong dài hạn, sự tăng trưởng kinh tế và giảm thất nghiệp không được
duy trì, bởi vì năng lực của nền kinh tế có giới hạn, trong khi đó, tỷ lệ lạm phát có thể tiếp tục tăng.
Thứ ba, ổn định giá cả sẽ thúc đẩy hệ thống kinh tế hoạt động có hiệu quả hơn và do
đó làm tăng được mức sống xã hội. Neu giá cả không ổn định sẽ khiến cho xã hội phải
gánh chịu một số phí tốn kinh tế mà chi phí cơ hội là một ví dụ rõ ràng nhất. Ngoài ra,
tình trạng giá cả bất ổn còn có thể khiến các quyết định đầu tư sản xuất trở nên khó khăn
hơn, lòng tin của công chúng đối với hệ thống tài chính tiền tệ sụt giảm, các áp lực về tiền
lương, thuế khoa tăng lên rất nhanh,...
3. Kinh nghiệm Ngân hàng dự trữ của newzealand a) giới thiệu khái quát
- Công trình nghiên cứu lay New Zealand (cụ thể là Ngân hàng Dự trữ New
Zealand) làm Trung tâm để xem xét, so sánh và đánh giá. Không phải ngẫu nhiên mà
người ta lay New Zealand làm Trung tâm nghiên cứu. Lịch sử cho thấy New Zealand
là một trong số các quốc gia đầu tiên và thành công nhất của OECD trong việc bình ổn
giá cả, thực hiện chính sách lạm phát mục tiêu và là quốc gia có những bước cải cách
căn bản đầu tiên trong hoạt động của NHTW. vấn đề này sẽ được tác giả trình bày rõ hơn ở phần sau.
- Biểu đồ 1: mô tả sự biến động mức lạm phát qua các giai đoạn.
- Biểu đồ 2: thể hiện sự thay đổi tính độc lập của NHTW mỗi quốc gia trong 2
giai đoạn khác nhau. Đe đo lường tính độc lập, ở 2 khoảng thời gian này các nhà
nghiên cún đã lựa chọn một vài nhân tố chung bao gồm: độc lập về mặt nhân sự
(Personnel independence), độc lập về mặt tài chính (Financial independence) và độc lOMoARc PSD|17327243
lập về mặt chính sách (Policy independence), riêng độc lập về mặt chính sách bao gồm
độc lập về mục tiêu (Goal independence) và độc lập trong sử dụng các công cụ
(Instrument independence). Từ đó, họ lượng hóa tính độc lập này thông qua Điếm số
độc lập
(Independence Score).
- Biểu đồ 3: khảo sát mối quan hệ giữa tính độc lập của NHTW với tỷ lệ lạm phát.
Trục hoành biểu diễn Điểm số độc lập, trục tung phản ánh tỷ lệ lạm phát.
Hầu hết những quốc gia Công
nghiệp đều đă đạt được một sự giảm lạm
phát rõ rệt: tỷ lệ giảm hàng năm Trung
bình từ 5,6% trong giai đoạn 1955-1988
xuống còn 2,7% trong giai đoạn 19882000
(xem biểu đồ 1). Một trong những câu
chuyện thành công khác thường nhất là
New Zealand, với 7,6% trong khoảng thời
gian đầu xuống còn 2,7% trong giai đoạn
sau. Nhiều học giả đã quy sự cải tiến này
cho chính sách lạm phát mục tiêu mà New
Zealand đã thực hiện vào năm 1989,
nhưng điều này sẽ là phiến diện nếu chỉ tin
vào một mình sự ảnh hưởng của chính
sách lạm phát mục tiêu.
Quay trở lại thời điếm năm 1989, hoạt động của Ngân hàng Dự trữ New Zealand
đã có bước đột phá với 2 cải cách lớn: thứ nhất, Ngân hàng Dự trữ được độc lập nhiều
hơn với Chính phủ. Thứ hai, đã thiết lập được một chính sách lạm phát mục tiêu rõ ràng
mà sau này nhiều quốc gia đã lần lượt áp dụng. Xét về sự độc lập tối thiểu của một
NHTW, Ngân hàng Dự trữ New Zealand lúc bấy giờ đứng vào tốp đầu tiên.
3. Thành công của Ngân hàng Dự trữ New Zealand
Trước năm 1989, Ngân hàng Dự trữ New Zealand là một “đại lý” của Chính phủ và
được trao rất ít sự độc lập. NHTW này chỉ hoạt động với tư cách là cố vấn cho Chính phủ
New Zealand, vì vậy CSTT của nó như là một công cụ hoạt động theo ý muốn của Bộ Tài chính.
Biếu đồ 2 minh họa điều này. Lịch sử cho thấy, New Zealand đã được xếp vào loại
những quốc gia có Điểm số độc lập của NHTW thấp nhất và tỷ lệ lạm phát của nó đứng
vào loại cao nhất trong thế giới các nước Công nghiệp. Suốt thập niên 70, mức độ lạm
phát của New Zealand luôn ở ngưỡng 2 con số, đôi lúc lên đến 18%.
