I. Tổ chức nông thôn:
1.1 Tổ chức nông thôn theo huyết thống: Gia đình và Gia tộc
- Những người cùng quan hệ huyết thống gắn bó mật thiết với nhau thành đơn vị sở
gia đình và đơn vị cấu thành là gia tộc.
- Sức mạnh gia tộc thể hiện ở tình yêu thương, đùm bọc lẫn nhau.
- Quan hệ huyết thống quan hệ theo hàng dọc, theo thời gian -> sở của tính tôn
tithói gia trưởng và tính tư hữu.
- Người Việt hệ thống tôn ti trực tiếp rất chi li, phân biệt rạch ròi tới 9 thế hệ (gọi
cửu tộc): Kị - Cụ - Ông - Cha - Tôi - Con - Cháu - Chắt - Chút
1.2 Tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú: Xóm và Làng
- Những người sống gần nhau xu hướng liên kết chặt chẽ với nhau. Sản phẩm
củalối liên kết này gọi là khái niệm Làng, Xóm
- Do nhu cầu sản xuất, ứng phó với tự nhiên hội khiến người Việt Nam liên
kếtchặt chẽ với nhau tới mức Bán anh em xa, mua láng giềng gần/ Một giọt máu đào
hơn ao nước lã.
- Cách tổ chức nông thôn theo địa bàn trú dựa trên quan hệ ng ngang, theo
không gian -> Nguồn gốc của tính dân chủ, bình đẳng -> mặt trái là thói dựa dẫm, ỷ lại
và thói đố kị, cào bằng.
1.3 Tổ chức nông thôn theo nghề nghiệp và sở thích: Phường - Hội
- Trừ nghề nông, những người sinh sống bằng các nghề khác liên kết nhau tạo thànhđơn
vị gọi là phường
+ nông thôn thể gặp hàng loạt phường như: phường gốm làm sành sứ, phường nề
làm nghề xây cất, phường chàim nghề đánh cá, phường vải làm nghề dệt vải,...
- Hội là tổ chức liên kết những người cùng sở thích, thú vui, đẳng cấp.
+ Hội văn liên kết các quan văn cùng làng, hội văn phả liên kết các nhà nho trong
làng không ra làm quan, hội phả liên kết những người theo nghề võ, hội lão liên
kết các cụ ông, hội chư bà liên kết các bà đi chùa,...
- Tổ chức theo nghề nghiệp, phường hội -> Liên kết theo chiều ngang -> Tính dân
chủđược nêu cao.
1.4 Tổ chức nông thôn theo truyền thống nam giới: Giáp
- Đứng đầu giáp là ông cai giáp; giúp việc cho cai giáp là các ông lềnh – lềnh nhất,
lềnh hai, lềnh ba.
- Đặc điểm của giáp là: chỉ đàn ông tham gia mang tính chất “cha truyền
connối”.
- Trong nội bộ giáp phân biệt ba lớp tuổi chủ yếu: ti tấu, đinh lão- Giáp được
xây dựng trên nguyên tắc trọng tuổi già.
+ Giáp là một tổ, chức mang tính hai mặt - vừa được tổ chức theo chiều dọc (theo lớp
tuổi), lại vừa được tổ chức theo chiều ngang (những người cùng ng). Cho nên, một
mặt, giáp mang nh tôn ti (nó một môi trường tiến thân bằng tuổi tác: Sống lâu lên
lão làng); mặt khác giáp lại cũng tính dân chủ (tất cả mọi thành viên cùng lớp tuổi
đều bình đẳng như nhau, cứ đến tuổi ấy thf sẽ có địa vị ấy).
1.5 Tổ chức nông thôn theo đơn vị hành chính: Thôn và Xã
- Làng được gọi là xã (có khi một xã gồm nhiều làng)
- Xóm được gọi là thôn (có khi một thôn gồm nhiều xóm)
- Trong phân ra dân chính dân ngụ . Dân chính dân gốc làng ấy,
còndân ngụ dân tnơi khác đến trú ngụ. Sự phân biệt này hết sức gắt gao: dân
chính đủ mọi quyền lợi còn dân ngụ luôn bị khinh rẻ. Sự đối lập này phương
tiện duy trì sự ỗn định của làng xã.
1.6 Tính cộng đồng và tính tự trị - hai đặc trưng cơ bản của nông thôn Việt Nam
1.6.1 Tính cộng đồng: nhấn mạnh vào sự đồng nhất.
- Ưu điểm:
+ Có tính tập thể cao, coi mọi người trong làng như anh, em một nhà.
+ Ngọn nguồn của nếp sống dân chủ, bình đẳng.
- Hạn chế:
+ Do đồng nhất ý thức con người nhân bị thủ tiêu, hay tính dựa dẫm lại
vào tập thể.
+ Tư tưởng cầu an, cả nể và thói cào bằng, đố kị, không muốn ai hơn mình.
