Tình hình nợ công Việt Nam và đề xuất giải pháp | Tiểu luận môn Kinh vế vĩ mô
Cho đến hiện nay, khái niệm về nợ công vẫn chưa được các quốc gia và các tổ chức trên thế giới thống nhất do tính chất phức tạp của nó. Để có thể hiểu và có cái nhìn tổng quan nhất về định nghĩa nợ công, chúng ta cần một khung lý thuyết cơ bản về nợ công cũng như những khái niệm liên đới. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem !
Môn: Kinh tế vĩ mô ( UEH)
Trường: Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 47206071 ĐẠI HỌC UEH TRƯỜNG KINH DOANH
BÀI TIỂU LUẬN GIỮA KỲ KINH TẾ VĨ MÔ ĐỀ TÀI
TÌNH HÌNH NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM VÀ ĐỀ XUẤT
GIẢI PHÁP CHO TÌNH HÌNH TRÊN. Mã lớp học phần: 23D1ECO50100230 Giảng viên: Nguyễn Thanh Triều Nhóm số: 6 Sinh viên thực hiện: 1.Đinh Quang Thái lOMoAR cPSD| 47206071 2.Tô Phạm Quốc Toàn 3.Trần Gia Kiện 4.Trần Quốc Anh
5.Nguyễn Thái Ngọc Thương Giảng đường: B2.302 Buổi học: Sáng thứ 7
TP Hồ Chí Minh, ngày 18 tháng 05 năm 2023 A. MỞ ĐẦU
Giới thiệu lý do chọn đề tài:
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả
quản lý nguồn tài chính và ngân sách nhà nước đặc biệt là việc chú trọng đến công tác quản
lý nợ công. Nợ công là yếu tố ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng an
ninh, tạo điều kiện hội nhập với thị trường tài chính quốc tế và khẳng định vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế. Vì vậy, việc sử dụng nợ công hiệu quả sẽ thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
Luật Ngân sách nhà nước năm 2015, Luật Quản lý nợ công năm 2009 (hết hiệu lực kể
từ ngày 01 tháng 7 năm 2018) là những đạo luật có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc quy
định về nợ công, quản lý nợ công nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế - xã hội ở nước
ta, góp phần tăng cường đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội và xóa đói giảm nghèo,
cụ thể đã đạt được một số thành tựu như: huy động được khối lượng lớn nguồn vốn ODA,
vay ưu đãi từ nước ngoài, tổ chức huy động vốn trong nước cho ngân sách và đầu tư phát
triển. Bên cạnh đó còn tạo điều kiện để chính quyền địa phương huy động nguồn vốn thông
qua việc phát hành trái phiếu…
Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình quản lý nợ công hiện nay vẫn còn
tồn tại một số bất cập, đặc biệt là trong công tác quản lý và sử dụng nợ công dẫn đến việc nợ
công ngày càng lớn và phức tạp, ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế, xã hội, an ninh,
quốc phòng của đất nước. 2 | P a g e lOMoAR cPSD| 47206071 B. NỘI DUNG I. Cơ sở lý thuyết 1.Nợ công là gì?
Cho đến hiện nay, khái niệm về nợ công vẫn chưa được các quốc gia và các tổ chức trên
thế giới thống nhất do tính chất phức tạp của nó. Để có thể hiểu và có cái nhìn tổng quan nhất
về định nghĩa nợ công, chúng ta cần một khung lý thuyết cơ bản về nợ công cũng như những
khái niệm liên đới. Ngoài ra các số liệu thực cũng là một trong những yếu tố để ta rút ra được
khái niệm chính xác về nợ công. Số liệu thực này có thể được lấy ở rất nhiều nguồn khác
nhau, nhưng để đảm bảo sự chính xác và liên quan tới đề tài, ta sẽ xoay quanh việc xây dựng
khái niệm nợ công thông qua Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) và Việt Nam.
-Theo định nghĩa của World Bank, nợ công bao gồm các khoản nợ do Chính phủ vay và
các khoản nợ được bảo lãnh bởi Chính phủ, bao gồm nợ của Chính phủ Trung ương và nợ của
chính quyền địa phương. Trong đó:
+ Nợ của Chính phủ: bao gồm nợ trong nước, nợ nước ngoài của Chính phủ và các đại
lý của Chính phủ; các tỉnh, thành phố hoặc các tổ chức chính trị trực thuộc Chính phủ và các
đại lý của các tổ chức này, các doanh nghiệp Nhà nước.
+ Nợ được Chính phủ bảo lãnh: gồm những khoản nợ trong nước và nợ nước ngoài của
khu vực tư nhân do Chính phủ đứng ra bảo lãnh.
-Theo Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), nợ công được hiểu là nghĩa vụ nợ của khu vực công bao
gồm khu vực tài chính công và khu vực phi tài chính công. Trong đó:
+ Khu vực tài chính công gồm: Các tổ chức tiền tệ (Ngân hàng trung ương, các tổ chức
tín dụng Nhà nước) và các tổ chức phi tiền tệ (các tổ chức tín dụng không cho vay mà chỉ có
chức năng hỗ trợ phát triển)
+ Khu vực phi tài chính công gồm: Chính phủ, tỉnh thành phố, chính quyền địa phương,
các doanh nghiệp phi tài chính Nhà nước.