Đáp lại điều đó, để ổn định giá cả, từ những năm 1989, Ngân hàng Dự trữ New Zealand
đã có một sự chuyển mình mạnh mẽ trong điều hành. Điều này thể hiện qua việc Quốc hội
New Zealand đã nhanh chóng sửa đổi các đạo luật có liên quan, xây dựng và hoàn thiện
các đạo luật mới trong đó khẳng định tiên quyết rằng “Chức năng chủ yếu của Ngân
hàng Dự trữ New Zealand là trực tiếp xây dựng và hoàn thiện Chính sách tiền tệ
lOMoARc PSD|17327243
hướng vào việc đạt được các mục tiêu kinh tế và duy trì sự ốn định giá cả.., ” Bên cạnh
đó, có thế kể ra một số những thay đối căn bản trong hoạt động điều hành CSTT của Ngân hàng Dự trữ New Zealand: -
Đe ổn định giá cả, Quốc hội New Zealand đã đưa Chính sách lạm phát mục
tiêu vào trong hiến pháp. Việc lượng hóa mục tiêu lạm phát là kết quả của sự trao đổi
“công bằng, nghiêm túc” giữa Chính phủ và NHTW. -
NHTW New Zealand được phép xem xét tác động và đề xuất những kiến nghị
đế giải quyết những tình huống có thể ảnh hưởng đến sự ốn định giá, như sự biến động
của kim ngạch xuất nhập khẩu, các loại thuế,... -
NHTW New Zealand được thực sự độc lập trong việc theo đuổi mục tiêu
CSTT mà không bị hạn chế về mặt kỹ thuật, ngoại trừ trường hợp là việc thực hiện CSTT
phải cân nhắc đến tính hiệu quả và sự ổn định của hệ thống tài chính. Đặc biệt, Ngân hàng
này được toàn quyền quyết định các điều kiện tiền tệ (như các khối tiền M1, M2, M3, lãi
suất, tỷ giá,...) trên cơ sở một thỏa ước với Bộ Tài chính và sự cân nhắc các ý kiến đóng
góp của các cơ quan chức năng khác. -
Trong quá trình quản lý ổn định giá, Ngân hàng Dự trữ đã rút ra một số kết luận sau đây:
+ “Việc làm giảm lạm phát và duy trì mức lạm phát mong muon thấp là tương
đối dễ dàng so với việc kiểm soát chặt chẽ mức lạm phát trong phạm vi khung lạm phát
+ Việc theo đuối quá nhiều mục tiêu sẽ hạn chế năng lực và tính chủ động của một
NHTW, hay nói cách khác, “việc NHTW tập Trung giải quyết quá nhiều trách nhiệm đối
vói Chính phủ sẽ làm giảm sút tính linh hoạt của nó”.

Những chủ trương mới này đã cho phép NHTW đề ra được chính sách lạm phát
mục tiêu tương ứng với từng thời kỳ và có được những địa vị pháp lý cũng như tính chủ
động cao hơn trong giải quyết các mục tiêu ở trên. Ngoài ra, nó cũng giới hạn đầy nghiêm
khắc những tình huống, những hoàn cảnh mà một Thống đốc có thể bị xa thải, hay nói
cách khác, việc thay đối nhiệm kỳ của Nội Các Chính phủ không ảnh hưởng đến hoạt
động của Ban lãnh đạo NHTW.
Biểu đồ 2 chỉ ra rằng Điểm số độc lập của Ngân hàng Dự trữ New Zealand đã có
sự tăng tốc mạnh mẽ, từ 25 điểm giai đoạn 1955-1988 lên đến 89 ở giai đoạn 1989-2000
và được xem như là một bước ngoặt lớn. Có thể thấy rõ, trong thời kỳ thứ nhất Ngân hàng
Dự trữ New Zealand có số điểm thấp nhất trong số các quốc gia Công nghiệp được nghiên
cứu, tuy nhiên ở giai đoạn sau, nó bức phá lên tốp những NHTW có sự độc lập cao nhất.
Biểu đồ 2 cũng cho thấy, hầu hết những quốc gia Công nghiệp đang nghiên cứu đều nằm
ở nửa trên của tuyến 45 độ, ngụ ý rằng tính độc lập được xem như là một xu hướng chung
trong những khoảng thời gian càng tiến gần đến hiện tại.
Chúng ta cũng nhận thấy rằng tỷ lệ lạm phát của New Zealand đã giảm từ 7,6%
(cao hơn mức Trung bình của các quốc gia Công nghiệp) trong giai đoạn thứ nhất xuống
còn 2,7% (dưới mức Trung bình) trong thời kỳ sau. Vậy thì một câu hỏi được đặt ra là bao
nhiêu sự thành công trong kết quả này có sự đóng góp của sự tăng lên trong mức độ độc
lập của NHTW New Zealand ? lOMoARc PSD|17327243
Biểu đồ 3 cho thấy trong thời kỳ thứ nhất đã có một mối quan hệ khăng khít giữa
tính độc lập của NHTW và mức lạm phát (trong nhóm các quốc gia nghiên cứu), hay nói
cách khác, khi NHTW của những nước này có quá ít tính độc lập thì mức lạm phát chung
thường rất cao và ngược lại. Giai đoạn thứ hai cho thấy mối quan hệ này đã trở nên kém
rõ ràng hơn, tuy nhiên biểu đồ 3 vẫn cho thấy có một mối quan hệ rất mật thiết giữa tính
độc lập và tỷ lệ lạm phát bình quân. Hơn nữa, sự tác động của tính độc lập của NHTW
vào mức lạm phát là xuyên suốt mọi thời gian, và kết quả này không chỉ đúng với New
Zealand mà còn phù hợp với các quốc gia còn lại.
Từ những kết quả ở biểu đồ 3, chúng ta có thể khang định chắc chắn rằng sự giảm
xuống trong tỷ lệ lạm phát ở New Zealand (trung bình 4,2%) nhờ chủ yếu vào sự tăng lên
mạnh mẽ tính độc lập của Ngân hàng Dự trữ New Zealand. Và người ta tính toán rằng nếu
như New Zealand trong giai đoạn thứ nhất có Điểm số độc lập của NHTW cao như ngày
nay thì mức lạm phát sẽ chỉ là 3,4% thay vì 7,6% như đã tồn tại. Biểu đồ 3 cũng khiến các
nhà kinh tế đi đến một sự tổng kết rằng nếu có sự tăng lên trong tính độc lập của NHTW
thì mức lạm phát chung trên toàn thế giới sẽ giảm từ 5,6% xuống còn 3,8%. Thực tế, tỷ lệ
lạm phát bình quân trên toàn thế giới là 5,6% (giai đoạn 1955-1988) và 2,7% (giai đoạn 1988-2000).
