Tổng hợp pháp luật tài chính doanh nghiệp - Luật kinh tế | Trường đại học Luật, đại học Huế

Tổng hợp pháp luật tài chính doanh nghiệp - Luật kinh tế | Trường đại học Luật, đại học Huế được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

NỘI DUNG
1. Khái quát chung về tổ chức tài chính doanh nghiệp các nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức
tài chính doanh nghiệp
1.1. Khái niệm tài chính doanh nghiệp và tổ chức tài chính doanh nghiệp
Hiện nay, chưa văn bản pháp luật nào quy định về khái niệm của “Tài chính doanh
nghiệp” nhưng dựa vào những nội dung hoạt động, có thể khái quát:
“Tài chính doanh nghiệp” là những quan hệ kinh tế biểu hiện dưới hình thức giá trị phát sinh
trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm phục vụ cho quá trình tái sản xuất trong
mỗi doanh nghiệp và góp phần tích lũy vốn cho nhà nước.
“Tổ chức tài chính doanh nghiệp” việc vận dụng tổng hợp các chức năng của tài chính
doanh nghiệp để khởi thảo, lựa chọn và áp dụng các hình thức và phương pháp thích hợp nhằm xây
dựng các quyết địnhi chính đúng đắn về việc tạo lập sử dụng các quỹ tiền tệ, nhằm đạt được
các mục tiêu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ nhất định.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức tài chính doanh nghiệp
1.2.1. Hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp
nước ta hiện nay ngoài khu vực Nhà nước còn 4 loại hình doanh nghiệp: Công ty cổ
phần; Công ty trách nhiệm hữu hạn; Doanh nghiệp tư nhân; Công ty hợp danh. Những loại hình này
ảnh hưởng đến tổ chức TCDN thông qua cách thức tạo lập và huy động vốn; chuyển nhượng hay rút
vốn khỏi doanh nghiệp; trách nhiệm của chủ sở hữu đối với các khoản nợ và nghĩa vụ tài chính khác
của doanh nghiệp; phân chia lợi nhuận sau thuế.
1.2.2. Đặc điểm kinh tế ngành kinh doanh
Mỗi ngành kinh doanh những đặc điểm riêng về mặt kinh tế, ảnh hưởng đến tổ chức
TCDN. Thông qua thành phần cấu vốn kinh doanh của doanh nghiệp, đặc điểm kinh tế ngành
kinh doanh ảnh hưởng tới quy vốn sản xuất kinh doanh cũng như tỷ lệ thích ứng để hình thành
sử dụng chúng, do đó tác động tới tốc độ luân chuyển vốn, phương pháp đầu tư, thế thức thanh
toán chi trả. Tính thời vụ và chu kỳ sản xuất của mỗi ngành kinh doanh có ảnh hưởng tới nhu cầu sử
dụng vốn và doanh thu tiêu thụ sản phẩm.
1.2.3. Môi trường kinh doanh
Môi trường kinh doanh bao gồm các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định huy động, tạo lập, sử
dụng vốn, phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp như: sự ổn định của nền kinh tế, thị trường tiền tệ
lãi suất, sở hạ tầng kỹ thuật trình độ khoa học công nghệ, chính sách pháp luật nội địa
quốc tế…
Môi trường kinh doanh tác động không nhỏ tới tổ chức TCDN. Khi hiểu biết đầy đủ về
môi trường kinh doanh, doanh nghiệp s cái nhìn tổng quát nhất về môi trường kinh doanh của
mình để đưa ra những phương án, cách giải quyết phù hợp, thiết lập kế hoạch cho tương lai.
2. Đánh giá về các nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức TCDN và một số ví dụ minh họa
2.1. Hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp
2.1.1. Doanh nghiệp có vốn đầu tư của nhà nước
Theo quy định tại có thể xác định DNNN bao gồm:
Điều 88, Điều 89 LDN 2020 ,
1
+ Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ; được tổ chức quản dưới hình
thức công ty TNHH một thành viên theo các quy định của LDN và luật khác có liên quan.
+ Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần quyền
biểu quyết được tổ chức quản dưới hình thức công ty TNHH hai thành viên trở lên hoặc CTCP
theo các quy định của LDN.
Các vấn đề pháp lý như vấn đề về vốn điều lệ, việc huy động vốn, đầu tư ra nước ngoài, đặc
biệt đầu vào những lĩnh vực nhạy cảm (chứng khoán, bất động sản, tài chính ngân hàng, bảo
hiểm), phân phối lợi nhuận sau thuế được quy định khá cụ thể tại Nghị định 91/2015/NĐ-CP và các
Nghị định sửa đổi, bổ sung về đầu vốn nhà nước vào doanh nghiệp quản lý, sử dụng vốn, tài
sản tại doanh nghiệp. Do sự đầu vốn của nhà nước vào các doanh nghiệp này nên các vấn đề
trong tổ chức tài chính doanh nghiệp sẽ chịu sự tác động, quản lý và giám sát bởi Nhà nước. Cụ thể:
1 Luật Doanh nghiệp 2020 Điều 88. Doanh nghiệp nhà nước Điều 89. Áp dụng quy định đối với doanh nghiệp nhà nước
Đối với hoạt động huy động vốn của DNNN, trước hết được thực hiện theo quy định tại Điều
23 Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp. Theo quy
định tại Điều 2091/2015/NĐ-CP (Sửa đổi bổ sung bởi khoản 2 Điều 6140/2020/NĐ-CP),
thể thấy hoạt động huy động vốn của DNNN sẽ dễ dàng hơn bởi có sự hỗ trợ lớn từ nhà nước:
DNNN được trực tiếp vay vốn nước ngoài theo phương thức tự vay, tự chịu trách nhiệm trả nợ cho
bên cho vay nước ngoài theo đúng các điều kiện đã cam kết trong các thỏa thuận vay; DNNN sử
dụng vốn vay đúng mục đích, tự chịu mọi rủi ro và chịu trách nhiệm trước pháp luật trong quá trình
huy động, quản lý, sử dụng vốn vay trả nợ đúng hạn. Để các doanh nghiệp huy động vốn đúng
thực lực tình hình tài chính tại thời điểm huy động vốn, Chính phủ quy định các doanh nghiệp được
quyền chủ động huy động vốn phục vụ sản xuất kinh doanh, tuy nhiên phải đáp ứng một sđiều
kiện nhất định về khả năng “trả nợ”, hay đối với các doanh nghiệp nhu cầu huy động vốn vượt
quy định để đầu các dự án quan trọng, khi này muốn được chấp thuận phải báo cáo chủ sở hữu
xem xét, quyết định trên cơ sở các dự án huy động vốn phải đảm bảo khả năng trả nợ hiệu quả. Như
vậy, mặc được sự hỗ trợ từ nhà nước, tuy nhiên DNNN cũng cần phải chịu sự quản lý, giám
sát, thông qua bởi nhà nước.
Đối với vấn đề quản lý, sử dụng vốn, tài sản tại DNNN: DNNN trách nhiệm bảo toàn
phát triển vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp. Việc sử dụng vốn của DNNN chịu sự chi phối lớn
từ phía nhà nước, đặc biệt được thực hiện thông qua bởi người đại diện vốn. Nhà nước quản lý toàn
bộ các vấn đề liên quan đến hoạt động đầu tư, sử dụng vốn, tài sản của DNNN doanh nghiệp có
vốn Nhà nước, thông qua chủ thể CSH, người đại diện CSH. Đồng thời phân bổ vai trò, trách
nhiệm về quản vốn, tài sản của Nhà nước cho Bộ Tài chính các bộ quản ngành. Mọi biến
động về tăng, giảm vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, doanh nghiệp phải báo cáoquan đại
diện chủ sở hữu quan tài chính để theo dõi, giám sát. DNNN sử dụng vốn để đầu tư, xây
dựng, mua sắm TSCĐ; thuê tài sản hoạt động; được quyền cho thuê, thế chấp, cầm cố tài sản; được
quyền thanh lý, nhượng bán TSCĐ; về nội dung, phương thức, thẩm quyền được quy định tại Điều
22 đến Điều 27 của 91/2015/NĐ-CP (Sửa đổi bổ sung bởi khoản 2 Điều 6 140/2020/NĐ-
CP; khoản 8,9,10 Điều 1 NĐ 32/2018). Nhìn chung, các DNNN được quyền chủ động sử dụng vốn
khá rộng. quan đại diện sở hữu Nhà nước chỉ giữ quyền hạn chế trong một số quyết sách quan
trọng như quyết định phê chuẩn dự án có vốn lớn, quyết định mua, bán, thanh lý tài sản cố định
giá trị lớn, quyết định thành lập doanh nghiệp mới 100% vốn Nhà nước, đưa ra quyết định về mua
sắm, thanh lý, nhượng bán tài sản cố định giá trị lớn hơn một hạn mức nhất định theo vốn CSH
cũng như giữ quyền phê chuẩn các dự án đầu ra ngoài doanh nghiệp giá trị lớn hơn hạn mức
nào đó.
Đối với hoạt động phân phối lợi nhuận, do các doanh nghiệpsự đầu tư vốn bởi nhà nước
nên việc phân phối lợi nhuận sẽ theo quy chế phân phối đặc thù. Nhằm đảm bảo hài hòa lợi ích của
Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động, theo quy định tại Điều 31 NĐ 91/2015/NĐ-CP (Sửa đổi
bổ sung bởi khoản 2 Điều 6 NĐ 140/2020/NĐ-CP; Điều 2 NĐ 32/2018),thể xác định: lợi nhuận
của doanh nghiệp sau khi thực hiện nghĩa vụ với NSNN (bao gồm đắp lỗ năm trước, trích quỹ
phát triển khoa học công nghệ, nộp thuế thu nhập doanh nghiệp), phần lợi nhuận còn lại sẽ cho
phép các doanh nghiệp trích lập quỹ đầu phát triển, quỹ khen thưởng, phúc lợi cho người lao
động và quỹ thưởng người quản lý doanh nghiệp, kiểm soát viên. Phần lợi nhuận còn lại, nhà nước
sẽ thu hồi về để đảm bảo được mục tiêu nhà nước thu hồi một phần vốn nhà nước đã đầu vào
doanh nghiệp, nhằm mục đích tiếp tục đầu tư phát triển doanh nghiệp.
2.1.2. Doanh nghiệp không phải doanh nghiệp Nhà nước
Hình thức tổ chức pháp lý cũng ảnh hưởng cơ bản đến hoạt động tổ chức TCDN. Sự đa dạng
về quan hệ sở hữu, quy mô, phạm vi trách nhiệm của chủ sở hữu,... cùng với kế hoạch huy động, sử
dụng vốn và phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp có tác động qua lại đến nhau.
* Doanh nghiệp tư nhân
Đối với hình thức DNTN, bản thân doanh nghiệp không cách pháp nhân chủ doanh
nghiệp phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Như vậy, đặc điểm về vốn của loại hình này thường quy nhỏ chủ DNTN toàn quyền
quyết định tất cả hoạt động kinh doanh, việc sử dụng lợi nhuận sau thuế và tăng giảm vốn đầu tư.
Về các hình thức huy động vốn, theo quy định tại Điều 189 LDN, vốn của DNTN chỉ bao
gồm vốn vay (không bao gồm trái phiếu vì DNTN không được phát hành chứng khoán theo khoản 2
Điều 188 LDN) vốn đầu của chính chủ doanh nghiệp. Việc tăng giảm vốn của chủ doanh
nghiệp phải được ghi vào sổ kế toán và nếu giảm thì phải đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh.