-Theo Luật quản lý nợ công Việt Nam (2017), nợ công được chia thành 3 loại gồm: nợ
chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Trong đó:
+ Nợ của chính phủ: là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài,
được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ.
+ Nợ được bảo lãnh bởi Chính phủ: là khoản nợ do doanh nghiệp, ngân hàng chính sách
của Nhà nước vay được Chính phủ bảo lãnh.
+ Nợ được vay bởi chính quyền địa phương:Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ
phát sinh do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh vay .
Nếu xét theo khái niệm này, cần lưu ý là không tồn tại sự đồng nhất giữa: “Nợ chính
phủ” và “nợ công”. Nợ chính phủ trong trường hợp này chỉ là một trong ba yếu tố cấu thành nên nợ công.
Cả ba khái niệm trên đều có cách đưa ra cách giải thích khác nhau về khái niệm nợ công
dựa trên sự thích hợp trong mỗi hoàn cảnh cụ thể, nhưng chung nhất có thể hiểu nợ công (nợ
chính phủ hay nợ quốc gia) là tổng số tiền đi vay của chính phủ từ trung ương đến địa phương.
Thông thường để phản ánh giá trị các khoản nợ chính phủ, người ta thường sử dụng tỷ lệ phần
trăm giữa nợ chính phủ và tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
2. Phân loại nợ công
Dựa vào các phương thức phân loại khác nhau nợ công có thể được chia thành nhiều
loại và những cách phân chia này chủ yếu phụ thuộc vào nguồn vay nợ, trách niệm với chủ
thể nợ, kỳ hạn trả nợ cụ thể và hình thức vay nợ. lOMoAR cPSD| 47206071
2.1 Phân loại theo nguồn gốc địa lý
Nghĩa vụ nợ nói chung được phân chia thành hai loại, là nợ trong nước và nợ nước ngoài.
Sự phân loại này không chỉ mang ý nghĩa địa lý, mà nhiều khi còn bao hàm về đơn vị sử dụng
tiền tệ sử dụng để vay.
2.1.1 Nợ trong nước
Đây là khoản nợ mà chính phủ vay từ ngân hàng, tổ chức tài chính, doanh nghiệp và cá
nhân trong nước. Tính chất của nợ trong nước thường là ngắn hạn và có lãi suất thấp hơn so
với nợ nước ngoài. Việc vay nợ trong nước có thể làm tăng nguồn vốn cho chính phủ để đầu
tư vào các dự án phát triển kinh tế, tuy nhiên, nếu quá phụ thuộc vào vay nợ trong nước thì
chính phủ có thể gặp rủi ro về tài chính khi các nhà đầu tư trong nước rút vốn.
2.1.2 Nợ nước ngoài
Đây là khoản nợ mà chính phủ vay từ các tổ chức tài chính và ngân hàng ở nước ngoài.
Tính chất của nợ nước ngoài thường là dài hạn và có lãi suất cao hơn so với nợ trong nước.
Việc vay nợ nước ngoài có thể làm tăng nguồn vốn cho chính phủ và giúp đẩy mạnh phát triển
kinh tế, tuy nhiên, nếu không quản lý tốt, chính phủ có thể gặp rủi ro về tài chính nếu không
đủ khả năng trả nợ hoặc thất bại trong việc tăng trưởng kinh tế để trả nợ.
2.2 Phân loại theo trách nhiệm với chủ thể nợ
Nợ công được phân loại thành Nợ công phải trả và Nợ công bảo lãnh.
+Nợ công phải trả là các khoản nợ mà Chính phủ, chính quyền địa phương có nghĩa vụ trả nợ.
+ Nợ công bảo lãnh là khoản nợ mà Chính phủ có trách nhiệm bảo lãnh cho người vay
nợ, nếu bên vay không trả được nợ thì Chính phủ sẽ có nghĩa vụ trả nợ.
2.3 Phân loại theo kỳ hạn nợ
+ Nợ ngắn hạn: các khoản nợ có thời hạn từ 1 năm trở xuống.
+ Nợ trung hạn: các khoản nợ có thời hạn từ 1 năm đến 10 năm. +
Nợ dài hạn: các khoản nợ có thời hạn từ trên 10 năm.
2.4 Phân loại theo hình thức vay nợ
+ Vay nợ trực tiếp: Chính phủ của các quốc gia có thể phát hành trái phiếu để tiến hành
vay nợ gián tiếp từ các tổ chức, cá nhân để bù đáp cho các khoản bội chi dẫn đến thâm hụt
ngân sách. Trái phiếu chính phủ bao gồm nhiều loại như trái phiếu, trái phiếu chính quyền địa
phương, trái phiếu ngoại tệ, công trái xây dựng tổ quốc và trái phiếu công trình.
