VẤN ĐỀ 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TƯ PHÁP LA
Nguyên nhân dẫn tới thành công của tư pháp La mã
1. Lãnh thổ La mã qua nhiều thời kỳ được mở mang đất đai rộng lớn thuận lợi cho phát
triển nông nghiệp.
2. Lãnh thổ nằm bên bờ Địa Trung Hải giúp cho La mã có thể thông thương thuận lợi với
nhiều nước thuộc nhiều châu lục khác nhau.
3. La mã là nhà nước chiếm hữu nô lệ, có nguồn cung cấp sức lao động nô lệ to lớn thu
được từ các cuộc chiến tranh.
4. Truyền thống dân chủ có sớm đã giúp cho người dân La mã có được trình độ nhận thức
pháp lý cao, sớm biết sử dụng các công cụ pháp lý nhằm bảo vệ lợi ich chinh đang của mình;
5. Nền văn minh La mã có được sự giao lưu kế thừa nhiều nét ưu việt của nhiều nền văn
minh lớn xung quanh như văn minh Hy-lạp, Trung quốc, Ấn độ, ...
6. Chế độ tư hữu đối với tư liệu sản xuất được coi trọng và bảo vệ một cách vô cùng thiêng
liêng là động lực thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh, sáng tạo.
I. Lịch sử nhà nước La mã
1. Thời kỳ vương chính (753 - 510 TCN)
Buổi khởi đầu chỉ là một thành thị nằm bên bờ sông Tiber (ở miền trung Italia ngày nay), nơi
quần cư của 3 bộ lạc (tribus): Liguri, Iapigi, Etruria.
- Mỗi bộ lạc bao gồm 10 bào tộc (curiae).
- Mỗi bào tộc là được chia ra làm 10 thị tộc (gentes). 3 bộ lạc (tribus) - 30 bào tộc
(curiae) - 300 (gentes) * Nhà nước bao gồm ba cơ quan:
- Đại hội Nhân dân (Comitia Curiata):
+ Bao gồm tất cả những người đàn ông của cả 300 thị tộc.
+ Đại hội curiae có quyền quyết định những vấn đề quan trọng trong đời sống xã hội của người
La mã như: tuyên chiến hay nghị hoà, xét xử, tế lễ, bầu ra một ông vua mới.
- Viện nguyên lão (Senatus):
+ Bao gồm 300 thủ lĩnh của 300 thị tộc
+ Là cơ quan quyền lực tối cao, có quyền quyết định hầu hết các công việc quan trọng của
người La mã, được quyền thảo luận trước về những đạo luật, quyền phê chuẩn hoặc phủ quyết
những nghị quyết của đại hội nhân dân.
- Vua (Rex):
+ Do đại hội curiae bầu ra, không được cha truyền con nối và cũng có thể bị đại hội curiae bãi
miễn. Thực chất đây chỉ là thủ lĩnh quân sự của liên minh 3 bộ lạc.
- Mâu thuẫn giữa dân La mã gốc (Quiritium) với người ngoại lai (Peregrinii)
- Người ngoại lai đến làm ăn, sinh sống trên lãnh thổ La Mã ngày càng đông. Họ
mang theo nguồn vốn, kỹ năng thủ công, kinh nghiệm buôn bán đến lập nghiệp trên
lãnh thổ La Mã. - Người ngoại lai ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sự phát
triển kinh tế La Mã
- Người ngoại lai bị coi là “kẻ thù tiềm tàng” của nhà nước La Mã. Họ không được
thừa nhận bất cứ quyền nào.
2. Thời kỳ Cộng hòa La mã (510 TCN - 44 TCN)
Cải cách của Servius Tulius: Chia người dân thành 6 đẳng cấp khác nhau căn cứ theo mức tài
sản tư hữu:
- Đẳng cấp 1: Có từ 100.000 as trở lên; - Đẳng cấp 2: Có từ 75.000 as trở lên. -
Đẳng cấp 3: Có từ 50.000 as trở lên;
- Đẳng cấp 4: Có từ 25.000 as trở lên;
- Đẳng cấp 5: Có từ 11.500 as trở lên;
- Đẳng cấp 6: Dưới 11.500 as và là những bình dân nghèo khó nhất.
- Đẳng cấp 1: 80 Centeuria bộ binh và 18 Centuria kỵ binh, chiếm 98 trên tổng số 193
Centeuria
- Đẳng cấp 2: 22 Centeuria bộ binh
- Đẳng cấp 3: 22 Centeuria bộ binh
- Đẳng cấp 4: 20 Centeuria bộ binh
- Đẳng cấp 5: 30 Centeuria bộ binh
- Đẳng cấp 6: 1 Centeuria bộ binh
* Tổng số: 193 Centeuria (trong đó Đẳng cấp 1 chiếm 98 Centeuria)
- Mỗi Centeuria có quyền biểu quyết ở đại hội bằng 1 lá phiếu.
Đại hội nhân dân Sen-tu-ria (Comitia Centuriata)
+ Mỗi Centuriae được cử 1 đại diện
+ Họp 1 năm 2 lần tại Quảng trường Mars
+ Quyết định những vấn đề cơ bản của xã hội La mã như tuyên chiến hay nghị hoà, bầu các
quan chức trong bộ máy nhà nước.
+ Bầu ra hai quan chấp chính (Consul) trong hàng ngũ đại quý tộc La mã với nhiệm kỳ 1 năm
Viện nguyên lão (Senatus)
+ Bao gồm 300 người thuộc tầng lớp quý tộc giàu có.
+ Là cơ quan thường trực của Đại hội Senturia
+ Thực thi mọi công việc hành chính, ngân sách, ngoại giao, quân sự, lễ
nghi, tôn giáo,
* Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước (Magitratus).
1) Consul – Hai quan chấp chính tối cao do đại hội Senturia bầu ra theo nhiệm kỳ 1 năm. Hai
consul này nắm giữ quyền lực tối cao trong các vấn đề quân sự (tuyển quân đội, cầm quân đi
chinh chiến ...), triệu tập và chủ trì các phiên họp của đại hội centuri và của viện nguyên lão.
2) Praetor – Cac quan chức được coi là phó cho hai consul, nhưng trên thực tế lại là cac quan
trực tiếp thực hiện việc quản lý điều hành đất nước (bởi vì hai consul thường xuyên mang
quân đi chinh chiến xa), thực hiện mọi chức năng quản lý của consul khi consul vắng mặt
như: triệu tập họp đại hội Senturia và viện nguyên lão, quản lý mọi mặt trong nước, ban hành
văn bản pháp luật, xét xử, xử phạt, ..
3) Sensor – cac quan chức kiểm duyệt thực hiện chức năng quản lý dân số, phân chia dân số
theo cac Senturia và tribus, phân loại công dân theo đẳng cấp, độ tuổi, tài sản, quản lý danh
sách Viện nguyên lão
4) Edill – Cac quan chức bảo an thực hiện chức năng giam sat trật tự công cộng, chống hoả
hoạn, giám sát việc cung cấp lương thực cho thành phố, quản lý việc buôn ban (bằng cach
ban hành các edicta)
5) Quaestor – cac nhân viên trợ lý giúp việc cho các consul trong các lĩnh vực xét xử hình sự,
quản lý ngân sách và dự trữ quốc gia.
6) Tribun - Cac quan thanh tra chuyên giám sát hoạt động của các magister trên.
- Mâu thuẫn trong xã hội: Giữa tầng lớp bình dân (pleb) và tầng lớp quý tộc (patricia).
- Về thực chất khi đó đã tồn tại đồng thời ba cơ quan đại hội:
+ Comitia Centuriata – do tầng lớp quý tộc patricia độc chiếm (có quyền bầu ra Consul,
Praetor, Sensor);
+ Concilia plebis tributa – của tầng lớp bình dân plebs, được quyền bầu ra cac Tribun;
+ Comitia tribita - Đại hội chung của cả hai tầng lớp bình dân plebs và patricia, được quyền bầu
ra Quaestor và Edill
- Năm 445 TCN, Đạo luật Canuleus đã được ban hành, cho phép người bình dân plebs được
quyền tự do kết hôn với những người ở tầng lớp quý tộc patricia.
- Năm 450 TCN, trước áp lực của những người bình dân và đại hội bình dân, Viện nguyên lão
đã đi đến quyết định cải tổ lại luật phap theo hướng cải cách Xôlông ở Aten (Hylạp). Kết quả
là một luật mới, hoàn chỉnh đã được ban hành – luật thành văn đầu tiên của lịch sử La mã -
Luật 12 bảng (Duedecim Tabulae).
- Mâu thuẫn giữa hai phe:
+ Phe quý tộc chủ nô ruộng đất ;
+ Phe quý tộc chủ nô công thương kỵ sĩ
- Kết cục của cuộc tranh đấu đó là phe quý tộc chủ nô công thương kỵ sỹ thắng thế, nền độc tài
Caesar được thiết lập.
- Tháng 3 năm 44 TCN, phe quý tộc ruộng đất lập mưu đâm chết Caesar.
- Cái chết đột ngột của Caesar đã tạo ra một bước ngoặt mới của lịch sử La mã. Octavianus trở
thành kẻ thống trị duy nhất ở La mã. Tuy không tự xưng là Hoàng đế, nhưng trong thực tế,
Octavianus đã nắm trong tay những quyền hạn của một ông hoàng thực thụ:
+ Tổng chỉ huy quân sự (Imperator), + Quan
chấp chính và quan bảo dân vĩnh viễn, + Tổng
giáo chủ toàn La mã ...
+ Viện nguyên lão còn suy tôn ông là “quốc phụ”.
- Tuy nhiên, Octavianus không dám coi thường ngay truyền thống dân chủ hình thành nhiều thế
kỷ dưới cộng hòa, chỉ dám coi mình là người số một trong danh sách công dân - Princeps. Bởi
thế, chế độ chính trị thời này thường được gọi là Principalis (chế độ nguyên thủ)
+ Gaius Octavius
+ Gaius Julius Caesar Octavianus
+ Augustus Julius Caesar Octavianus
3. Thời kỳ đế chế (năm 30 TCN - TK VI)
Cuối thế kỷ III – đầu thế kỷ IV, đế quốc La mã bước vào thời hậu kỳ đế chế.
Các Hoàng đế đã:
- Vứt bỏ hoàn toàn chiếc áo khoác dõn chủ
- Ra sức tăng cường chế độ quân chủ chuyên chế
- Tập trung cao độ mọi quyền lực vào tay mình
Tước bỏ dần những quyền hạn của Viện nguyên lão
Bắt đầu kiểu sống xa hoa của các hoàng đế phương Đông
- Số lượng nô lệ ngày càng giảm sút vì những cuộc chiến tranh không diễn ra ồ ạt như giai đoạn
trước.
- Biên giới của đế quốc La mã đã vươn khá xa, vượt qua khả năng cai quản của La mã.
- Chất lượng và khả năng lao động của nô lệ cũng giảm sút nghiêm trọng.
- Phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ không thể làm cho kỹ thuật canh tác tiến bộ lên, công
cụ sản xuất vẫn thô kệch, nặng nề (để nô lệ đỡ làm phá hỏng).
* năm 330, hoàng đế Constantinus dời kinh đô từ Roma sang Byzantium - thành phố thực
dân của người Hy lạp ở eo biển Bôtxpho - đổi tên là thành Constantinopolis..
* Đến năm 395, hoàng đế Teododius (379-395) đã chia đế quốc La mã thành 2 phần và
trao cho 2 người cai quản: Accadius - con trưởng - được cai quản nửa phía đông với thủ đụ là
Constantinopolis. Còn Hononius được cai quản nửa phía tây, thủ đô là Roma.
* Từ đó, đế quốc La mã hùng cường xưa kia chính thức được chia thành 2 nửa, thực chất
là 2 nước; Tây bộ La mã và Đông bộ La mã (sau gọi là Byzantium) với những vận mệnh lịch sử
khác nhau.
- Cuộc di dân của cả bộ lạc người Gecman đóng vai trò quan trọng đối với sự diệt vong của đế
quốc Tây bộ La mã. Người Gecman bao gồm các bộ lạc Gốt, các bộ lạc Văngđan, Phơ răng,
AngllôXắc xông, Buốc gông,...
- Ngay từ thế kỷ III, người Gốt dã thiên di xuống vùng Ban-căng và người Phơrang đã tràn vào
xứ Gôlơ. Chính quyền La mã đã phải đồng ý cho họ định cư trên lãnh thổ La mã với tư cách là
“bạn đồng minh” của La mã.
- Đến giữa thế kỷ IV, khi bộ tộc Hung nô vượt biển Caspie đột nhập khu vực Đông - Nam Âu,
các tộc người Giecsman vội vã di cư ồ ạt vào sâu trong lãnh thổ của đế quốc La mã, đúng lúc
đế quốc La mã đang ở trong trạng thái khủng hoảng sâu sắc.
- Phong trào địa chiến thiên di dân tộc của các tộc người Giecman đã diễn ra liên tục trong 2 thế
kỷ IV và V, đợt nọ nối tiếp đợt kia và liên tiếp xâm chiếm những vùng lãnh thổ Đế quốc La
mã.
- Dân nghèo và nô lệ ở những vùng đất này, vốn đã quá cực khổ dưới sự thống trị của La mã, đã
ủng hộ và coi những người Giecman như những vụ “cứu tinh” của họ.
- Kết quả là hình thành nhiều quốc gia mới:
+ Vương quốc Visigoths (Tõy gốt)ở Tây Ban Nha
+ Vương quốc Vandanls (Van-đan)ở Bắc Phi;
+ Vương quốc Franks (Phơ-răng)ở miền bắc xứ Gôlơ
+ Vương quốc Burgundians (Buốcgụng) ở đông nam xứ Gôlơ;
+ Vương quốc Anglo-Saxons (Ănglụ-Xắc xụng) ở đảo Britania;
+ Vương quốc Ostrogoths (Đông Gốt) ở Italia
- Đến năm 476, thủ lĩnh của người Giécman đã lật đổ vị hoàng đế cuối cùng của đế quốc Tây La
mã là Romulus Ogustulus. Sự kiện này đánh dấu sự diệt vong của đế quốc Tây bộ La mã.
- Đế quốc Đông La mã tiếp tục tồn tại ngót 1.000 năm nữa, trở thành Đế quốc Byzantium trong
lịch sử trung đại, mãi tới năm 1453 mới bị Thổ nhĩ kỳ chinh phục.
Phân biệt luật công với luật tư
LUẬT CÔNG
LUẬT
Luật công điều chỉnh các quan hệ liên quan
đến lợi ích của quốc gia La mã nói chung:
chủ quyền quốc gia, cơ cấu tổ chức nhà
nước La mã,...
Luật tư điều chỉnh các quan hệ liên quan đến
lợi ích của tùng cá nhân trong xã hội La mã.
Luật công quy định thẩm quyền của các cơ
quan nhà nước như nghị viện, các Hội đồng
nhân dân địa phương, tổ chức quân đội,
quản lý ngân khố nhà nước, accs quy định
về bầu cử và bổ nhiệm các chức sắc trong
hệ thống quản lý nhà nước,...
Luật tư điều chỉnh các quan hệ mua bán, trao
đổi, vay mượn, thuê mướn, thừa kế, sở hữu,
quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia
đình,...
Các quy định của luật công mang tính chất
nhất quán, bắt buộc. các quy định đó không
thể bị thay đổi theo thỏa thuận của các chủ
thể. Các chủ thể chỉ được phép tuân thủ,
thực hiện các quy định bắt buộc
các quy định của luật tư cho phép các chủ
thể của quan hệ được thỏa thuận để xác lập,
thay đổi nội dung của quan hệ (xác lập, thay
đổi các quyền và nghĩa vụ chủ quan của các
chủ thể). Nguyên tắc tự nguyện, thỏa thuận.
Hệ thống luật (Jus privatum)
- Luật dân sự (Jus Civile): Dành cho công dân La mã sống trong thành La mã.