Về việc quản sử dụng vốn “Toàn bộ vốn tài sản kể, khoản 2 Điều 189 LDN quy định:
cả vốn vay tài sản thuê… phải được ghi chép đầy đủ vào sổ kế toán báo cáo tài chính của
doanh nghiệp…” Với quy không lớn, việc quản hệ thống chuyên môn các vấn đề sử
dụng vốn như đầu tư, sản xuất, kinh doanh… đòi hỏi kỹ ng trình độ của chính chủ doanh
nghiệp và thường gặp nhiều hạn chế. Ngoài ra, pháp luật cấm chủ sở hữu dùng danh nghĩa DNTN
để đầu góp vốn thành lập hoặc mua cổ phần, phần vốn góp trong công ty hợp danh, công ty
TNHH hoặc CTCP (khoản 4 Điều 188 LDN).
Về phân phối lợi nhuận, chủ doanh nghiệp được nhận toàn bộ lợi nhuận sau khi trừ đi thuế và
các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định pháp luật.
Tóm lại, đối với DNTN, tổ chức TCDN tương đối đơn giản, ít chịu sự chi phối của pháp luật
tuy nhiên thường không đa dạng về hoạt động kinh doanh, tổ chức tài chính không được chặt chẽ và
phụ thuộc nhiều vào trình độ của chủ doanh nghiệp. Trong những năm gần đây, số lượng các DNTN
đang giảm dần do sự biến mất của các công ty không đủ năng lực để vận hành và phát triển. Ngoài
ra, một nguyên nhân khác đó khả năng tiếp cận vốn của các DNTN rất thấp. Quy vốn, giá
trị TSCĐ và doanh thu thuần của DNTN được coi là nhỏ hơn rất nhiều trong mặt bằng các loại hình
doanh nghiệp nói chung. Mặc lợi nhuận trước thuế của các DNTN xu hướng tăng nhưng lại
2
chiếm tỷ trọng khá thấp trong tổng số lợi nhuận của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, với mức
dao động trong khoảng 0,12% - 1,25%. Ngoài ra, đây cũng là nhóm doanh nghiệp dễ bị tổn thương
khi gặp những biến động về kinh tế - xã hội như khủng hoảng tài chính, đại dịch Covid-19,...
* Công ty hợp danh
Chủ sở hữu của công ty hợp danh là thành viên hợp danh. Thành viên hợp danh trong công ty
hợp danh (chỉ thể nhân) phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình trong khi
thành viên góp vốn chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào công ty.
Về các hình thức huy động vốn, công ty hợp danh có thể huy động vốn từ các thành viên hợp
danh, thành viên góp vốn tuy nhiên không được phát hành chứng khoán .
3 4
Các thành viên hợp danh là chủ thể chủ yếu quyết định của công tyviệc tổ chức sử dụng vốn
hợp danh. Chỉ thành viên hợp danh có quyền quản lýthực hiện hoạt động kinh doanh dưới danh
nghĩa công ty, sử dụng tài sản của công ty để kinh doanh được cung cấp thông tin về tình hình
kinh doanh của công ty, kiểm tra tài sản, sổ kế toán,... theo Điều 181 LDN. Căn cứ vào tỉ lệ thành
viên hợp danh tán thành, HĐTV quyết định các vấn đề: định hướng, chiến lược phát triển công ty;
quyết định tăng vốn góp bằng việc huy động thành viên mới; quyết định dự án đầu tư; vay huy
động vốn dưới hình thức khác (tiếp nhận thành viên góp vốn mới…); cho vay; mua, bán tài sản…
Về việc phân phối lợi nhuận, thành viên hợp danh và thành viên góp vốn được chia lợi nhuận
tương ứng với tỉ lệ phần vốn góp hoặc theo Điều lệ của công ty . HĐTV thông qua báo cáo tài chính
5
hằng năm, tổng số lợi nhuận được chia và số lợi nhuận chia cho từng thành viên. Như vậy, công ty
hợp danh thường khó tích lũy vốn để tái đầu tư, kinh doanh.
Hiện nay Việt Nam, các công ty hợp danh hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ kế
toán và kiểm toán, dịch vụ khám và điều trị bệnh, dịch vụ pháp lý, đấu giá... Đây là hình thức doanh
nghiệp mà các nhà đầu tư thường không mấy mặn mà và còn nhiều dè chừng khi quyết định đầu tư.
Do hạn chế trong khả năng huy động vốn loại hình này chỉ được lựa chọn trong một số ngành
2 Nếu như vốn bình quân của 1 doanh nghiệp tư nhân trong năm 2010 là 6,75 tỷ đồng, thì đến năm 2020 đã giảm xuống chỉ còn 6,47 tỷ đồng,
tương đương 11,61% -17,39% vốn bình quân của 1 doanh nghiệp trên cả nước. TSCĐ bình quân của 1 doanh nghiệp tư nhân năm 2010 là 2,63
tỷ đồng, đến năm 2020 thì giảm xuống còn 1,96 tỷ đồng, trong khi mức TSCĐ bình quân chung của các doanh nghiệp VN tương ứng là 16,68 tỷ
đồng và 22,71 tỷ đồng. Doanh thu thuần của các doanh nghiệp tư nhân cũng giảm từ 391,4 nghìn tỷ đồng năm 2010 xuống chỉ còn 223,59 nghìn
tỷ đồng vào năm 2020, tương ứng với mức giảm 42,87%. Từ đó, làm cho doanh thu thuần bình quân của 1 doanh nghiệp nhân cũng giảm
đáng kể, từ mức 8,15 tỷ đồng vào năm 2010 xuống còn 6,84 tỷ đồng vào năm 2020. Trong khi đó, doanh thu thuần bình quân chung của 1 doanh
nghiệp của cả nước tăng từ 26,8 tỷ đồng/doanh nghiệp tăng lên 40,01 tỷ đồng/doanh nghiệp vào năm 2020.
3 Điều 178 LDN 2020
4 Khoản 3 Điều 177 LDN 2020
5 Điểm e, khoản 1 Điều 181 và điểm b khoản 1 Điều 187 LDN 2020
nghề, lĩnh vực cần tạo dựng uy tín, trình độ chuyên môn cao mà không cần quy mô nhà đầu quá
lớn.
* Công ty trách nhiệm hữu hạn
Công ty TNHH có thể có một thành viên hoặc từ hai thành viên trở lên phải chịu trách nhiệm
về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp. Chủ công
ty TNHH có thể là chủ tịch công ty hoặc hội đồng thành viên, có quyền quyết định tổ chức tài chính
công ty, bao gồm: quyết định đầu tư, kinh doanh; thông qua báo cáo tài chính và phương án sử dụng
lợi nhuận hoặc xử lỗ Giám đốc (Tổng giám đốc) nộp lên; định đoạt tài sản (bán, vay, cho
vay); quyết định tăng, giảm, chuyển nhượng vốn điều lệ; thời điểm phương thức huy động thêm
vốn; quyết định phát hành trái phiếu; quyết định việc sử dụng lợi nhuận sau khi đã hoàn thành nghĩa
vụ thuế các nghĩa vụ tài chính khác của công ty; quyết định mức lương, thưởng, thù lao đối với
các chức vụ quản lý công ty…
6
Về huy động vốn, công ty TNHH không được phát hành cổ phần (trừ trường hợp chào bán cổ
phiếu riêng lẻ để chuyển đổi thành CTCP) nhưng được phát hành trái phiếu riêng lẻ (trừ trái phiếu
7
chuyển đổi) . Vốn điều lệ của công ty TNHH tổng giá trị phần vốn góp của các thành viên hoặc
8
chủ sở hữu cam kết góp và ghi trong Điều lệ công ty. Công ty TNHH có thể tăng vốn điều lệ bằng
9
cách tăng vốn góp của thành viên, tiếp nhận thêm vốn góp của người khác . thể thấy, việc rút
10
hoặc chuyển nhượng vốn trong công ty TNHH bị hạn chế một phần nhất định.
Việc sử dụng vốn được thực hiện bởi các thành viên chịu giới hạn nhất định từ pháp luật.
Theo đó, HĐTV hoặc chủ tịch công ty TNHH MTV quyết định các vấn đề như đã phân tích trên
liên quan đến việc sử dụng vốn như: đầu tư, kinh doanh thông qua Nghị quyết của HĐTV hoặc
Quyết định của chủ tịch công ty. Công ty TNHH hai thành viên trở lên phải thực hiện công bố thông
tin trong đó có thông tin TCDN.
Về phân phối lợi nhuận:
Đối với công ty TNHH 2 thành viên trở lên, công ty chỉ được chia lợi nhuận tương ứng với
phần vốn góp cho các thành viên khi công ty lãi, nộp đủ thuế các nghĩa vụ tài chính khác
đảm bảo thanh toán đủ các khoản nợ nghĩa vụ tài sản khác đến hạn (Điều 69 LDN). Giám đốc
hoặc Tổng giám đốc không được tăng tiền lương, trả thưởng khi công ty không khả năng thanh
toán đủ các khoản nợ đến hạn.
11
Đối với công ty TNHH MTV, chủ sở hữu công ty không được rút lợi nhuận khi công ty
không thanh toán đủ các khoản nợ nghĩa vụ tài sản khác đến hạn. Chủ sở hữu công ty quyết
12
định mức tiền lương, thù lao, thưởng và lợi ích khác cho các vị trí quản lý trong công ty theo kết quả
và hiệu quả kinh doanh.
Ưu điểm của loại hình công ty TNHH so với CTCP nằm ở quy mô thành viên (không quá 50
người), giúp cho việc sử dụng vốn để tiến hành hoạt động đầu tư, kinh doanh dễ thống nhất tập
trung quyền lực, hình quản đơn giản hơn; còn so với DNTN công ty hợp danh thì lại
không quá bị giới hạn về hình thức huy động vốn, không phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ
tài sản của chủ công ty. Đây cũng là loại hình doanh nghiệp phổ biến được nhiều người lựa chọn để
kinh doanh trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Công ty cổ phần
CTCP là hình thức doanh nghiệp có vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là
cổ phần, người nắm giữ cổ phần cổ đông chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn đã góp.
cấu của CTCP ít nhất phải bao gồm ĐHĐCĐ, HĐQT Giám đốc (Tổng giám đốc). Các cổ
đông có quyền biểu quyết trong cuộc họp ĐHĐCĐ về các vấn đề của công ty; ĐHĐCĐ quyết định
các vấn đề về tổ chức tài chính trong công ty: cổ phần, cổ tức, định đoạt số tài sản lớn, thông qua
6 Điều 76 LDN 2020
7 Khoản 3 Điều 74 và khoản 3 Điều 46 LDN 2020
8 Khoản 4 Điều 74 và khoản 4 Điều 46 LDN 2020
9 Khoản 1 Điều 75 và khoản 1 Điều 47 LDN 2020
10 Điều 68 và Điều 87 LDN 2020
11 Khoản 2 Điều 71 LDN 2020
12 Khoản 6 Điều 77 LDN 2020
BCTC, mức thù lao cho HĐQT… HĐQT là cơ quan quản quyết định các vấn đề của công ty trừ
phạm vi thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ: kế hoạch sử dụng vốn, phương án đầu tư, dự án đầu
kế hoạch kinh doanh hàng năm… Ngoài ra, HĐQT hoặc ĐHĐCĐ chấp thuận hợp đồng, giao dịch
với người liên quan (Điều 167 LDN). Giám đốc (Tổng giám đốc) người trực tiếp điều hành
hoạt động của công ty.