1.6.2 Tính tự trị: nhấn mạnh vào sự khác biệt.
- Ưu điểm:
+ Tinh thần tự lập cộng đồng
+ Nếp sống tự cấp, tự túc -
Hạn chế:
+ Óc tư hữu, ích kỉ
+ Óc bè phái, địa phương, cục bộ
+ Óc gia trưởng, tôn ti và gia đình chủ nghĩa
1.6.3 Biểu tượng truyền thống của tính cộng đồng sân đình, bến nước, cây đa; biểu
tượng truyền thống của tính tự trị là lũy tre.
- Cái đình là biểu tượng tập trung nhất của làng về mọi phương diện
+ “Trung tâm hành chính”, nơi diễn ra những việc quan trọng như hội họp, thu u
thu thuế, giam giữ xử tội phạm nhân.
+ “Trung tâm văn hóa”, nơi tổ chức hội hè, ăn uống (đình đám), nơi biểu diễn chèo
tuồng.
+ Là “Trung tâm sinh hoạt tôn giáo”: Thờ thần hoàng làng, thần “bảo trợ” cho dân làng.
+ Là “Trung tâm giao lưu tình cảm”: Qua đình ngả nón trông đình”.
- BẾN NƯỚC
+ Dần dần, do ảnh ởng văn hóa phụ quyền, đình chỉ còn nơi của đàn ông. Phụ nữ
tụ quần nơi bến (giếng nước) để rửa rau, vo gạo, giặt giũ và chuyện trò, “buôn dưa lê”.
- CÂY ĐA
+ Cây đa cổ thụ đầu làng. Ở dưới gốc đa có miếu thờ, khói hương nghi ngút, là nơi hội
tụ của thần thánh “Thần cây đa”, “sợ thần sợ cả cây đa”. Quán nước cây đa là nơi nghỉ
chân gặp gỡ của nông dân đi làm về, của khách qua đường. Cây đa cũng là cánh cửa sổ
liên thông với thế giới bên ngoài.
- LŨY TRE
+ Rặng tre bao kín quanh làng như một thành lũy kiên cố bất khả xâm phạm: đốt không
cháy, trèo không qua, đào đường hầm ko được (lũy). Hội tụ hình ảnh lũy tre, cây đa, bến
nước sân đình chỉ có làng Việt Nam mới có. (làng Trung hoa có tường đất bao bọc)
+ Tính cộng đồng và tính tự trị hai đặc trưng gốc rễ, nguyên nhân sinh ra ưu điểm
và nhược điểm về tính cách của người Việt.
1.6.4 Tính cộng đồng tính tự trị, cùng với lối duy biện chứng như ta đã biết, dẫn
đến lối ứng xử có tính chất nước đôi.
- Vừa có tinh thần đoàn kết tương trợ lại vừa có óc tư hữu ích kỷ, thói cào bằng
- Vừa có tính tập thể hòa đồng lại vừa có óc bè phái, địa phương
- Vừa có nếp sống dân chủ bình đẳng lại vừa có óc gia trưởng tôn ti
- Vừa có tính cần cù và nếp sống tự cấp tự túc lại vừa có thói dựa dẫm, ỷ lại
-> Tất cả những cái tốt cái xấu ấy đều bắt nguồn từ hai đặc trưng gốc trái ngược nhau
là tính cộng đồng tính tự trị. Tùy lúc, tùy nơi mặt tốt hoặc mặt xấu sẽ được phát
huy.
1.7 Làng Nam Bộ
- Đặc trưng chung của thôn ấp Nam Bộ tính mở, không lũy tre, cổng làng.-
Người dân không bị gắn chặt với quê hương như làng Bắc Bộ -> tính cách phóng
khoáng, dễ tiếp nhận những ảnh hưởng ở bên ngoài hơn.
- Song Nam Bộ vẫn thấy thấp thoáng bóng tre, mỗi làng vẫn có một ngôi đình
với tín ngưỡng thờ Thần Hoàng. Người dân vẫn giữ nếp sống cần coi trọng tính
cộng đồng, yếu tố làng xóm vẫn được coi trọng và ưu tiên.
II. Tổ chức quốc gia
2.1 Từ Làng đến Nước và việc quản lí xã hội *
Về chức năng và nhiệm vụ:
- Nước là sự mở rộng của làng, chỉ có qui mô là khác nhau.
- Ứng phó với môi trường tự nhiên: ở phạm vi làng làng là liên kết sản xuất cho kịpthời
vụ; ở phạm vi nước là chống thiên tai, ứng phó với bão lụt.
- Ứng phó với môi trường xã hội: ở cấp độ làng là chống trộm cướp; ở phạm vi quốcgia
là chống giặc ngoại xâm. * Về tính cộng đồng và tính tự trị:
+ Tính cộng đồng: coi mọi người trong làng như anh em một nhà đã chuyển thành ý thức
cộng đồng trong phạm vi quốc gia -> tinh thần đoàn kết toàn dân.