_ Luật vạn dân (Jus Peregrinorum hay Jus gentium): dành cho người ngoại lai sống trong thành
La mã.
- Luật các tỉnh lân bang (Jus Provincii): Dành cho công dân La mã sống ở các vùng lãnh thổ mà
La mã chiếm được.
Các chế định cơ bản của tư pháp La mã
- Địa vị pháp lý và năng lực của các chủ thể
- Vật và các vật quyền
- Trái quyền và Hợp đồng
- Hôn nhân và gia đình
- Thừa kế
- các thủ tục tố tụng và các phương thức kiện
Lịch sử pháp triển của tư pháp La mã 1.
Giai đoạn cổ đại (753 TCN - 367 TCN)
+ Mang nặng tính dân tộc.
+ Mang đậm nét tôn giáo.
+ Hiệu lực của các quan hệ giao dịch thời cổ đại phụ thuộc rất nhiều vào các thủ tục hình thức
mang tính chất bắt buộc.
+ Hệ thống luật còn ở giai đoạn sơ khai, còn đơn giản và chưa phát triển. Các hợp đồng dân sự
chỉ gồm 3 loại chính là nexum, mancipatio và legata.
+ Tinh lệ thuộc vào các phương thức kiện: có phương thức kiện thì có quyền, không có phương
thức kiện thì không có quyền (hay có quyền cũng vô ich)
+ Nguồn chính của giai đoạn này là các tập quán.
Luật quan trọng nhất được ban hành giai đoạn cổ đại là Luật 12 Bảng (năm 451 –450 trước
C.N.)
Vào năm 367 TCN ban hành luật Lex Licinia Sextiae, thiết lập chức quan praetor urbanus - tiền
thân của hệ thống TA ngày nay.
2. Giai đoạn Tiền Cổ điển (367 TCN - 17 TCN)
- Từ 367 TCN - 17 TCN
- Nếu chiếu sang lịch sử nhà nước La mã thì đây chính là giai đoạn phát triển nhất, sau đó suy
vong của chế độ Cộng hòa La mã.
- Đối với lịch sử pháp lý La mã thì đây là giai đoạn thiết lập các hình thức mới của giao dịch
dân sự và của khoa học pháp lý nói chung.
- Những hợp đồng được giao kết theo ý chí của các bên mà không tuân thủ theo các nghi lễ
mang nặng tính hình thức của thời kỳ trước, nay cũng được công nhận hiệu lực pháp lý và
được sư bảo vệ của quan chấp chính thành phố (praetor urbanus), với những hợp đồng giữa
các công dân La mã, hay quan chấp chính ngoại lai (praetor peregrinus - được thiết lập vào
năm 242 TCN), với những hợp đồng mà một trong hai bên không phải là công dân La mã. -
Vào nửa sau của thế kỷ II TCN Lex Aebutia được ban hành thiết lập thể thức tố tụng mới - tố
tụng công thức (per formulas).
- Vào năm 17 TCN có ban hành Leges Iuliae de iurisdictiones (luật về cải tổ thủ tục khiếu kiện,
theo đó thủ tục tố tụng theo thể thức hai giai đoạn (per legis actiones) chính thức bị bãi bỏ. Sự
kiện này cũng đặt dấu chấm hết cho giai đoạn tiền cổ điển.
3. Giai đoạn Cổ điển (17 TCN - 235 SCN)
- Năm 17 TCN – 235 SCN
- Nếu chiếu sang lịch sử nhà nước La mã thì giai đoạn này trùng với giai đoạn nguyên thủ
(Principalis)
- Sau khi bãi bỏ thể thức tố tụng hai giai đoạn (Leges Iuliae de iurisdictiones vào năm 17 TCN)
thì thể thức tố tụng theo công thức được coi là thể thức duy nhất được áp dụng.
- Trong thế kỷ I TCN, một số hợp đồng của hệ thống Jus Gentium (như hợp đồng vay tài sản,
hợp đồng gửi giữ, hợp đồng cầm cố) được chính thức công nhận ngang hàng với Jus civile.
- Hoàng đế tự ban hành một số những sửa đổi bổ sung quan trọng vào hệ thống luật. VD như
quyền chủ thể, quan hệ hôn nhân, quan hệ thừa kế, trách nhiệm theo hợp đồng,...
- Hoàng đế cho phép một số luật gia được chiếm những chức vụ cao trong bộ máy nhà nước,
trực tiếp tham gia vào công việc quản lý đất nước.
- Trong khoa học tư phap dần hình thành hai trường phái (scholae) khac nhau là :
+ Trường phái Sabiniani mà người sáng lập là Gaius Cassius Longinus.
+ Trường phái Proculiani mà người sáng lập là Labeon.
- Giai đoạn này là giai đoạn có nhiều nhất các công trình nghiên cứu có gia trị trong lĩnh vực tư
phap. Các khái niệm pháp lý được nghiên cứu sâu sắc nhất. Từ “cổ điển” nói lên đóng góp to
lớn nhất cho nền tư pháp La mã trong giai đoạn này.
• Vào năm 235 SCN được ban hành Constitucia Alecxandra Xevera chính thức công nhận các
sắc dụ của các chức quan praefectura có hiệu lực như nguồn chính thức của hệ thống luật tư
pháp.
4. Giai đoạn Hậu Cổ điển (thế kỷ 4-5)
- Thế kỷ IV – V sau C.N.
- Đây là giai đoạn mờ nhạt nhất trong lịch sử phát triển của luật dân sự La mã. Vào thời kỳ này
tính sáng tạo của các luật gia hầu như không thể hiện. Quan hệ pháp luật chủ yếu dựa trên cac
tư liệu là thành quả đạt được của giai đoạn trước. Ngay việc phân tách riêng giai đoạn này
cũng chủ yếu nói lên cách nhìn nhận không có cảm tình của các nhà nghiên cứu với giai đoạn
đó.
- Các hoàng đế giai đoạn này đã tiến hành một số cải cách nhỏ chỉ mang tính chất hành chính
như: liên kết một số tỉnh nhỏ lại để tạo thành tỉnh lớn, cải cách hệ thống thuế, hệ thống tài
chính (không mang lại kết quả), hình thành bộ phận chuyên môn kỹ thuật trong quân đội,..
5. Giai đoạn Justinian (547-565)
- Năm 527 –565
- Khi Hoàng đế Justinian lên nắm quyền thì văn hóa pháp lý mới được đẩy mạnh, khoa học
pháp lý bắt đầu khởi sắc sau nhiều năm bị chững lại.
- Mục đích: Nhằm mục đích ổn định hóa hệ thống pháp luật, hoàng đế chú trọng hơn đến việc
kế thừa một cách hệ thống các di sản pháp lý của các thế hệ trước để lại.
- Các văn bản pháp lý thời đó rất nhiều, đa dạng, từ nhiều nguồn khác nhau gây khó khăn cho
việc áp dụng. Hoàng đế Justinian là người đã nhận ra được sự cần thiết phải hệ thống hóa lại
tất cả các văn bản đó vào một hệ thống theo một logic nhất quán.
- Ra đời bộ tập hợp Corpus iuris civilis – Bộ luật dân sự đồ sộ nhất của Luật La mã.
- Cấu trúc của Bộ Corpus Iuris Civilis mang tên Hoàng đế Justinian: 4 phần
1. Instituciones – Tập hợp các giáo trình về tư pháp (Năm 533, 4 cuốn)
2. Digesta – Tập hợp các công trình nghiên cứu (Năm 533, 50 cuốn)
3. Codex – Tập hợp các luật và các sắc dụ (Năm 534, 12 cuốn)
4. Novellae – Các văn bản bổ sung
Nguồn của Luật La mã
Nguồn của Tư pháp La Mã bao gồm:
1. Tập quán:
+ Mores maiorum – tập quan tổ tiên
+ Commentarii pontificum – tập quán của các vị tư tế;
+ Commentarii magistratuum – tập quán của các quan chấp chính
2. Luật của cac Comitia và của Hoàng đế
- Duedecim Tabulae – Luật 12 bảng
- Lex … – Các đạo luật dưới thời Cộng Hòa (do cac Comitia ban hành)
- Senatuconstum … - Luật dưới thời kỳ Nguyên thủ (do Senatus ban hành)
- Constitutio … – Luật dưới thời Đế chế (do các Hoàng đế ban hành
3. Sắc dụ của cac quan chấp chính
- Edicto praetorum – Do các quan Praetor ban hành
- Edill – Do các quan bảo an địa phương ban hành
4. Hoạt động của các luật gia
- Respondere - Tư vấn pháp lý (đưa ra những lời khuyên cho người dân)
- Cavere - Hỗ trợ pháp lý cho giao dịch (giúp soạn thảo hợp đồng, soạn các văn bản khác nhau)
- Agere - Tư vấn tố tụng cho các đương sự tại phiên tòa (nhưng không đại diện với tư cách luật
sư)
VẤN ĐỀ 2: CHỦ THỂ TRONG TƯ PHÁP LA
I.Cá nhân
- Cá nhân là chủ thể quan trọng nhất trong quan hệ pháp luật dân sự La mã.
- Các luật gia La mã thường thống nhất nguyên tắc chung là “Mọi quy định của pháp luật đều
được thiết lập cho con người”
(“Omne jus hominum causa constitutum est”).
- Tuy nhiên, không phải con người bất kỳ nào cũng đều được coi là chủ thể của quan hệ pháp
luật dân sự. Để được phép tham gia vào các quan hệ đó, nói cách khác nữa, đẻ được nhà nước
công nhận vào bảo vệ các quan hệ mà cá nhân xác lập, thì cá nhân đó phải có được những tư
cách nhất định - đó là tư cách chủ thể
- Khi phân tích đến tư cách chủ thể của một cá nhân thì luật La mã chưa hề sử dụng khái niệm
năng lực pháp luật và năng lực hành vi như luật dân sự hiện đại.
- Tuy nhiên, các quy định về năng lực chủ thể thời đó cũng xoay quanh hai yếu tố cơ bản cấu
thành là khả năng có được quyền và khả năng thực hiện các quyền đó.
- Do đó hai khái niệm “năng lực pháp luật’ và “ năng lực hành vi” vẫn có thể sử dụng được một
cách tương đối phục vụ cho việc phân tích năng lực chủ thể của cá nhân dưới thời La mã
II. Năng lực pháp luật dân sự (CAPUT)
- Nội dung của NLPLDS
+ Jus commercii - Quyền được kinh doanh buôn bán, quyền được xác lập và thực hiện giao dịch
dân sự, quyền có tài sản và trở thành chủ sở hữu tài sản thu được.
+ Jus connubii - Quyền được kết hôn, quyền được kết hôn, quyền của con cái được công nhận là
công dân theo cha mẹ, quyền của gia chủ đối với các thành viên trong gia đình. - Năng lực
pháp luật của cá nhân dưới thời La mã được cấu thành bởi ba yếu tố là:
+ Địa vị tự do
+ Địa vị công dân
+ Địa vị gia đình
1.Địa vị tự do
- Chỉ những người tự do mới được coi là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự - Nguyên tắc đó
loại trừ một loạt những người thuộc đẳng cấp thấp hèn nhất - nô lệ.
- Nô lệ (serus) không phải chủ thể, mà là khách thể của quan hệ pháp luật dân sự.
- Nô lệ không pahir là personna, mà là res.
- Chủ nô có quyền định đoạt số phận nô lệ: quyền sinh, quyền sát, quyền bán, trao đổi, tặng cho,
cho thuê, cho mượn, để lại thừa kế,..
- Về phương diện cá nhân thì nô lệ không pahir là những cá thể, không có tình cảm, không danh
dự nhân phẩm, uy tín. Nô lệ không có đời sống riêng, mà chỉ có sự tồn tại mà thôi.
Quyền của chủ nô là quyền sở hữu nói chung như đối với các đồ vật khác.
- Thậm chí tư cách của nô lệ không hề phụ thuộc vào tư cách chủ nô: mộ người là nô lệ ngay cả
khi không có ai là chủ (khi chủ nô chết, khi chủ nô từ bỏ). Khi đó nô lệ vẫn là nô lệ như những
đồ vật vô chủ khác. Bất cứ người tự do nào cũng có quyền bắt về cho mình. - Nô lệ không
được công nhận quan hệ hôn nhân gia đình: không cưới xin, không được công nhận là vợ
chồng.
- Sự khác biệt giữa nô lệ với các đồ vật khác:
+ Một số quy định hạn chế không cho phép mua bán tách riêng cha mẹ với con cái của nô lệ,
nghiêm cấm các nô lệ huyết thống gần không được quan hệ với nhau như vợ chồng. + Dưới
thời đế chế có ban hành một số quy định cấm giết hoặc trừng phạt nô lệ mà không có lý do.
+ Việc bạc đãi quá đáng nô lệ, làm cho nô lệ phải chạy trốn vào nhà thờ xin cứu giúp, có thể là
nguyên nhân làm cho chủ nô buộc phải bán nô lệ đó sang tay chủ nô khác.
+ Hoàng đế Clavdia còn ban hành quy định rằng những nô lệ già yếu bệnh tật bị chủ nô từ bỏ có
thể được công nhận là người tự do.
- Về phương diện tài sản thì nô lệ không thể có tài sản riêng của mình, và cũng không thể có
các quyền về tài sản.
- Nô lệ chỉ có thể có quyền nhận hoặc trao tài sản nhận danh chủ nô và vì lợi ích của chủ nô. -
Đối với các quan hệ hợp đồng thì chủ nô hoàn toàn không phải chịu trách nhiệm gì cả. Hơn
thế nữa không ai có thể kiện nô lệ về việc nô lệ đó thực hiện nghĩa vụ hợp đồng.
2. Địa vị công dân
- Nhằm phân biệt công dân La mã với những người ngoại lai (peregrinii)
- Chỉ có công dân La mã mới được hưởng toàn vẹn các quyền công dân và được trở thành chủ
thể của các quan hệ dân sự, được điều chỉnh bởi Jus Civilis.
- Mọi người ngoại lai, người không phải là công dân La mã trên nguyên tắc đều phải được coi là
hostis, tức là kẻ thù tiềm tàng của quốc gia La mã.
- Người ngoại lai bị gạt khỏi không những đời sống chính trị, (không được tham gia nghị
viện,không được tham gia ứng cử vào các chức quan, không được đi lính và hưởng chiến lợi
phẩm,...) mà còn bị gạt cả ra khỏi đời sống kinh tế (không được quyền khởi kiện khi các quyền
lợi kinh tế bị xâm phạm.
3. Địa vị gia đình
- Cá nhân có quyền lực (persona sui juris) duy nhất chỉ là gia chủ. Đối với mọi thành viên trong
gia đình thì gia chủ là ông chủ tuyệt đối. Quyền lực của gia chủ là tuyệt đối và giống nhau đối
với cả đồ vật lẫn thành viên trong gia đình.
- Trong quan hệ dân sự thì chỉ có gia chủ là chủ thể toàn năng duy nhất có quyền xác lập các
giao dịch dân sự do chính bản thân mình.
Khác với nô lệ, các thành viên khác trong gia đình (vợ, các con, các cháu) cũng có thể xác lập
giao dịch nhân danh chính bản thân mình như một chủ thể độc lập, thế những các giao dịch đó
chỉ nhằm mang lại quyền lợi cho gia chủ mà thôi.
Nếu như gia chủ có giao tài sản nào đó cho một thành viên quản lý độc lập, thì tài sản đó cũng
chỉ được coi như là pecunium như giao cho nô lệ, vẫn thuộc sở hữu của gia chủ và gia chủ có
thể lấy lại bất cứ lúc nào.
- Các quan hệ trách nhiệm dân sự của các thành viên lệ thuộc trong gia đình cũng tương tự như
của nô lệ. Theo nguyên tắc chung thì gia chủ không chịu trách nhiệm về các hành vi của thành
viên. Gia chủ chỉ phải chịu trách nhiệm trong một số trường hợp cụ thể tương tự như chịu
trách nhiệm đối với hành vi của nô lệ.