Như vậy, với những bằng chứng đưa ra cho thấy rằng đã có một mối quan hệ về
mặt nguyên tắc hết sức rồ ràng giữa tính độc lập của một NHTW và mức độ lạm phát trong
dài hạn. Một NHTW độc lập là cách thức hữu hiệu nhất để đảm bảo duy trì một mức lạm phát thấp và hợp lý.
III.Tính độc lập của NHNN Việt Nam hiện nay và một số đề xuất
1. Tính độc lập của NHNN Việt Nam hiện nay
Điều 3 Luật NHNN khẳng định: “Quốc hội quyết định và giám sát việc thực hiện
CSTT quốc gia, mức lạm phát dự kiến hằng năm trong moi tương quan với cân đoi
Ngân sách nhà nước và mức tăng trưởng kinh tế.... Chỉnh phủ xây dựng CSTT quốc
gia, mức lạm phát dự kiến hằng năm trình Quốc hội quyết định; tố chức thực hiện
CSTT quốc gia; quyết định lượng tiền cung ứng bố sung cho lưu thông hằng năm
, mục
đích sử dụng so tiền này và định kỳ báo cáo Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; quyết định
các chỉnh sách cụ thế khác và các giải pháp thực hiện

Điều 4 Luật NHNN quy định: “Chính phủ thành lập Hội đồng tư vấn CSTT quắc
gia để tư vấn cho Chỉnh phủ trong việc quyết định những vấn đề thuộc về nhiệm vụ,
quyền hạn của Chính phủ về CSTT. Nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng tư vấn
CSTT quốc gia do Chỉnh phủ quy định. ”
Như vậy, hiện tại mặc dù được quy định là NHTW của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, nhưng thẩm quyền của NHNN trong xây dựng và điều hành CSTT còn
hạn chế, NHNN có mức độ độc lập thấp và chịu sự can thiệp hành chính toàn diện của
Chính phủ. NHNN chí là cơ quan xây dựng dự án CSTT Quốc gia để Chính phủ trình
Quốc hội quyết định, trên cơ sở đó, NHNN tổ chức thực hiện; việc quyết định lượng tiền
bổ sung vào lưu thông hằng năm cũng do Chính phủ quyết định, NHNN có trách nhiệm
điều hành trong phạm vị đã được duyệt,... Trong khi lOMoARc PSD|17327243
chức năng NHTW chưa được khẳng định rõ nét, NHNN lại có trách nhiệm thực hiện nhiều
nhiệm vụ thuộc về chức năng quản lý nhà nước. Ngoài ra, vì là cơ quan của Chính phủ nên
có khi NHNN phải thực hiện những nhiệm vụ không phù hợp với mục tiêu của CSTT,
chẳng hạn như tái cấp vốn để kinh doanh, xoá nợ các khoản vay của NHTM Nhà nước...
Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả hoạt động của NHNN,
nhất là trong việc thực hiện mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền.
Một mô hình NHTW độc lập hơn sẽ giúp kiểm soát tốt lạm phát và làm giảm thâm hụt
Ngân sách nhưng không có bằng chứng rõ ràng đối với tăng trưởng kinh tế.
Liệu một Ngân hàng Trung ương (NHTW) độc lập có giúp duy trì mức lạm phát thấp và
đóng góp vào tăng trưởng kinh tế cao hơn hay không? Và liệu một mô hình NHTW độc
lập có thích hợp trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam hiện nay hay không? Bài viết này
nhằm trả lời hai câu hỏi trên.
Các bằng chứng thực nghiệm
Thập niên 1990 đã chứng kiến nhiều nước, trong đó có cả những nước đã và đang phát
triến, thực hiện quá trình chuyến đối mô hình NHTW sang hướng làm tăng tính độc lập
hơn cho tố chức này. Khuynh hướng này vừa tác động, vừa chịu tác động bởi các phân
tích thực nghiệm về mối quan hệ giữa sự độc lập của NHTW với các biến số kinh tế vĩ mô chính.
Quan hệ với lạm phát: Nghiên cứu của Alesina và Summers (1993) dựa trên các quan sát
giai đoạn từ năm 1955-1988 cho thấy có mối quan hệ nghịch biến giữa tính độc lập của
NHTW với lạm phát bình quân và với sự biến thiên của chỉ số lạm phát. Ket quả này
cũng phù hợp với những kết quả nghiên cứu khác của Cukierman, Webb và Neyapti
(1992), Debelle và Fischer (1994).
Điều này mang lại nhiều ý nghĩa cho Việt Nam bởi kiềm chế lạm phát đã từng là một
ưu tiên chính sách của Chính phủ và trong tương lai lạm phát vẫn luôn là một nguy cơ
lớn tiềm ẩn đối với nền kinh tế Việt Nam.
Quan hệ vói thâm hụt Ngân sách:
Nghiên cứu của Pollard (1993) về mối quan hệ giữa tính độc lập của NHTW với cán cân
Ngân sách trong giai đoạn từ năm 1973-1989 đã chứng minh rằng ở những nước có NHTW
độc lập cao thì tỷ lệ thâm hụt Ngân sách càng giảm.
Theo Pollard, khi các quan hệ cho vay theo chỉ định hay ứng vốn cho Ngân sách không
còn chịu sự chi phối của chính phủ thì sẽ tạo ra một ký luật trong chi tiêu tốt hơn, qua đó
góp phần làm tăng tính minh bạch và tạo ra một cán cân Ngân sách bền vững hơn.
Cùng với lạm phát, thâm hụt Ngân sách ở Việt Nam cũng là một thách thức lớn cho các
nhà hoạch định chính sách. Với tình trạng thâm hụt Ngân sách hàng năm trên dưới 5% lOMoARc PSD|17327243
GDP và luôn kéo dài trong nhiều năm đã không những làm xói mòn tính kỷ luật trong chi
tiêu Ngân sách mà còn làm tăng gánh nặng nợ quốc gia (kể cả nợ trong nước và nước ngoài).