+ Tính tự trị: ý thức quốc gia rất mạnh -> ý thức độc lập dân tộc và lòng yêu nước mãnh
liệt; quốc gia và ranh giới quốc gia là rất đỗi thiêng liêng -> Ít quan tâm đến những vấn
đề quốc tế.
* Về tổ chức bộ máy: Vua <- Lạc hầu, lạc tướng (Bộ) <- Già làng (Làng)
* Về pháp luật: đã t thời Hùng Vương; mỗi thời đều bộ luật riêng; qua các
cơnbinh lửa, Luật Hồng Đức và Luật Gia Long đến nay vẫn còn được giữ lại.
2.2 Nước với truyền thống dân chủ của văn hóa nông nghiệp
2.2.1 Truyền thống dân chủ làm cho nhà nước Việt Nam giống với làng xã - Bộc lộ
trong quan hệ giữa lãnh đạo với người dân -> Vua đứng đầu nhưng vua Việt không quá
độc đoán như các vị vua phương Tây và Trung Hoa.
- Trong tiếng Việt, từ vua từ bố xuất phát từ cùng một gốc: nghĩa cha, vừa
cónghĩa là thủ lĩnh của dân làng.
- Truyền thống dân chủ còn bộc lộ trong quan hệ giữa người dân với thánh thần; giữacon
người với loài vật.
+ Dân thờ cúng thần thánh -> thần thánh phải có trách nhiệm phù hộ, nếu không, dân có
thể “kiện” thần thánh.
+ Trâu ơi ta bảo trâu này, Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta, Cấy cày vốn nghiệp nông
gia, Ta đây trâu đấy ai mà quản công, Bao giờ cây lúa còn bông, Thì còn ngọn cỏ ngoài
đồng trâu ăn…-> lời tâm sự bình đẳng thân tình của người nông dân với loài vật của
mình.
2.2.2 Quan hệ tình cảm và tinh thần dân chủ còn thể hiện rõ trong luật pháp.
- Người nông nghiệp Việt Nam sống thiên về tình cảm nên ý thức pháp luật rất kém.
- Phương Tây là luật pháp. Ở ta là luật lệ.
2.2.3 Truyền thống dân chủ nông nghiệp còn thể hiện trong việc tuyển chọn người
vào bộ máy quan lại.
- phương Tây, bộ máy quan lại phong kiến (với các tước vị công, hầu, há, tử, nam)
được bổ nhiệm theo lối cha truyền con nối.
- Còn Việt Nam một số nước phương Đông thì việc tuyển chọn quan lại được
tiếnhành theo con đường thi cử.
* Thi cử trong thời kỳ phong kiến (Truyền thống)
- Thi Hương: Tổ chức tỉnh. Thi qua 3 kỳ gọi sinh đồ - tài, thi qua 4 kgọi
là cử nhân, đỗ đầu thi Hương gọi là Giải nguyên.
- Thi Hội: Tổ chức ở kinh thành, tổ chức 3 năm/1 lần. Thi Hội đỗ thì thành Tiến sĩ(
Tiến sĩ là kẻ sĩ có tài được tiến cử cho vua dùng). Đỗ đầu thi Hội gọi là Hội nguyên. Đỗ
tiến sĩ mới được dự vào thi Đình.
- Thi Đình: Thi tại triều đình nhằm xếp các tiến thành 3 loại gọi Tam giáp:
tiến sĩđệ nhất giáp, tiến sĩ đệ nhị giáp, tiến sỹ đệ tam giáp. Bậc tiến sĩ cấp đệ từ 1244 lại
chia thành: Tam khôi, Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Đỗ đầu thi Đình gọi Đình
nguyên
2.2.4 Truyền thống văn hóa nông nghiệp trọng văn – kẻ sĩ được xem trọng trong
xã hội.
- Kẻ được coi trọng nhất, đứng đầu danh mục các nghề trong hội: sĩ, công,
nông,thương. thuần túy ít được để ý, văn khi cẩn thể lo cviệc lẫn việc
kinh tế.
- Nông đứng thứ hai. nghề bản nuôi sống trí thức, nuôi sống cả cộng đồng
vàkiến tạo nên truyền thống văn hóa nông nghiệp
- Công và Thương được coi nghề thấp kém. Sở dĩ, Công không được coi trọng
vìcuộc sống nông nghiệp tự cấp tự túc, ít nhu cầu trao đổi hàng hóa nên sản xuất nông
nghiệp không được phát triển, chỉ dừng lại mức thủ công, nghề phụ. Thương là nghề
bị coi rẻ nhất: nông vi bản, thương vi mạt (lấy nông làm gốc, lấy thương làm ngọn).