+ Vay nợ gián tiếp: Hình thức vay nợ gián tiếp của Chính phủ có được thực hiện
thông qua việc vay vốn từ các ngân hàng thương mại, các thể chế siêu quốc gia như:
Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển châu Á,... Các khoản
vay nợ này được các tổ chức trên tài trợ dưới một số hình thức phổ biến như: Vay viện
trợ phát triển chính thức, vay có tính chất thương mại hay vay ưu đãi.
3.Mặt tích cực và tiêu cực của nợ công
3.1 Mặt tích cực của nợ công
Trong ngắn hạn, nợ công là một cách tốt để các quốc gia có tiền để đầu tư vào tăng
trưởng kinh tế. Thêm vào đó, nợ công còn giúp các nhà đầu tư nước ngoài có thể đầu tư tăng
trưởng vào trong nước bằng cách mua trái phiếu và đây được đánh giá như một cách đầu tư khá an toàn.
Điều này an toàn hơn nhiều so với đi đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nó cũng ít rủi ro hơn
so với đầu tư vào các công ty đại chúng thông qua thị trường chứng khoán. Nợ công rất hấp
dẫn với các nhà đầu tư không thích rủi ro vì được chính phủ hỗ trợ.
Khi được sử dụng tốt, nợ công giúp cải thiện mức sống của quốc gia. Nó cho phép chính
phủ có chi phí để xây dựng cơ sở hạ tầng, cải thiện giáo dục, đào tạo nghề và trả lương hưu.
Điều này cũng giải thích cho xu hướng chi tiêu nhiều hơn thay vì tiết kiệm tiền để nghỉ hưu
sau này của nhiều nước phát triển. 4 | P a g e lOMoAR cPSD| 47206071
Khi được sử dụng tốt, nợ công giúp cải thiện mức sống của quốc gia. Như là:
• Tăng cường đầu tư hạ tầng: Nợ công có thể được sử dụng để đầu tư vào các công trình
hạ tầng như đường cao tốc, cầu đường, cơ sở hạ tầng y tế và giáo dục, điện và nước.
Điều này có thể giúp tăng trưởng năng lực sản xuất của đất nước, cải thiện môi trường
kinh doanh và thu hút đầu tư.
• Tạo việc làm: Khi chính phủ đầu tư vào các dự án hạ tầng, nó có thể tạo ra hàng ngàn
việc làm mới, giúp giảm tỷ lệ thất nghiệp và tăng thu nhập cho người dân.
• Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: Nợ công được sử dụng để đầu tư vào các lĩnh vực như
nghiên cứu và phát triển, sản xuất, thương mại và dịch có thể giúp thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế và cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân.
• Giảm bớt sự bất bình đẳng xã hội: Nợ công có thể được sử dụng để đầu tư vào các
chương trình xã hội như chăm sóc sức khỏe, giáo dục và trợ cấp cho người nghèo,
Điều này giúp giảm bớt sự bớt bình đẳng xã hội và cải thiện điều kiện sống của những
người có hoàn cảnh khó khăn
3.2 Mặt tiêu cực của nợ công.
Các nhà đầu tư thường đo lường mức độ rủi ro bằng cách so sánh nợ với tổng sản lượng
kinh tế của một quốc gia (tổng sản phẩm quốc nội – GDP). Tỷ lệ nợ trên GDP cho thấy khả
năng có thể trả hết nợ của chính phủ.
Khi các khoản nợ đến mức nghiêm trọng, các nhà đầu tư thường yêu cầu mức lãi suất
cao hơn bù cho khả năng rủi ro cao hơn. Trong tình huống như vậy, nếu quốc gia đó vẫn tiếp
tục chi tiêu mạnh tay, khiến trái phiếu nhận được xếp hạng S & P thấp hơn, khả năng vỡ nợ
của quốc gia đó sẽ ngày càng tăng cao.
Các nhà đầu tư nước ngoài tăng lãi suất để đổi lấy rủi ro vỡ nợ cao, điều đó khiến cho
các thành phần của mở rộng kinh tế như nhà ở, tăng trưởng kinh doanh và cho vay tự động
đắt đỏ hơn. Như vậy, để tránh các gánh nặng này, các chính phủ sẽ cẩn thận tìm ra điểm tới
hạn của nợ công, đủ lớn để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đủ nhỏ để giữ mức lãi suất ở thấp.
4. Mục đích của việc vay nợ công
Việc vay nợ công có thể có nhiều mục đích khác nhau, tùy thuộc vào tình hình và mục
tiêu kinh tế của một quốc gia. Đây là một số mục đích thường thấy của việc vay nợ công: chi
tiêu công cộng, chi tiêu quốc phòng, chi tiêu xã hội, thanh toán nợ cũ, đầu tư vào sản xuất và kinh doanh.
Việc vay nợ công là việc có tác động vĩ mô đến nền kinh tế của một nước. Nên quyền
hạn của Chính phủ, các tập đoàn hay doanh nghiệp nhà nước hoặc các cấp chính quyền địa
phương trong việc vay nợ công đều bị hạn chế và buộc phải tuân thủ theo các luật định nhằm
tránh việc lợi dụng quyền lực nhà nước . Tất cả mục đích vay nợ công đều được quy định một
cách rõ ràng trong Luật quản lý nợ công (2017).