VD: Khi các thành viên gây thiệt hại cho tài sản người khác, thì gia chủ hoặc phải bồi thường,
hoặc giao thành viên đó cho người bị thiệt hại.
- Quan hệ chi phối quyền lực. Tất cả những ai chịu sự chi phối quyền lực của gia đình thì đều
được coi là họ hàng của nhau, đều được coi là thành viên của gia đình.
VD:
+ Con nuôi nhận về được hưởng mọi quyền như con đẻ
+ Con gái đi lấy chồng thì chấm dứt mọi quan hệ với gia đình cha mẹ đẻ, kể cả quan hệ thừa
kế.
- Các thành viên trong gia đình được chia thành hai loại:
+ Agnatio - Quan hệ họ hàng theo quyền lực gia chủ (hay còn gọi là họ hàng pháp lý) +
Cognatio - Quan hệ họ hàng theo huyết thống. Hạn chế năng lực pháp luật dân sự của cá
nhân
+ Maxima - Mất địa vị tự do (tất nhiên kèm theo đó là đương nhiên mất luôn cả địa vị công
dân và địa vị gia đình)
+ Madia - Mất địa vị công dân (kèm theo đương nhiên mất luôn địa vị gia đình) +
Minima - Mất địa vị gia đình. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân - Độ tuổi:
+ Trẻ em dưới 7 tuổi (infantes): hoàn toàn không có năng lực hành vi. Họ không được
quyền tham gia mọi giao dịch dân sự.
+ Nam từ đủ 7 - 14 tuổi, Nữ từ đủ 7 -12 tuổi (impuberes): có năng lực hành vi một phần.
Những người này chỉ được tham vào các giao dịch nào chỉ mang lại quyền chứ không
chịu nghĩa vụ cho họ. Nói cách khác, họ chỉ được tham gia vào các giao dịch đơn thuần
chỉ mang lại lợi ích cho bản thân. Đó là các giao dịch dẫn tới thiết lập quyền đối với tài
sản (bên nhận của hợp đồng tặng cho, mua đồ dùng sinh hoạt thiết yếu,...). Đối với các
giao dịch khác thì họ chỉ được tham gia khi được đồng ý của người bảo trợ (cha mẹ hoặc
người giám hộ).
+ Nam từ 14 (nữ từ 12) trở lên: Đủ năng lực hành vi dân sự. Người thuộc độ tuổi thành niên
này được toàn quyền tham gia các giao dịch dân sự. Họ được tham gia vào các quan hệ
hôn nhân (được quyền kết hôn).
+ Lưu ý: Người có độ tuổi từ 14 (12) chưa đủ 25 tuổi có một số điểm đặc biệt:
Được quyền yêu cầu quan chấp chính hủy bỏ giao dịch mà mình đã xác lập, và các bên
hoàn trả lại tài sản giao dịch.
Người thuộc độ tuổi dưới 25 tuổi này được quyền yêu cầu thiết lập giám hộ cho mình.
Khi đó họ giống với những người chưa đủ 14 (12) tuổi.
+ Người mắc bệnh tâm thần hay các bệnh khác không nhận thức được hành vi của mình thì
bị coi là không có năng lực hành vi dân sự. Họ được đặt dưới sự bảo trợ của người giám
hộ.
+ Người có khuyết tật khác thì có thể không thực hiện hết năng lực của mình. Điều này phụ
thuộc vào từng loại giao dịch. Ví dụ: Đối với những hợp đồng đòi hỏi nghi lệ hỏi đáp
miệng thì người câm điếc không xác lập được.
- Người ăn chơi trác táng không có khả năng quản lý được tài sản của mình dẫn tới nguy cơ có
thể phá tán tài sản gia đình thì cũng có thể bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
+ Các giao dịch do người này thực hiện cần phải có sự đồng ý của người giám hộ.
+ Những người bị hạn chế năng lực này không được quyền lập di chúc.
- Địa vị phụ nữ:
+ Trong nhiều thế kỷ tồn tại sự hạn chế năng lực pháp luật và năng lực hành vi của phụ nữ.
+ Dưới thời cộng hòa phụ nữ (bất kể đã thành niên) luôn bắt buộc phải đặt dưới sự bảo trợ
của gia chủ (hoặc của chồng, hoặc của cha, hoặc của người thân thích khác). Đến cưới
thời kỳ cộng hào mới có quy định rằng nếu phụ nữ không có thì cha haowjc không có
chồng thì mới được quyền tự lập có tài sản và tham gia giao dịch.
Pháp nhân
- Dưới thời La mã chưa tồn tại khái niệm pháp nhân như trong luật dân sự hiện đại. Nói chính
xác là chưa tồn tại pháp nhân như một chủ thể độc lập của quan hệ pháp luật dân sự. - Dưới
thời La mã chỉ tồn tại một số hình thức tổ chức sơ khai là tiền thân của pp nhân sau này. Đó
là:
+ Các hiệp hội
+ Các cơ quan đơn vị hành chính khu vực (municipii) +
Các công xưởng sản xuất vũ khí, gò rèn,...
+ Các nhà thờ
+ Các hội nghề nghiệp (hội buôn, hội thủ công, hợi làm rượu, hội làm vườn,...) +
Các bệnh viện, trường học,...
- Có mục đích hoạt động nhất định - Có số lượng thành viên nhất định
- Các thành viên cũng có những đặc điểm chung nhất định.
- Có một lượng tài sản độc lập. Đó là tài sản chung của các thành viên, tài sản chung đó cũng
không được chia cho thành viên,...
- Tính chất độc lập của tổ chức không hề phụ thuộc vào các thành viên.
- Quyền và nghĩa vụ không thuộc về cá nhân cụ thể, mà lại thuộc về tổ chức.
- Cần thiết phải công nhận một năng lực nào đố cho các tổ chức đó, để cho các tổ chức có thể
tham gia vào được các giao dịch, có thể phải chịu ràng buộc pháp lý trước các cá nhân khác.
- Luật La mã chưa xây dựng thành công khái niệm pháp nhân.
- Thế nhưng luật La mã đã đặt nền móng cần thiết cho việc công nhận pháp nhân như một chủ
thể độc lập.
- Các luật gia La mã đã giúp chúng ta phân biệt rõ nét sự khác nhau về khía cạnh pháp lý giữa
cá nhân và pháp nhân.
+ Năm 64 TCN Viện nguyên lão đã thông qua quy định giải thể tất cả các tổ chức mà theo
điều tra của quan chấp chính có hoạt động bất lợi cho xã hội. Tuy nhiên, quy định này
gặp phải sự phản đối quá mạnh mẽ của phe đối lập, cho nên đến năm 58 thì bị tạm thời
gác lại, các tổ chức được khôi phục lại.
+ Năm 56 TCN Viện nguyên lão ra quy định giải tán tất cả các tổ chức mang màu sắc chính
trị (solidatates).
+ Hoàng Caesar ra lệnh giải thể tất cả mọi tổ chức, ngoại trừ một số tổ chức đã tồn tại lâu
đời theo truyền thống.
- Có mục đích hoạt động nhất định
- Có số lượng thành viên nhất định.
- Các thành viên cũng có những đặc điểm chung nhất định.
- Có một lượng tài sản độc lập. Đó là tài sản chung của các thành viên, thế nhưng tài sản chung
đó cũng không được chia cho thành viên…
- Tính chất độc lập của tổ chức không hề phụ thuộc vào các thành viên.
- Quyền và nghĩa vụ không thuộc về cá nhân cụ thể, mà lại thuộc về tổ chức.
- Cần thiết phải công nhận một năng lực nào đó cho các tổ chức đó, để cho các tổ chức có thể
tham gia vào được các giao dịch, có thể bảo vệ được quyền lợi của mình, và có thể phải chịu
ràng buộc pháp lý trước các cá nhân khác.
- Luật La mã chưa xây dựng thành công khái niệm pháp nhân. thế nhưng luật La mã đã đặt nền
móng cần thiết cho công nhận pháp nhân như một chủ thể độc lập.
- Các luật gia La mã đã giúp chúng ta phân biệt rõ nét sự khác nhau về khía cạnh pháp lý giữa
cá nhân với pháp nhân.
+ Năm 64 trước C.N. Viện nguyên lão đã thông qua quy định giải thể tất cả các tổ chức mà
theo điều tra của quan chấp chính có hoạt động bất lợi cho xã hội. Tuy nhiên, quy định
này gặp phải sự phản đối quá mạnh mẽ của phe đối lập, cho nên đến năm 58 thì bị tạm
thời gác lại, các tổ chức được khôi phục lại.
+ Năm 56 trước C.N. Viện nguyên lão ra quy định giải tán tất cả các tổ chức mang màu sắc
chính trị (solidatates).
+ Hoàng đế Caesar ra lệnh giải thể tất cả mọi tổ chức, ngoài trừ một số tổ chức đã tồn tại lâu
đời theo truyền thống.
- Có mục đích hoạt động nhất định, - Có số lượng thành viên nhất định.
- Các thành viên cũng có những đặc điểm chung nhất định.
- Có một lượng tài sản độc lập Đó là tài sản chung của các thành viên , thế nhưng tài sản chung
đó cũng không được chia cho thành viên..
- Tính chất độc lập của tổ chức không hề phụ thuộc vào các thành viên.
- Quyền và nghĩa vụ không thuộc về cá nhân cụ thể, mà lại thuộc về tổ chức.
- Cần thiết phải công nhận một năng lực nào đó cho các tổ chức đó, để cho các tổ chức có thể
tham gia vào được các giao dịch, có thể bảo vệ được quyền lợi của mình, và có thể phải chịu
ràng buộc pháp lý trước các cá nhân khác.
- Luật La mã chưa xây dựng thành công khái niệm pháp nhân. Thế nhưng luật La mã đã đặt mọi
nền móng cần thiết cho việc công nhận pháp nhân như một chủ thể độc lập.
- Các luật gia La mã đã giúp chúng ta phân biệt rõ nét sự khác nhau về khía cạnh pháp lý giữa
cá nhân với pháp nhân.
VẤN ĐỀ 3: VẬT VÀ VẬT QUYỀN TRONG TƯ PHÁP LA
1. Vật
Vật là một bộ phận tách biệt của thế giới vật chất khách quan mà có đặc tính chịu sự chi phối
pháp lý của con người.
2. PHÂN LOẠI VẬT
Dựa vào đặc điểm sinh học tự nhiên:
+ Vật câm lặng:
+ Vật biết kêu: gia súc, gia cầm;
+ Vật biết nói: nô lệ;
Dựa vào sự phức tạp của cấu tạo vật:
+ Vật đơn giản
+ Vật phức tạp
+ Tổ hợp vật. Ví dụ tổ hợp vật: đoàn xiếc nô lệ, đàn ngựa, … Dựa
vào tính chất di dời vị trí:
+ Vật di dời được (res mobiles)
+ Vật không di dời được (res immobiles) Dựa
vào đặc tính thay thế của vật:
+ Vật đặc định và vật cùng loại:
+ Vật tiêu hao và không tiêu hao:
Dựa vào khả năng phân chia
+ Vật chia được + Vật
không chia được:
Dựa vào nguồn gốc:
+ Hoa lợi
+ Lợi tức.
Dựa vào khả năng xác lập quyền sở hữu:
+ Vật có thể xác lập quyền sở hữu
+ Vật không thể xác lập quyền sở hữu:Vật không thể xác lập được quyền sở hữu bao gồm các
vật như khí quyển, dòng sông, biển, cơ thể con người, đường đi chung, ...
Dựa vào khả năng tham gia giao dịch:
+Vật được phép giao dịch
+ Vật cấm giao dịch: sách cấm, thuốc độc, …
3. Lịch sử phát minh ra tiền -
Giai đoạn 1 - Vật đổi vật
- Giai đoạn 2 - Gia súc, gia cầm
- Giai đoạn 3 - Kim loại
- Giai đoạn 4 - Tiền kim loại
- Giai đoạn 5 - Tiền giấy
4. Các vật quyền (7) chú ý 2 cái đầu
a. Chiếm hữu (possessio)
Đối với chiếm hữu cần thiết phải có hai yếu tố cấu thành:
+ Sự nắm giữ thực tế, chi phối thực tế vật (corpus possessionis),
+ Ý chí chiếm hữu (animus possessionis)
- Quan niệm nắm giữ đã được các luật gia La mã giải thích theo hướng mở rộng, không chỉ bao
gồm các hành vi cầm nắm trong tay, giữ bên mình, bỏ vào túi xách, ... mà còn bao hàm tất cả
các trạng thái bảo đảm khả năng chi phối của chủ sở hữu đối với vật ở những điều kiện bình
thường của cuộc sống.
Ví dụ: vật gia dụng, xe kéo, mảnh đất, động vật chưa thuần dưỡng, động vật thuần dưỡng - Ý
chí chiếm hữu phải là ý chí của chủ thể muốn chiếm hữu tài sản một cách độc lập không hề
công nhận sự chi phối của chủ thể khác, ý chí chiếm hữu coi tài sản chiếm hữu là tài sản của
chính mình.
- Do đó, sự nắm giữ và quản lý tài sản của người thuê tài sản, của người mượn tài sản cũng bao
hàm sự nắm giữ và ý chí, nhưng không được coi là chiếm hữu, bởi vì ý chí đó là ý chí nắm giữ
tài sản không phải của mình, nắm giữ tài sản của người khác. Đó chỉ là chiếm giữ chứ không
phải là chiếm hữu. Việc người thuê tài sản trả tiền thuê là minh chứng rằng người thuê đã công
nhận quyền của chủ thể khác đối với tài sản thuê.
- Ý chí chiếm hữu thường có được ở những người như:
+ Chủ sở hữu;
+ Người lầm tưởng rằng mình là chủ sở hữu, nhưng thực ra không phải;
+ Người mua phải tài sản từ kẻ gian tự xưng mình là chủ sở hữu;
+ Kẻ trộm tuy biết tài sản không phải của mình nhưng cố ý lấy trộm về cho mình.
* Ý NGHĨA CỦA CHIẾM HỮU
- Ý nghĩa pháp lý của việc chiếm hữu (khác với chiếm giữ thực tế): Người chiếm hữu
có quyền được tự mình yêu cầu pháp luật bảo vệ chống lại các hành vi xâm phạm. Trong khi
đó người chiếm giữ thực tế không có quyền tự bảo vệ, mà chỉ có thể bảo vệ tài sản hay yêu
cầu pháp luật bảo vệ tài sản thông qua hành vi của chủ sở hữu.
- Ý nghĩa xã hội: Làm cho người thuê tài sản (nông dân nghèo thuê ruộng đất) càng
thêm lệ thuộc vào chủ đất. * Phân loại chiếm hữu Chiếm hữu:
- Hợp pháp (Chiếm hữu của chủ sở hữu) - Bất hợp pháp
+ Ngay thẳng
+ Không ngay thẳng
* Chiếm hữu bất hợp pháp
- Chiếm hữu bất hợp pháp nhưng ngay thẳng là trường hợp chiếm hữu trong đó người
chiếm hữu không biết và không buộc phải biết rằng việc chiếm hữu của mình là bất hợp pháp.
- Chiếm hữu bất hợp pháp không ngay thẳng là trường hợp người chiếm hữu biết hoặc
buộc phải biết rằng việc chiếm hữu của mình là không hợp pháp.
* Ý NGHĨA CỦA VIÊ ÂC PHÂN LOẠI CHIẾM HỮU NGAY THẲNG VÀ KHÔNG
NGAY THẲNG
+ Chỉ có người chiếm hữu ngay thẳng mới có thể trở thành chủ sở hữu theo thời hiệu xác lập
quyền sở hữu.
+ Khi chủ sở hữu kiện đòi lại tài sản thì người chiếm hữu không ngay thẳng sẽ chịu trách nhiệm
nặng nề hơn về sự nguyên vẹn của tài sản, về hoàn trả hoa lợi, ... so với người chiếm hữu ngay
thẳng.