=> Quan hệ nông-thương đặc biệt này trong xã hội Việt Nam còn thể hiện rõ hơn trong
lĩnh vực tổ chức đô thị.
III. Tổ chức đô thị
3.1 Đô thị Việt Nam trong quan hệ với Quốc gia
- Nguồn gốc: phần lớn do nhà nước sinh ra. Các đô thị lớn nhỏ ra đời vào các giaiđoạn
khác nhau như: Văn Lang, Cổ Loa, Luy Lâu, Thăng Long, Phú Xuân (Huế),… Các đô
thị mới như Xuân Mai, Xuân Hòa... đều được hình thành theo con đường như thế.
- Chức năng: thực hiện chức năng hành chính là chủ yếu.
+ Trong đô thị bphận làm quản bộ phận làm kinh tế. Bộ phận quản hình
thành trước theo kế hoạch rồi dần dần, một cách tự phát, bộ phận làm kinh tế mới được
hình thành.
- Quản lý: do nhà nước quản lý
+ Nhà nước đặt ra độ thị nên nhà nước sẽ quản khai thác (thông qua bộ máy
quan lại). Ngay cả một số ít đô thị hình thành tự phát do vào những địa điểm giao
thông buôn bán thuận tiện như: Vĩnh Bình (Lạng Sơn), Vân Đồn (Quảng Ninh), Phố
Hiến (Hưng Yên) và Hội An thì ngay sau khi hình thành, nhà nước cũng lập tức lập đặt
ra bộ máy cai trị trùm lên để nắm trọn quyền kiểm soát khai thác 3.2 Đô thị Việt
Nam trong quan hệ với Nông thôn
3.2.1 Nông thôn Việt Nam không thể tự thân trở thành đô thị
- Việt Nam, có những Làng thực hiện chức năng đô thị - các làng công thương (làng
Bát Tràng – làm đồ gốm, làng Bưởi - làm giấy, làng Nhị Khê – làm nghề tiện,…)
- Nhưng các làng này không thể trở thành đô thị được tính cộng đồng ( cả làng
cùnglàm một nghề: sản xuất cùng một sản phẩm, buôn cùng một mặt hàng. Không có
sự trao đổi hàng hóa nội bộ thì không thể trở thành đô thị được)
- Mặt khác, do tính tự trị, dân cư sống tự cấp, tự túc, khép kín nên không thể trở thànhđô
thị
3.2.2 Nông thôn không chỉ kìm giữ không cho làng xã phát triển thành đô thị, mà
còn chi phối cả đô thị
- Nông thôn khiến đô thị chịu ảnh hưởng của nông thôn mang tính nông thôn
đậm nét
- Tổ chức hành chính cũng sao phỏng theo tổ chức nông thôn: Phủ - huyện - tổng
thôn
3.2.3 Đô thị Việt Nam truyền thống luôn có nguy cơ bị nông thôn hóa
- Trong huyết quản, người dân thành thị vẫn mang bản chất, tính cách người nông
thôn– chúng luôn được bộc lộ ra mỗi khi có điều kiện.
- Người Việt Nam truyền thống gắn với làng xã, vốn coi thường dân ngụ
nênthời xưa, người dân không coi trọng đô thị; dưới con mắt họ, đô thị là nơi hội tụ của
dân “tứ chiếng giang hồ”. Tâm lý “trọng nông - ức thương” được thể hiện khắp mọi nơi.
Hiện ợng coi thường đô thị “nông thôn hóa đô thị” này trái hẳn với tình hình
phương Tây nơi đô thị luôn được nông thôn ngưỡng mộ smệnh đô thị hóa
nông thôn.
3.3 Quy luật chung của tổ chức xã hội Việt Nam truyền thống
- Văn hóa tchức đời sống tập thể Việt Nam tạo n những nhóm lưỡng phân với
quan hệ âm dương giữa các yếu tố trong mỗi cặp: Quốc gia bao gồm nông thôn (tĩnh
tại, khép kín – âm) đô thị (năng động, cởi mở - dương); nông thôn gồm làng thuần
nông (khép kín, hướng nội âm) và làng công thương (cởi mở, hướng ngoại – dương);
đô thị bao gồm bộ phận quản (tĩnh tại âm) bộ phận làm kinh tế (năng động
dương).
- Âm luôn mạnh hơn dương (khả năng bảo tồn mạnh hơn khả năng phát triển). - Tiền đề
trên giải thích về nguồn gốc sức mạnh Việt Nam do tại sao Việt Nam lại một
quốc gia chậm phát triển
- Âm mạnh hơn dương (âm thịnh thì dương suy).
- Sự bảo thủ, kìm giữ sức vươn lên của xã hội Việt Nam truyền thống.

Preview text:

I. Tổ chức nông thôn:
1.1 Tổ chức nông thôn theo huyết thống: Gia đình và Gia tộc
- Những người cùng quan hệ huyết thống gắn bó mật thiết với nhau thành đơn vị cơ sở
là gia đình và đơn vị cấu thành là gia tộc.