Về hoạt động huy động vốn, nhìn chung CTCP có thể huy động vốn khá dễ dàng bằng nhiều
hình thức khác nhau, trong đó bao gồm gia tăng vốn chủ sở hữu (vốn điều lệ, lợi nhuận từ hoạt động
kinh doanh, các nguồn khác…) hoặc vốn vay. CTCP huy động thêm vốn điều lệ bằng cách chào bán
cổ phần cho cổ đông hiện hữu (Điều 124 LDN), chào bán riêng lẻ và chào bán ra công chúng. Ngoài
ra, CTCP có thể phát hành trái phiếu và các loại chứng khoán khác của công ty bằng hình thức chào
bán riêng lẻ hoặc chào bán ra công chúng (chỉ áp dụng với các công ty đại chúng). Các hoạt động
chào bán cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng chào bán riêng lẻ được quy định riêng cụ thể
trong LDN và Luật Chứng khoán về điều kiện chào bán, thủ tục chào bán (bao gồm việc thông báo,
đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền), chủ thể có thẩm quyền (ĐHĐCĐ, HĐQT). Ngoài ra,
hạn chế của pháp luật đối với CTCP đó không được chào bán chứng khoán ra công chúng để
thành lập doanh nghiệp, trừ trường hợp nhất định. Như vậy, nhìn chung, hoạt động huy động vốn
của CTCP tuy đa dạng nhưng bị chi phối sâu sắc bởi các quy định pháp hành chính của Nhà
nước.
Về các quyết định sử dụng vốn, thẩm quyền cao nhất thuộc về ĐHĐCĐ - quan đại diện
cho các c đông hay các chủ sở hữu công ty, sau đó đến HĐQT Giám đốc (Tổng giám đốc).
CTCP phải thực hiện lập BCTC, công khai các thông tin liên quan báo cáo đến quan Nhà
nước thẩm quyền (Điều 176 LDN), CTCP đại chúng công bố công khai thông tin theo pháp
luật về chứng khoán.
Về phân phối lợi nhuận, việc trả cổ tức cho cổ đông được thực hiện theo Điều 135 LDN, theo
đó:
Căn cứ xác định mức cổ tức: số lợi nhuận ròng đã thực hiện khoản chi trả cổ tức được
trích từ nguồn lợi nhuận giữ lại của công ty.
Điều kiện trả cổ tức: (1) công ty đã hoàn thành nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác,
(2) đã trích lập các quỹ công ty và đắp lỗ trước đó (công ty phải có lãi), (3) ngay sau khi trả hết
số cổ tức, công ty vẫn bảo đảm thanh toán đủ các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác đến hạn
Hình thức chi trả cổ tức: tiền mặt, cổ phần của công ty hoặc tài sản khác.
CTCP là loại hình doanh nghiệp thường được tổ chức khi yêu cầu quy mô vốn lớn (do không
giới hạn số lượng cổ đông, được phát hành ra công chúng), khả năng huy động vốn nhanh, đơn giản,
phạm vi định đoạt của cổ đông tương ứng với tỷ lệ cổ phần, việc chuyển nhượng mua bán phần
vốn góp tương đối dễ dàng, tuy nhiên cũng chịu s điều chỉnh khắt khe của pháp luật. LDN 2020
đặt ra vấn đề bảo vệ quyền lợi của cổ đông nhỏ lẻ, ngoài ra vấn đề quản lý là sử dụng vốn cũng cực
kỳ phức tạp, đặc biệt chế độ công khai thông tin chặt chẽ đối với các công ty đại chúng, việc tổ chức
tài chính của doanh nghiệp phụ thuộc vào sự thống nhất của ĐHĐCĐ, quyết định của HĐQT, sự
điều hành, thực hiện, quản của Giám đốc (Tổng giám đốc), sự kiểm tra giám sát của Ban Kiểm
soát và là kết quả hoạt động của nhiều cơ quan, bộ phận khác nhau. Các CTCP, đặc biệt là các công
ty đại chúng lớn hiện đang được niêm yết trên sàn chứng khoán như Tập đoàn Dệt May Việt Nam,
CTCP giày Thượng Đình, CTCP Sữa Việt Nam Vinamilk,.. những doanh nghiệp tầm ảnh
hưởng đến thị trường đóng góp một phần không nhỏ vào hoạt động của nền kinh tế cũng như
nguồn thu thuế cho NSNN.
2.2. Đặc điểm kinh tế ngành kinh doanh
Thứ nhất, ngành nghề quyết định cơ cấu và tốc độ luân chuyển vốn trong các hoạt động đầu
tư, kinh doanh của công ty. , tốc độ luân chuyển vốn trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng dụ
thường chậm hơn các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ hoặc nông nghiệp mặc đòi hỏi nguồn
vốn lớn hơn, phù hợp với các quyết định đầu dài hạn, chẳng hạn như đầu xây dựng hạ tầng.
Ngược lại, ngành nông nghiệp có chu kỳ sản xuất ngắn, không đòi hỏi nguồn vốn lớn nhưng đổi lại
lợi nhuận thể thấp hơn. Hơn nữa, ngành nghề kinh doanh cũng ảnh hưởng đến quy vốn của
doanh nghiệp, dụ các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp nặng phải những doanh nghiệp lớn,
phải có khả năng huy động vốn bằng cách TSCĐ (đất đai, nhà xưởng, máy móc để thế chấp) và
lợi nhuận giữ lại để tái sản xuất đủ lớn.
Thứ hai, ngành kinh doanh nhiều vốn thâm dụng sẽ đòi hỏi nhiều vốn hơn so với các ngành
ít vốn thâm dụng. Điều này ảnh hưởng đến cơ cấu, tỷ lệ đòn bẩy tài chínhcác quyết định đầu
của doanh nghiệp. , lĩnh vực kinh doanh bất động sản thường có vốn đầu tư cao do giá đất đaiVí dụ
chi phí xây dựng. Doanh nghiệp bất động sản cần huy động nhiều vốn vay hơn so với doanh
nghiệp bán lẻ, phải điều chỉnh kiểm soát vốn đầu một cách phù hợp hiệu quả để tránh rủi
ro. Tuy nhiên, nhận định trên đây được đặt dưới góc nhìn chung, không loại trừ trên thị trường
những doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực nông nghiệp như Masan Meatlife, Vinamilk… nhiều
công ty kinh doanh bất động sản với quy mô nhỏ. Do đó, Luật Đầu tư 2020 khi được ban hành đã bỏ
đi quy định pháp luật về vốn pháp định tối thiểu 20 tỷ đồng đối với doanh nghiệp kinh doanh bất
động sản nhằm tôn trọng quyền tự do kinh doanh.
Thứ ba, một số ngành nghề đặc thù được pháp luật điều chỉnh bằng các văn bản pháp luật
riêng, bên cạnh LDN 2020 hay Luật thương mại 2005. Có thể kể đến như, đặc thù của ngành xây
dựng đótạo lập các tài sản thời gian sử dụng lâu dài, việc nghiệm thu và thanh toán phải theo
từng giai đoạn trong tiến độ thi công, thời gian tập trung vốn thể kéo dài nên phải được điều
chỉnh bằng đạo luật riêng (Luật Xây dựng 2014), trong đó các quy định phải thống nhất và gắn liền
với các đạo luật về đất đai, bất động sản, nhà ở. Đối với ngành dịch vụ, các chủ thể kinh doanh
thể linh hoạt giảm thiểu các chi phí đầu vào, không cần cân nhắc đến một số vấn đề trong kinh
doanh hàng hóa như hàng tồn kho, dễ dàng điều chỉnh giá thành dịch vụ một cách hợp để tăng
tính cạnh tranh. Giá thành dịch vụ do các bên thỏa thuận, tuy nhiên Luật thương mại 2005 quy định
“Trường hợp không thoả thuận… thì giá dịch v được xác định theo giá của loại dịch vụ đó
trong các điều kiện tương tự về phương thức cung ứng, thời điểm cung ứng, thị trường địa lý,
phương thức thanh toán các điều kiện khác ảnh hưởng đến giá dịch vụ.” Các chủ thể cung
cấp dịch vụ trong một số thị trường đặc thù, có sự ảnh hưởng lớn nền kinh tế thì chịu sự điều chỉnh
của các văn bản pháp luật chuyên ngành. dụ, Luật chứng khoán hay Luật kinh doanh bất động
sản quy định về các dịch vụ môi giới, tư vấn, sàn giao dịch chứng khoán, bất động sản một cách cụ
thể liên quan đến trình độ của người cung cấp dịch vụ, tiền thu lao, hoa hồng, những cơ sở vật chất
phải đầu tư… Các quy định này đều ảnh hưởng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp đến các quyết định
tài chính về doanh thu và chi phí của chủ doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, với các ngành nghề do nhà nước kiểm soát đặc biệt cũng sẽ ảnh hưởng đến tổ
chức TCDN. Luật Tổ chức tín dụng, Luật Chứng khoán, Luật Kinh doanh bảo hiểm đặt ra những
giới hạn cho một schủ thể thuộc phạm vi điều chỉnh của mình như: không được kinh doanh bất
động sản, chế độ tài chính và công khai tài chính riêng, mức trích lập quỹ dự phòng, điều kiện thành
lập, điều kiện hành nghề… Đối với mỗi ngành nghề kinh doanh điều kiện, Nhà nước bên cạnh
đặt ra điều kiện thì còn thể thiết lập các mức giá trần hoặc giá sàn (ví dụ dịch vụ hàng không)
hoặc ấn định mức giá bán lẻ (xăng dầu) cụ thể cho các doanh nghiệp. Như vậy, các quy định về ấn
định giá ảnh hưởng sâu sắc đến các quyết định đầu tư và phân bổ nguồn vốn của doanh nghiệp.
3. Môi trường kinh doanh
Như đã đề cậpphần 1, môi trường kinh doanh bao gồm rất nhiều yếu tố. Tuy nhiên, trong
khuôn khổ bài tập nhóm, nhóm sẽ tập trung vào phân tích: chính sách pl và trình độ KH CN
3.1 Chính sách pháp luật
Chính sách pháp luật cũng ảnh hưởng sâu rộng quan trọng đến hoạt động tổ chức
TCDN dưới nhiều khía cạnh:
Thứ nhất, ưu đãi về thuế. Ưu đãi thuế giúp giảm gánh nặng thuế cho doanh nghiệp, từ đó
làm tăng lợi nhuận khả năng sinh lời. Theo Điều 4 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 quy
định các trường hợp thu nhập được miễn thuế như: Thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp từ 30% số lao động bình quân trong năm trở lên người
khuyết tật, người sau cai nghiện…; Thu nhập được chia từ hoạt động góp vốn, liên doanh, liên kết
với doanh nghiệp trong nước, sau khi đã nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của Luật
này. Quy định này một trong số những chính sách ưu đãi thiết thực của nhà nước ban hành ra
nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Bên cạnh đó, Điều 13 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 cũng quy định ưu đãi về thuế
suất dành cho doanh nghiệp ở các mức khác nhau. Theo khoản 2 Điều 13 Luật này thì Thu nhập của
doanh nghiệp từ thực hiện hoạt động hội hóa trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế,
văn hóa, thể thao môi trường sẽ được hưởng mức lãi suất 10%. Đối với mức thuế suất 20%
trong thời hạn 10 năm sẽ dành cho Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện hoạt động xã hội hóa
trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao và môi trường. Ngoài ra, còn
quy định về miễn giảm thuế xuất nhập khẩu được quy định trong Luật thuế xuất, nhập khẩu 2016.