II. Thực trạng tại nợ công tại Việt Nam hiện nay 1. Tổng quan nợ công VN hiện nay
Tỉ lệ nợ công của Việt Nam trong những năm gần đây có xu hướng giảm dần. Minh
chứng cho việc giảm nợ công của Việt Nam gần đây như : Từ 61,4% GDP (năm 2017) xuống
còn 58,3% GDP (năm 2018), 55,9% GDP năm 2020 và đến năm 2021 là 43,1%. Năm 2022,
mức nợ công được dự tính tương đương với năm 2021, khoảng 43 - 44% GDP. Cùng với đó,
nợ chính phủ, nợ chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương cũng giảm dần. Cụ thể,
nợ chính phủ cũng giảm từ 51,7% GDP năm 2017 xuống còn đến 39,1% GDP năm 2021. Nợ
chính phủ bảo lãnh giảm từ 9,1% GDP năm 2017 xuống 3,8% GDP năm 2021. Nợ chính
quyền địa phương năm 2021 chỉ khoảng 0,6% GDP trong khi năm 2017 bằng 1,1% GDP.
Tính đến hết năm 2021, nợ nước ngoài của quốc gia giảm còn 38,4% GDP so với năm
2017 là 49% GDP. Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia tính trên tổng kim ngạch xuất lOMoAR cPSD| 47206071
khẩu năm 2021 là 6,2%, nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ so thu ngân sách nhà nước khoảng 21,8%.
Về đối tác đa phương của Việt Nam, Ngân hàng Thế giới (WB) cho vay nhiều nhất
khoảng 380 nghìn tỷ đồng, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cho vay hơn 188 nghìn tỷ
đồng. Ngoài ra, các chủ nợ song phương của Việt Nam đang là Nhật Bản cho vay hơn 316
nghìn tỷ đồng; Hàn Quốc hơn 32 nghìn tỷ đồng, Pháp hơn 30 nghìn tỷ đồng; Đức hơn 14.349 tỷ đồng…
Diễn biến dư nợ và nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ vẫn nằm trong dự báo từ đầu năm và
trong tầm kiểm soát cho dù biến động tỷ giá khá mạnh. Cụ thể, dư nợ bằng USD là 455 nghìn
tỷ đồng, chiếm 13,9%; dư nợ bằng JPY là 346 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,5%; dư nợ bằng EUR
là 179 nghìn tỷ đồng, chiếm 5,5% và còn lại là dư nợ bằng các loại tiền khác chiếm 4%.
Báo cáo đánh giá xếp hạng tín nhiệm Việt Nam năm 2021 của Fitch Ratings cũng cho
thấy, nợ chính phủ của Việt Nam thấp hơn đáng kể so với các quốc gia có cùng mức xếp hạng
tín nhiệm ‘BB’. Kết quả này một phần phản ánh việc Việt Nam đã sớm thành công trong việc
ngăn chặn dịch Covid-19. Tỷ lệ nợ chính phủ gộp trên GDP của Việt Nam được dự báo khoảng
42% GDP vào năm 2023, thấp hơn tương đối so với mức trung bình của các nước có cùng xếp hạng (khoảng 56%).
Xét về cơ cấu, nguồn vay của Chính phủ hiện nay phần lớn đến từ các kênh trong nước,
chiếm khoảng 90% lượng huy động hằng năm của Chính phủ. Đối với nguồn vốn vay này,
phát hành trái phiếu vẫn là phương án chiếm tỷ trọng cao. Theo số liệu năm 2021, kỳ hạn bình
quân của trái phiếu là 13,92 năm và lãi suất phát hành bình quân là 2,3%/năm. Hiện nay, mức
thanh khoản trái phiếu chính phủ được đánh giá vẫn có sự duy trì ổn định. Trong khi đó, 10%
lượng huy động còn lại của Chính phủ là từ khoản vay nước ngoài (từ các tổ chức như WB,
ADB và Nhật Bản) với kỳ hạn khoảng 20 - 30 năm, lãi suất ưu đãi khoảng 1,2%/năm.
Tính đến nay, có thể thấy các chỉ tiêu an toàn nợ công đảm bảo nằm trong mức trần,
ngưỡng nợ được Quốc hội cho phép tại Nghị quyết số 23/2021/QH15: Trần nợ công hằng năm
không quá 60% GDP, trần nợ chính phủ hàng năm không quá 50% GDP, trần nợ nước ngoài
quốc gia hằng năm không quá 50% GDP, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với thu
ngân sách nhà nước không quá 25%, trả nợ nước ngoài của quốc gia so với kim ngạch xuất
khẩu hàng hóa, dịch vụ (không bao gồm trả nợ gốc ngắn hạn) không quá 25%. 6 | P a g e lOMoAR cPSD| 47206071 lOMoAR cPSD| 47206071
Tổng nợ vay được chính phủ bảo lãnh có chiều hướng giảm dần qua các năm. Tỷ lệ nợ
nước ngoài và nợ trong nước được chính phủ bảo lãnh của Việt Nam là khá tương đương nhau
và có xu hướng giảm dần qua các năm, từ năm 2018 là hơn 437.000 tỷ đồng chỉ còn hơn
320.000 tỷ đồng vào năm 2021 và khoảng 299.000 tỷ đồng tính đến nửa đầu năm 2022.