- Sức mạnh gia tộc thể hiện ở tình yêu thương, đùm bọc lẫn nhau.
- Quan hệ huyết thống là quan hệ theo hàng dọc, theo thời gian -> cơ sở của tính tôn
tithói gia trưởng và tính tư hữu.
- Người Việt có hệ thống tôn ti trực tiếp rất chi li, phân biệt rạch ròi tới 9 thế hệ (gọi
cửu tộc): Kị - Cụ - Ông - Cha - Tôi - Con - Cháu - Chắt - Chút
1.2 Tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú: Xóm và Làng -
Những người sống gần nhau có xu hướng liên kết chặt chẽ với nhau. Sản phẩm
củalối liên kết này gọi là khái niệm Làng, Xóm -
Do nhu cầu sản xuất, ứng phó với tự nhiên và xã hội khiến người Việt Nam liên
kếtchặt chẽ với nhau tới mức Bán anh em xa, mua láng giềng gần/ Một giọt máu đào hơn ao nước lã. -
Cách tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú dựa trên quan hệ hàng ngang, theo
không gian -> Nguồn gốc của tính dân chủ, bình đẳng -> mặt trái là thói dựa dẫm, ỷ lại
và thói đố kị, cào bằng.
1.3 Tổ chức nông thôn theo nghề nghiệp và sở thích: Phường - Hội
- Trừ nghề nông, những người sinh sống bằng các nghề khác liên kết nhau tạo thànhđơn vị gọi là phường
+ Ở nông thôn có thể gặp hàng loạt phường như: phường gốm làm sành sứ, phường nề
làm nghề xây cất, phường chài làm nghề đánh cá, phường vải làm nghề dệt vải,...
- Hội là tổ chức liên kết những người cùng sở thích, thú vui, đẳng cấp.
+ Hội tư văn liên kết các quan văn cùng làng, hội văn phả liên kết các nhà nho trong
làng không ra làm quan, hội võ phả liên kết những người theo nghề võ, hội bô lão liên
kết các cụ ông, hội chư bà liên kết các bà đi chùa,...
- Tổ chức theo nghề nghiệp, phường hội -> Liên kết theo chiều ngang -> Tính dân chủđược nêu cao.
1.4 Tổ chức nông thôn theo truyền thống nam giới: Giáp -
Đứng đầu giáp là ông cai giáp; giúp việc cho cai giáp là các ông lềnh – lềnh nhất, lềnh hai, lềnh ba. -
Đặc điểm của giáp là: chỉ có đàn ông tham gia và mang tính chất “cha truyền connối”. -
Trong nội bộ giáp phân biệt ba lớp tuổi chủ yếu: ti tấu, đinh và lão- Giáp được
xây dựng trên nguyên tắc trọng tuổi già.
+ Giáp là một tổ, chức mang tính hai mặt - nó vừa được tổ chức theo chiều dọc (theo lớp
tuổi), lại vừa được tổ chức theo chiều ngang (những người cùng làng). Cho nên, một
mặt, giáp mang tính tôn ti (nó là một môi trường tiến thân bằng tuổi tác: Sống lâu lên
lão làng); mặt khác giáp lại cũng có tính dân chủ (tất cả mọi thành viên cùng lớp tuổi
đều bình đẳng như nhau, cứ đến tuổi ấy thf sẽ có địa vị ấy).
1.5 Tổ chức nông thôn theo đơn vị hành chính: Thôn và Xã
- Làng được gọi là xã (có khi một xã gồm nhiều làng)
- Xóm được gọi là thôn (có khi một thôn gồm nhiều xóm)
- Trong xã phân ra dân chính cư và dân ngụ cư. Dân chính cư là dân gốc ở làng ấy,
còndân ngụ cư là dân từ nơi khác đến trú ngụ. Sự phân biệt này hết sức gắt gao: dân
chính cư có đủ mọi quyền lợi còn dân ngụ cư luôn bị khinh rẻ. Sự đối lập này là phương
tiện duy trì sự ỗn định của làng xã.
1.6 Tính cộng đồng và tính tự trị - hai đặc trưng cơ bản của nông thôn Việt Nam
1.6.1 Tính cộng đồng: nhấn mạnh vào sự đồng nhất. - Ưu điểm:
+ Có tính tập thể cao, coi mọi người trong làng như anh, em một nhà.
+ Ngọn nguồn của nếp sống dân chủ, bình đẳng. - Hạn chế:
+ Do đồng nhất mà ý thức con người cá nhân bị thủ tiêu, hay có tính dựa dẫm và ỷ lại vào tập thể.
+ Tư tưởng cầu an, cả nể và thói cào bằng, đố kị, không muốn ai hơn mình.