Quan hệ với tăng trưởng kinh tế: Nghiên cứu của Alesina và Summers (1993), của Barro
(1991), De Long và Summers (1992), Levine và Renelt (1992) không thấy mối quan hệ có
ý nghĩa về mặt thống kê giữa tính độc lập của NHTW với tăng trưởng sản lượng thực tế
sau khi kiểm soát các yếu tố khác tác động đến tăng trưởng kinh tế.
Chẳng hạn, Thụy Sỹ là nước có NHTW độc lập nhất nhưng lại có mức độ tăng trưởng
thực và sự biến thiên tăng trưởng kinh tế thực thấp hơn mức bình quân của các nước trong
mẫu. Trong khi đó, Tây Ban Nha là nước có NHTW độc lập không cao nhưng lại có tốc
độ tăng trưởng kinh tế tốt nhất.
Các lý thuyết kinh tế phát triển đã chứng minh rằng tăng trưởng kinh tế là sự phức hợp
của nhiều yếu tố và chính sách khác nhau. Cho nên mặc dù không có mối quan hệ có ý
nghĩa về mặt thống kê giữa mức độ độc lập của NHTW với tăng trưởng kinh tế nhưng
một chính sách tiền tệ có hiệu lực và hiệu quả sẽ góp phần vào tăng trưởng kinh tế ổn định hơn.
> Đã đến lúc Việt Nam cần một NHTW độc lập hơn.
Thực tế cho thấy Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam có mức độ độc lập thấp và chịu
sự can thiệp hành chính toàn diện của Chính phủ. Đây cũng là một trong những nguyên
nhân làm hạn chế hiệu quả hoạt động của NHNN, nhất là trong việc thực hiện mục tiêu
kiểm soát lạm phát và ốn định thị trường tiền tệ và hệ thống tài chính thời gian qua.
Vì vậy, nâng cao tính độc lập của NHNN là một trong những điều kiện tiên quyết để tạo
tiền đề căn bản trong hiệu quả hoạt động và là nền tảng quan trọng bảo đảm trước hết
NHNN thực sự là NHTW và sau đó là tiến tới một NHTW hiện đại.
Trong khuôn khổ bài nghiên cứu này, nhóm phân tích đưa ra một số đề xuất chính sách
chính nhằm tạo điều kiện và cơ sở để NHNN có thể độc lập hơn, qua đó kỳ vọng làm cho
chính sách tiền tệ trở nên có hiệu lực, hiệu quả hơn đối với các mục tiêu kiếm soát lạm
phát, giảm thâm hụt Ngân sách và ổn định hệ thống tài chính.
về địa vị pháp lý: Trong dự thảo Luật NHNN sửa đối, được NHNN soạn thảo chuẩn bị
trình Chính phủ, địa vị pháp lý của NHNN vẫn được giữ nguyên, tức là cơ quan ngang bộ
của Chính phủ. Điều này cho thấy chính bản thân NHNN vẫn chưa sẵn sàng cho một địa
vị mới có tính độc lập hơn đối với Chính phủ.
Tuy nhiên, cho dù NHNN đã sẵn sàng cho một vị thế độc lập mới thì với cấu trúc thể
chính trị hiện nay cộng với những quan hệ có tính “thông lệ” giữa NHNN với các cơ quan
khác của Chính phủ thì mục tiêu độc lập hoàn toàn với các quyết sách Chính phủ là chưa khả thi. lOMoARc PSD|17327243
Khi địa vị pháp lý không được độc lập thì khả năng độc lập về mục tiêu và quá trình thực
thi chính sách cũng ít nhiều bị giới hạn. Áp dụng cách thức gián tiếp theo hướng làm tăng
tính độc lập của NHTW trong điều kiện môi trường kinh tế - chính trị như hiện nay ở Việt
Nam, có vẻ là cách thức có hiệu quả nhất trong ngắn hạn và trung hạn.
Bước đi đầu tiên có tính thử nghiệm cho một NHTW độc lập là cho phép NHNN được
độc lập trong việc lựa chọn mục tiêu chính sách ưu tiên trong nhóm các mục tiêu được
chọn lựa phù hợp với điều kiện nền kinh tế vĩ mô mà không nhất thiết phải phù hợp với
các chính sách khác của Chính phủ.
về mục tiêu: Luật cần đưa ra một hoặc một nhóm các mục tiêu chính sách cụ thể, rõ ràng
và thống nhất. Quốc hội cần loại bỏ những mục tiêu chung và không rõ ràng như đảm bảo
quốc phòng an ninh hay nâng cao đời sống nhân dân.
Nghiên cứu mục tiêu chính sách của các NHTW trên thế giới cho thấy chúng thường tập
Trung vào các mục tiêu chính như kiểm soát lạm phát, duy trì công ăn việc làm, tăng
trưởng kinh tế, ốn định hệ thống tiền tệ và thị trường tài chính (Cecchetti, 2008).
NHNN nên được trao quyền lựa chọn mục tiêu cho từng thời kỳ phù hợp với điều kiện
kinh tế vĩ mô mà không chịu sự can thiệp hay chỉ đạo từ phía Chính phủ hay các cơ quan liên quan khác.
về quyết định thực thi chính sách: Thống đốc phải được trao quyền quyết định trong việc
thực thi các chính sách tiền tệ và tự chịu trách nhiệm về các quyết định đó chứ không nên
thông qua Chính phủ. Điều này không những góp phần làm tăng tính chủ động cho
NHNN mà còn làm giảm độ trễ ngoài của chính sách tiền tệ - một yếu tố quan trọng làm
giảm tính hiệu lực của chính sách.
về quan hệ vói Ngân sách: Đe đảm bảo hiệu quả của chính sách tiền tệ, những nhiệm vụ
khác như tạm ứng chi Ngân sách cũng nên được quy định lại đế Thống đốc có quyền từ chối
trong mục tiêu thâm hụt Ngân sách được Quốc hội phê duyệt hàng năm và chủ động trong
việc điều hành cung, cầu tiền trên thị trường.
về tố chức cơ chế tài chính: Thực hiện tốt chính sách tiền tệ đòi hỏi NHNN phải thu hút
được đội ngũ lớn những chuyên gia đầu ngành về tài chính, Ngân hàng nên cần phải cạnh
tranh với các Ngân hàng thương mại trong việc thu hút chuyên gia về môi trường làm việc và
chế độ lương thưởng.