Các quy định về ưu đãi thuế đều có chung mục đích là giảm bớt gánh nặng thuế, kích thích sản xuất
kinh doanh góp phần phát triển nền kinh tế.
Tuy nhiên cũng cần nhìn nhận rằng ưu đãi thuế cần thiết nhưng cần được áp dụng một
cách thận trọng và phải được cân nhắc trên cơ sở so sánh, đánh giá đầy đủ, tránh các trường hợp số
doanh nghiệp có thể lợi dụng ưu đãi thuế để cạnh tranh không lành mạnh với các doanh nghiệp khác
như việc hạ giá thành sản phẩm hoặc dịch vụ, từ đó gây khó khăn cho các doanh nghiệp không được
hưởng ưu đãi.
Thứ hai, về ưu đãi đầu tư. Pháp luật Việt Nam đã có những quy định về ưu đãi đầu tư được
quy định trong Luật Đầu2020. Danh mục ngành nghề ưu đãi đầu tư năm 2023 được quy định tại
Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định 31/2021/NĐ-CP Đây một trong những chính sách mà...
chính phủ cung cấp để kích thích các hoạt động đầu tư cho doanh nghiệp. Thu hút vốn đầu tư, san sẻ
gánh nặng cho các doanh nghiệp, thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.
Cùng với đó, việc Việt Nam ký kết các hiệp định song phương cũng góp phần đem lại các ưu
đãi đầu tư cho doanh nghiệp. Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định song phương về ưu đãi đầu tư với
các quốc gia trên thế giới, như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, các quốc gia thành viên EU.
Những hiệp định này đã giúp Việt Nam thu hút đáng kể vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Hay việc tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới (WTO) hay ký kết các Hiệp định thương
mại tự do (FTA): Hiệp định Đối tác toàn diện Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp
định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA)... làm cho hàng hóa của các
doanh nghiệp được xuất khẩu sang nhiều quốc gia, xóa bỏ hàng rào thuế quan, nhập khẩu với thuế
xuất thấp, mở ra nhiều cơ hội về ưu đãi đầu tư, thương mại dịch vụ…
Thứ ba chính sách về môi trường đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, . Khoản
1 Điều 4 Luật Bảo vệ môi trường 2020 quy định: “Bảo vệ môi trường trách nhiệm nghĩa vụ
của mọi quan, tổ chức, hộ gia đình nhân”. Theo quy định tại Điều 141 Luật Bảo vệ môi
trường 2020 Các hoạt động đầu kinh doanh về bảo vệ môi trường được ưu đãi, hỗ trợ bao gồm:
Dự án đầu thuộc ngành, nghề thu gom, xử lý, tái chế hoặci sử dụng chất thải; Doanh nghiệp
sản xuất, cung cấp công nghệ, thiết bị, sản phẩm dịch vụ phục vụ các yêu cầu về bảo vệ môi
trường… Khi tham gia đầu tư, thực hiện các nghĩa vụ về bảo vệ môi trường sẽ góp phần giảm thiểu
chi phí và nâng cao hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp. Ngoài ra, việc tuân thủ đầy đủ các quy định
pháp luật môi trường sẽ giúp doanh nghiệp không gặp rủi ro về pháp lý, thanh kiểm tra và chế tài xử
phạt. Nhận thức được vai trò của mình trong công tác bảo vệ môi trường, đó chính là điều kiện tiên
quyết để doanh nghiệp phát triển kinh doanh một cách ổn định, lâu dài và bền vững.
3.2. Trình độ khoa học công nghệ
Trình độ khoa học công nghệ một khía cạnh quan trọng trong môi trường kinh doanh,
yếu tố then chốt thúc đẩy sự phát triển cạnh tranh của doanh nghiệp. Sự xuất hiện của khoa học
công nghệ đã có những ảnh hưởng tích cực đến tổ chức TCDN:
Ban lãnh đạo có thể hoàn toàn chủ động trong việc theo dõi các báo cáo, đánh giá hoạt động
của doanh nghiệp nhờ hệ thống theo dõi báo cáo tự động. Nhờ đó, tất cả thông tin số liệu về
công việc đều được thể hiện rõ ràng, minh bạch, chính xác và nhanh chóng. Những số liệu này giúp
ích rất nhiều trong quá trình ra các quyết định tài chính quan trọng.
Ở nhiều doanh nghiệp, bộ phận tài chính thường mất quá nhiều thời gian để thu thập và luân
chuyển thông tin, dữ liệu giữa các nguồn do các bộ phận thường dùng các hệ thống tính toán rời rạc
để theo dõi, phân tích doanh thu, chi phí, tính toán tổng hợp, hợp nhất lên tập đoàn. Dữ liệu ngày
càng phức tạp, hệ thống dữ liệu khó theo dõi và tra cứu nguồn gốc. Vì vậy, sự thay đổi hướng tới tối
ưu quy trình dựa trên công nghệ tiên tiến như trí tuệ nhân tạo (AI), điện toán đám mây (Cloud),… sẽ
giúp mang lại những tiến bộ đáng kể về hiệu quả, tự động hóa và khả năng ra quyết định.
Ví dụ: Về việc áp dụng khoa học công nghệ thành công, mang lại hiệu quả trong hoạt động tổ
chức TCDN có thể kể tới là Tập đoàn Trung Nguyên. Tập đoàn Trung Nguyên trước khi sử dụng hệ
thống ERP đã gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý giữa các nền tảng khác nhau. Bộ máy quản
từ đó bị rời rạc và không được kết nối. Năm 2003 đến 2006, Trung Nguyên đã dần tiếp cận ứng
dụng ERP. Tuy nhiên, tình hình không khả quan và liên tiếp thất bại. Doanh nghiệp đã không dừng
lại quyết định tiếp tục triển khai phần mềm ERP lần thứ 3. Sau bao lần thử nghiệm thì Trung
Nguyên chính thức là một trong các doanh nghiệp ứng dụng ERP thành công. Cụ thể hệ thống kiểm
soát mọi sự thất thoát, doanh thu, lợi nhuận đáp ứng được các yêu cầu của ban lãnh đoàn tập
đoàn. Hệ thống ERP minh bạch mọi thông tin đã giúp thương hiệu Trung Nguyên Legend vươn xa
đến nhiều quốc gia trên thế giới.
Cùng với sự phát triển của trình độ khoa học công nghệ, Việt Nam cũng đã đưa ra chính
sách, quy định pháp luật về ứng dụng công nghệ vào hoạt động của doanh nghiệp, tạo ra tác động
mạnh mẽ đến hoạt động tổ chức TCDN:
Ngày 6/9/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 100/NQ-CP thông qua đề nghị xây
dựng Nghị định của Chính phủ về chế thử nghiệm (sandbox) kiểm soát hoạt động công nghệ
tài chính (fintech) trong lĩnh vực ngân hàng. Fintech được hiểu một cách cụ thểứng dụng những
cải tiến sáng tạo, thông minh của công nghệ thông tin o trong các hoạt động, các dịch vụ tài
chính. Fintech được đánh giá là có tiềm năng to lớn và có nhiều tác động đến ngành ngân hàng cũng
như các lĩnh vực khác trên toàn thế giới. Ngành Ngân hàng thể hưởng lợi từ việc kết hợp các
công nghệ mới nổi như chuỗi khối (Blockchain), trí tuệ nhân tạo (AI), học máy (ML)... Việc sử
dụng công nghệ mới nổi với sự hợp tác giữa các công ty Fintech và ngân hàng có thể cải thiện sự ổn
định i chính trên toàn hệ thống, đồng thời giảm thiểu các tác động tiêu cực bên ngoài. Trên thế
giới, nếu SupTech (Supervision Technology) được cácquan quản lý tài chính áp dụng trong quá
trình tự động hóa, đơn giản hóa các thủ tục hành chính như thu nộp thuế, quản sở hữu tài sản…
thì RegTech (Regulatory Technology) lại được các tổ chức tài chính tối ưu hóa quy trình tuân thủ
các yêu cầu củaquan quản lý, bao gồm chuẩn bị báo cáo cần thiết, tăng tốc độđộ tin cậy của
các quy trình, thủ tục nhận dạng khách hàng, nâng cao chất lượng phân tích giao dịch, cũng như
đảm bảo quyền kiểm soát mức độ rủi ro phòng, chống các mối đe dọa an ninh mạng. Tất cả dữ
liệu được đưa lên một hệ thống “chung” chúng tự động tính toán để trả về tình trạng pháp lý,
nghĩa vụ cụ thể cho từng thành viên. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, Nghị định chính thức về
sandbox cho Fintech vẫn chưa được ban hành, việc thiếu hành lang pháp lý cũng đặt ra những thách
thức cho hoạt động Fintech tại VN.
Khoản 9 Điều 157 LDN 2020 đã bổ sung thêm quy định về các trường hợp thành viên HĐQT
được coi là tham dự và biểu quyết tại cuộc họp. Theo quy định này, bên cạnh bổ sung hình thức gửi
phiếu biểu quyết bằng phương tiện khác theo quy định trong Điều lệ công ty, các thành viên của
HĐQT còn được coi là tham dự và biểu quyết tại cuộc họp khi tham dự và biểu quyết thông qua hội
nghị trực tuyến, bỏ phiếu điện tử hoặc hình thức điện tử Quy định ý nghĩa quan trọng, phù hợp.
với thực tiễn ứng dụng công nghệ vào hoạt động doanh nghiệp nước ta hiện nay. Trong trường
hợp một số thành viên không thể tham dự trực tiếp thì họ vẫn có thể đưa ra những ý kiến, quyết định
ảnh hưởng lớn tới các quyết định tài chính quan trọng của doanh nghiệp. Đặc biệt, quy định này
được thể hiện nhất trong bối cảnh đại dịch Covid-19 bùng phát, việc áp dụng công nghệ số cho
các cuộc họp ĐHĐCĐ hay HĐQT vào việc thông qua quyết định, lấy ý kiến của cổ đông, các nhà
quản doanh nghiệp để ra các quyết sách, phương pháp thích hợp liên quan đến hoạt động kinh
doanh, tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ có thể giúp cho mang lại hiệu quả trong hoạt động tổ chức
tài chính của doanh nghiệp, kịp thời đưa ra những giải pháp tài chính để ứng phó với những biến
động của nền kinh tế.
Khoản 7 Điều 24 Điều lệ CTCP sữa Việt Nam Vinamilk năm 2023 cũng quy định khi
thành viên HĐQT tham dự và biểu quyết thông qua hội nghị trực tuyến, bỏ phiếu điện tử hoặc hình
thức điện tử khác thì được xem tham dự biểu quyết tại cuộc họp. Việc thể tập hợp hết các
thành viên HĐQT tham dự đưa ra biểu quyết về những quyết sách đang cần xem xét cùng
quan trọng thiết yếu đối với sự tồn tại, phát triển hoạt động của doanh nghiệp. quy định
này thể giúp việc tiến hành cuộc họp diễn ra thuận tiện các thành viên không thể cùng tập
trung tại một địa điểm.
| 1/9

Preview text:

NỘI DUNG
1. Khái quát chung về tổ chức tài chính doanh nghiệp và các nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức tài chính doanh nghiệp
1.1. Khái niệm tài chính doanh nghiệp và tổ chức tài chính doanh nghiệp

Hiện nay, chưa có văn bản pháp luật nào quy định rõ về khái niệm của “Tài chính doanh
nghiệp” nhưng dựa vào những nội dung hoạt động, có thể khái quát:
“Tài chính doanh nghiệp” là những quan hệ kinh tế biểu hiện dưới hình thức giá trị phát sinh
trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm phục vụ cho quá trình tái sản xuất trong
mỗi doanh nghiệp và góp phần tích lũy vốn cho nhà nước.