1.6.2 Tính tự trị: nhấn mạnh vào sự khác biệt. - Ưu điểm:
+ Tinh thần tự lập cộng đồng
+ Nếp sống tự cấp, tự túc - Hạn chế: + Óc tư hữu, ích kỉ
+ Óc bè phái, địa phương, cục bộ
+ Óc gia trưởng, tôn ti và gia đình chủ nghĩa
1.6.3 Biểu tượng truyền thống của tính cộng đồng là sân đình, bến nước, cây đa; biểu
tượng truyền thống của tính tự trị là lũy tre.
- Cái đình là biểu tượng tập trung nhất của làng về mọi phương diện
+ Là “Trung tâm hành chính”, nơi diễn ra những việc quan trọng như hội họp, thu sưu
thu thuế, giam giữ xử tội phạm nhân.
+ Là “Trung tâm văn hóa”, nơi tổ chức hội hè, ăn uống (đình đám), nơi biểu diễn chèo tuồng.
+ Là “Trung tâm sinh hoạt tôn giáo”: Thờ thần hoàng làng, thần “bảo trợ” cho dân làng.
+ Là “Trung tâm giao lưu tình cảm”: Qua đình ngả nón trông đình”. - BẾN NƯỚC
+ Dần dần, do ảnh hưởng văn hóa phụ quyền, đình chỉ còn là nơi của đàn ông. Phụ nữ
tụ quần nơi bến (giếng nước) để rửa rau, vo gạo, giặt giũ và chuyện trò, “buôn dưa lê”. - CÂY ĐA
+ Cây đa cổ thụ đầu làng. Ở dưới gốc đa có miếu thờ, khói hương nghi ngút, là nơi hội
tụ của thần thánh “Thần cây đa”, “sợ thần sợ cả cây đa”. Quán nước cây đa là nơi nghỉ
chân gặp gỡ của nông dân đi làm về, của khách qua đường. Cây đa cũng là cánh cửa sổ
liên thông với thế giới bên ngoài. - LŨY TRE
+ Rặng tre bao kín quanh làng như một thành lũy kiên cố bất khả xâm phạm: đốt không
cháy, trèo không qua, đào đường hầm ko được (lũy). Hội tụ hình ảnh lũy tre, cây đa, bến
nước sân đình chỉ có làng Việt Nam mới có. (làng Trung hoa có tường đất bao bọc)
+ Tính cộng đồng và tính tự trị là hai đặc trưng gốc rễ, là nguyên nhân sinh ra ưu điểm
và nhược điểm về tính cách của người Việt.
1.6.4 Tính cộng đồng và tính tự trị, cùng với lối tư duy biện chứng như ta đã biết, dẫn
đến lối ứng xử có tính chất nước đôi.
- Vừa có tinh thần đoàn kết tương trợ lại vừa có óc tư hữu ích kỷ, thói cào bằng
- Vừa có tính tập thể hòa đồng lại vừa có óc bè phái, địa phương
- Vừa có nếp sống dân chủ bình đẳng lại vừa có óc gia trưởng tôn ti
- Vừa có tính cần cù và nếp sống tự cấp tự túc lại vừa có thói dựa dẫm, ỷ lại
-> Tất cả những cái tốt và cái xấu ấy đều bắt nguồn từ hai đặc trưng gốc trái ngược nhau
là tính cộng đồng và tính tự trị. Tùy lúc, tùy nơi mà mặt tốt hoặc mặt xấu sẽ được phát huy. 1.7 Làng Nam Bộ -
Đặc trưng chung của thôn ấp Nam Bộ là tính mở, không có lũy tre, cổng làng.-
Người dân không bị gắn chặt với quê hương như ở làng Bắc Bộ -> tính cách phóng
khoáng, dễ tiếp nhận những ảnh hưởng ở bên ngoài hơn. -
Song ở Nam Bộ vẫn thấy thấp thoáng có bóng tre, mỗi làng vẫn có một ngôi đình
với tín ngưỡng thờ Thần Hoàng. Người dân vẫn giữ nếp sống cần cù và coi trọng tính
cộng đồng, yếu tố làng xóm vẫn được coi trọng và ưu tiên.
II. Tổ chức quốc gia
2.1 Từ Làng đến Nước và việc quản lí xã hội *
Về chức năng và nhiệm vụ:
- Nước là sự mở rộng của làng, chỉ có qui mô là khác nhau.
- Ứng phó với môi trường tự nhiên: ở phạm vi làng làng là liên kết sản xuất cho kịpthời
vụ; ở phạm vi nước là chống thiên tai, ứng phó với bão lụt.
- Ứng phó với môi trường xã hội: ở cấp độ làng là chống trộm cướp; ở phạm vi quốcgia
là chống giặc ngoại xâm. * Về tính cộng đồng và tính tự trị:
+ Tính cộng đồng: coi mọi người trong làng như anh em một nhà đã chuyển thành ý thức
cộng đồng trong phạm vi quốc gia -> tinh thần đoàn kết toàn dân.