* CHIẾM HỮU ĐẶC BIỆT
Luật La mã cũng quy định một nhóm các trường hợp chiếm hữu đặc biệt - Đó là các trường hợp
được công nhận là chiếm hữu tuy không có đủ hai yếu tố cấu thành của chiếm hữu. Đây gọi là
các trường hợp chiếm hữu phái sinh.
Ví dụ:
+ Người đang nắm giữ tài sản cầm cố.
+ Người thứ ba nắm giữ tài sản đang tranh chấp
* XÁC LẬP CHIẾM HỮU
+ Theo nguyên tắc chung thì người đang thực tế nắm giữ tài sản được suy đoán là người chiếm
hữu.
+ Người chiếm hữu về nguyên tắc không có nghĩa vụ phải chứng minh sự chiếm hữu của mình.
+ Nếu như ai đó muốn phủ nhận việc chiếm hữu đó thì mới cần thiết phải đưa ra căn cứ chứng
minh rằng đó không phải là chiếm hữu. Người đó phải chứng minh rằng người đang nắm giữ tài
sản có được tài sản không dựa trên các yếu tố của chiếm hữu.
* CHẤM DỨT CHIẾM HỮU
Việc chiếm hữu chấm dứt ngay khi mất đi một trong hai yếu tố của chiếm hữu:
+ Khi tài sản rời khỏi sự nắm giữ, chi phối của người chiếm hữu,
+ Khi người đang chiếm hữu bày tỏ ý chí muốn từ bỏ việc chiếm hữu;
+ Khi tài sản bị tiêu huỷ;
+ Khi tài sản bị cấm lưu thông.
* BẢO VÊ CHIẾM HỮU (POSSESSORIUM)
+ Trong quá trình tố tụng không cần chứng minh quyền chiếm hữu. Để sự chiếm hữu được bảo
vệ, chỉ cần chỉ ra được hai sự kiện là: sự kiện chiếm hữu và chỉ ra hành vi xâm phạm. + Bị
đơn cũng không được dựa vào quyền sở hữu tài sản để biện minh cho hành vi xâm phạm. Nếu
bị đơn thực sự là chủ sở hữu thì sau đó sẽ khởi kiện theo vụ kiện khác tiếp theo, độc lập hoàn
toàn với kiện chiếm hữu.
* HAI PHƯƠNG THỨC BẢO VỆ CHIẾM HỮU
- Bảo vệ chiếm hữu khi tài sản chưa rời khỏi người chiếm hữu - đó là bảo vệ giữ lại
chiếm hữu (interdicta retinendae possessionis). Phương thức này được phân biệt thành hai
loại:
+ Đối với bất động sản (interdictum uti possidetis)
+ Đối với động sản (interdictum utrubi)
- Bảo vệ quyền chiếm hữu khi tài sản đã tuột khỏi tay người chiếm hữu - đó là đòi lại
sự chiếm hữu (interdicta recuperandae possessionis) b. Quyền sở hữu (proprietas)
* THẾ HỆ THỨ NHẤT – QUYỀN SỞ HỮU THỂ HIỆN TƯ CÁCH CÁ NHÂN CỦA CHỦ
THỂ
- Đây là giai đoạn sơ khai trong lịch sử phát triển chế định sở hữu. Trong giai đoạn sơ
khai này mới chỉ có khái niệm chủ sở hữu chứ chưa có khái niệm quyền sở hữu.
- Tài sản khi đó được hiểu như là sự tiếp nối tư cách cá nhân của chủ sở hữu. Ai xâm
phạm đến tài sản của một người (lấy mất con thú săn được, hoa trái thu lượm được) là xúc
phạm tới cá nhân người đó.
- Thời La mã cổ đại có quan niệm rằng: Một người kiện kẻ trộm không phải vì mình có
quyền sở hữu, mà vì người ăn trộm đã xúc phạm đến danh dự của mình thông qua hành vi ăn
trộm đó.
- Kẻ trộm khi đó bị coi là kẻ xúc phạm (bị kiện theo phương thức kiện hành vi trộm cắp -
actio furti), chứ chưa được coi là người chiếm hữu bất hợp pháp tài sản của người khác (chưa
áp dụng các phương thức kiện bảo vệ quyền sở hữu như kiện đòi lại tài sản thuộc sở hữu của
mình - actio rei vindicatio, hay phương thức kiện đòi lại tài sản bị trộm – condictio furtiva).
* Hệ quả từ quan niệm thứ nhất:
+ Theo quan niệm đó mà pháp luật La mã giai đoạn cổ đại đã quy định cho phép chủ sở hữu
không những được lấy lại tài sản bị trộm mà còn được trả thù lại sự xúc phạm đó đối với kẻ
trộm: chặt tay, giam giữ, giết, bán làm nô lệ, phạt gấp nhiều lần tài sản trộm, ....
+ Nếu tài sản rời khỏi chủ sở hữu mà không có sự xúc phạm đến nhân thân của chủ sở hữu. +
Nếu như có nhiều kẻ trộm cùng ăn trộm một tài sản, thì hành vi của mỗi kẻ trộm được coi là
những sự xúc phạm riêng biệt đối với chủ sở hữu. Khi đó mỗi kẻ trộm phải trả cho người bị
trộm toàn bộ tài sản đã ăn trộm (có bao nhiêu kẻ trộm cùng thực hiện việc trộm cắp thì chủ sở
hữu được hưởng ngần ấy lần tài sản của mình).
+ Khi chủ sở hữu chết thì tư cách nhân thân chấm dứt, tài sản trở thành vô chủ.
+ Trong giai đoạn này chế định thừa kế chưa được hình thành rõ nét, chưa có quy định cụ thể
cho việc dịch chuyển tài sản từ người chết sang cho những người còn sống.
* THẾ HỆ THỨ HAI – QUYỀN CHI PHỐI TUYỆT ĐỐI LÊN VẬT
Quyền sở hữu thể hiện sự phụ thuộc tuyệt đối và vô hạn của vật đối với chủ sở hữu. Chủ sở hữu
có mọi quyền năng đối với vật. Quyền sở hữu đối với vật trả lời cho câu hỏi: Vật này của ai?
Đối với một vật cụ thể thì không thể có bất kỳ chủ thể nào có nhiều quyền năng hơn chính chủ
sở hữu vật đó.
Cũng từ khi có cách hiểu này mà chủ sở hữu mới được bảo vệ bằng những phương thức kiện
vật quyền. Ví dụ như kiện đòi lại tài sản thuộc sở hữu của mình (rei vindicatio). - Các đặc
điểm cơ bản của quyền sở hữu được khái quát hoá trong giai đoạn này và được nâng lên thành
lý thuyết chung bao gồm:
1) Mọi xử sự,
2) Theo ý chí của chủ sở hữu,
3) Tính chất tuyệt đối (Quyền sở hữu được bảo vệ khỏi sự vi phạm của bất kỳ ai) 4) Tính độc
nhất (Không thể có hai quyền sở hữu đối với một vật, không chấp nhận hai chủ sở hữu đối
với một vật, quyền sở hữu không thể phân chia được)
5) Vô thời hạn,
6) Việc thực hiện quyền sở hữu không dẫn tới chấm dứt quyền sở hữu đó (khác với trái quyền).
* HỆ QUẢ PHÁP LÝ TỪ CÁCH HIỂU THỨ HAI
- Hình thành nên nguyên tắc: “Một người không thể chuyển giao cho người khác nhiều
hơn những gì mình có” (Tiếng La-tinh: “Nemo ad alium plus juris transferre potest, quam ipse
habet”).
- Nếu như tài sản đã được chuyển giao từ người chiếm hữu bất hợp pháp sang cho người
thứ ba thông qua giao dịch dân sự thì chủ sở hữu vẫn được đòi lại tài sản từ người thứ ba đó.
dụ như một người mua phải tài sản do trộm cắp có được thì phải trả lại cho chủ sở hữu khi chủ
sở hữu đòi lại. Bởi lẽ bản thân kẻ trộm không có quyền sở hữu đối với vật trộm được, do đó
không thể chuyển giao quyền sở hữu sang cho người mua (không thể chuyển giao cái mà chính
mình không có), khi đó người mua phải tài sản trộm cắp sẽ không thể trở thành chủ sở hữu tài
sản mua được.
- Phát sinh một vấn đề: Khi đó một người khi mua tài sản nào đó thường sẽ rất băn khoăn
rằng: Không biết người bán cho mình có đích thực là chủ sở hữu tài sản không.
- Nếu người bán mà không phải chủ sở hữu tài sản thì đến một lúc nào đó sau khi mua
chủ sở hữu sẽ đến đòi lại, bên mua khi đó bị buộc phải trả lại cho chủ sở hữu tài sản mình đã
mua. - Nhằm khắc phục tận gốc vấn đề đó mà pháp luật các nước mới bắt đầu hình thành cơ
chế đăng ký tài sản. Phương thức đăng ký tài sản đó ban đầu được áp dụng đối với bất động
sản, sau đó áp dụng dần cho các loại tài sản khác là động sản.
- Cách hiểu này đã cho phép chủ sở hữu có mọi quyền năng đối với tài sản, do đó ở thế hệ
thứ hai này ta không thấy có sự liệt kê các quyền năng cơ bản ca chủ sở hữu.
* THẾ HỆ THỨ BA - LIỆT KÊ CÁC QUYỀN NĂNG CỦA CHỦ SỞ HỮU VẬT
- Trên thực tế thì trong một xã hội công dân, mọi hành vi của mỗi thành viên, trong đó kể
cả hành vi đối với tài sản của chính mình, cũng chỉ giới hạn trong phạm vi cho phép sao cho
không làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác, cũng như lợi ích của
toàn xã hội, của cộng đồng nói chung.
- Chính vì lý do đó quyền năng của chủ sở hữu mới luôn bị hạn chế trong một giới hạn
luật định. Quyền năng vô hạn của chủ sở hữu đối với vật “của mình” chỉ được thể hiện với ý
nghĩa lớn hơn so với bất kỳ một chủ thể nào khác, chứ không bao giờ có thể nhiều hơn những gì
pháp luật quy định.
- Nói cách khác, quyền sở hữu khi đó được hiểu là tập hợp một số quyền năng cụ thể của
chủ sở hữu mà pháp luật quy định.
- Bắt đầu hình thành khái niệm quyền sở hữu thế hệ thứ ba - liệt kê cụ thể các quyền năng
cấu thành của quyền sở hữu vật. Cách hiểu này được sử dụng rộng rãi trong pháp luật nhiều
quốc gia những thế kỷ vừa qua.
* NỘI DUNG QUYỀN SỞ HỮU
1. Quyền chiếm hữu (jus possidendi hay dententio);
2. Quyền sử dụng (jus utendi);
3. Quyền hưởng dụng (jus fruendi);
4. Quyền định đoạt số phận pháp lý (jus abutendi);
5. Quyền đòi lại tài sản từ tay người chiếm hữu khác (jus vindicandi).
* HẠN CHẾ QUYỀN SỞ HỮU
Những hạn chế quyền sở hữu được phân thành hai nhóm: -
Hạn chế vì lợi ích của hàng xóm ; - Hạn chế vì lợi ích xã
hội.
* Các hạn chế vì lợi ích của hàng xóm:
+ Chủ sở hữu đất đai phải có nghĩa vụ cho phép hàng xóm của mình sang thu nhặt lại hoa quả
rơi sang (cách ngày một lần),
+ Cần phải chịu để cho nước mưa từ hàng xóm chảy qua, khói muội từ hàng xóm bay qua, ...,
nếu như đó thuộc sinh hoạt bình thường của bên hàng xóm.
+ Chủ sở hữu phải chịu để cho cành cây nhà hàng xóm chìa sang bên đất của mình nếu như
càng đó cách mặt đất không ít hơn 15 fút.
+ Chủ sở hữu đất phải dành một khoảng rộng 2,5 fút xung quanh khoảnh đất làm được đi chung.
+ Chủ sở hữu không được làm thay đổi những dòng chảy tự nhiên bằng các công trình xây dựng
của mình.
+ Bồi thường thiệt hại gây ra cho các công trình của hàng xóm *
Các hạn chế vì lợi ích của xã hội:
+ Một số quy định không cho phép giết nô lệ vô căn, không được giải phóng nô lệ quá định mức
cho phép, ...
+ Chủ sở hữu phải cho phép người ngoài vào trong khu đất của mình trong một số trường hợp
như để lấy lại tài sản của mình đang ở trên mảnh đất đó.
+ Phải cho phép người khác thực hiện việc khai khoáng trên mảnh đất của mình và chủ sở hữu
được thu từ đó 10% lợi tức.
+ Cho phép nhà nước được sử dụng diện tích của mình trong những trường hợp cần thiết vì lợi
ích nhà nước. Chủ sở hữu sẽ được trả tiền sử dụng.
+ Cần tuân thủ các nguyên tắc phá dỡ và xây dựng nhà cửa.
+ Chủ sở hữu những mảnh đất bên cạnh sông cần cho phép tàu bè được cập bến và dỡ hàng
trên mảnh đất của mình. * Căn cứ xác lập quyền sở hữu - Căn cứ nguyên sinh:
+ Đối với vật vô chủ
+ Đối với vật sau sáp nhập, trộn lẫn, chế biến
+ Đối với hoa lợi
+ Theo thời hiệu -
Căn cứ phái sinh:
+ Theo thỏa thuận chuyển giao
+ Theo quyết định của TA
+ Theo quy định của Luật
* CHẤM DỨT QUYỀN SỞ HỮU
- Khi vật bị tiêu huỷ (chấm dứt sự tồn tại thực tế) hay bị cấm lưu thông (chấm dứt tồn tại
pháp lý);
- Khi chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình đối với tài sản (cả có chuyển giao lẫn
không có chuyển giao quyền sở hữu sang cho chủ thể khác);
- Khi chủ thể bị tước quyền sở hữu không theo ý chí của mình (ví dụ: khi bị tịch thu tài
sản, xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu cho chủ thể khác, ...); - Khi chủ sở hữu chuyển giao
quyền sở hữu cho người khác; - Khi động vật hoang dã sổng khỏi chuồng.
- Khi động vật nuôi thuần dưỡng đã rời khỏi nhà và mất thói quen quay trở lại chuồng.
Nếu chưa mất thói quen quay trở về thì mặc dù đã rời khỏi nhà quyền sở hữu vẫn còn.
* QUYỀN SỞ HỮU CHUNG
Trong một số trường hợp nhất định vật có thể thuộc về không phải một người, mà đồng thời
thuộc về nhiều người. Quan hệ sở hữu đó luật La mã gọi là communio, hay là sở hữu chung.
Sở hữu chung có thể được thiết lập theo hai cách:
- Hoặc thông qua thỏa thuận giữa các đồng sở hữu chủ. Ví dụ: cùng thoả thuận góp tiền
mua chung ngôi nhà, làm chung vật.
- Hoặc do ý chí đơn phương của một chủ thể không phải các đồng sở hữu chủ, không phụ
thuộc vào ý chí của các đồng sở hữu chủ. Ví dụ: được để lại thừa kế chung ngôi nhà, tặng cho
chung mảnh ruộng, ...
* BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU
Phương thức bảo vệ quyền sở hữu quan trọng nhất - đó là kiện đòi lại vật (actio rei vindicatio).
Phương thức kiện này cho phép chủ sở hữu được đòi lại tài sản thuộc sở hữu của mình mà đang
không được chiếm hữu tài sản đó.
Các bên trong kiện bao gồm:
+ Nguyên đơn - là chủ sở hữu tài sản đang không được chiếm giữ tài sản của mình; + Bị đơn -
Là người đang thực tế nắm giữ quản lý tài sản (bất kể là chiếm hữu hay chiếm giữ thực tế, bất
kể ngay thẳng hay không ngay thẳng). Trong một số trường hợp bị đơn có thể là người đang
không thực tế nắm giữ tài sản. Ví dụ như do bị kiện đòi lại nên đã cố ý chuyển tài sản sang cho
người khác) - Người chiếm hữu ảo (fictus possessor).