“Tổ chức tài chính doanh nghiệp” là việc vận dụng tổng hợp các chức năng của tài chính
doanh nghiệp để khởi thảo, lựa chọn và áp dụng các hình thức và phương pháp thích hợp nhằm xây
dựng các quyết định tài chính đúng đắn về việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ, nhằm đạt được
các mục tiêu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ nhất định.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức tài chính doanh nghiệp
1.2.1. Hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp

Ở nước ta hiện nay ngoài khu vực Nhà nước còn có 4 loại hình doanh nghiệp: Công ty cổ
phần; Công ty trách nhiệm hữu hạn; Doanh nghiệp tư nhân; Công ty hợp danh. Những loại hình này
ảnh hưởng đến tổ chức TCDN thông qua cách thức tạo lập và huy động vốn; chuyển nhượng hay rút
vốn khỏi doanh nghiệp; trách nhiệm của chủ sở hữu đối với các khoản nợ và nghĩa vụ tài chính khác
của doanh nghiệp; phân chia lợi nhuận sau thuế.
1.2.2. Đặc điểm kinh tế ngành kinh doanh
Mỗi ngành kinh doanh có những đặc điểm riêng về mặt kinh tế, ảnh hưởng đến tổ chức
TCDN. Thông qua thành phần cơ cấu vốn kinh doanh của doanh nghiệp, đặc điểm kinh tế ngành
kinh doanh ảnh hưởng tới quy mô vốn sản xuất kinh doanh cũng như tỷ lệ thích ứng để hình thành
và sử dụng chúng, do đó tác động tới tốc độ luân chuyển vốn, phương pháp đầu tư, thế thức thanh
toán chi trả. Tính thời vụ và chu kỳ sản xuất của mỗi ngành kinh doanh có ảnh hưởng tới nhu cầu sử
dụng vốn và doanh thu tiêu thụ sản phẩm.
1.2.3. Môi trường kinh doanh
Môi trường kinh doanh bao gồm các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định huy động, tạo lập, sử
dụng vốn, phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp như: sự ổn định của nền kinh tế, thị trường tiền tệ
và lãi suất, cơ sở hạ tầng kỹ thuật và trình độ khoa học công nghệ, chính sách pháp luật nội địa và quốc tế…
Môi trường kinh doanh có tác động không nhỏ tới tổ chức TCDN. Khi hiểu biết đầy đủ về
môi trường kinh doanh, doanh nghiệp sẽ có cái nhìn tổng quát nhất về môi trường kinh doanh của
mình để đưa ra những phương án, cách giải quyết phù hợp, thiết lập kế hoạch cho tương lai.
2. Đánh giá về các nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức TCDN và một số ví dụ minh họa
2.1. Hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp
2.1.1. Doanh nghiệp có vốn đầu tư của nhà nước
Theo quy định tại Điều 88, Điều 89 LDN 2020 1 có thể xác định DNNN bao gồm: ,
+ Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ; được tổ chức quản lý dưới hình
thức công ty TNHH một thành viên theo các quy định của LDN và luật khác có liên quan.
+ Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền
biểu quyết được tổ chức quản lý dưới hình thức công ty TNHH hai thành viên trở lên hoặc CTCP
theo các quy định của LDN.
Các vấn đề pháp lý như vấn đề về vốn điều lệ, việc huy động vốn, đầu tư ra nước ngoài, đặc
biệt là đầu tư vào những lĩnh vực nhạy cảm (chứng khoán, bất động sản, tài chính ngân hàng, bảo
hiểm), phân phối lợi nhuận sau thuế được quy định khá cụ thể tại Nghị định 91/2015/NĐ-CP và các
Nghị định sửa đổi, bổ sung về đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý, sử dụng vốn, tài
sản tại doanh nghiệp. Do có sự đầu tư vốn của nhà nước vào các doanh nghiệp này nên các vấn đề
trong tổ chức tài chính doanh nghiệp sẽ chịu sự tác động, quản lý và giám sát bởi Nhà nước. Cụ thể:
1 Luật Doanh nghiệp 2020 Điều 88. Doanh nghiệp nhà nước Điều 89. Áp dụng quy định đối với doanh nghiệp nhà nước
Đối với hoạt động huy động vốn của DNNN, trước hết được thực hiện theo quy định tại Điều
23 Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp. Theo quy
định tại Điều 20 NĐ 91/2015/NĐ-CP (Sửa đổi bổ sung bởi khoản 2 Điều 6 NĐ 140/2020/NĐ-CP),
có thể thấy hoạt động huy động vốn của DNNN sẽ dễ dàng hơn bởi có sự hỗ trợ lớn từ nhà nước:
DNNN được trực tiếp vay vốn nước ngoài theo phương thức tự vay, tự chịu trách nhiệm trả nợ cho
bên cho vay nước ngoài theo đúng các điều kiện đã cam kết trong các thỏa thuận vay; DNNN sử
dụng vốn vay đúng mục đích, tự chịu mọi rủi ro và chịu trách nhiệm trước pháp luật trong quá trình
huy động, quản lý, sử dụng vốn vay và trả nợ đúng hạn. Để các doanh nghiệp huy động vốn đúng
thực lực tình hình tài chính tại thời điểm huy động vốn, Chính phủ quy định các doanh nghiệp được
quyền chủ động huy động vốn phục vụ sản xuất kinh doanh, tuy nhiên phải đáp ứng một số điều
kiện nhất định về khả năng “trả nợ”, hay đối với các doanh nghiệp có nhu cầu huy động vốn vượt
quy định để đầu tư các dự án quan trọng, khi này muốn được chấp thuận phải báo cáo chủ sở hữu
xem xét, quyết định trên cơ sở các dự án huy động vốn phải đảm bảo khả năng trả nợ hiệu quả. Như
vậy, mặc dù có được sự hỗ trợ từ nhà nước, tuy nhiên DNNN cũng cần phải chịu sự quản lý, giám
sát, thông qua bởi nhà nước.
Đối với vấn đề quản lý, sử dụng vốn, tài sản tại DNNN: DNNN có trách nhiệm bảo toàn và
phát triển vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp. Việc sử dụng vốn của DNNN chịu sự chi phối lớn
từ phía nhà nước, đặc biệt được thực hiện thông qua bởi người đại diện vốn. Nhà nước quản lý toàn
bộ các vấn đề liên quan đến hoạt động đầu tư, sử dụng vốn, tài sản của DNNN và doanh nghiệp có
vốn Nhà nước, thông qua chủ thể là CSH, người đại diện CSH. Đồng thời phân bổ vai trò, trách
nhiệm về quản lý vốn, tài sản của Nhà nước cho Bộ Tài chính và các bộ quản lý ngành. Mọi biến
động về tăng, giảm vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, doanh nghiệp phải báo cáo cơ quan đại
diện chủ sở hữu và cơ quan tài chính để theo dõi, giám sát. DNNN sử dụng vốn để đầu tư, xây
dựng, mua sắm TSCĐ; thuê tài sản hoạt động; được quyền cho thuê, thế chấp, cầm cố tài sản; được
quyền thanh lý, nhượng bán TSCĐ; về nội dung, phương thức, thẩm quyền được quy định tại Điều
22 đến Điều 27 của NĐ 91/2015/NĐ-CP (Sửa đổi bổ sung bởi khoản 2 Điều 6 NĐ 140/2020/NĐ-
CP; khoản 8,9,10 Điều 1 NĐ 32/2018). Nhìn chung, các DNNN được quyền chủ động sử dụng vốn
khá rộng. Cơ quan đại diện sở hữu Nhà nước chỉ giữ quyền hạn chế trong một số quyết sách quan
trọng như quyết định phê chuẩn dự án có vốn lớn, quyết định mua, bán, thanh lý tài sản cố định có
giá trị lớn, quyết định thành lập doanh nghiệp mới 100% vốn Nhà nước, đưa ra quyết định về mua
sắm, thanh lý, nhượng bán tài sản cố định có giá trị lớn hơn một hạn mức nhất định theo vốn CSH
cũng như giữ quyền phê chuẩn các dự án đầu tư ra ngoài doanh nghiệp có giá trị lớn hơn hạn mức nào đó.
Đối với hoạt động phân phối lợi nhuận, do các doanh nghiệp có sự đầu tư vốn bởi nhà nước
nên việc phân phối lợi nhuận sẽ theo quy chế phân phối đặc thù. Nhằm đảm bảo hài hòa lợi ích của
Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động, theo quy định tại Điều 31 NĐ 91/2015/NĐ-CP (Sửa đổi
bổ sung bởi khoản 2 Điều 6 NĐ 140/2020/NĐ-CP; Điều 2 NĐ 32/2018), có thể xác định: lợi nhuận
của doanh nghiệp sau khi thực hiện nghĩa vụ với NSNN (bao gồm bù đắp lỗ năm trước, trích quỹ
phát triển khoa học và công nghệ, nộp thuế thu nhập doanh nghiệp), phần lợi nhuận còn lại sẽ cho
phép các doanh nghiệp trích lập quỹ đầu tư phát triển, quỹ khen thưởng, phúc lợi cho người lao
động và quỹ thưởng người quản lý doanh nghiệp, kiểm soát viên. Phần lợi nhuận còn lại, nhà nước
sẽ thu hồi về để đảm bảo được mục tiêu nhà nước thu hồi một phần vốn nhà nước đã đầu tư vào
doanh nghiệp, nhằm mục đích tiếp tục đầu tư phát triển doanh nghiệp.
2.1.2. Doanh nghiệp không phải doanh nghiệp Nhà nước
Hình thức tổ chức pháp lý cũng ảnh hưởng cơ bản đến hoạt động tổ chức TCDN. Sự đa dạng
về quan hệ sở hữu, quy mô, phạm vi trách nhiệm của chủ sở hữu,... cùng với kế hoạch huy động, sử
dụng vốn và phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp có tác động qua lại đến nhau. * Doanh nghiệp tư nhân
Đối với hình thức DNTN, bản thân doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân và chủ doanh
nghiệp phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Như vậy, đặc điểm về vốn của loại hình này thường là quy mô nhỏ và chủ DNTN có toàn quyền
quyết định tất cả hoạt động kinh doanh, việc sử dụng lợi nhuận sau thuế và tăng giảm vốn đầu tư.
Về các hình thức huy động vốn, theo quy định tại Điều 189 LDN, vốn của DNTN chỉ bao
gồm vốn vay (không bao gồm trái phiếu vì DNTN không được phát hành chứng khoán theo khoản 2
Điều 188 LDN) và vốn đầu tư của chính chủ doanh nghiệp. Việc tăng giảm vốn của chủ doanh
nghiệp phải được ghi vào sổ kế toán và nếu giảm thì phải đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh.