Hơn nữa, để cho việc thực thi chính sách có tính phản biện cao, Thống đốc cần được trao
quyền chủ động trong việc thành lập Ban tư vấn chính sách tiền tệ, trong đó quy tụ khoảng
10 người, gồm những chuyên gia đầu ngành có kinh nghiệm quản lý và tư vấn tại các NHTW
của các nước phát triển am hiếu về điều kiện kinh tế Việt Nam. lOMoARc PSD|17327243
Thống đốc cần được trao quyền trong việc quy định sử dụng những khoản thặng dư trong
hoạt động Ngân quỹ, chuyển tiền điện tử hay quản lý quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia, đế có
thể có cơ chế tiền lương phù hợp hơn. Hơn nữa, các khoản thu chi sẽ hợp lý hơn khi NHNN
được quyền tự chủ trong thu chi đặc biệt là trong việc quản lý biên chế các chi nhánh và vụ, cục.
về trách nhiệm giải trình: Nâng cao tính độc lập tự chủ của NHNN đối với các mục
tiêu và quyết định chính sách phải đi kèm với trách nhiệm giải trình đầy đủ và minh bạch.
Thống đốc NHNN theo định kỳ hoặc theo đề nghị phải có trách nhiệm giải trình trước Quốc
hội về các quyết định chính sách trong giới hạn chức năng và thẩm quyền được giao phó. Kết luận
Các bàng chứng thực nghiệm cho thấy một mô hình NHTW độc lập hơn sẽ giúp kiểm soát
tốt lạm phát và làm giảm thâm hụt Ngân sách nhưng không có bằng chứng rõ ràng đối với tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, duy trì lạm phát thấp và một cán cân Ngân sách cân bằng cũng là những mục tiêu
quan trọng vì nó không những tạo điều kiện cho việc phân bổ có hiệu quả hơn các nguồn lực
của nền kinh tế mà còn giúp duy trì tính ổn định của hệ thống tài chính và nền kinh tế, góp
phần vào tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội.
Phân tích bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay cho thấy lạm phát cao đi kèm với bất ốn vĩ
mô đă làm bộc lộ nhiều hạn chế trong việc xây dựng và thực thi các chính sách tiền tệ mà một
trong những nguyên nhân quan trọng là do NHNN thiếu tính độc lập trong việc hoạch địch và thực thi chính sách.
Nâng cao tính độc lập của NHNN Việt Nam về địa vị pháp lý, về công cụ và mục tiêu
chính sách cũng như về tổ chức, nhân sự và tài chính là những yêu cầu cần thiết nhằm tạo
cơ sở cho sự can thiệp có hiệu quả hơn của NHNN vào hệ thống kinh tế, góp phàn kiềm
chế lạm phát, duy trì tính ổn định và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam bền vững hơn.
Tính độc lập của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong thực thi CSTT
Trong quá trình sửa đổi Luật Ngân hàng Nhà nước theo hướng tạo cho NHNN cơ sở
pháp lý để đối mới hoạt động của NHNN, một trong những vấn đề đang được thảo luận,
đó là luật pháp phải khẳng định được một vị trí độc lập nhất định của NHNN trong hoạt
động của mình. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở đây là qui định mức độ độc lập như thế nào cho
phù hợp với thể chế kinh tế, chính trị, lịch sử văn hoá của Việt Nam.
Thực te, NHTW các nước trên thế giới hiện nay đều có sự độc lập nhất định trong hoạt
động ở 3 lĩnh vực: Điều hành CSTT, Giám sát các TCTD và Quản trị điều hành nội bộ, tuy
nhiên mức độ độc lập là không giống nhau. Độc lập về Điều hành CSTT, theo tổng kết của
IMF sự độc lập của NHTW các nước có thể chia ra làm 4 mức độ: lOMoARc PSD|17327243 (1)
Mức độ cao nhất là “Độc lập trong việc thiết lập mục tiêu”: Ngân hàng
Trung ương có trách nhiệm quyết định chính sách tiền tệ và chế độ tỷ giá nếu như
nó không được thả nổi (Ví dụ như Hệ thống dự trữ liên bang Mỹ- Fed được lựa
chọn mục tiêu hoạt động trong số các mục tiêu có thể xung đột với nhau là tuyển
dụng nhân công và ổn định giá cả). (2)
Mức độ độc lập thứ 2 là “Độc lập trong việc xây dựng chỉ tiêu hoạt
động”: NHTW được trao trách nhiệm quyết định chính sách tiền tệ và chế độ tỷ
giá nhưng khác với kiểu Độc lập về mục tiêu, Độc lập trong việc xây dựng chỉ tiêu
hoạt động có một mục tiêu chủ yếu đã được xác định rồ ràng trong Luật. Ví dụ,
trong Điều lệ tổ chức và hoạt động của ECB quy định mục tiêu là ổn định giá cả,
và ECB được quyết định chỉ tiêu hoạt động. (3)
Mức độ độc lập thấp hơn là “Độc lập trong việc lựa chọn công cụ điều
hành”: Chính phủ hoặc Quốc hội quyết định chỉ tiêu chính sách tiền tệ, có sự bàn
bạc, thỏa thuận với NHTW. NHTW có trách nhiệm hoàn thành chỉ tiêu. (4)
Mức độ độc lập thấp nhất là “Mức độ độc lập bị hạn chế thậm chí
không có”: Chính phủ sẽ quyết định chính sách (cả mục tiêu lẫn chỉ tiêu hoạt
động) cũng như là can thiệp vào quá trình triển khai thực thi chính sách.