Trong khi đó, khoản nợ của chính quyền địa phương có dấu hiệu tăng trở lại. Tính đến
tháng 6/2022, tổng dư nợ chính quyền địa phương đã đạt 51.243 nghìn tỷ đồng, vượt qua cả
tổng dư nợ năm 2021. Tuy nhiên, tổng số vay trong kỳ có xu hướng giảm mạnh từ đầu năm
2020 đến tháng 6/2022. Trong nửa đầu năm 2022, số vay trong kỳ của chính quyền địa phương
chỉ có 1.311 tỷ đồng, chiếm 2% tổng vốn vay.
2. Những thành tựu đạt được
Thứ nhất, các chỉ tiêu an toàn nợ công được kiểm soát chặt chẽ, nằm trong giới hạn trần
nợ được Quốc hội phê chuẩn và giảm dần qua các năm gần đây
Các chỉ tiêu giám sát nợ công giai đoạn 2010 - 2021 Chỉ tiêu Nợ công Nợ chính phủ
Nợ nước ngoài của so với GDP so với GDP
quốc gia so với GDP 2010 56 , 3 44 , 6 42 , 2 2011 54 , 9 43 , 2 41 , 5 2012 50 , 8 39 , 4 37 , 4 2013 54 , 5 42 , 6 37 , 4 2014 58 , 0 42 , 6 37 , 4
Đến cuối năm 2020, các chỉ tiêu nợ công, nợ Chính phủ so với GDP có xu hướng tăng trở lại
trước chính sách nới lỏng tài khóa để hỗ trợ nền kinh tế phục hồi sau đại dịch Covid19, tuy
nhiên vẫn đảm bảo duy trì trong giới hạn nợ được Quốc hội cho phép.
Thứ hai, huy động được khối lượng vốn lớn cho ngân sách nhà nước (NSNN) và cho
đầu tư phát triển, góp phần thực hiện thành công kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 8 | P a g e lOMoAR cPSD| 47206071
và hằng năm. Hầu hết vốn vay nợ công được sử dụng trực tiếp cho các dự án đầu tư phát triển
và trả nợ các khoản vay phát sinh trong giai đoạn trước cho đầu tư công, góp phần hoàn thiện
hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật kinh tế - xã hội đồng bộ, thúc đẩy tăng trưởng và ổn định
kinh tế vĩ mô trong những năm qua.
Thứ ba, thực hiện thanh toán trả nợ đầy đủ, đúng hạn, đảm bảo nghĩa vụ nợ đã cam kết
với chủ nợ, góp phần cải thiện hệ số tín nhiệm quốc gia. Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính
phủ so với thu NSNN duy trì trong giới hạn được Quốc hội cho phép, bình quân giai đoạn
2010 - 2020 là khoảng 19,2% (so với mức trần không quá 25%).
Thứ tư, khuôn khổ pháp lý, chính sách về quản lý nợ công, nợ Chính phủ đã từng bước
được hoàn thiện, hiệu quả quản lý nhà nước về nợ công được nâng cao trong tình hình mới
theo hướng chặt chẽ, hiệu quả hơn theo Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ
Chính trị. Luật Quản lý nợ công số 20/2017/QH14 được Quốc hội thông qua nhằm thể chế
hóa chủ trương của Đảng, Nhà nước về quản lý nợ công an toàn, bền vững, hiệu quả. Các văn
bản quy phạm pháp luật hướng dẫn luật như Nghị định của Chính phủ, các thông tư hướng
dẫn của Bộ Tài chính đã kịp thời được ban hành, góp phần tạo hành lang pháp lý trong công
tác quản lý nhà nước về nợ công, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Thứ năm, những năm qua, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tài chính tập trung thực hiện các
giải pháp để phát triển thị trường trái phiếu chính phủ (TPCP) theo hướng bền vững, gắn phát
hành TPCP với tái cơ cấu danh mục TPCP theo hướng kéo dài kỳ hạn, giảm áp lực trả nợ ngắn
hạn và chi phí vay vốn. Cả năm 2020 kỳ hạn phát hành bình quân khoảng 13-13,5 năm, tăng
khoảng 1,9 lần so với năm 2015 (6,9 năm); thời gian đáo hạn bình quân (ATM) danh mục
TPCP đạt khoảng 7,6-7,8 năm, cao hơn nhiều so với giai đoạn trước (năm 2011 là 1,84 năm và 2015 là 4,44 năm).