Về việc quản lý sử dụng vốn, khoản 2 Điều 189 LDN quy định: “Toàn bộ vốn và tài sản kể
cả vốn vay và tài sản thuê… phải được ghi chép đầy đủ vào sổ kế toán và báo cáo tài chính của
doanh nghiệp…”
Với quy mô không lớn, việc quản lý có hệ thống và chuyên môn các vấn đề sử
dụng vốn như đầu tư, sản xuất, kinh doanh… đòi hỏi kỹ năng và trình độ của chính chủ doanh
nghiệp và thường gặp nhiều hạn chế. Ngoài ra, pháp luật cấm chủ sở hữu dùng danh nghĩa DNTN
để đầu tư góp vốn thành lập hoặc mua cổ phần, phần vốn góp trong công ty hợp danh, công ty
TNHH hoặc CTCP (khoản 4 Điều 188 LDN).
Về phân phối lợi nhuận, chủ doanh nghiệp được nhận toàn bộ lợi nhuận sau khi trừ đi thuế và
các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định pháp luật.
Tóm lại, đối với DNTN, tổ chức TCDN tương đối đơn giản, ít chịu sự chi phối của pháp luật
tuy nhiên thường không đa dạng về hoạt động kinh doanh, tổ chức tài chính không được chặt chẽ và
phụ thuộc nhiều vào trình độ của chủ doanh nghiệp. Trong những năm gần đây, số lượng các DNTN
đang giảm dần do sự biến mất của các công ty không đủ năng lực để vận hành và phát triển. Ngoài
ra, một nguyên nhân khác đó là khả năng tiếp cận vốn của các DNTN là rất thấp. Quy mô vốn, giá
trị TSCĐ và doanh thu thuần của DNTN được coi là nhỏ hơn rất nhiều trong mặt bằng các loại hình
doanh nghiệp nói chung.2 Mặc dù lợi nhuận trước thuế của các DNTN có xu hướng tăng nhưng lại
chiếm tỷ trọng khá thấp trong tổng số lợi nhuận của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, với mức
dao động trong khoảng 0,12% - 1,25%. Ngoài ra, đây cũng là nhóm doanh nghiệp dễ bị tổn thương
khi gặp những biến động về kinh tế - xã hội như khủng hoảng tài chính, đại dịch Covid-19,... * Công ty hợp danh
Chủ sở hữu của công ty hợp danh là thành viên hợp danh. Thành viên hợp danh trong công ty
hợp danh (chỉ có thể là cá nhân) phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình trong khi
thành viên góp vốn chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào công ty.
Về các hình thức huy động vốn, công ty hợp danh có thể huy động vốn từ các thành viên hợp
danh, thành viên góp vốn3 tuy nhiên không được phát hành chứng khoán4.
Các thành viên hợp danh là chủ thể chủ yếu quyết định việc tổ chức sử dụng vốn của công ty
hợp danh. Chỉ thành viên hợp danh có quyền quản lý và thực hiện hoạt động kinh doanh dưới danh
nghĩa công ty, sử dụng tài sản của công ty để kinh doanh và được cung cấp thông tin về tình hình
kinh doanh của công ty, kiểm tra tài sản, sổ kế toán,... theo Điều 181 LDN. Căn cứ vào tỉ lệ thành
viên hợp danh tán thành, HĐTV quyết định các vấn đề: định hướng, chiến lược phát triển công ty;
quyết định tăng vốn góp bằng việc huy động thành viên mới; quyết định dự án đầu tư; vay và huy
động vốn dưới hình thức khác (tiếp nhận thành viên góp vốn mới…); cho vay; mua, bán tài sản…
Về việc phân phối lợi nhuận, thành viên hợp danh và thành viên góp vốn được chia lợi nhuận
tương ứng với tỉ lệ phần vốn góp hoặc theo Điều lệ của công ty5. HĐTV thông qua báo cáo tài chính
hằng năm, tổng số lợi nhuận được chia và số lợi nhuận chia cho từng thành viên. Như vậy, công ty
hợp danh thường khó tích lũy vốn để tái đầu tư, kinh doanh.
Hiện nay ở Việt Nam, các công ty hợp danh hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ kế
toán và kiểm toán, dịch vụ khám và điều trị bệnh, dịch vụ pháp lý, đấu giá... Đây là hình thức doanh
nghiệp mà các nhà đầu tư thường không mấy mặn mà và còn nhiều dè chừng khi quyết định đầu tư.
Do hạn chế trong khả năng huy động vốn mà loại hình này chỉ được lựa chọn trong một số ngành
2 Nếu như vốn bình quân của 1 doanh nghiệp tư nhân trong năm 2010 là 6,75 tỷ đồng, thì đến năm 2020 đã giảm xuống chỉ còn 6,47 tỷ đồng,
tương đương 11,61% -17,39% vốn bình quân của 1 doanh nghiệp trên cả nước. TSCĐ bình quân của 1 doanh nghiệp tư nhân năm 2010 là 2,63
tỷ đồng, đến năm 2020 thì giảm xuống còn 1,96 tỷ đồng, trong khi mức TSCĐ bình quân chung của các doanh nghiệp VN tương ứng là 16,68 tỷ
đồng và 22,71 tỷ đồng. Doanh thu thuần của các doanh nghiệp tư nhân cũng giảm từ 391,4 nghìn tỷ đồng năm 2010 xuống chỉ còn 223,59 nghìn
tỷ đồng vào năm 2020, tương ứng với mức giảm 42,87%. Từ đó, làm cho doanh thu thuần bình quân của 1 doanh nghiệp tư nhân cũng giảm
đáng kể, từ mức 8,15 tỷ đồng vào năm 2010 xuống còn 6,84 tỷ đồng vào năm 2020. Trong khi đó, doanh thu thuần bình quân chung của 1 doanh
nghiệp của cả nước tăng từ 26,8 tỷ đồng/doanh nghiệp tăng lên 40,01 tỷ đồng/doanh nghiệp vào năm 2020. 3 Điều 178 LDN 2020
4 Khoản 3 Điều 177 LDN 2020
5 Điểm e, khoản 1 Điều 181 và điểm b khoản 1 Điều 187 LDN 2020
nghề, lĩnh vực cần tạo dựng uy tín, trình độ chuyên môn cao mà không cần quy mô nhà đầu tư quá lớn.
* Công ty trách nhiệm hữu hạn
Công ty TNHH có thể có một thành viên hoặc từ hai thành viên trở lên phải chịu trách nhiệm
về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp. Chủ công
ty TNHH có thể là chủ tịch công ty hoặc hội đồng thành viên, có quyền quyết định tổ chức tài chính
công ty, bao gồm: quyết định đầu tư, kinh doanh; thông qua báo cáo tài chính và phương án sử dụng
lợi nhuận hoặc xử lý lỗ mà Giám đốc (Tổng giám đốc) nộp lên; định đoạt tài sản (bán, vay, cho
vay); quyết định tăng, giảm, chuyển nhượng vốn điều lệ; thời điểm và phương thức huy động thêm
vốn; quyết định phát hành trái phiếu; quyết định việc sử dụng lợi nhuận sau khi đã hoàn thành nghĩa
vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác của công ty; quyết định mức lương, thưởng, thù lao đối với
các chức vụ quản lý công ty…6
Về huy động vốn, công ty TNHH không được phát hành cổ phần (trừ trường hợp chào bán cổ
phiếu riêng lẻ để chuyển đổi thành CTCP) 7nhưng được phát hành trái phiếu riêng lẻ (trừ trái phiếu
chuyển đổi) .8 Vốn điều lệ của công ty TNHH là tổng giá trị phần vốn góp của các thành viên hoặc
chủ sở hữu cam kết góp và ghi trong Điều lệ công ty.9 Công ty TNHH có thể tăng vốn điều lệ bằng
cách tăng vốn góp của thành viên, tiếp nhận thêm vốn góp của người khác .
10 Có thể thấy, việc rút
hoặc chuyển nhượng vốn trong công ty TNHH bị hạn chế một phần nhất định.
Việc sử dụng vốn được thực hiện bởi các thành viên và chịu giới hạn nhất định từ pháp luật.
Theo đó, HĐTV hoặc chủ tịch công ty TNHH MTV quyết định các vấn đề như đã phân tích ở trên
liên quan đến việc sử dụng vốn như: đầu tư, kinh doanh thông qua Nghị quyết của HĐTV và hoặc
Quyết định của chủ tịch công ty. Công ty TNHH hai thành viên trở lên phải thực hiện công bố thông
tin trong đó có thông tin TCDN.
Về phân phối lợi nhuận:
Đối với công ty TNHH 2 thành viên trở lên, công ty chỉ được chia lợi nhuận tương ứng với
phần vốn góp cho các thành viên khi công ty có lãi, nộp đủ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác và
đảm bảo thanh toán đủ các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác đến hạn (Điều 69 LDN). Giám đốc
hoặc Tổng giám đốc không được tăng tiền lương, trả thưởng khi công ty không có khả năng thanh
toán đủ các khoản nợ đến hạn.11
Đối với công ty TNHH MTV, chủ sở hữu công ty không được rút lợi nhuận khi công ty
không thanh toán đủ các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác đến hạn.
12 Chủ sở hữu công ty quyết
định mức tiền lương, thù lao, thưởng và lợi ích khác cho các vị trí quản lý trong công ty theo kết quả và hiệu quả kinh doanh.
Ưu điểm của loại hình công ty TNHH so với CTCP nằm ở quy mô thành viên (không quá 50
người), giúp cho việc sử dụng vốn để tiến hành hoạt động đầu tư, kinh doanh dễ thống nhất và tập
trung quyền lực, mô hình quản lý đơn giản hơn; còn so với DNTN và công ty hợp danh thì lại
không quá bị giới hạn về hình thức huy động vốn, không phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ
tài sản của chủ công ty. Đây cũng là loại hình doanh nghiệp phổ biến được nhiều người lựa chọn để
kinh doanh trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Công ty cổ phần
CTCP là hình thức doanh nghiệp có vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là
cổ phần, người nắm giữ cổ phần là cổ đông và chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn đã góp.
Cơ cấu của CTCP ít nhất phải bao gồm ĐHĐCĐ, HĐQT và Giám đốc (Tổng giám đốc). Các cổ
đông có quyền biểu quyết trong cuộc họp ĐHĐCĐ về các vấn đề của công ty; ĐHĐCĐ quyết định
các vấn đề về tổ chức tài chính trong công ty: cổ phần, cổ tức, định đoạt số tài sản lớn, thông qua 6 Điều 76 LDN 2020
7 Khoản 3 Điều 74 và khoản 3 Điều 46 LDN 2020
8 Khoản 4 Điều 74 và khoản 4 Điều 46 LDN 2020
9 Khoản 1 Điều 75 và khoản 1 Điều 47 LDN 2020
10 Điều 68 và Điều 87 LDN 2020
11 Khoản 2 Điều 71 LDN 2020
12 Khoản 6 Điều 77 LDN 2020
BCTC, mức thù lao cho HĐQT… HĐQT là cơ quan quản lý quyết định các vấn đề của công ty trừ
phạm vi thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ: kế hoạch sử dụng vốn, phương án đầu tư, dự án đầu tư và
kế hoạch kinh doanh hàng năm… Ngoài ra, HĐQT hoặc ĐHĐCĐ chấp thuận hợp đồng, giao dịch
với người có liên quan (Điều 167 LDN). Giám đốc (Tổng giám đốc) là người trực tiếp điều hành hoạt động của công ty.