Preview text:

VẤN ĐỀ 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TƯ PHÁP LA MÃ
Nguyên nhân dẫn tới thành công của tư pháp La mã 1.
Lãnh thổ La mã qua nhiều thời kỳ được mở mang đất đai rộng lớn thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. 2.
Lãnh thổ nằm bên bờ Địa Trung Hải giúp cho La mã có thể thông thương thuận lợi với
nhiều nước thuộc nhiều châu lục khác nhau. 3.
La mã là nhà nước chiếm hữu nô lệ, có nguồn cung cấp sức lao động nô lệ to lớn thu
được từ các cuộc chiến tranh. 4.
Truyền thống dân chủ có sớm đã giúp cho người dân La mã có được trình độ nhận thức
pháp lý cao, sớm biết sử dụng các công cụ pháp lý nhằm bảo vệ lợi ich chinh đang của mình; 5.
Nền văn minh La mã có được sự giao lưu kế thừa nhiều nét ưu việt của nhiều nền văn
minh lớn xung quanh như văn minh Hy-lạp, Trung quốc, Ấn độ, ... 6.
Chế độ tư hữu đối với tư liệu sản xuất được coi trọng và bảo vệ một cách vô cùng thiêng
liêng là động lực thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh, sáng tạo.
I. Lịch sử nhà nước La mã
1. Thời kỳ vương chính (753 - 510 TCN)
Buổi khởi đầu chỉ là một thành thị nằm bên bờ sông Tiber (ở miền trung Italia ngày nay), nơi
quần cư của 3 bộ lạc (tribus): Liguri, Iapigi, Etruria.
- Mỗi bộ lạc bao gồm 10 bào tộc (curiae).
- Mỗi bào tộc là được chia ra làm 10 thị tộc (gentes). 3 bộ lạc (tribus) - 30 bào tộc
(curiae) - 300 (gentes) * Nhà nước bao gồm ba cơ quan:
- Đại hội Nhân dân (Comitia Curiata):
+ Bao gồm tất cả những người đàn ông của cả 300 thị tộc.
+ Đại hội curiae có quyền quyết định những vấn đề quan trọng trong đời sống xã hội của người
La mã như: tuyên chiến hay nghị hoà, xét xử, tế lễ, bầu ra một ông vua mới.
- Viện nguyên lão (Senatus):
+ Bao gồm 300 thủ lĩnh của 300 thị tộc
+ Là cơ quan quyền lực tối cao, có quyền quyết định hầu hết các công việc quan trọng của
người La mã, được quyền thảo luận trước về những đạo luật, quyền phê chuẩn hoặc phủ quyết
những nghị quyết của đại hội nhân dân. - Vua (Rex):
+ Do đại hội curiae bầu ra, không được cha truyền con nối và cũng có thể bị đại hội curiae bãi
miễn. Thực chất đây chỉ là thủ lĩnh quân sự của liên minh 3 bộ lạc.
- Mâu thuẫn giữa dân La mã gốc (Quiritium) với người ngoại lai (Peregrinii)
- Người ngoại lai đến làm ăn, sinh sống trên lãnh thổ La Mã ngày càng đông. Họ
mang theo nguồn vốn, kỹ năng thủ công, kinh nghiệm buôn bán đến lập nghiệp trên
lãnh thổ La Mã. - Người ngoại lai ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế La Mã
- Người ngoại lai bị coi là “kẻ thù tiềm tàng” của nhà nước La Mã. Họ không được
thừa nhận bất cứ quyền nào.
2. Thời kỳ Cộng hòa La mã (510 TCN - 44 TCN)
Cải cách của Servius Tulius: Chia người dân thành 6 đẳng cấp khác nhau căn cứ theo mức tài sản tư hữu:
- Đẳng cấp 1: Có từ 100.000 as trở lên; - Đẳng cấp 2: Có từ 75.000 as trở lên. -
Đẳng cấp 3: Có từ 50.000 as trở lên;
- Đẳng cấp 4: Có từ 25.000 as trở lên;
- Đẳng cấp 5: Có từ 11.500 as trở lên;
- Đẳng cấp 6: Dưới 11.500 as và là những bình dân nghèo khó nhất.
- Đẳng cấp 1: 80 Centeuria bộ binh và 18 Centuria kỵ binh, chiếm 98 trên tổng số 193 Centeuria
- Đẳng cấp 2: 22 Centeuria bộ binh
- Đẳng cấp 3: 22 Centeuria bộ binh
- Đẳng cấp 4: 20 Centeuria bộ binh
- Đẳng cấp 5: 30 Centeuria bộ binh
- Đẳng cấp 6: 1 Centeuria bộ binh
* Tổng số: 193 Centeuria (trong đó Đẳng cấp 1 chiếm 98 Centeuria)
- Mỗi Centeuria có quyền biểu quyết ở đại hội bằng 1 lá phiếu.
Đại hội nhân dân Sen-tu-ria (Comitia Centuriata)
+ Mỗi Centuriae được cử 1 đại diện
+ Họp 1 năm 2 lần tại Quảng trường Mars
+ Quyết định những vấn đề cơ bản của xã hội La mã như tuyên chiến hay nghị hoà, bầu các
quan chức trong bộ máy nhà nước.
+ Bầu ra hai quan chấp chính (Consul) trong hàng ngũ đại quý tộc La mã với nhiệm kỳ 1 năm Viện nguyên lão (Senatus)
+ Bao gồm 300 người thuộc tầng lớp quý tộc giàu có.
+ Là cơ quan thường trực của Đại hội Senturia
+ Thực thi mọi công việc hành chính, ngân sách, ngoại giao, quân sự, lễ nghi, tôn giáo,
* Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước (Magitratus).
1) Consul – Hai quan chấp chính tối cao do đại hội Senturia bầu ra theo nhiệm kỳ 1 năm. Hai
consul này nắm giữ quyền lực tối cao trong các vấn đề quân sự (tuyển quân đội, cầm quân đi
chinh chiến ...), triệu tập và chủ trì các phiên họp của đại hội centuri và của viện nguyên lão.
2) Praetor – Cac quan chức được coi là phó cho hai consul, nhưng trên thực tế lại là cac quan
trực tiếp thực hiện việc quản lý điều hành đất nước (bởi vì hai consul thường xuyên mang
quân đi chinh chiến xa), thực hiện mọi chức năng quản lý của consul khi consul vắng mặt
như: triệu tập họp đại hội Senturia và viện nguyên lão, quản lý mọi mặt trong nước, ban hành
văn bản pháp luật, xét xử, xử phạt, ..
3) Sensor – cac quan chức kiểm duyệt thực hiện chức năng quản lý dân số, phân chia dân số
theo cac Senturia và tribus, phân loại công dân theo đẳng cấp, độ tuổi, tài sản, quản lý danh sách Viện nguyên lão
4) Edill – Cac quan chức bảo an thực hiện chức năng giam sat trật tự công cộng, chống hoả
hoạn, giám sát việc cung cấp lương thực cho thành phố, quản lý việc buôn ban (bằng cach ban hành các edicta)
5) Quaestor – cac nhân viên trợ lý giúp việc cho các consul trong các lĩnh vực xét xử hình sự,
quản lý ngân sách và dự trữ quốc gia.
6) Tribun - Cac quan thanh tra chuyên giám sát hoạt động của các magister trên.
- Mâu thuẫn trong xã hội: Giữa tầng lớp bình dân (pleb) và tầng lớp quý tộc (patricia).
- Về thực chất khi đó đã tồn tại đồng thời ba cơ quan đại hội:
+ Comitia Centuriata – do tầng lớp quý tộc patricia độc chiếm (có quyền bầu ra Consul, Praetor, Sensor);
+ Concilia plebis tributa – của tầng lớp bình dân plebs, được quyền bầu ra cac Tribun;
+ Comitia tribita - Đại hội chung của cả hai tầng lớp bình dân plebs và patricia, được quyền bầu ra Quaestor và Edill
- Năm 445 TCN, Đạo luật Canuleus đã được ban hành, cho phép người bình dân plebs được
quyền tự do kết hôn với những người ở tầng lớp quý tộc patricia.
- Năm 450 TCN, trước áp lực của những người bình dân và đại hội bình dân, Viện nguyên lão
đã đi đến quyết định cải tổ lại luật phap theo hướng cải cách Xôlông ở Aten (Hylạp). Kết quả
là một luật mới, hoàn chỉnh đã được ban hành – luật thành văn đầu tiên của lịch sử La mã -
Luật 12 bảng (Duedecim Tabulae).
- Mâu thuẫn giữa hai phe:
+ Phe quý tộc chủ nô ruộng đất ;
+ Phe quý tộc chủ nô công thương kỵ sĩ
- Kết cục của cuộc tranh đấu đó là phe quý tộc chủ nô công thương kỵ sỹ thắng thế, nền độc tài
Caesar được thiết lập.
- Tháng 3 năm 44 TCN, phe quý tộc ruộng đất lập mưu đâm chết Caesar.
- Cái chết đột ngột của Caesar đã tạo ra một bước ngoặt mới của lịch sử La mã. Octavianus trở
thành kẻ thống trị duy nhất ở La mã. Tuy không tự xưng là Hoàng đế, nhưng trong thực tế,
Octavianus đã nắm trong tay những quyền hạn của một ông hoàng thực thụ:
+ Tổng chỉ huy quân sự (Imperator), + Quan
chấp chính và quan bảo dân vĩnh viễn, + Tổng giáo chủ toàn La mã ...
+ Viện nguyên lão còn suy tôn ông là “quốc phụ”.
- Tuy nhiên, Octavianus không dám coi thường ngay truyền thống dân chủ hình thành nhiều thế
kỷ dưới cộng hòa, chỉ dám coi mình là người số một trong danh sách công dân - Princeps. Bởi
thế, chế độ chính trị thời này thường được gọi là Principalis (chế độ nguyên thủ) + Gaius Octavius
+ Gaius Julius Caesar Octavianus
+ Augustus Julius Caesar Octavianus
3. Thời kỳ đế chế (năm 30 TCN - TK VI)
Cuối thế kỷ III – đầu thế kỷ IV, đế quốc La mã bước vào thời hậu kỳ đế chế. Các Hoàng đế đã:
- Vứt bỏ hoàn toàn chiếc áo khoác dõn chủ
- Ra sức tăng cường chế độ quân chủ chuyên chế
- Tập trung cao độ mọi quyền lực vào tay mình
Tước bỏ dần những quyền hạn của Viện nguyên lão
Bắt đầu kiểu sống xa hoa của các hoàng đế phương Đông
- Số lượng nô lệ ngày càng giảm sút vì những cuộc chiến tranh không diễn ra ồ ạt như giai đoạn trước.
- Biên giới của đế quốc La mã đã vươn khá xa, vượt qua khả năng cai quản của La mã.
- Chất lượng và khả năng lao động của nô lệ cũng giảm sút nghiêm trọng.
- Phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ không thể làm cho kỹ thuật canh tác tiến bộ lên, công
cụ sản xuất vẫn thô kệch, nặng nề (để nô lệ đỡ làm phá hỏng). *
năm 330, hoàng đế Constantinus dời kinh đô từ Roma sang Byzantium - thành phố thực
dân của người Hy lạp ở eo biển Bôtxpho - đổi tên là thành Constantinopolis.. *
Đến năm 395, hoàng đế Teododius (379-395) đã chia đế quốc La mã thành 2 phần và
trao cho 2 người cai quản: Accadius - con trưởng - được cai quản nửa phía đông với thủ đụ là
Constantinopolis. Còn Hononius được cai quản nửa phía tây, thủ đô là Roma. *
Từ đó, đế quốc La mã hùng cường xưa kia chính thức được chia thành 2 nửa, thực chất
là 2 nước; Tây bộ La mã và Đông bộ La mã (sau gọi là Byzantium) với những vận mệnh lịch sử khác nhau.
- Cuộc di dân của cả bộ lạc người Gecman đóng vai trò quan trọng đối với sự diệt vong của đế
quốc Tây bộ La mã. Người Gecman bao gồm các bộ lạc Gốt, các bộ lạc Văngđan, Phơ răng,
AngllôXắc xông, Buốc gông,...
- Ngay từ thế kỷ III, người Gốt dã thiên di xuống vùng Ban-căng và người Phơrang đã tràn vào
xứ Gôlơ. Chính quyền La mã đã phải đồng ý cho họ định cư trên lãnh thổ La mã với tư cách là
“bạn đồng minh” của La mã.
- Đến giữa thế kỷ IV, khi bộ tộc Hung nô vượt biển Caspie đột nhập khu vực Đông - Nam Âu,
các tộc người Giecsman vội vã di cư ồ ạt vào sâu trong lãnh thổ của đế quốc La mã, đúng lúc
đế quốc La mã đang ở trong trạng thái khủng hoảng sâu sắc.
- Phong trào địa chiến thiên di dân tộc của các tộc người Giecman đã diễn ra liên tục trong 2 thế
kỷ IV và V, đợt nọ nối tiếp đợt kia và liên tiếp xâm chiếm những vùng lãnh thổ Đế quốc La mã.
- Dân nghèo và nô lệ ở những vùng đất này, vốn đã quá cực khổ dưới sự thống trị của La mã, đã
ủng hộ và coi những người Giecman như những vụ “cứu tinh” của họ.
- Kết quả là hình thành nhiều quốc gia mới:
+ Vương quốc Visigoths (Tõy gốt)ở Tây Ban Nha
+ Vương quốc Vandanls (Van-đan)ở Bắc Phi;
+ Vương quốc Franks (Phơ-răng)ở miền bắc xứ Gôlơ
+ Vương quốc Burgundians (Buốcgụng) ở đông nam xứ Gôlơ;
+ Vương quốc Anglo-Saxons (Ănglụ-Xắc xụng) ở đảo Britania;
+ Vương quốc Ostrogoths (Đông Gốt) ở Italia
- Đến năm 476, thủ lĩnh của người Giécman đã lật đổ vị hoàng đế cuối cùng của đế quốc Tây La
mã là Romulus Ogustulus. Sự kiện này đánh dấu sự diệt vong của đế quốc Tây bộ La mã.
- Đế quốc Đông La mã tiếp tục tồn tại ngót 1.000 năm nữa, trở thành Đế quốc Byzantium trong
lịch sử trung đại, mãi tới năm 1453 mới bị Thổ nhĩ kỳ chinh phục.
Phân biệt luật công với luật tư LUẬT CÔNG LUẬT TƯ
Luật công điều chỉnh các quan hệ liên quan
Luật tư điều chỉnh các quan hệ liên quan đến
đến lợi ích của quốc gia La mã nói chung:
lợi ích của tùng cá nhân trong xã hội La mã.
chủ quyền quốc gia, cơ cấu tổ chức nhà nước La mã,...
Luật công quy định thẩm quyền của các cơ
Luật tư điều chỉnh các quan hệ mua bán, trao
quan nhà nước như nghị viện, các Hội đồng đổi, vay mượn, thuê mướn, thừa kế, sở hữu,
nhân dân địa phương, tổ chức quân đội,
quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia
quản lý ngân khố nhà nước, accs quy định đình,...
về bầu cử và bổ nhiệm các chức sắc trong
hệ thống quản lý nhà nước,...
Các quy định của luật công mang tính chất
các quy định của luật tư cho phép các chủ
nhất quán, bắt buộc. các quy định đó không thể của quan hệ được thỏa thuận để xác lập,
thể bị thay đổi theo thỏa thuận của các chủ
thay đổi nội dung của quan hệ (xác lập, thay
thể. Các chủ thể chỉ được phép tuân thủ,
đổi các quyền và nghĩa vụ chủ quan của các
thực hiện các quy định bắt buộc
chủ thể). Nguyên tắc tự nguyện, thỏa thuận.
Hệ thống luật (Jus privatum)
- Luật dân sự (Jus Civile): Dành cho công dân La mã sống trong thành La mã.