Trong khi kỳ hạn bình quân TPCP đạt mức cao kỷ lục thì lãi suất phát hành bình quân
TPCP liên tục giảm cho thấy hiệu quả của công tác phát hành TPCP. Trong giai đoạn
20162020, mặt bằng lãi suất đã giảm từ mức 6,5%-8,0%/năm đối với các kỳ hạn từ 5 năm đến
30 năm thời điểm đầu năm 2016 xuống còn khoảng từ 1,2%-3,3%/năm (thời điểm cuối tháng
10/2020), trong đó kỳ hạn 5 năm đến 30 năm có lãi suất thấp nhất từ trước đến nay. Việc lãi
suất phát hành TPCP giảm đã tạo điều kiện cho Chính phủ tăng vay nợ tại thị trường trong
nước, giảm vay nợ nước ngoài, qua đó góp phần tái cơ cấu nợ công theo hướng bền vững.
Thứ sáu, thành quả củng cố tài khóa và kiềm chế nợ công tạo dư địa dự phòng chính
sách để ứng phó với rủi ro vĩ mô, góp phần cải thiện hệ số tín nhiệm quốc gia. Cùng với nỗ
lực nâng cao chất lượng quan hệ hợp tác với các tổ chức xếp hạng tín nhiệm (XHTN), những
thành tựu kinh tế - xã hội nước ta đạt được được ghi nhận và phản ánh thông qua hệ số tín
nhiệm quốc gia của Việt Nam từng bước được cải thiện. Việc nâng bậc XHTN quốc gia là
thông điệp có ý nghĩa hết sức tích cực, góp phần nâng cao uy tín của quốc gia, giảm chi phí
huy động vốn nước ngoài của cả Chính phủ và doanh nghiệp (DN).
3. Một số tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý nợ công
Trong hơn thập kỉ vừa qua(2010 - 2021), bên cạnh những kết quả đạt được như trên thì
công tác quản lý nợ công cũng phải đối diện với không ít khó khăn và còn tồn đọng nhiều mặt hạn chế.
Một là, cơ cấu nợ đã có sự thay đổi, tuy nhiên đặc điểm danh mục nợ chính phủ vẫn tiềm
ẩn rủi ro; điều kiện vay vốn ODA, ưu đãi nước ngoài kém thuận lợi hơn trước đây. Đặc điểm
chi phí - rủi ro danh mục nợ Chính phủ ghi nhận thách thức kép về điều kiện vay vốn nước
ngoài trở nên đắt đỏ hơn, trong khi thị trường vốn trong nước còn chưa thực sự phát triển.
Quy mô thị trường trái phiếu trong nước còn nhỏ, trong khi tiềm lực tài chính của các tổ chức
tài chính phi ngân hàng còn hạn chế, việc tập trung phát hành TPCP kỳ hạn dài với mức lãi
suất thấp trong trung, dài hạn là tương đối khó khăn. lOMoAR cPSD| 47206071
Hai là, việc quản lý, giám sát chỉ tiêu nợ nước ngoài của quốc gia có khó khăn, bất cập
cả về công cụ quản lý cũng như phương thức quản lý. Căn cứ Nghị quyết số 25/2016/QH14
của Quốc hội, nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP và nghĩa vụ trả nợ nước ngoài
của quốc gia dưới 25% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ. Mức trần đối với 2 chỉ
tiêu này cho giai đoạn 2010-2021 được tính toán sử dụng khung phân tích bền vững nợ của
Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ quốc tế cho các quốc gia thu nhập thấp và được điều chỉnh
để phù hợp với điều kiện đặc thù của Việt Nam.
Ba là, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với tổng thu NSNN có xu hướng tăng
nhanh. Trong những năm qua, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với thu NSNN diễn
biến không đồng đều với xu hướng tăng nhanh vào cuối giai đoạn. Nguyên nhân chủ yếu là
do các khoản TPCP trong nước phát hành trong giai đoạn trước để cân đối NSNN đã đến hạn
trả nợ gốc. Mặt khác, tình hình thu NSNN năm 2020 bị sụt giảm mạnh trước tác động của
dịch Covid-19, ước cả năm thu NSNN giảm 12,5% so với dự toán.
Bốn là, kỳ hạn TPCP chưa đa dạng, việc huy động vốn của Chính phủ gặp một số áp lực
nhất định tại một số thời điểm; thị trường TPCP chưa hình thành đường cong lãi suất chuẩn
đối với kỳ hạn ngắn và còn thiếu nhà đầu tư dài hạn. Việc thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TW
của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 25/2016/QH14 của Quốc hội đã góp phần tái cơ cấu nợ công
theo hướng bền vững. Tuy nhiên, việc tập trung huy động TPCP kỳ hạn dài trong các năm
vừa qua có một số khó khăn, cụ thể như: (i) Trên thị trường TPCP chỉ có các công cụ kỳ hạn
dài từ 5 năm trở lên, không có lãi suất tham chiếu cho các kỳ hạn ngắn; (ii) Tại thời điểm thị
trường có biến động mạnh không phát hành được kỳ hạn ngắn, để ổn định thị trường,...