Về hoạt động huy động vốn, nhìn chung CTCP có thể huy động vốn khá dễ dàng bằng nhiều
hình thức khác nhau, trong đó bao gồm gia tăng vốn chủ sở hữu (vốn điều lệ, lợi nhuận từ hoạt động
kinh doanh, các nguồn khác…) hoặc vốn vay. CTCP huy động thêm vốn điều lệ bằng cách chào bán
cổ phần cho cổ đông hiện hữu (Điều 124 LDN), chào bán riêng lẻ và chào bán ra công chúng. Ngoài
ra, CTCP có thể phát hành trái phiếu và các loại chứng khoán khác của công ty bằng hình thức chào
bán riêng lẻ hoặc chào bán ra công chúng (chỉ áp dụng với các công ty đại chúng). Các hoạt động
chào bán cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng và chào bán riêng lẻ được quy định riêng và cụ thể
trong LDN và Luật Chứng khoán về điều kiện chào bán, thủ tục chào bán (bao gồm việc thông báo,
đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền), chủ thể có thẩm quyền (ĐHĐCĐ, HĐQT). Ngoài ra,
hạn chế của pháp luật đối với CTCP đó là không được chào bán chứng khoán ra công chúng để
thành lập doanh nghiệp, trừ trường hợp nhất định. Như vậy, nhìn chung, hoạt động huy động vốn
của CTCP tuy đa dạng nhưng bị chi phối sâu sắc bởi các quy định pháp lý và hành chính của Nhà nước.
Về các quyết định sử dụng vốn, thẩm quyền cao nhất thuộc về ĐHĐCĐ - cơ quan đại diện
cho các cổ đông hay các chủ sở hữu công ty, sau đó đến HĐQT và Giám đốc (Tổng giám đốc).
CTCP phải thực hiện lập BCTC, công khai các thông tin liên quan và báo cáo đến cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền (Điều 176 LDN), CTCP đại chúng công bố và công khai thông tin theo pháp luật về chứng khoán.
Về phân phối lợi nhuận, việc trả cổ tức cho cổ đông được thực hiện theo Điều 135 LDN, theo đó:
Căn cứ xác định mức cổ tức: số lợi nhuận ròng đã thực hiện và khoản chi trả cổ tức được
trích từ nguồn lợi nhuận giữ lại của công ty.
Điều kiện trả cổ tức: (1) công ty đã hoàn thành nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác,
(2) đã trích lập các quỹ công ty và bù đắp lỗ trước đó (công ty phải có lãi), (3) ngay sau khi trả hết
số cổ tức, công ty vẫn bảo đảm thanh toán đủ các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác đến hạn
Hình thức chi trả cổ tức: tiền mặt, cổ phần của công ty hoặc tài sản khác.
CTCP là loại hình doanh nghiệp thường được tổ chức khi yêu cầu quy mô vốn lớn (do không
giới hạn số lượng cổ đông, được phát hành ra công chúng), khả năng huy động vốn nhanh, đơn giản,
phạm vi định đoạt của cổ đông tương ứng với tỷ lệ cổ phần, việc chuyển nhượng và mua bán phần
vốn góp tương đối dễ dàng, tuy nhiên cũng chịu sự điều chỉnh khắt khe của pháp luật. LDN 2020
đặt ra vấn đề bảo vệ quyền lợi của cổ đông nhỏ lẻ, ngoài ra vấn đề quản lý là sử dụng vốn cũng cực
kỳ phức tạp, đặc biệt chế độ công khai thông tin chặt chẽ đối với các công ty đại chúng, việc tổ chức
tài chính của doanh nghiệp phụ thuộc vào sự thống nhất của ĐHĐCĐ, quyết định của HĐQT, sự
điều hành, thực hiện, quản lý của Giám đốc (Tổng giám đốc), sự kiểm tra giám sát của Ban Kiểm
soát và là kết quả hoạt động của nhiều cơ quan, bộ phận khác nhau. Các CTCP, đặc biệt là các công
ty đại chúng lớn hiện đang được niêm yết trên sàn chứng khoán như Tập đoàn Dệt May Việt Nam,
CTCP giày Thượng Đình, CTCP Sữa Việt Nam Vinamilk,.. là những doanh nghiệp có tầm ảnh
hưởng đến thị trường và đóng góp một phần không nhỏ vào hoạt động của nền kinh tế cũng như là nguồn thu thuế cho NSNN.
2.2. Đặc điểm kinh tế ngành kinh doanh
Thứ nhất, ngành nghề quyết định cơ cấu và tốc độ luân chuyển vốn trong các hoạt động đầu
tư, kinh doanh của công ty. Ví dụ, tốc độ luân chuyển vốn trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng
thường chậm hơn các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ hoặc nông nghiệp mặc dù đòi hỏi nguồn
vốn lớn hơn, phù hợp với các quyết định đầu tư dài hạn, chẳng hạn như đầu tư xây dựng hạ tầng.
Ngược lại, ngành nông nghiệp có chu kỳ sản xuất ngắn, không đòi hỏi nguồn vốn lớn nhưng đổi lại
lợi nhuận có thể thấp hơn. Hơn nữa, ngành nghề kinh doanh cũng ảnh hưởng đến quy mô vốn của
doanh nghiệp, ví dụ các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp nặng phải là những doanh nghiệp lớn,
phải có khả năng huy động vốn bằng cách có TSCĐ (đất đai, nhà xưởng, máy móc để thế chấp) và
lợi nhuận giữ lại để tái sản xuất đủ lớn.
Thứ hai, ngành kinh doanh nhiều vốn thâm dụng sẽ đòi hỏi nhiều vốn hơn so với các ngành
ít vốn thâm dụng. Điều này ảnh hưởng đến cơ cấu, tỷ lệ đòn bẩy tài chính và các quyết định đầu tư
của doanh nghiệp. Ví dụ, lĩnh vực kinh doanh bất động sản thường có vốn đầu tư cao do giá đất đai
và chi phí xây dựng. Doanh nghiệp bất động sản cần huy động nhiều vốn vay hơn so với doanh
nghiệp bán lẻ, phải điều chỉnh và kiểm soát vốn đầu tư một cách phù hợp và hiệu quả để tránh rủi
ro. Tuy nhiên, nhận định trên đây được đặt dưới góc nhìn chung, không loại trừ trên thị trường
những doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực nông nghiệp như Masan Meatlife, Vinamilk… và nhiều
công ty kinh doanh bất động sản với quy mô nhỏ. Do đó, Luật Đầu tư 2020 khi được ban hành đã bỏ
đi quy định pháp luật về vốn pháp định tối thiểu 20 tỷ đồng đối với doanh nghiệp kinh doanh bất
động sản nhằm tôn trọng quyền tự do kinh doanh.
Thứ ba, một số ngành nghề đặc thù được pháp luật điều chỉnh bằng các văn bản pháp luật
riêng, bên cạnh LDN 2020 hay Luật thương mại 2005. Có thể kể đến như, đặc thù của ngành xây
dựng đó là tạo lập các tài sản có thời gian sử dụng lâu dài, việc nghiệm thu và thanh toán phải theo
từng giai đoạn trong tiến độ thi công, thời gian tập trung vốn có thể kéo dài nên phải được điều
chỉnh bằng đạo luật riêng (Luật Xây dựng 2014), trong đó các quy định phải thống nhất và gắn liền
với các đạo luật về đất đai, bất động sản, nhà ở. Đối với ngành dịch vụ, các chủ thể kinh doanh có
thể linh hoạt giảm thiểu các chi phí đầu vào, không cần cân nhắc đến một số vấn đề trong kinh
doanh hàng hóa như hàng tồn kho, dễ dàng điều chỉnh giá thành dịch vụ một cách hợp lý để tăng
tính cạnh tranh. Giá thành dịch vụ do các bên thỏa thuận, tuy nhiên Luật thương mại 2005 quy định
“Trường hợp không có thoả thuận… thì giá dịch vụ được xác định theo giá của loại dịch vụ đó
trong các điều kiện tương tự về phương thức cung ứng, thời điểm cung ứng, thị trường địa lý,
phương thức thanh toán và các điều kiện khác có ảnh hưởng đến giá dịch vụ.”
Các chủ thể cung
cấp dịch vụ trong một số thị trường đặc thù, có sự ảnh hưởng lớn nền kinh tế thì chịu sự điều chỉnh
của các văn bản pháp luật chuyên ngành. Ví dụ, Luật chứng khoán hay Luật kinh doanh bất động
sản quy định về các dịch vụ môi giới, tư vấn, sàn giao dịch chứng khoán, bất động sản một cách cụ
thể liên quan đến trình độ của người cung cấp dịch vụ, tiền thu lao, hoa hồng, những cơ sở vật chất
phải đầu tư… Các quy định này đều ảnh hưởng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp đến các quyết định
tài chính về doanh thu và chi phí của chủ doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, với các ngành nghề do nhà nước kiểm soát đặc biệt cũng sẽ ảnh hưởng đến tổ
chức TCDN. Luật Tổ chức tín dụng, Luật Chứng khoán, Luật Kinh doanh bảo hiểm đặt ra những
giới hạn cho một số chủ thể thuộc phạm vi điều chỉnh của mình như: không được kinh doanh bất
động sản, chế độ tài chính và công khai tài chính riêng, mức trích lập quỹ dự phòng, điều kiện thành
lập, điều kiện hành nghề… Đối với mỗi ngành nghề kinh doanh có điều kiện, Nhà nước bên cạnh
đặt ra điều kiện thì còn có thể thiết lập các mức giá trần hoặc giá sàn (ví dụ dịch vụ hàng không)
hoặc ấn định mức giá bán lẻ (xăng dầu) cụ thể cho các doanh nghiệp. Như vậy, các quy định về ấn
định giá ảnh hưởng sâu sắc đến các quyết định đầu tư và phân bổ nguồn vốn của doanh nghiệp.
3. Môi trường kinh doanh
Như đã đề cập ở phần 1, môi trường kinh doanh bao gồm rất nhiều yếu tố. Tuy nhiên, trong
khuôn khổ bài tập nhóm, nhóm sẽ tập trung vào phân tích: chính sách pl và trình độ KH CN
3.1 Chính sách pháp luật
Chính sách pháp luật cũng có ảnh hưởng sâu rộng và quan trọng đến hoạt động tổ chức
TCDN dưới nhiều khía cạnh:
Thứ nhất, ưu đãi về thuế. Ưu đãi thuế giúp giảm gánh nặng thuế cho doanh nghiệp, từ đó
làm tăng lợi nhuận và khả năng sinh lời. Theo Điều 4 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 quy
định các trường hợp thu nhập được miễn thuế như: Thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp có từ 30% số lao động bình quân trong năm trở lên là người
khuyết tật, người sau cai nghiện…; Thu nhập được chia từ hoạt động góp vốn, liên doanh, liên kết
với doanh nghiệp trong nước, sau khi đã nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của Luật
này. Quy định này là một trong số những chính sách ưu đãi thiết thực của nhà nước ban hành ra
nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Bên cạnh đó, Điều 13 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 cũng quy định ưu đãi về thuế
suất dành cho doanh nghiệp ở các mức khác nhau. Theo khoản 2 Điều 13 Luật này thì Thu nhập của
doanh nghiệp từ thực hiện hoạt động xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế,
văn hóa, thể thao và môi trường
sẽ được hưởng mức lãi suất là 10%. Đối với mức thuế suất 20%
trong thời hạn 10 năm sẽ dành cho Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện hoạt động xã hội hóa
trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao và môi trường.