_ Luật vạn dân (Jus Peregrinorum hay Jus gentium): dành cho người ngoại lai sống trong thành La mã.
- Luật các tỉnh lân bang (Jus Provincii): Dành cho công dân La mã sống ở các vùng lãnh thổ mà La mã chiếm được.
Các chế định cơ bản của tư pháp La mã
- Địa vị pháp lý và năng lực của các chủ thể
- Vật và các vật quyền
- Trái quyền và Hợp đồng - Hôn nhân và gia đình - Thừa kế
- các thủ tục tố tụng và các phương thức kiện
Lịch sử pháp triển của tư pháp La mã 1.
Giai đoạn cổ đại (753 TCN - 367 TCN)
+ Mang nặng tính dân tộc.
+ Mang đậm nét tôn giáo.
+ Hiệu lực của các quan hệ giao dịch thời cổ đại phụ thuộc rất nhiều vào các thủ tục hình thức
mang tính chất bắt buộc.
+ Hệ thống luật còn ở giai đoạn sơ khai, còn đơn giản và chưa phát triển. Các hợp đồng dân sự
chỉ gồm 3 loại chính là nexum, mancipatio và legata.
+ Tinh lệ thuộc vào các phương thức kiện: có phương thức kiện thì có quyền, không có phương
thức kiện thì không có quyền (hay có quyền cũng vô ich)
+ Nguồn chính của giai đoạn này là các tập quán.
Luật quan trọng nhất được ban hành giai đoạn cổ đại là Luật 12 Bảng (năm 451 –450 trước C.N.)
Vào năm 367 TCN ban hành luật Lex Licinia Sextiae, thiết lập chức quan praetor urbanus - tiền
thân của hệ thống TA ngày nay.
2. Giai đoạn Tiền Cổ điển (367 TCN - 17 TCN) - Từ 367 TCN - 17 TCN
- Nếu chiếu sang lịch sử nhà nước La mã thì đây chính là giai đoạn phát triển nhất, sau đó suy
vong của chế độ Cộng hòa La mã.
- Đối với lịch sử pháp lý La mã thì đây là giai đoạn thiết lập các hình thức mới của giao dịch
dân sự và của khoa học pháp lý nói chung.
- Những hợp đồng được giao kết theo ý chí của các bên mà không tuân thủ theo các nghi lễ
mang nặng tính hình thức của thời kỳ trước, nay cũng được công nhận hiệu lực pháp lý và
được sư bảo vệ của quan chấp chính thành phố (praetor urbanus), với những hợp đồng giữa
các công dân La mã, hay quan chấp chính ngoại lai (praetor peregrinus - được thiết lập vào
năm 242 TCN), với những hợp đồng mà một trong hai bên không phải là công dân La mã. -
Vào nửa sau của thế kỷ II TCN Lex Aebutia được ban hành thiết lập thể thức tố tụng mới - tố
tụng công thức (per formulas).
- Vào năm 17 TCN có ban hành Leges Iuliae de iurisdictiones (luật về cải tổ thủ tục khiếu kiện,
theo đó thủ tục tố tụng theo thể thức hai giai đoạn (per legis actiones) chính thức bị bãi bỏ. Sự
kiện này cũng đặt dấu chấm hết cho giai đoạn tiền cổ điển.
3. Giai đoạn Cổ điển (17 TCN - 235 SCN) - Năm 17 TCN – 235 SCN
- Nếu chiếu sang lịch sử nhà nước La mã thì giai đoạn này trùng với giai đoạn nguyên thủ (Principalis)
- Sau khi bãi bỏ thể thức tố tụng hai giai đoạn (Leges Iuliae de iurisdictiones vào năm 17 TCN)
thì thể thức tố tụng theo công thức được coi là thể thức duy nhất được áp dụng.
- Trong thế kỷ I TCN, một số hợp đồng của hệ thống Jus Gentium (như hợp đồng vay tài sản,
hợp đồng gửi giữ, hợp đồng cầm cố) được chính thức công nhận ngang hàng với Jus civile.
- Hoàng đế tự ban hành một số những sửa đổi bổ sung quan trọng vào hệ thống luật. VD như
quyền chủ thể, quan hệ hôn nhân, quan hệ thừa kế, trách nhiệm theo hợp đồng,...
- Hoàng đế cho phép một số luật gia được chiếm những chức vụ cao trong bộ máy nhà nước,
trực tiếp tham gia vào công việc quản lý đất nước.
- Trong khoa học tư phap dần hình thành hai trường phái (scholae) khac nhau là :
+ Trường phái Sabiniani mà người sáng lập là Gaius Cassius Longinus.
+ Trường phái Proculiani mà người sáng lập là Labeon.
- Giai đoạn này là giai đoạn có nhiều nhất các công trình nghiên cứu có gia trị trong lĩnh vực tư
phap. Các khái niệm pháp lý được nghiên cứu sâu sắc nhất. Từ “cổ điển” nói lên đóng góp to
lớn nhất cho nền tư pháp La mã trong giai đoạn này.
• Vào năm 235 SCN được ban hành Constitucia Alecxandra Xevera chính thức công nhận các
sắc dụ của các chức quan praefectura có hiệu lực như nguồn chính thức của hệ thống luật tư pháp.
4. Giai đoạn Hậu Cổ điển (thế kỷ 4-5)
- Thế kỷ IV – V sau C.N.
- Đây là giai đoạn mờ nhạt nhất trong lịch sử phát triển của luật dân sự La mã. Vào thời kỳ này
tính sáng tạo của các luật gia hầu như không thể hiện. Quan hệ pháp luật chủ yếu dựa trên cac
tư liệu là thành quả đạt được của giai đoạn trước. Ngay việc phân tách riêng giai đoạn này
cũng chủ yếu nói lên cách nhìn nhận không có cảm tình của các nhà nghiên cứu với giai đoạn đó.
- Các hoàng đế giai đoạn này đã tiến hành một số cải cách nhỏ chỉ mang tính chất hành chính
như: liên kết một số tỉnh nhỏ lại để tạo thành tỉnh lớn, cải cách hệ thống thuế, hệ thống tài
chính (không mang lại kết quả), hình thành bộ phận chuyên môn kỹ thuật trong quân đội,..
5. Giai đoạn Justinian (547-565) - Năm 527 –565
- Khi Hoàng đế Justinian lên nắm quyền thì văn hóa pháp lý mới được đẩy mạnh, khoa học
pháp lý bắt đầu khởi sắc sau nhiều năm bị chững lại.
- Mục đích: Nhằm mục đích ổn định hóa hệ thống pháp luật, hoàng đế chú trọng hơn đến việc
kế thừa một cách hệ thống các di sản pháp lý của các thế hệ trước để lại.
- Các văn bản pháp lý thời đó rất nhiều, đa dạng, từ nhiều nguồn khác nhau gây khó khăn cho
việc áp dụng. Hoàng đế Justinian là người đã nhận ra được sự cần thiết phải hệ thống hóa lại
tất cả các văn bản đó vào một hệ thống theo một logic nhất quán.
- Ra đời bộ tập hợp Corpus iuris civilis – Bộ luật dân sự đồ sộ nhất của Luật La mã.
- Cấu trúc của Bộ Corpus Iuris Civilis mang tên Hoàng đế Justinian: 4 phần
1. Instituciones – Tập hợp các giáo trình về tư pháp (Năm 533, 4 cuốn)
2. Digesta – Tập hợp các công trình nghiên cứu (Năm 533, 50 cuốn)
3. Codex – Tập hợp các luật và các sắc dụ (Năm 534, 12 cuốn)
4. Novellae – Các văn bản bổ sung
Nguồn của Luật La mã
Nguồn của Tư pháp La Mã bao gồm: 1. Tập quán:
+ Mores maiorum – tập quan tổ tiên
+ Commentarii pontificum – tập quán của các vị tư tế;
+ Commentarii magistratuum – tập quán của các quan chấp chính
2. Luật của cac Comitia và của Hoàng đế
- Duedecim Tabulae – Luật 12 bảng
- Lex … – Các đạo luật dưới thời Cộng Hòa (do cac Comitia ban hành)
- Senatuconstum … - Luật dưới thời kỳ Nguyên thủ (do Senatus ban hành)
- Constitutio … – Luật dưới thời Đế chế (do các Hoàng đế ban hành
3. Sắc dụ của cac quan chấp chính
- Edicto praetorum – Do các quan Praetor ban hành
- Edill – Do các quan bảo an địa phương ban hành
4. Hoạt động của các luật gia
- Respondere - Tư vấn pháp lý (đưa ra những lời khuyên cho người dân)
- Cavere - Hỗ trợ pháp lý cho giao dịch (giúp soạn thảo hợp đồng, soạn các văn bản khác nhau)
- Agere - Tư vấn tố tụng cho các đương sự tại phiên tòa (nhưng không đại diện với tư cách luật sư)
VẤN ĐỀ 2: CHỦ THỂ TRONG TƯ PHÁP LA MÃ I.Cá nhân
- Cá nhân là chủ thể quan trọng nhất trong quan hệ pháp luật dân sự La mã.
- Các luật gia La mã thường thống nhất nguyên tắc chung là “Mọi quy định của pháp luật đều
được thiết lập cho con người”
(“Omne jus hominum causa constitutum est”).
- Tuy nhiên, không phải con người bất kỳ nào cũng đều được coi là chủ thể của quan hệ pháp
luật dân sự. Để được phép tham gia vào các quan hệ đó, nói cách khác nữa, đẻ được nhà nước
công nhận vào bảo vệ các quan hệ mà cá nhân xác lập, thì cá nhân đó phải có được những tư
cách nhất định - đó là tư cách chủ thể
- Khi phân tích đến tư cách chủ thể của một cá nhân thì luật La mã chưa hề sử dụng khái niệm
năng lực pháp luật và năng lực hành vi như luật dân sự hiện đại.
- Tuy nhiên, các quy định về năng lực chủ thể thời đó cũng xoay quanh hai yếu tố cơ bản cấu
thành là khả năng có được quyền và khả năng thực hiện các quyền đó.
- Do đó hai khái niệm “năng lực pháp luật’ và “ năng lực hành vi” vẫn có thể sử dụng được một
cách tương đối phục vụ cho việc phân tích năng lực chủ thể của cá nhân dưới thời La mã
II. Năng lực pháp luật dân sự (CAPUT)
- Nội dung của NLPLDS
+ Jus commercii - Quyền được kinh doanh buôn bán, quyền được xác lập và thực hiện giao dịch
dân sự, quyền có tài sản và trở thành chủ sở hữu tài sản thu được.
+ Jus connubii - Quyền được kết hôn, quyền được kết hôn, quyền của con cái được công nhận là
công dân theo cha mẹ, quyền của gia chủ đối với các thành viên trong gia đình. - Năng lực
pháp luật của cá nhân dưới thời La mã được cấu thành bởi ba yếu tố là:
+ Địa vị tự do + Địa vị công dân + Địa vị gia đình 1.Địa vị tự do
- Chỉ những người tự do mới được coi là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự - Nguyên tắc đó
loại trừ một loạt những người thuộc đẳng cấp thấp hèn nhất - nô lệ.
- Nô lệ (serus) không phải chủ thể, mà là khách thể của quan hệ pháp luật dân sự.
- Nô lệ không pahir là personna, mà là res.
- Chủ nô có quyền định đoạt số phận nô lệ: quyền sinh, quyền sát, quyền bán, trao đổi, tặng cho,
cho thuê, cho mượn, để lại thừa kế,..
- Về phương diện cá nhân thì nô lệ không pahir là những cá thể, không có tình cảm, không danh
dự nhân phẩm, uy tín. Nô lệ không có đời sống riêng, mà chỉ có sự tồn tại mà thôi.
Quyền của chủ nô là quyền sở hữu nói chung như đối với các đồ vật khác.
- Thậm chí tư cách của nô lệ không hề phụ thuộc vào tư cách chủ nô: mộ người là nô lệ ngay cả
khi không có ai là chủ (khi chủ nô chết, khi chủ nô từ bỏ). Khi đó nô lệ vẫn là nô lệ như những
đồ vật vô chủ khác. Bất cứ người tự do nào cũng có quyền bắt về cho mình. - Nô lệ không
được công nhận quan hệ hôn nhân gia đình: không cưới xin, không được công nhận là vợ chồng.
- Sự khác biệt giữa nô lệ với các đồ vật khác:
+ Một số quy định hạn chế không cho phép mua bán tách riêng cha mẹ với con cái của nô lệ,
nghiêm cấm các nô lệ huyết thống gần không được quan hệ với nhau như vợ chồng. + Dưới
thời đế chế có ban hành một số quy định cấm giết hoặc trừng phạt nô lệ mà không có lý do.
+ Việc bạc đãi quá đáng nô lệ, làm cho nô lệ phải chạy trốn vào nhà thờ xin cứu giúp, có thể là
nguyên nhân làm cho chủ nô buộc phải bán nô lệ đó sang tay chủ nô khác.
+ Hoàng đế Clavdia còn ban hành quy định rằng những nô lệ già yếu bệnh tật bị chủ nô từ bỏ có
thể được công nhận là người tự do.
- Về phương diện tài sản thì nô lệ không thể có tài sản riêng của mình, và cũng không thể có các quyền về tài sản.
- Nô lệ chỉ có thể có quyền nhận hoặc trao tài sản nhận danh chủ nô và vì lợi ích của chủ nô. -
Đối với các quan hệ hợp đồng thì chủ nô hoàn toàn không phải chịu trách nhiệm gì cả. Hơn
thế nữa không ai có thể kiện nô lệ về việc nô lệ đó thực hiện nghĩa vụ hợp đồng.
2. Địa vị công dân
- Nhằm phân biệt công dân La mã với những người ngoại lai (peregrinii)
- Chỉ có công dân La mã mới được hưởng toàn vẹn các quyền công dân và được trở thành chủ
thể của các quan hệ dân sự, được điều chỉnh bởi Jus Civilis.
- Mọi người ngoại lai, người không phải là công dân La mã trên nguyên tắc đều phải được coi là
hostis, tức là kẻ thù tiềm tàng của quốc gia La mã.
- Người ngoại lai bị gạt khỏi không những đời sống chính trị, (không được tham gia nghị
viện,không được tham gia ứng cử vào các chức quan, không được đi lính và hưởng chiến lợi
phẩm,...) mà còn bị gạt cả ra khỏi đời sống kinh tế (không được quyền khởi kiện khi các quyền
lợi kinh tế bị xâm phạm.
3. Địa vị gia đình
- Cá nhân có quyền lực (persona sui juris) duy nhất chỉ là gia chủ. Đối với mọi thành viên trong
gia đình thì gia chủ là ông chủ tuyệt đối. Quyền lực của gia chủ là tuyệt đối và giống nhau đối
với cả đồ vật lẫn thành viên trong gia đình.
- Trong quan hệ dân sự thì chỉ có gia chủ là chủ thể toàn năng duy nhất có quyền xác lập các
giao dịch dân sự do chính bản thân mình.
Khác với nô lệ, các thành viên khác trong gia đình (vợ, các con, các cháu) cũng có thể xác lập
giao dịch nhân danh chính bản thân mình như một chủ thể độc lập, thế những các giao dịch đó
chỉ nhằm mang lại quyền lợi cho gia chủ mà thôi.
Nếu như gia chủ có giao tài sản nào đó cho một thành viên quản lý độc lập, thì tài sản đó cũng
chỉ được coi như là pecunium như giao cho nô lệ, vẫn thuộc sở hữu của gia chủ và gia chủ có
thể lấy lại bất cứ lúc nào.
- Các quan hệ trách nhiệm dân sự của các thành viên lệ thuộc trong gia đình cũng tương tự như
của nô lệ. Theo nguyên tắc chung thì gia chủ không chịu trách nhiệm về các hành vi của thành
viên. Gia chủ chỉ phải chịu trách nhiệm trong một số trường hợp cụ thể tương tự như chịu
trách nhiệm đối với hành vi của nô lệ.