Năm là, việc giải ngân vốn đầu tư công, trong đó có nguồn vốn vay ODA và vay ưu đãi
nước ngoài của Chính phủ còn chậm. III. Giải pháp
Nợ công là một vấn đề phức tạp và đòi hỏi những giải pháp kinh tế hiệu quả để giảm
thiểu các rủi ro và hạn chế đối với nền kinh tế quốc gia. Để giải quyết vấn đề này, cần có
những giải pháp thích hợp và bài bản, bao gồm cả giải pháp tài chính và các biện pháp kinh
tế xã hội. Và sau đây là 1 số đề xuất giải pháp cho việc vay mượn nợ công cho nước ta:
- Tuyên truyền, phổ biến Luật Quản lý nợ công năm 2017 và các văn bản hướng dẫnthi
hành đến các cơ quan, tổ chức, cá nhân để thấy được trách nhiệm, ý thức của cơ quan, tổ chức,
cá nhân trong việc sử dụng nợ công sao cho hiệu quả, tránh tình trạng lãng phí và sử dụng nợ
công không đúng mục đích.
- Nâng cao trình độ, năng lực quản lý nợ công cho đội ngũ công chức chuyên tráchquản
lý về nợ công, đặc biệt chú trọng đến kỹ năng kiểm tra, phân tích, đánh giá các chương trình,
dự án đầu tư công để mang lại hiệu quả cao trong việc sử dụng nợ công tránh rủi ro nợ công
tăng cao. Bên cạnh đó, cần chú trọng nâng cao tinh thần đạo đức công vụ trong đội ngũ cán
bộ, công chức gắn với tinh thần trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ được phân công.
- Có các biện pháp chế tài đủ mạnh nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cơquan,
tổ chức và cá nhân có liên quan trong việc phân bổ, sử dụng vốn vay, đôn đốc, thu hồi nợ góp
phần sử dụng nợ công đạt hiệu quả, đảm bảo chất lượng.
-Chính phủ cần xây dựng kế hoạch chiến lược về nợ công trên cơ sở và phù hợp với kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch thu, chi ngân sách nhà nước trong từng thời kỳ,
giai đoạn. . Kế hoạch chiến lược về nợ công xác định rõ mục đích vay (vay để bù đắp thâm
hụt ngân sách, cơ cấu lại nợ và cho vay hoặc vay để tài trợ cho các chương trình, dự án đầu
tư lớn, vay để bảo đảm an ninh tài chính quốc gia), ngắn hạn, trung hạn và dài hạn mức huy
động vốn có kỳ hạn đối với từng khách hàng vay trong và ngoài nước, với hình thức và lãi
suất huy động vốn phù hợp. Kế hoạch chiến lược về nợ công cũng cần xác định rõ đối tượng 10 | P a g e lOMoAR cPSD| 47206071
sử dụng vốn vay, hiệu quả dự kiến; xác định chính xác thời hạn cho vay, số tiền cho vay trong
từng thời kỳ, tránh tình trạng để lâu không sử dụng hoặc sử dụng chưa thực sự hiệu quả.
- Bảo đảm tính bền vững về quy mô và tốc độ tăng trưởng nợ công, có khả năng chi trả
trong nhiều tình huống khác nhau và hạn chế rủi ro, chi phí. Muốn vậy, cần thiết lập ngưỡng
an toàn cho nợ công; đồng thời, thường xuyên đánh giá rủi ro phát sinh từ các khoản vay công
trong mối quan hệ với GDP, thu ngân sách nhà nước, tổng kim ngạch xuất khẩu, cán cân
thương mại, dự trữ ngoại hối và dự trữ tài chính quỹ tích lũy để trả nợ…
- Kiểm soát chặt chẽ các khoản cho vay lại, cho vay được Chính phủ bảo lãnh. Chính
phủ vay nợ và bảo lãnh khoản vay là những hoạt động thường phát sinh khi các công ty cần
huy động một lượng vốn lớn trên thị trường vốn quốc tế, nhưng lại không có danh tiếng trong
việc tự mình huy động vốn vay. Khi đó, chính phủ có thể giúp các công ty tiếp cận các nguồn
vốn quốc tế quy mô lớn với lãi suất thấp. Các khoản vay và bảo lãnh này về cơ bản là nghĩa
vụ tài khóa dự phòng, tạo ra rủi ro ngân sách nhà nước sẽ phải trả các khoản nợ của khu vực
doanh nghiệp trong tương lai khi các doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc mất khả năng thanh
toán. Rủi ro này sẽ càng cao hơn khi chính phủ đi vay và phát hành bảo lãnh mà không dựa
trên sự phân tích kỹ lưỡng về mức độ rủi ro cũng như khả năng trả nợ của các công ty. Vì vậy,
việc vay để cho vay lại và bảo lãnh vay cần hết sức thận trọng, ưu tiên cho các chương trình,
dự án trọng điểm của nhà nước hoặc các lĩnh vực ưu tiên cao của đất nước. Kiểm soát chặt
chẽ các khoản vay nợ nước ngoài được nhà nước bảo lãnh và việc cấp bảo lãnh cho các công
ty vay nợ trong nước; khuyến khích phát triển mô hình hợp tác công tư (PPP).