+ Tính tự trị: ý thức quốc gia rất mạnh -> ý thức độc lập dân tộc và lòng yêu nước mãnh
liệt; quốc gia và ranh giới quốc gia là rất đỗi thiêng liêng -> Ít quan tâm đến những vấn đề quốc tế.
* Về tổ chức bộ máy: Vua <- Lạc hầu, lạc tướng (Bộ) <- Già làng (Làng)
* Về pháp luật: đã có từ thời Hùng Vương; mỗi thời đều có bộ luật riêng; qua các
cơnbinh lửa, Luật Hồng Đức và Luật Gia Long đến nay vẫn còn được giữ lại.
2.2 Nước với truyền thống dân chủ của văn hóa nông nghiệp
2.2.1 Truyền thống dân chủ làm cho nhà nước Việt Nam giống với làng xã - Bộc lộ
trong quan hệ giữa lãnh đạo với người dân -> Vua đứng đầu nhưng vua Việt không quá
độc đoán như các vị vua phương Tây và Trung Hoa.
- Trong tiếng Việt, từ vua và từ bố xuất phát từ cùng một gốc: có nghĩa là cha, vừa
cónghĩa là thủ lĩnh của dân làng.
- Truyền thống dân chủ còn bộc lộ trong quan hệ giữa người dân với thánh thần; giữacon người với loài vật.
+ Dân thờ cúng thần thánh -> thần thánh phải có trách nhiệm phù hộ, nếu không, dân có
thể “kiện” thần thánh.
+ Trâu ơi ta bảo trâu này, Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta, Cấy cày vốn nghiệp nông
gia, Ta đây trâu đấy ai mà quản công, Bao giờ cây lúa còn bông, Thì còn ngọn cỏ ngoài
đồng trâu ăn…-> lời tâm sự bình đẳng thân tình của người nông dân với loài vật của mình.
2.2.2 Quan hệ tình cảm và tinh thần dân chủ còn thể hiện rõ trong luật pháp.
- Người nông nghiệp Việt Nam sống thiên về tình cảm nên ý thức pháp luật rất kém.
- Phương Tây là luật pháp. Ở ta là luật lệ.
2.2.3 Truyền thống dân chủ nông nghiệp còn thể hiện trong việc tuyển chọn người
vào bộ máy quan lại.
- Ở phương Tây, bộ máy quan lại phong kiến (với các tước vị công, hầu, há, tử, nam)
được bổ nhiệm theo lối cha truyền con nối.
- Còn ở Việt Nam và một số nước phương Đông thì việc tuyển chọn quan lại được
tiếnhành theo con đường thi cử.
* Thi cử trong thời kỳ phong kiến (Truyền thống) -
Thi Hương: Tổ chức ở tỉnh. Thi qua 3 kỳ gọi là sinh đồ - tú tài, thi qua 4 kỳ gọi
là cử nhân, đỗ đầu thi Hương gọi là Giải nguyên. -
Thi Hội: Tổ chức ở kinh thành, tổ chức 3 năm/1 lần. Thi Hội đỗ thì thành Tiến sĩ(
Tiến sĩ là kẻ sĩ có tài được tiến cử cho vua dùng). Đỗ đầu thi Hội gọi là Hội nguyên. Đỗ
tiến sĩ mới được dự vào thi Đình. -
Thi Đình: Thi tại triều đình nhằm xếp các tiến sĩ thành 3 loại gọi là Tam giáp:
tiến sĩđệ nhất giáp, tiến sĩ đệ nhị giáp, tiến sỹ đệ tam giáp. Bậc tiến sĩ cấp đệ từ 1244 lại
chia thành: Tam khôi, Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Đỗ đầu thi Đình gọi là Đình nguyên
2.2.4 Truyền thống văn hóa nông nghiệp trọng văn – kẻ sĩ được xem trọng trong xã hội. -
Kẻ sĩ được coi trọng nhất, đứng đầu danh mục các nghề trong xã hội: sĩ, công,
nông,thương. Võ sĩ thuần túy ít được để ý, văn sĩ khi cẩn có thể lo cả việc võ lẫn việc kinh tế. -
Nông đứng thứ hai. Là nghề cơ bản nuôi sống trí thức, nuôi sống cả cộng đồng
vàkiến tạo nên truyền thống văn hóa nông nghiệp -
Công và Thương được coi là nghề thấp kém. Sở dĩ, Công không được coi trọng
là vìcuộc sống nông nghiệp tự cấp tự túc, ít nhu cầu trao đổi hàng hóa nên sản xuất nông
nghiệp không được phát triển, chỉ dừng lại ở mức thủ công, nghề phụ. Thương là nghề
bị coi rẻ nhất: dĩ nông vi bản, dĩ thương vi mạt (lấy nông làm gốc, lấy thương làm ngọn).