Đối chiếu với các mức độ độc lập nêu trên, thì NHNN Việt Nam hiện nay đang ở mức
độ độc lập thấp nhất. Theo Luật NHNN, NHNN không độc lập trọng việc thiết lập mục
tiêu, không độc lập trong xây dựng chỉ tiêu hoạt động và thậm chí là không tự chủ trong
việc lựa chọn công cụ điều hành. Cụ thể: về mục tiêu, theo Điều 1 Luật
NHNN, NHNN thực hiện nhiều mục tiêu xung đột lẫn nhau như ổn định giá trị đồng tiền,
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa; về xây dựng chỉ
tiêu hoạt động, thì Quốc hội quyết định và giám sát việc thực hiện CSTT quốc gia, mức
lạm phát dự kiến hàng năm trong mối tương quan với cân đối NSNN và mức tăng trưởng
kinh tế (Điều 3 Luật NHNN). Chính phủ xây dựng dự án CSTT quốc gia, mức lạm phát
dự kiến hàng năm trình Quốc hội quyết định (Điều 3 Luật NHNN); về việc tự chủ trong
lựa chọn công cụ điều hành, Chính phủ tổ chức thực hiện CSTT quốc gia; quyết định
lượng tiền cung ứng bố sung cho lưu thông hàng năm, mục đích sử dụng số tiền này và
định kỳ báo cáo ủy ban thường vụ Quốc hội, quyết định chính sách cụ thế khác và các giải
pháp thực hiện (Điều 3 Luật NHNN); NHNN xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia
để Chính phủ xem xét trình Quốc hội quyết định và tố chức thực hiện chính sách này
(Điều 5 Luật NHNN); NHNN cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của các
TCTD, trù’ trường hợp do Thủ tướng Chính phủ quyết định (Điều 5 Luật NHNN); Việc
trả lãi đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc của từng loại hình TCTD, từng loại tiền gửi trong
từng thời kỳ do Chính phủ quy định (Điều 20, Luật NHNN); trong trường hợp đặc biệt,
khi được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, NHNN cho vay đối với các TCTD tạm thời
mất khả năng chi trả, có nguy cơ gây mất an toàn cho hệ thống các TCTD (Điều 30 Luật
NHNN); NHNN tạm ứng cho NSTW để xử lý thiếu hụt tạm thời quỹ NSNN theo quyết lOMoARc PSD|17327243
định của Thủ tướng Chính phủ. Khoản tạm ứng này phải được hoàn trả trong năm Ngân
sách, trừ trường hợp đặc biệt do Thủ tướng Chính phủ quyết định (Điều 32); NHNN tổ
chức thực hiện việc in, đúc, bán ở trong nước và ngoài nước các loại tiền mẫu, tiền lưu
niệm được thiết kế phục vụ cho mục đích sưu tầm hoặc mục đích khác theo quy định của
Chính phủ (Điều 27 Luật NHNN); Chính phủ ban hành quy chế nghiệp vụ phát hành tiền
bao gồm các quy định về việc in, đúc, bảo quản, vận chuyển, phát hành, thu hồi, thay thế,
tiêu huỷ tiền và chi phí cho các hoạt động nghiệp vụ phát hành tiền. Bộ Tài chính kiểm tra
việc thực hiện quy chế nghiệp vụ phát hành tiền; Bộ Tài chính, Bộ Nội Vụ giám sát quá
trình in đúc, tiêu huỷ tiền. (Điều 28 Luật NHNN); Bộ Tài chính kiểm tra việc quản lý Dự
trữ ngoại hối Nhà nước do NHNN thực hện theo quy định của Chính phủ (Điều 38); tổ
chức, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thế của Thanh tra Ngân hàng do Chính phủ quy định (Điều 50)
Các quy định trên cho thấy tính độc lập trong hoạt động của NHNNVN còn rất thấp,
nhất là trong việc xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ. Điều này có ảnh hưởng nhất
định đến việc nâng cao năng lực hoạt động cuả NHNN với vai trò là một NHTW trong bối
cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy, cần thiết phải có sự thay đổi các
qui định trong Luật NHNN hiện tại để có thế nâng cao hơn nữa vị thế độc lập của NHNN.
Với thực tế hiện nay, NHNN là một cơ quan của Chính phủ, Thống đốc NHNN là
Thành viên của Chính phủ và chức năng nhiệm vụ của các bộ, ngành hiện nay thì mức độ
độc lập trong thực thi CSTT nên ở mức tự chủ trong việc lựa chọn công cụ điều hành là
phù hợp hơn cả. Tại Quyết định 112 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án phát triển
ngành Ngân hàng Việt Nam đến 2020 cũng đã ghi rõ “ ...Ngân hàng Nhà nước độc lập, tự
chủ trong việc xây dựng, điều hành chính sách tiền tệ, lãi suất và tỷ giá hối đoái”.