Ngoài ra, còn có
quy định về miễn giảm thuế xuất nhập khẩu được quy định trong Luật thuế xuất, nhập khẩu 2016.
Các quy định về ưu đãi thuế đều có chung mục đích là giảm bớt gánh nặng thuế, kích thích sản xuất
kinh doanh góp phần phát triển nền kinh tế.
Tuy nhiên cũng cần nhìn nhận rằng ưu đãi thuế là cần thiết nhưng cần được áp dụng một
cách thận trọng và phải được cân nhắc trên cơ sở so sánh, đánh giá đầy đủ, tránh các trường hợp số
doanh nghiệp có thể lợi dụng ưu đãi thuế để cạnh tranh không lành mạnh với các doanh nghiệp khác
như việc hạ giá thành sản phẩm hoặc dịch vụ, từ đó gây khó khăn cho các doanh nghiệp không được hưởng ưu đãi.
Thứ hai, về ưu đãi đầu tư. Pháp luật Việt Nam đã có những quy định về ưu đãi đầu tư được
quy định trong Luật Đầu tư 2020. Danh mục ngành nghề ưu đãi đầu tư năm 2023 được quy định tại
Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định 31/2021/NĐ-CP... Đây là một trong những chính sách mà
chính phủ cung cấp để kích thích các hoạt động đầu tư cho doanh nghiệp. Thu hút vốn đầu tư, san sẻ
gánh nặng cho các doanh nghiệp, thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.
Cùng với đó, việc Việt Nam ký kết các hiệp định song phương cũng góp phần đem lại các ưu
đãi đầu tư cho doanh nghiệp. Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định song phương về ưu đãi đầu tư với
các quốc gia trên thế giới, như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, và các quốc gia thành viên EU.
Những hiệp định này đã giúp Việt Nam thu hút đáng kể vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Hay việc tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới (WTO) hay ký kết các Hiệp định thương
mại tự do (FTA): Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp
định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA)... làm cho hàng hóa của các
doanh nghiệp được xuất khẩu sang nhiều quốc gia, xóa bỏ hàng rào thuế quan, nhập khẩu với thuế
xuất thấp, mở ra nhiều cơ hội về ưu đãi đầu tư, thương mại dịch vụ…
Thứ ba, chính sách về môi trường đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Khoản
1 Điều 4 Luật Bảo vệ môi trường 2020 quy định: “Bảo vệ môi trường là trách nhiệm và nghĩa vụ
của mọi cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân”
. Theo quy định tại Điều 141 Luật Bảo vệ môi
trường 2020 Các hoạt động đầu tư kinh doanh về bảo vệ môi trường được ưu đãi, hỗ trợ bao gồm:
Dự án đầu tư thuộc ngành, nghề thu gom, xử lý, tái chế hoặc tái sử dụng chất thải; Doanh nghiệp
sản xuất, cung cấp công nghệ, thiết bị, sản phẩm và dịch vụ phục vụ các yêu cầu về bảo vệ môi
trường… Khi tham gia đầu tư, thực hiện các nghĩa vụ về bảo vệ môi trường sẽ góp phần giảm thiểu
chi phí và nâng cao hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp. Ngoài ra, việc tuân thủ đầy đủ các quy định
pháp luật môi trường sẽ giúp doanh nghiệp không gặp rủi ro về pháp lý, thanh kiểm tra và chế tài xử
phạt. Nhận thức được vai trò của mình trong công tác bảo vệ môi trường, đó chính là điều kiện tiên
quyết để doanh nghiệp phát triển kinh doanh một cách ổn định, lâu dài và bền vững.
3.2. Trình độ khoa học công nghệ
Trình độ khoa học công nghệ là một khía cạnh quan trọng trong môi trường kinh doanh, là
yếu tố then chốt thúc đẩy sự phát triển và cạnh tranh của doanh nghiệp. Sự xuất hiện của khoa học
công nghệ đã có những ảnh hưởng tích cực đến tổ chức TCDN:
Ban lãnh đạo có thể hoàn toàn chủ động trong việc theo dõi các báo cáo, đánh giá hoạt động
của doanh nghiệp nhờ hệ thống theo dõi và báo cáo tự động. Nhờ đó, tất cả thông tin và số liệu về
công việc đều được thể hiện rõ ràng, minh bạch, chính xác và nhanh chóng. Những số liệu này giúp
ích rất nhiều trong quá trình ra các quyết định tài chính quan trọng.
Ở nhiều doanh nghiệp, bộ phận tài chính thường mất quá nhiều thời gian để thu thập và luân
chuyển thông tin, dữ liệu giữa các nguồn do các bộ phận thường dùng các hệ thống tính toán rời rạc
để theo dõi, phân tích doanh thu, chi phí, tính toán tổng hợp, hợp nhất lên tập đoàn. Dữ liệu ngày
càng phức tạp, hệ thống dữ liệu khó theo dõi và tra cứu nguồn gốc. Vì vậy, sự thay đổi hướng tới tối
ưu quy trình dựa trên công nghệ tiên tiến như trí tuệ nhân tạo (AI), điện toán đám mây (Cloud),… sẽ
giúp mang lại những tiến bộ đáng kể về hiệu quả, tự động hóa và khả năng ra quyết định.
Ví dụ: Về việc áp dụng khoa học công nghệ thành công, mang lại hiệu quả trong hoạt động tổ
chức TCDN có thể kể tới là Tập đoàn Trung Nguyên. Tập đoàn Trung Nguyên trước khi sử dụng hệ
thống ERP đã gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý giữa các nền tảng khác nhau. Bộ máy quản lý
từ đó bị rời rạc và không được kết nối. Năm 2003 đến 2006, Trung Nguyên đã dần tiếp cận và ứng
dụng ERP. Tuy nhiên, tình hình không khả quan và liên tiếp thất bại. Doanh nghiệp đã không dừng
lại và quyết định tiếp tục triển khai phần mềm ERP lần thứ 3. Sau bao lần thử nghiệm thì Trung
Nguyên chính thức là một trong các doanh nghiệp ứng dụng ERP thành công. Cụ thể hệ thống kiểm
soát mọi sự thất thoát, doanh thu, lợi nhuận và đáp ứng được các yêu cầu của ban lãnh đoàn tập
đoàn. Hệ thống ERP minh bạch mọi thông tin đã giúp thương hiệu Trung Nguyên Legend vươn xa
đến nhiều quốc gia trên thế giới.
Cùng với sự phát triển của trình độ khoa học công nghệ, Việt Nam cũng đã đưa ra chính
sách, quy định pháp luật về ứng dụng công nghệ vào hoạt động của doanh nghiệp, tạo ra tác động
mạnh mẽ đến hoạt động tổ chức TCDN:
Ngày 6/9/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 100/NQ-CP thông qua đề nghị xây
dựng Nghị định của Chính phủ về cơ chế thử nghiệm (sandbox) có kiểm soát hoạt động công nghệ
tài chính (fintech) trong lĩnh vực ngân hàng. Fintech được hiểu một cách cụ thể là ứng dụng những
cải tiến sáng tạo, thông minh của công nghệ thông tin vào trong các hoạt động, các dịch vụ tài
chính. Fintech được đánh giá là có tiềm năng to lớn và có nhiều tác động đến ngành ngân hàng cũng
như các lĩnh vực khác trên toàn thế giới. Ngành Ngân hàng có thể hưởng lợi từ việc kết hợp các
công nghệ mới nổi như chuỗi khối (Blockchain), trí tuệ nhân tạo (AI), học máy (ML)... Việc sử
dụng công nghệ mới nổi với sự hợp tác giữa các công ty Fintech và ngân hàng có thể cải thiện sự ổn
định tài chính trên toàn hệ thống, đồng thời giảm thiểu các tác động tiêu cực bên ngoài. Trên thế
giới, nếu SupTech (Supervision Technology) được các cơ quan quản lý tài chính áp dụng trong quá
trình tự động hóa, đơn giản hóa các thủ tục hành chính như thu nộp thuế, quản lý sở hữu tài sản…
thì RegTech (Regulatory Technology) lại được các tổ chức tài chính tối ưu hóa quy trình tuân thủ
các yêu cầu của cơ quan quản lý, bao gồm chuẩn bị báo cáo cần thiết, tăng tốc độ và độ tin cậy của
các quy trình, thủ tục nhận dạng khách hàng, nâng cao chất lượng phân tích giao dịch, cũng như
đảm bảo quyền kiểm soát mức độ rủi ro và phòng, chống các mối đe dọa an ninh mạng. Tất cả dữ
liệu được đưa lên một hệ thống “chung” và chúng tự động tính toán để trả về tình trạng pháp lý,
nghĩa vụ cụ thể cho từng thành viên. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, Nghị định chính thức về
sandbox cho Fintech vẫn chưa được ban hành, việc thiếu hành lang pháp lý cũng đặt ra những thách
thức cho hoạt động Fintech tại VN.
Khoản 9 Điều 157 LDN 2020 đã bổ sung thêm quy định về các trường hợp thành viên HĐQT
được coi là tham dự và biểu quyết tại cuộc họp. Theo quy định này, bên cạnh bổ sung hình thức gửi
phiếu biểu quyết bằng phương tiện khác theo quy định trong Điều lệ công ty, các thành viên của
HĐQT còn được coi là tham dự và biểu quyết tại cuộc họp khi tham dự và biểu quyết thông qua hội
nghị trực tuyến, bỏ phiếu điện tử hoặc hình thức điện tử. Quy
định có ý nghĩa quan trọng, phù hợp
với thực tiễn ứng dụng công nghệ vào hoạt động doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. Trong trường
hợp một số thành viên không thể tham dự trực tiếp thì họ vẫn có thể đưa ra những ý kiến, quyết định
ảnh hưởng lớn tới các quyết định tài chính quan trọng của doanh nghiệp. Đặc biệt, quy định này
được thể hiện rõ nhất trong bối cảnh đại dịch Covid-19 bùng phát, việc áp dụng công nghệ số cho
các cuộc họp ĐHĐCĐ hay HĐQT vào việc thông qua quyết định, lấy ý kiến của cổ đông, các nhà
quản lý doanh nghiệp để ra các quyết sách, phương pháp thích hợp liên quan đến hoạt động kinh
doanh, tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ có thể giúp cho mang lại hiệu quả trong hoạt động tổ chức
tài chính của doanh nghiệp, kịp thời đưa ra những giải pháp tài chính để ứng phó với những biến
động của nền kinh tế.
Khoản 7 Điều 24 Điều lệ CTCP sữa Việt Nam Vinamilk năm 2023 cũng có quy định khi
thành viên HĐQT tham dự và biểu quyết thông qua hội nghị trực tuyến, bỏ phiếu điện tử hoặc hình
thức điện tử khác thì được xem là tham dự và biểu quyết tại cuộc họp. Việc có thể tập hợp hết các
thành viên HĐQT tham dự và đưa ra biểu quyết về những quyết sách đang cần xem xét là vô cùng
quan trọng và thiết yếu đối với sự tồn tại, phát triển và hoạt động của doanh nghiệp. Mà quy định
này có thể giúp việc tiến hành cuộc họp diễn ra thuận tiện dù các thành viên không thể cùng tập
trung tại một địa điểm.