=> Quan hệ nông-thương đặc biệt này trong xã hội Việt Nam còn thể hiện rõ hơn trong
lĩnh vực tổ chức đô thị.
III. Tổ chức đô thị
3.1 Đô thị Việt Nam trong quan hệ với Quốc gia
- Nguồn gốc: phần lớn do nhà nước sinh ra. Các đô thị lớn nhỏ ra đời vào các giaiđoạn
khác nhau như: Văn Lang, Cổ Loa, Luy Lâu, Thăng Long, Phú Xuân (Huế),… Các đô
thị mới như Xuân Mai, Xuân Hòa... đều được hình thành theo con đường như thế.
- Chức năng: thực hiện chức năng hành chính là chủ yếu.
+ Trong đô thị có bộ phận làm quản lí và bộ phận làm kinh tế. Bộ phận quản lí hình
thành trước theo kế hoạch rồi dần dần, một cách tự phát, bộ phận làm kinh tế mới được hình thành.
- Quản lý: do nhà nước quản lý
+ Nhà nước đặt ra độ thị nên nhà nước sẽ quản lý và khai thác nó (thông qua bộ máy
quan lại). Ngay cả một số ít đô thị hình thành tự phát do ở vào những địa điểm giao
thông buôn bán thuận tiện như: Vĩnh Bình (Lạng Sơn), Vân Đồn (Quảng Ninh), Phố
Hiến (Hưng Yên) và Hội An thì ngay sau khi hình thành, nhà nước cũng lập tức lập đặt
ra bộ máy cai trị trùm lên để nắm trọn quyền kiểm soát và khai thác 3.2 Đô thị Việt
Nam trong quan hệ với Nông thôn
3.2.1 Nông thôn Việt Nam không thể tự thân trở thành đô thị
- Ở Việt Nam, có những Làng thực hiện chức năng đô thị - các làng công thương (làng
Bát Tràng – làm đồ gốm, làng Bưởi - làm giấy, làng Nhị Khê – làm nghề tiện,…)
- Nhưng các làng này không thể trở thành đô thị được vì tính cộng đồng ( cả làng
cùnglàm một nghề: sản xuất cùng một sản phẩm, buôn cùng một mặt hàng. Không có
sự trao đổi hàng hóa nội bộ thì không thể trở thành đô thị được)
- Mặt khác, do tính tự trị, dân cư sống tự cấp, tự túc, khép kín nên không thể trở thànhđô thị
3.2.2 Nông thôn không chỉ kìm giữ không cho làng xã phát triển thành đô thị, mà
còn chi phối cả đô thị -
Nông thôn khiến đô thị chịu ảnh hưởng của nông thôn và mang tính nông thôn đậm nét -
Tổ chức hành chính cũng sao phỏng theo tổ chức nông thôn: Phủ - huyện - tổng – thôn
3.2.3 Đô thị Việt Nam truyền thống luôn có nguy cơ bị nông thôn hóa -
Trong huyết quản, người dân thành thị vẫn mang bản chất, tính cách người nông
thôn– chúng luôn được bộc lộ ra mỗi khi có điều kiện. -
Người Việt Nam truyền thống gắn bó với làng xã, vốn coi thường dân ngụ cư
nênthời xưa, người dân không coi trọng đô thị; dưới con mắt họ, đô thị là nơi hội tụ của
dân “tứ chiếng giang hồ”. Tâm lý “trọng nông - ức thương” được thể hiện khắp mọi nơi.
Hiện tượng coi thường đô thị và “nông thôn hóa đô thị” này trái hẳn với tình hình ở
phương Tây nơi mà đô thị luôn được nông thôn ngưỡng mộ và có sứ mệnh đô thị hóa nông thôn.
3.3 Quy luật chung của tổ chức xã hội Việt Nam truyền thống
- Văn hóa tổ chức đời sống tập thể ở Việt Nam tạo nên những nhóm lưỡng phân với
quan hệ âm dương giữa các yếu tố trong mỗi cặp: Quốc gia bao gồm nông thôn (tĩnh
tại, khép kín – âm) và đô thị (năng động, cởi mở - dương); nông thôn gồm làng thuần
nông (khép kín, hướng nội – âm) và làng công thương (cởi mở, hướng ngoại – dương);
đô thị bao gồm bộ phận quản lý (tĩnh tại – âm) và bộ phận làm kinh tế (năng động – dương).
- Âm luôn mạnh hơn dương (khả năng bảo tồn mạnh hơn khả năng phát triển). - Tiền đề
trên giải thích về nguồn gốc sức mạnh Việt Nam là lý do tại sao Việt Nam lại là một
quốc gia chậm phát triển
- Âm mạnh hơn dương (âm thịnh thì dương suy).
- Sự bảo thủ, kìm giữ sức vươn lên của xã hội Việt Nam truyền thống.