Ờ mức độ tự chủ này, Ngân hàng Nhà nước có đủ thẩm quyền để quyết định cung tiền,
lựa chọn các công cụ CSTT một cách tốt nhất sao cho đạt được các tiêu chí về CSTT, cơ
chế tỷ giá và lạm phát được Chính phủ hoặc Quốc hội giao trên cơ sở ý kiến đệ trình của
NHNN. Sở dĩ phải giao cho NHNN thẩm quyền quyết định cung tiền, lựa chọn các công
cụ CSTT trong điều hành là vì: xuất phát từ một thực tế là các thông tin kinh tế có tác
động đến tiền tệ và các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô thu thập được, nói chung là không có sự
hoàn hảo và những đặc tính kỹ thuật của thị trường tài chính là rất phức tạp, đòi hỏi cơ
quan quản lý phải có tính linh hoạt, mềm dẻo trong cách tiếp cận, quyết định nhanh trước
những thay đổi của thị trường. Điều này càng có sức thuyết phục hơn khi mà các Ngân
hàng Trung ương đang nhanh chóng tiến tới sử dụng các công cụ gián tiếp để đạt tới các
mục tiêu chính sách tiền tệ của họ. Hình thức tự chủ này cũng đòi hỏi NHNN phải có một
sự hiếu biết sâu sắc về sự vận hành của các thị trường tài chính và các công cụ quản lý
vốn khả dụng của hệ thống Ngân hàng, năng lực phân tích và dự báo. Ngoài ra, hình thức
tự chủ này còn cho phép có sự phối hợp hài hoà giữa chính sách tiền tệ với các mục tiêu
của chính sách kinh tế tổng thể của một nước trong một giai đoạn nhất định, thường từ 3
tới 5 năm. Đồng thời nâng cao tính trách nhiệm của NHNN trong việc giải trình đầy đủ lOMoARc PSD|17327243
những hành động của mình về chính sách tiền tệ trước Quốc hội và Chính phủ, tính công
khai minh bạch đày đủ về hoạt động của NHNN. Nhưng mặt khác nó cũng hạn chế sự can
thiệp của các nhà chính trị đến các quyết sách của NHNN....
Tại hầu hết các nước, Ngân hàng Trung ương (mà ở ta gọi là Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam) là một tổ chức điều tiết độc lập không nằm trong bộ máy hành pháp. Ở nước ta
Ngân hàng Nhà nước thuộc Chính phủ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước là thành viên của
Chính phủ có hàm tương đương Bộ trưởng.
Đe cải cách hệ thống Ngân hàng chúng ta đang tiến dần tới việc xây dựng một Ngân hàng
Trung ương độc lập hơn. vấn đề này đã và đang được bàn luận và hy vọng Luật Ngân
hàng Nhà nước sửa đối sẽ đi theo hướng đó.
Neu là tổ chức điều tiết độc lập, Ngân hàng Nhà nước có thế chủ động trong chính sách
tiền tệ của mình nhằm bảo vệ sức mạnh của đồng tiền, ngăn chặn lạm phát, phục vụ sự
phát triển của đất nước mà không quá phụ thuộc vào công việc hàng ngày của cơ quan hành pháp.
Do là một tố chức thuộc Chính phủ và nhất là khi Chính phủ còn "chủ quản" nhiều doanh
nghiệp nhà nước nên đôi khi Ngân hàng Nhà nước rất khó xử khi có "mệnh lệnh" trái
ngược với sứ mệnh và các chính sách tiền tệ và các quy chế điều tiết hệ thống Ngân hàng
thương mại của mình. Có thể nêu ra quá nhiều các tình huống như vậy đã từng xảy ra trong vài chục năm qua.
Khoanh nợ là một thí dụ. Cách đây hơn chục năm Ngân hàng Nhà nước đã nhận được
lệnh khoanh nợ các khoản nợ của rất nhiều doanh nghiệp nhà nước. Giải quyết việc
khoanh nợ đã kéo dài cả chục năm rất tốn kém và phức tạp. Lẽ ra việc khoanh nợ, hoãn
nợ, thậm chí xoá nợ là việc thường xuyên của các Ngân hàng thương mại phải làm trong
hoạt động bình thường của mình.
Tuy nhiên, trong quá khứ nhiều Ngân hàng quốc doanh đã phải cho khách hàng này,
khách hàng nọ vay theo mệnh lệnh hành chính từ trên xuống. Hiện nay việc này đã giảm
đi, song vẫn còn có khả năng xảy ra và gây méo mó cho hoạt động của hệ thống Ngân hàng.
Trong tình hình khủng hoảng kinh tế toàn cầu, với gói kích thích kinh tế bằng hỗ trợ lãi
suất 4% rất có khả năng hiện tượng trên lại tái xuất hiện. Gói hỗ trợ lãi suất ngắn hạn chủ
yếu để cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp xuất khấu, v.v... Còn gói hỗ trợ
lãi suất 4% Trung dài hạn đã được mở ra cho các dự án đầu tư, đóng tàu, v.v... và khả năng đó càng tăng cao hơn.
Rất có thể xảy ra tình huống giả định sau. Đe giúp đỡ các doanh nghiệp nhà nước, nhất là
các tập đoàn. Chính phủ có thể "chỉ thị" hay "thông báo" cho Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam hướng dẫn các Ngân hàng thương mại: cho vay có hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp lOMoARc PSD|17327243
cụ thể nào đó (bình thường các Ngân hàng thương mại có thế rất đắn đo, cân nhắc và có
thể không cho vay); nếu dư nợ của một doanh nghiệp vượt quá 15% vốn tự có của Ngân
hàng (theo quy định thì không Ngân hàng nào được cho 1 khách hàng hay nhóm khách
hàng có liên quan, thí dụ các công ty trong 1 tập đoàn, vay quá 15% vốn tự có của mình)
thì bằng mệnh lệnh hành chính có thể vượt qua quy chế này; khoanh nợ cho doanh nghiệp
đó; nếu có nợ quá hạn thì chưa đưa doanh nghiệp đó vào danh sách có nợ xấu (và vì thế
các khoản vay mới sẽ rất khó); v.v... Tình huống như thế đã từng xảy ra rất nhiều lần trong quá khứ.
Gặp tình huống như vậy Ngân hàng Nhà nước thực sự khó xử, cứ như phải "đứng trước
hai làn đạn": làm theo mệnh lệnh hành chính thì trái với các quy định, không làm theo thì
bị tội "bất tuân lệnh" cấp trên. Đấy là những tình huống khó xử cần tránh.
Hiện nay cũng rất có thể xảy ra các mệnh lệnh hành chính như đã tùng xảy ra thời xưa.