VD: Khi các thành viên gây thiệt hại cho tài sản người khác, thì gia chủ hoặc phải bồi thường,
hoặc giao thành viên đó cho người bị thiệt hại.
- Quan hệ chi phối quyền lực. Tất cả những ai chịu sự chi phối quyền lực của gia đình thì đều
được coi là họ hàng của nhau, đều được coi là thành viên của gia đình. VD:
+ Con nuôi nhận về được hưởng mọi quyền như con đẻ
+ Con gái đi lấy chồng thì chấm dứt mọi quan hệ với gia đình cha mẹ đẻ, kể cả quan hệ thừa kế.
- Các thành viên trong gia đình được chia thành hai loại:
+ Agnatio - Quan hệ họ hàng theo quyền lực gia chủ (hay còn gọi là họ hàng pháp lý) +
Cognatio - Quan hệ họ hàng theo huyết thống. Hạn chế năng lực pháp luật dân sự của cá nhân
+ Maxima - Mất địa vị tự do (tất nhiên kèm theo đó là đương nhiên mất luôn cả địa vị công
dân và địa vị gia đình)
+ Madia - Mất địa vị công dân (kèm theo đương nhiên mất luôn địa vị gia đình) +
Minima - Mất địa vị gia đình. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân - Độ tuổi:
+ Trẻ em dưới 7 tuổi (infantes): hoàn toàn không có năng lực hành vi. Họ không được
quyền tham gia mọi giao dịch dân sự.
+ Nam từ đủ 7 - 14 tuổi, Nữ từ đủ 7 -12 tuổi (impuberes): có năng lực hành vi một phần.
Những người này chỉ được tham vào các giao dịch nào chỉ mang lại quyền chứ không
chịu nghĩa vụ cho họ. Nói cách khác, họ chỉ được tham gia vào các giao dịch đơn thuần
chỉ mang lại lợi ích cho bản thân. Đó là các giao dịch dẫn tới thiết lập quyền đối với tài
sản (bên nhận của hợp đồng tặng cho, mua đồ dùng sinh hoạt thiết yếu,...). Đối với các
giao dịch khác thì họ chỉ được tham gia khi được đồng ý của người bảo trợ (cha mẹ hoặc người giám hộ).
+ Nam từ 14 (nữ từ 12) trở lên: Đủ năng lực hành vi dân sự. Người thuộc độ tuổi thành niên
này được toàn quyền tham gia các giao dịch dân sự. Họ được tham gia vào các quan hệ
hôn nhân (được quyền kết hôn).
+ Lưu ý: Người có độ tuổi từ 14 (12) chưa đủ 25 tuổi có một số điểm đặc biệt:
● Được quyền yêu cầu quan chấp chính hủy bỏ giao dịch mà mình đã xác lập, và các bên
hoàn trả lại tài sản giao dịch.
● Người thuộc độ tuổi dưới 25 tuổi này được quyền yêu cầu thiết lập giám hộ cho mình.
Khi đó họ giống với những người chưa đủ 14 (12) tuổi.
+ Người mắc bệnh tâm thần hay các bệnh khác không nhận thức được hành vi của mình thì
bị coi là không có năng lực hành vi dân sự. Họ được đặt dưới sự bảo trợ của người giám hộ.
+ Người có khuyết tật khác thì có thể không thực hiện hết năng lực của mình. Điều này phụ
thuộc vào từng loại giao dịch. Ví dụ: Đối với những hợp đồng đòi hỏi nghi lệ hỏi đáp
miệng thì người câm điếc không xác lập được.
- Người ăn chơi trác táng không có khả năng quản lý được tài sản của mình dẫn tới nguy cơ có
thể phá tán tài sản gia đình thì cũng có thể bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
+ Các giao dịch do người này thực hiện cần phải có sự đồng ý của người giám hộ.
+ Những người bị hạn chế năng lực này không được quyền lập di chúc.
- Địa vị phụ nữ:
+ Trong nhiều thế kỷ tồn tại sự hạn chế năng lực pháp luật và năng lực hành vi của phụ nữ.
+ Dưới thời cộng hòa phụ nữ (bất kể đã thành niên) luôn bắt buộc phải đặt dưới sự bảo trợ
của gia chủ (hoặc của chồng, hoặc của cha, hoặc của người thân thích khác). Đến cưới
thời kỳ cộng hào mới có quy định rằng nếu phụ nữ không có thì cha haowjc không có
chồng thì mới được quyền tự lập có tài sản và tham gia giao dịch. Pháp nhân
- Dưới thời La mã chưa tồn tại khái niệm pháp nhân như trong luật dân sự hiện đại. Nói chính
xác là chưa tồn tại pháp nhân như một chủ thể độc lập của quan hệ pháp luật dân sự. - Dưới
thời La mã chỉ tồn tại một số hình thức tổ chức sơ khai là tiền thân của pháp nhân sau này. Đó là: + Các hiệp hội
+ Các cơ quan đơn vị hành chính khu vực (municipii) +
Các công xưởng sản xuất vũ khí, gò rèn,... + Các nhà thờ
+ Các hội nghề nghiệp (hội buôn, hội thủ công, hợi làm rượu, hội làm vườn,...) +
Các bệnh viện, trường học,...
- Có mục đích hoạt động nhất định - Có số lượng thành viên nhất định
- Các thành viên cũng có những đặc điểm chung nhất định.
- Có một lượng tài sản độc lập. Đó là tài sản chung của các thành viên, tài sản chung đó cũng
không được chia cho thành viên,...
- Tính chất độc lập của tổ chức không hề phụ thuộc vào các thành viên.
- Quyền và nghĩa vụ không thuộc về cá nhân cụ thể, mà lại thuộc về tổ chức.
- Cần thiết phải công nhận một năng lực nào đố cho các tổ chức đó, để cho các tổ chức có thể
tham gia vào được các giao dịch, có thể phải chịu ràng buộc pháp lý trước các cá nhân khác.
- Luật La mã chưa xây dựng thành công khái niệm pháp nhân.
- Thế nhưng luật La mã đã đặt nền móng cần thiết cho việc công nhận pháp nhân như một chủ thể độc lập.
- Các luật gia La mã đã giúp chúng ta phân biệt rõ nét sự khác nhau về khía cạnh pháp lý giữa cá nhân và pháp nhân.
+ Năm 64 TCN Viện nguyên lão đã thông qua quy định giải thể tất cả các tổ chức mà theo
điều tra của quan chấp chính có hoạt động bất lợi cho xã hội. Tuy nhiên, quy định này
gặp phải sự phản đối quá mạnh mẽ của phe đối lập, cho nên đến năm 58 thì bị tạm thời
gác lại, các tổ chức được khôi phục lại.
+ Năm 56 TCN Viện nguyên lão ra quy định giải tán tất cả các tổ chức mang màu sắc chính trị (solidatates).
+ Hoàng Caesar ra lệnh giải thể tất cả mọi tổ chức, ngoại trừ một số tổ chức đã tồn tại lâu đời theo truyền thống.
- Có mục đích hoạt động nhất định
- Có số lượng thành viên nhất định.
- Các thành viên cũng có những đặc điểm chung nhất định.
- Có một lượng tài sản độc lập. Đó là tài sản chung của các thành viên, thế nhưng tài sản chung
đó cũng không được chia cho thành viên…
- Tính chất độc lập của tổ chức không hề phụ thuộc vào các thành viên.
- Quyền và nghĩa vụ không thuộc về cá nhân cụ thể, mà lại thuộc về tổ chức.
- Cần thiết phải công nhận một năng lực nào đó cho các tổ chức đó, để cho các tổ chức có thể
tham gia vào được các giao dịch, có thể bảo vệ được quyền lợi của mình, và có thể phải chịu
ràng buộc pháp lý trước các cá nhân khác.
- Luật La mã chưa xây dựng thành công khái niệm pháp nhân. thế nhưng luật La mã đã đặt nền
móng cần thiết cho công nhận pháp nhân như một chủ thể độc lập.
- Các luật gia La mã đã giúp chúng ta phân biệt rõ nét sự khác nhau về khía cạnh pháp lý giữa cá nhân với pháp nhân.
+ Năm 64 trước C.N. Viện nguyên lão đã thông qua quy định giải thể tất cả các tổ chức mà
theo điều tra của quan chấp chính có hoạt động bất lợi cho xã hội. Tuy nhiên, quy định
này gặp phải sự phản đối quá mạnh mẽ của phe đối lập, cho nên đến năm 58 thì bị tạm
thời gác lại, các tổ chức được khôi phục lại.
+ Năm 56 trước C.N. Viện nguyên lão ra quy định giải tán tất cả các tổ chức mang màu sắc chính trị (solidatates).
+ Hoàng đế Caesar ra lệnh giải thể tất cả mọi tổ chức, ngoài trừ một số tổ chức đã tồn tại lâu đời theo truyền thống.
- Có mục đích hoạt động nhất định, - Có số lượng thành viên nhất định.
- Các thành viên cũng có những đặc điểm chung nhất định.
- Có một lượng tài sản độc lập Đó là tài sản chung của các thành viên , thế nhưng tài sản chung
đó cũng không được chia cho thành viên..
- Tính chất độc lập của tổ chức không hề phụ thuộc vào các thành viên.
- Quyền và nghĩa vụ không thuộc về cá nhân cụ thể, mà lại thuộc về tổ chức.
- Cần thiết phải công nhận một năng lực nào đó cho các tổ chức đó, để cho các tổ chức có thể
tham gia vào được các giao dịch, có thể bảo vệ được quyền lợi của mình, và có thể phải chịu
ràng buộc pháp lý trước các cá nhân khác.
- Luật La mã chưa xây dựng thành công khái niệm pháp nhân. Thế nhưng luật La mã đã đặt mọi
nền móng cần thiết cho việc công nhận pháp nhân như một chủ thể độc lập.
- Các luật gia La mã đã giúp chúng ta phân biệt rõ nét sự khác nhau về khía cạnh pháp lý giữa cá nhân với pháp nhân.
VẤN ĐỀ 3: VẬT VÀ VẬT QUYỀN TRONG TƯ PHÁP LA MÃ 1. Vật
Vật là một bộ phận tách biệt của thế giới vật chất khách quan mà có đặc tính chịu sự chi phối pháp lý của con người. 2. PHÂN LOẠI VẬT
Dựa vào đặc điểm sinh học tự nhiên: + Vật câm lặng:
+ Vật biết kêu: gia súc, gia cầm;
+ Vật biết nói: nô lệ;
Dựa vào sự phức tạp của cấu tạo vật: + Vật đơn giản + Vật phức tạp
+ Tổ hợp vật. Ví dụ tổ hợp vật: đoàn xiếc nô lệ, đàn ngựa, … Dựa
vào tính chất di dời vị trí:
+ Vật di dời được (res mobiles)
+ Vật không di dời được (res immobiles) Dựa
vào đặc tính thay thế của vật:
+ Vật đặc định và vật cùng loại:
+ Vật tiêu hao và không tiêu hao:
Dựa vào khả năng phân chia + Vật chia được + Vật không chia được: Dựa vào nguồn gốc: + Hoa lợi + Lợi tức.
Dựa vào khả năng xác lập quyền sở hữu:
+ Vật có thể xác lập quyền sở hữu
+ Vật không thể xác lập quyền sở hữu:Vật không thể xác lập được quyền sở hữu bao gồm các
vật như khí quyển, dòng sông, biển, cơ thể con người, đường đi chung, ...
Dựa vào khả năng tham gia giao dịch:
+Vật được phép giao dịch
+ Vật cấm giao dịch: sách cấm, thuốc độc, …
3. Lịch sử phát minh ra tiền -
Giai đoạn 1 - Vật đổi vật
- Giai đoạn 2 - Gia súc, gia cầm - Giai đoạn 3 - Kim loại
- Giai đoạn 4 - Tiền kim loại
- Giai đoạn 5 - Tiền giấy
4. Các vật quyền (7) chú ý 2 cái đầu
a. Chiếm hữu (possessio)
Đối với chiếm hữu cần thiết phải có hai yếu tố cấu thành:
+ Sự nắm giữ thực tế, chi phối thực tế vật (corpus possessionis),
+ Ý chí chiếm hữu (animus possessionis)
- Quan niệm nắm giữ đã được các luật gia La mã giải thích theo hướng mở rộng, không chỉ bao
gồm các hành vi cầm nắm trong tay, giữ bên mình, bỏ vào túi xách, ... mà còn bao hàm tất cả
các trạng thái bảo đảm khả năng chi phối của chủ sở hữu đối với vật ở những điều kiện bình
thường của cuộc sống.
Ví dụ: vật gia dụng, xe kéo, mảnh đất, động vật chưa thuần dưỡng, động vật thuần dưỡng - Ý
chí chiếm hữu phải là ý chí của chủ thể muốn chiếm hữu tài sản một cách độc lập không hề
công nhận sự chi phối của chủ thể khác, ý chí chiếm hữu coi tài sản chiếm hữu là tài sản của chính mình.
- Do đó, sự nắm giữ và quản lý tài sản của người thuê tài sản, của người mượn tài sản cũng bao
hàm sự nắm giữ và ý chí, nhưng không được coi là chiếm hữu, bởi vì ý chí đó là ý chí nắm giữ
tài sản không phải của mình, nắm giữ tài sản của người khác. Đó chỉ là chiếm giữ chứ không
phải là chiếm hữu. Việc người thuê tài sản trả tiền thuê là minh chứng rằng người thuê đã công
nhận quyền của chủ thể khác đối với tài sản thuê.
- Ý chí chiếm hữu thường có được ở những người như: + Chủ sở hữu;
+ Người lầm tưởng rằng mình là chủ sở hữu, nhưng thực ra không phải;
+ Người mua phải tài sản từ kẻ gian tự xưng mình là chủ sở hữu;
+ Kẻ trộm tuy biết tài sản không phải của mình nhưng cố ý lấy trộm về cho mình.
* Ý NGHĨA CỦA CHIẾM HỮU -
Ý nghĩa pháp lý của việc chiếm hữu (khác với chiếm giữ thực tế): Người chiếm hữu
có quyền được tự mình yêu cầu pháp luật bảo vệ chống lại các hành vi xâm phạm. Trong khi
đó người chiếm giữ thực tế không có quyền tự bảo vệ, mà chỉ có thể bảo vệ tài sản hay yêu
cầu pháp luật bảo vệ tài sản thông qua hành vi của chủ sở hữu. -
Ý nghĩa xã hội: Làm cho người thuê tài sản (nông dân nghèo thuê ruộng đất) càng
thêm lệ thuộc vào chủ đất. * Phân loại chiếm hữu Chiếm hữu: -
Hợp pháp (Chiếm hữu của chủ sở hữu) - Bất hợp pháp + Ngay thẳng + Không ngay thẳng
* Chiếm hữu bất hợp pháp -
Chiếm hữu bất hợp pháp nhưng ngay thẳng là trường hợp chiếm hữu trong đó người
chiếm hữu không biết và không buộc phải biết rằng việc chiếm hữu của mình là bất hợp pháp. -
Chiếm hữu bất hợp pháp không ngay thẳng là trường hợp người chiếm hữu biết hoặc
buộc phải biết rằng việc chiếm hữu của mình là không hợp pháp.
* Ý NGHĨA CỦA VIÊ ÂC PHÂN LOẠI CHIẾM HỮU NGAY THẲNG VÀ KHÔNG NGAY THẲNG
+ Chỉ có người chiếm hữu ngay thẳng mới có thể trở thành chủ sở hữu theo thời hiệu xác lập quyền sở hữu.