- Nâng cao hiệu quả và tăng cường kiểm soát việc sử dụng vốn vay và vốn được Nhà
nước bảo lãnh. Đây là vấn đề then chốt để bảo đảm khả năng trả nợ và bền vững nợ công.
Nhà nước là người đứng ra vay nợ, nhưng không phải là người sử dụng vốn vay cuối cùng
mà là các cơ quan đứng ra vay, người thụ hưởng ngân sách, doanh nghiệp...; Trong mọi trường
hợp, ngân sách nhà nước phải gánh chịu hậu quả và rủi ro của toàn bộ quá trình vay nợ. Để
đảm bảo việc vay và sử dụng vốn vay có hiệu quả cần tuân thủ hai nguyên tắc cơ bản:không
vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn, vốn vay thương mại nước ngoài chỉ được sử dụng cho các
chương trình, dự án có khả năng thu hồi vốn và trả nợ trực tiếp; đồng thời, kiểm tra, giám sát
chặt chẽ, thường xuyên việc sử dụng vốn vay, vốn vay được Chính phủ bảo lãnh, nhất là tại
các đơn vị trực tiếp sử dụng vốn vay, như:các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, ngân
hàng thương mại, dự án đầu tư cơ sở hạ tầng.
- Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản lý nợ công. Công khai, minh
bạch nhằm tăng cường trách nhiệm giải trình trong quản lý, sử dụng nợ công và của cơ quan
quản lý nợ công. Để thực hiện đúng nguyên tắc quan trọng này, nợ NSNN phải được tính đủ,
xác định trong báo cáo quyết toán NSNN và được cơ quan chuyên môn độc lập kiểm tra, xác nhận. C. KẾT LUẬN
Ở mỗi giai đoạn của quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, đất nước ta
thường xuyên cần huy động các nguồn vốn, tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, góp phần phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nếu không đáp ứng được nhu cầu chi cho các chính sách
trên bằng con đường như thuế, phí, lệ phí, thì nhà nước phải vay nợ trong và ngoài nước bằng
cách phát hành các công cụ nợ hoặc ký kết các hiệp định vay để có thể có đủ kinh phí chi tiêu.
Trong quá trình quản lý nợ công của Việt Nam, bên cạnh những hiệu quả tích cực, vẫn còn
một số hạn chế, vướng mắc nhất định dẫn đến nợ công và nghĩa vụ trả nợ tăng nhanh, áp lực lOMoAR cPSD| 47206071
trả nợ trong ngắn hạn lớn, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn nhưng chưa được kiểm soát chặt chẽ;
nợ đọng xây dựng cơ bản và ứng trước ngân sách còn lớn; việc quản lý, sử dụng vốn vay còn
bất cập; thiếu gắn kết giữa quyết định đầu tư với cân đối nghĩa vụ trả nợ. Việc sử dụng ngân
sách và vốn đầu tư công còn lãng phí, thất thoát, kém hiệu quả.
Do đó, để nợ công của Việt Nam theo hướng an toàn, bền vững, góp phần ổn định kinh
tế vĩ mô; tăng cường huy động, quản lý, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài
chính, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội thì Luật Quản lý nợ công năm 2017 đã được Quốc
hội thông qua để thay thế Luật Quản lý nợ công năm 2009.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
https://luatduonggia.vn/no-cong-la-gi-su-tac-dong-cua-no-cong-den-su-phat-trien-
kinh-te/ : Nợ công là gì? Sự tác động của nợ công đến sự phát triển kinh tế.
https://easybooks.vn/no-cong-la-gi/ : Mặt tích cực và tiêu cực của nợ công.
https://mof.gov.vn/webcenter/portal/tttc/pages_r/l/chi-tiet-tin-tin-tuc-tai-chinh?
dDocName=MOFUCM245943 : Nợ công của Việt Nam có xu hướng giảm.
https://vov.vn/kinh-te/no-cong-cua-viet-nam-giam-manh-post1014894.vov: Nợ công
của Việt Nam giảm mạnh.
https://tapchitaichinh.vn/thuc-trang-va-mot-so-kien-nghi-nham-nang-cao-hieu-qua-
quan-ly-no-cong-tai-viet-nam.html : Thực trạng và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
quản lý nợ công tại Việt Nam.
https://www.sav.gov.vn/SMPT_Publishing_UC/TinTuc/PrintTL.aspx?
idb=2&ItemID=32517&l=/noidung/tintuc/Lists/TinTucSuKien : Nợ công và quản lý nợ công
ở Việt Nam. https://www.nctu.edu.vn/uploads/sciencemagazine/2019_11/Tap-chi-KH-va- KT-phat-
trien-so-3.pdf#page=37 NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NỢ CÔNG TẠI
VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
https://tailieu.vn/doc/luan-van-thac-si-kinh-te-cac-yeu-to-tac-dong-den-no-cong-tai-
cac-nuoc-dong-nam-a-2418000.html CÁC YẾU TỐTÁC ĐỘNG ĐẾN NỢCÔNGTẠI CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á 12 | P a g e