Giả như việc đó thực sự xảy ra, thì không hiểu Ngân hàng Nhà nước ứng xử ra sao. Thật
khó phải loại bỏ sự nhập nhằng và mơ hồ này, không tạo điều kiện cho bất cứ ai vi phạm
quy định. Neu Ngân hàng Nhà nước là cơ quan điều tiết độc lập và luật cấm sự can thiệp
hành chính như vậy của cơ quan hành pháp thì những cơ hội như thế không còn hay được
giảm rất nhiều, hệ thống có khả năng vận hành lành mạnh.
Hệ thống Ngân hàng là hệ thống thần kinh của nền kinh tế, hệ thống ấy hoạt động trục
trặc sẽ ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của đất nước. Đe tránh những hiện tượng gây méo
mó như vậy, để hội nhập sâu hơn và hiệu quả hơn thì việc nghiên cún sửa Luật Ngân hàng
Nhà nước và Luật Ngân hàng thương mại theo hướng đế Ngân hàng Trung ương là một tổ
chức điều tiết độc lập là rất quan trọng và cấp bách.
Các bằng chứng thực nghiệm cho thấy một mô hình NHTW độc lập hơn sẽ giúp
kiểm soát tốt lạm phát và làm giảm thâm hụt Ngân sách nhưng không có bằng
chứng rõ ràng đối với tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, duy trì lạm phát thấp và một cán cân Ngân sách cân bằng cũng là những mục
tiêu quan trọng vì nó không những tạo điều kiện cho việc phân bổ có hiệu quả hơn các
nguồn lực của nền kinh tế mà còn giúp duy trì tính ổn định của hệ thống tài chính và nền
kinh tế, góp phần vào tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội.
Phân tích bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay cho thấy lạm phát cao đi kèm với bất ổn
vĩ mô đã làm bộc lộ nhiều hạn chế trong việc xây dựng và thực thi các chính sách tiền tệ
mà một trong những nguyên nhân quan trọng là do NHNN thiếu tính độc lập trong việc
hoạch địch và thực thi chính sách. lOMoARc PSD|17327243
Nâng cao tính độc lập của NHNN Việt Nam về địa vị pháp lý, về công cụ và mục tiêu
chính sách cũng như về tổ chức, nhân sự và tài chính là những yêu cầu cần thiết nhằm tạo
cơ sở cho sự can thiệp có hiệu quả hơn của NHNN vào hệ thống kinh tế, góp phần kiềm
chế lạm phát, duy trì tính ổn định và thúc đẩy tăng trưỏng kinh tế Việt Nam bền vững hơn.
Một mô hình NHTW độc lập hơn sẽ giúp kiểm soát tốt lạm phát và làm giảm thâm hụt
Ngân sách nhưng không có bằng chứng rõ ràng đối với tăng trưởng kinh tế.
2. Một số đề xuất
- NHNN phải được quyền quyết định các định hướng, giải pháp trong
xây dựng và điều hành CSTT quốc gia cũng như trong việc thực hiện các chức năng
khác của NHTW. Tất nhiên, song song với các thẩm quyền được trao, NHNN phải chịu
trách nhiệm trước Quốc hội về kết quả điều hành CSTT và thực hiện các chức năng của NHTW.
Cần tránh khuynh hướng cho rằng, nâng cao vai trò độc lập của NHTW nghĩa là
NHTW thoát ly hoàn toàn khỏi Chính phủ. Mục tiêu cuối cùng của CSTT và cũng là mục
tiêu hoạt động của NHTW là ổn định giá cả, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, cần
thiết lập các quy định pháp lý về mối quan hệ giữa NHTW với Chính phủ nhằm bảo đảm
hoạt động của NHTW hỗ trợ tốt cho các chương trình kinh tế của Chính phủ:
+ NHTW tham gia vào việc soạn thảo các chương trình, chính sách kinh tế của
Chính phủ và đề đạt ý kiến của mình về các quyết định của Chính phủ; tư vấn cho Chính
phủ về những vấn đề quan trọng liên quan đến nhiệm vụ và thẩm quyền của NHTW.
+ NHTW và các Bộ, Ngành thuộc Chính phủ duy trì cơ chế trao đối, cung cấp
thông tin để theo dõi, nắm bắt kịp thời các diễn biến vĩ mô của nền kinh tế.
-Tiến tới thực hiện Chính sách lạm phát mục tiêu. Lạm phát mục tiêu là một trong
những khuôn khổ CSTT mà theo đó, NHTW hoặc Chính phủ thông báo một số mục tiêu
Trung dài hạn về lạm phát và NHTW cam kết đạt được những mục tiêu này. Đe làm được
điều này, NHNN phải có quyền đặc biệt để theo đuổi mục tiêu lạm phát và tự mình đặt ra
các công cụ của CSTT. Bên cạnh đó, dân chúng cũng phải được thông báo về khuôn khố
CSTT và việc thực hiện CSTT. -
Tăng cường tính độc lập về mặt tổ chức nhân sự của NHNN. Theo đó,
nhiệm kỳ của Ban lãnh đạo NHTW có thể dài hơn nhiệm kỳ của Chính phủ và
Quốc hội, hoặc xen kẽ giữa các nhiệm kỳ của Chính phủ. Như vậy, quá trình ra
quyết định của NHTW sẽ không bị ảnh hưởng bởi chu kỳ thành lập Chính phủ,
chu kỳ lập kế hoạch kinh tế. Thống đốc sẽ bị ảnh hưởng một khi Chính phủ thay
đổi nhân sự do hết nhiệm kỳ. -
Đe đảm bảo tính độc lập về hoạt động, cần có qui định cụ thể về chức
năng “Là Ngân hàng của Chính phủ” theo hướng NHNN sẽ không cho Ngân sách
vay trụ’c tiếp. NHNN chỉ cấp tín dụng gián tiếp cho Chính phủ thông qua việc cho
Ngân sách vay trên thị trường thứ cấp có hạn mức, và lấy trái phiếu Chính phủ làm
tài sản đảm bảo khi cho các Ngân hàng thương mại vay.