+ Khi chủ sở hữu kiện đòi lại tài sản thì người chiếm hữu không ngay thẳng sẽ chịu trách nhiệm
nặng nề hơn về sự nguyên vẹn của tài sản, về hoàn trả hoa lợi, ... so với người chiếm hữu ngay thẳng. * CHIẾM HỮU ĐẶC BIỆT
Luật La mã cũng quy định một nhóm các trường hợp chiếm hữu đặc biệt - Đó là các trường hợp
được công nhận là chiếm hữu tuy không có đủ hai yếu tố cấu thành của chiếm hữu. Đây gọi là
các trường hợp chiếm hữu phái sinh. Ví dụ:
+ Người đang nắm giữ tài sản cầm cố.
+ Người thứ ba nắm giữ tài sản đang tranh chấp * XÁC LẬP CHIẾM HỮU
+ Theo nguyên tắc chung thì người đang thực tế nắm giữ tài sản được suy đoán là người chiếm hữu.
+ Người chiếm hữu về nguyên tắc không có nghĩa vụ phải chứng minh sự chiếm hữu của mình.
+ Nếu như ai đó muốn phủ nhận việc chiếm hữu đó thì mới cần thiết phải đưa ra căn cứ chứng
minh rằng đó không phải là chiếm hữu. Người đó phải chứng minh rằng người đang nắm giữ tài
sản có được tài sản không dựa trên các yếu tố của chiếm hữu. * CHẤM DỨT CHIẾM HỮU
Việc chiếm hữu chấm dứt ngay khi mất đi một trong hai yếu tố của chiếm hữu:
+ Khi tài sản rời khỏi sự nắm giữ, chi phối của người chiếm hữu,
+ Khi người đang chiếm hữu bày tỏ ý chí muốn từ bỏ việc chiếm hữu;
+ Khi tài sản bị tiêu huỷ;
+ Khi tài sản bị cấm lưu thông.
* BẢO VÊ CHIẾM HỮU (POSSESSORIUM)
+ Trong quá trình tố tụng không cần chứng minh quyền chiếm hữu. Để sự chiếm hữu được bảo
vệ, chỉ cần chỉ ra được hai sự kiện là: sự kiện chiếm hữu và chỉ ra hành vi xâm phạm. + Bị
đơn cũng không được dựa vào quyền sở hữu tài sản để biện minh cho hành vi xâm phạm. Nếu
bị đơn thực sự là chủ sở hữu thì sau đó sẽ khởi kiện theo vụ kiện khác tiếp theo, độc lập hoàn
toàn với kiện chiếm hữu.
* HAI PHƯƠNG THỨC BẢO VỆ CHIẾM HỮU -
Bảo vệ chiếm hữu khi tài sản chưa rời khỏi người chiếm hữu - đó là bảo vệ giữ lại
chiếm hữu (interdicta retinendae possessionis). Phương thức này được phân biệt thành hai loại:
+ Đối với bất động sản (interdictum uti possidetis)
+ Đối với động sản (interdictum utrubi) -
Bảo vệ quyền chiếm hữu khi tài sản đã tuột khỏi tay người chiếm hữu - đó là đòi lại
sự chiếm hữu (interdicta recuperandae possessionis) b. Quyền sở hữu (proprietas)
* THẾ HỆ THỨ NHẤT – QUYỀN SỞ HỮU THỂ HIỆN TƯ CÁCH CÁ NHÂN CỦA CHỦ THỂ -
Đây là giai đoạn sơ khai trong lịch sử phát triển chế định sở hữu. Trong giai đoạn sơ
khai này mới chỉ có khái niệm chủ sở hữu chứ chưa có khái niệm quyền sở hữu. -
Tài sản khi đó được hiểu như là sự tiếp nối tư cách cá nhân của chủ sở hữu. Ai xâm
phạm đến tài sản của một người (lấy mất con thú săn được, hoa trái thu lượm được) là xúc
phạm tới cá nhân người đó. -
Thời La mã cổ đại có quan niệm rằng: Một người kiện kẻ trộm không phải vì mình có
quyền sở hữu, mà vì người ăn trộm đã xúc phạm đến danh dự của mình thông qua hành vi ăn trộm đó. -
Kẻ trộm khi đó bị coi là kẻ xúc phạm (bị kiện theo phương thức kiện hành vi trộm cắp -
actio furti), chứ chưa được coi là người chiếm hữu bất hợp pháp tài sản của người khác (chưa
áp dụng các phương thức kiện bảo vệ quyền sở hữu như kiện đòi lại tài sản thuộc sở hữu của
mình - actio rei vindicatio, hay phương thức kiện đòi lại tài sản bị trộm – condictio furtiva).
* Hệ quả từ quan niệm thứ nhất:
+ Theo quan niệm đó mà pháp luật La mã giai đoạn cổ đại đã quy định cho phép chủ sở hữu
không những được lấy lại tài sản bị trộm mà còn được trả thù lại sự xúc phạm đó đối với kẻ
trộm: chặt tay, giam giữ, giết, bán làm nô lệ, phạt gấp nhiều lần tài sản trộm, ....
+ Nếu tài sản rời khỏi chủ sở hữu mà không có sự xúc phạm đến nhân thân của chủ sở hữu. +
Nếu như có nhiều kẻ trộm cùng ăn trộm một tài sản, thì hành vi của mỗi kẻ trộm được coi là
những sự xúc phạm riêng biệt đối với chủ sở hữu. Khi đó mỗi kẻ trộm phải trả cho người bị
trộm toàn bộ tài sản đã ăn trộm (có bao nhiêu kẻ trộm cùng thực hiện việc trộm cắp thì chủ sở
hữu được hưởng ngần ấy lần tài sản của mình).
+ Khi chủ sở hữu chết thì tư cách nhân thân chấm dứt, tài sản trở thành vô chủ.
+ Trong giai đoạn này chế định thừa kế chưa được hình thành rõ nét, chưa có quy định cụ thể
cho việc dịch chuyển tài sản từ người chết sang cho những người còn sống.
* THẾ HỆ THỨ HAI – QUYỀN CHI PHỐI TUYỆT ĐỐI LÊN VẬT
Quyền sở hữu thể hiện sự phụ thuộc tuyệt đối và vô hạn của vật đối với chủ sở hữu. Chủ sở hữu
có mọi quyền năng đối với vật. Quyền sở hữu đối với vật trả lời cho câu hỏi: Vật này của ai?
Đối với một vật cụ thể thì không thể có bất kỳ chủ thể nào có nhiều quyền năng hơn chính chủ sở hữu vật đó.
Cũng từ khi có cách hiểu này mà chủ sở hữu mới được bảo vệ bằng những phương thức kiện
vật quyền. Ví dụ như kiện đòi lại tài sản thuộc sở hữu của mình (rei vindicatio). - Các đặc
điểm cơ bản của quyền sở hữu được khái quát hoá trong giai đoạn này và được nâng lên thành lý thuyết chung bao gồm: 1) Mọi xử sự,
2) Theo ý chí của chủ sở hữu,
3) Tính chất tuyệt đối (Quyền sở hữu được bảo vệ khỏi sự vi phạm của bất kỳ ai) 4) Tính độc
nhất (Không thể có hai quyền sở hữu đối với một vật, không chấp nhận hai chủ sở hữu đối
với một vật, quyền sở hữu không thể phân chia được) 5) Vô thời hạn,
6) Việc thực hiện quyền sở hữu không dẫn tới chấm dứt quyền sở hữu đó (khác với trái quyền).
* HỆ QUẢ PHÁP LÝ TỪ CÁCH HIỂU THỨ HAI -
Hình thành nên nguyên tắc: “Một người không thể chuyển giao cho người khác nhiều
hơn những gì mình có” (Tiếng La-tinh: “Nemo ad alium plus juris transferre potest, quam ipse habet”). -
Nếu như tài sản đã được chuyển giao từ người chiếm hữu bất hợp pháp sang cho người
thứ ba thông qua giao dịch dân sự thì chủ sở hữu vẫn được đòi lại tài sản từ người thứ ba đó.
dụ
như một người mua phải tài sản do trộm cắp có được thì phải trả lại cho chủ sở hữu khi chủ
sở hữu đòi lại. Bởi lẽ bản thân kẻ trộm không có quyền sở hữu đối với vật trộm được, do đó
không thể chuyển giao quyền sở hữu sang cho người mua (không thể chuyển giao cái mà chính
mình không có), khi đó người mua phải tài sản trộm cắp sẽ không thể trở thành chủ sở hữu tài sản mua được. -
Phát sinh một vấn đề: Khi đó một người khi mua tài sản nào đó thường sẽ rất băn khoăn
rằng: Không biết người bán cho mình có đích thực là chủ sở hữu tài sản không. -
Nếu người bán mà không phải chủ sở hữu tài sản thì đến một lúc nào đó sau khi mua
chủ sở hữu sẽ đến đòi lại, bên mua khi đó bị buộc phải trả lại cho chủ sở hữu tài sản mình đã
mua. - Nhằm khắc phục tận gốc vấn đề đó mà pháp luật các nước mới bắt đầu hình thành cơ
chế đăng ký tài sản. Phương thức đăng ký tài sản đó ban đầu được áp dụng đối với bất động
sản, sau đó áp dụng dần cho các loại tài sản khác là động sản. -
Cách hiểu này đã cho phép chủ sở hữu có mọi quyền năng đối với tài sản, do đó ở thế hệ
thứ hai này ta không thấy có sự liệt kê các quyền năng cơ bản của chủ sở hữu.
* THẾ HỆ THỨ BA - LIỆT KÊ CÁC QUYỀN NĂNG CỦA CHỦ SỞ HỮU VẬT -
Trên thực tế thì trong một xã hội công dân, mọi hành vi của mỗi thành viên, trong đó kể
cả hành vi đối với tài sản của chính mình, cũng chỉ giới hạn trong phạm vi cho phép sao cho
không làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác, cũng như lợi ích của
toàn xã hội, của cộng đồng nói chung. -
Chính vì lý do đó quyền năng của chủ sở hữu mới luôn bị hạn chế trong một giới hạn
luật định. Quyền năng vô hạn của chủ sở hữu đối với vật “của mình” chỉ được thể hiện với ý
nghĩa lớn hơn so với bất kỳ một chủ thể nào khác, chứ không bao giờ có thể nhiều hơn những gì pháp luật quy định. -
Nói cách khác, quyền sở hữu khi đó được hiểu là tập hợp một số quyền năng cụ thể của
chủ sở hữu mà pháp luật quy định. -
Bắt đầu hình thành khái niệm quyền sở hữu thế hệ thứ ba - liệt kê cụ thể các quyền năng
cấu thành của quyền sở hữu vật. Cách hiểu này được sử dụng rộng rãi trong pháp luật nhiều
quốc gia những thế kỷ vừa qua.
* NỘI DUNG QUYỀN SỞ HỮU
1. Quyền chiếm hữu (jus possidendi hay dententio);
2. Quyền sử dụng (jus utendi);
3. Quyền hưởng dụng (jus fruendi);
4. Quyền định đoạt số phận pháp lý (jus abutendi);
5. Quyền đòi lại tài sản từ tay người chiếm hữu khác (jus vindicandi).
* HẠN CHẾ QUYỀN SỞ HỮU
Những hạn chế quyền sở hữu được phân thành hai nhóm: -
Hạn chế vì lợi ích của hàng xóm ; - Hạn chế vì lợi ích xã hội.
* Các hạn chế vì lợi ích của hàng xóm:
+ Chủ sở hữu đất đai phải có nghĩa vụ cho phép hàng xóm của mình sang thu nhặt lại hoa quả
rơi sang (cách ngày một lần),
+ Cần phải chịu để cho nước mưa từ hàng xóm chảy qua, khói muội từ hàng xóm bay qua, ...,
nếu như đó thuộc sinh hoạt bình thường của bên hàng xóm.
+ Chủ sở hữu phải chịu để cho cành cây nhà hàng xóm chìa sang bên đất của mình nếu như
càng đó cách mặt đất không ít hơn 15 fút.
+ Chủ sở hữu đất phải dành một khoảng rộng 2,5 fút xung quanh khoảnh đất làm được đi chung.
+ Chủ sở hữu không được làm thay đổi những dòng chảy tự nhiên bằng các công trình xây dựng của mình.
+ Bồi thường thiệt hại gây ra cho các công trình của hàng xóm *
Các hạn chế vì lợi ích của xã hội:
+ Một số quy định không cho phép giết nô lệ vô căn, không được giải phóng nô lệ quá định mức cho phép, ...
+ Chủ sở hữu phải cho phép người ngoài vào trong khu đất của mình trong một số trường hợp
như để lấy lại tài sản của mình đang ở trên mảnh đất đó.
+ Phải cho phép người khác thực hiện việc khai khoáng trên mảnh đất của mình và chủ sở hữu
được thu từ đó 10% lợi tức.
+ Cho phép nhà nước được sử dụng diện tích của mình trong những trường hợp cần thiết vì lợi
ích nhà nước. Chủ sở hữu sẽ được trả tiền sử dụng.
+ Cần tuân thủ các nguyên tắc phá dỡ và xây dựng nhà cửa.
+ Chủ sở hữu những mảnh đất bên cạnh sông cần cho phép tàu bè được cập bến và dỡ hàng
trên mảnh đất của mình. * Căn cứ xác lập quyền sở hữu - Căn cứ nguyên sinh:
+ Đối với vật vô chủ
+ Đối với vật sau sáp nhập, trộn lẫn, chế biến + Đối với hoa lợi + Theo thời hiệu - Căn cứ phái sinh:
+ Theo thỏa thuận chuyển giao
+ Theo quyết định của TA
+ Theo quy định của Luật
* CHẤM DỨT QUYỀN SỞ HỮU -
Khi vật bị tiêu huỷ (chấm dứt sự tồn tại thực tế) hay bị cấm lưu thông (chấm dứt tồn tại pháp lý); -
Khi chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình đối với tài sản (cả có chuyển giao lẫn
không có chuyển giao quyền sở hữu sang cho chủ thể khác); -
Khi chủ thể bị tước quyền sở hữu không theo ý chí của mình (ví dụ: khi bị tịch thu tài
sản, xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu cho chủ thể khác, ...); - Khi chủ sở hữu chuyển giao
quyền sở hữu cho người khác; - Khi động vật hoang dã sổng khỏi chuồng. -
Khi động vật nuôi thuần dưỡng đã rời khỏi nhà và mất thói quen quay trở lại chuồng.
Nếu chưa mất thói quen quay trở về thì mặc dù đã rời khỏi nhà quyền sở hữu vẫn còn. * QUYỀN SỞ HỮU CHUNG
Trong một số trường hợp nhất định vật có thể thuộc về không phải một người, mà đồng thời
thuộc về nhiều người. Quan hệ sở hữu đó luật La mã gọi là communio, hay là sở hữu chung.
Sở hữu chung có thể được thiết lập theo hai cách: -
Hoặc thông qua thỏa thuận giữa các đồng sở hữu chủ. Ví dụ: cùng thoả thuận góp tiền
mua chung ngôi nhà, làm chung vật. -
Hoặc do ý chí đơn phương của một chủ thể không phải các đồng sở hữu chủ, không phụ
thuộc vào ý chí của các đồng sở hữu chủ. Ví dụ: được để lại thừa kế chung ngôi nhà, tặng cho chung mảnh ruộng, ...
* BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU
Phương thức bảo vệ quyền sở hữu quan trọng nhất - đó là kiện đòi lại vật (actio rei vindicatio).
Phương thức kiện này cho phép chủ sở hữu được đòi lại tài sản thuộc sở hữu của mình mà đang
không được chiếm hữu tài sản đó.
Các bên trong kiện bao gồm:
+ Nguyên đơn - là chủ sở hữu tài sản đang không được chiếm giữ tài sản của mình; + Bị đơn -
Là người đang thực tế nắm giữ quản lý tài sản (bất kể là chiếm hữu hay chiếm giữ thực tế, bất
kể ngay thẳng hay không ngay thẳng). Trong một số trường hợp bị đơn có thể là người đang
không thực tế nắm giữ tài sản. Ví dụ như do bị kiện đòi lại nên đã cố ý chuyển tài sản sang cho
người khác) - Người chiếm hữu ảo (fictus possessor).