-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Từ quy luật mâu thuẫn, hãy rút ra ý nghĩa phương pháp luận của quy luật mâu thuẫn gắn với ngành học của mình - Quan hệ công chúng | Tiểu luận môn triết học mác - lênin
Từ quy luật mâu thuẫn, hãy rút ra ý nghĩa phương pháp luận của quy luật mâu thuẫn gắn với ngành học của mình - Quan hệ công chúng | Tiểu luận môn triết học mác - lênin được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45734214
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ----- ----- TIỂU LUẬN
TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
ĐỀ TÀI: Từ quy luật mâu thuẫn, hãy rút ra ý nghĩa phương pháp
luận của quy luật mâu thuẫn gắn với ngành học của mình - Quan hệ công chúng.
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Quỳnh Hương
Mã sinh viên : 11237078
Chuyên ngành : Quan hệ công chúng
Lớp học phần : LLNL1105(123)_40
Giảng viên hướng dẫn: TS.Nghiêm Thị Châu Giang
Hà Nội, tháng 12 năm 2023 lOMoAR cPSD| 45734214 MỤC LỤC
LỜI GIỚI THIỆU ............................................................................................................ 1
PHẦN I. QUY LUẬT MÂU THUẪN .......................................................................... 3
1. Khái niệm ..................................................................................................................... 3
2. Nội dung của quy luật ................................................................................................... 3
3. Phân loại mâu thuẫn ..................................................................................................... 4
4. Ý nghĩa của phương pháp luận ..................................................................................... 5
PHẦN II. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA QUY LUẬT MÂU ............ 7
THUẪN GẮN VỚI NGÀNH QUAN HỆ CÔNG CHÚNG ..................................... 7
1. TỔNG QUAN VỀ QUAN HỆ CÔNG CHÚNG .......................................................... 7
1.1.Khái niệm PR .......................................................................................................... 7
1.2.Chức năng của PR theo quan điểm marketing ........................................................ 7
2. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA QUY LUẬT MÂU THUẪN GẮN VỚI .. 8
NGÀNH QUAN HỆ CÔNG CHÚNG ............................................................................. 8
2.1. Ý NGHĨA CỦA PHƯƠNG PHÁP LUẬN VỚI QUAN HỆ CÔNG CHÚNG
TRONG XÃ HỘI .......................................................................................................... 8
2.2. Ý NGHĨA CỦA PHƯƠNG PHÁP LUẬN VỚI QUAN HỆ CÔNG CHÚNG
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH – KHỦNG HOẢNG TRUYỀN THÔNG . 11
2.3. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA QUY LUẬT MÂU THUẪN GẮN
VỚI BẢN THÂN VÀ NGÀNH HỌC – QUAN HỆ CÔNG CHÚNG ...................... 13
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................ 16 LỜI GIỚI THIỆU
Là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật và là quy luật quan
trọng nhất của phép biện chứng duy vật trong triết học Mác - Lênin, là hạt nhân của phép
biện chứng. Quy luật này vạch ra nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển, theo
đó nguồn gốc của sự phát triển chính là mâu thuẫn và việc giải quyết mâu thuẫn nội tại
trong bản thân mỗi sự vật, hiện tượng. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập (quy luật mâu thuẫn) khẳng định : mọi sự vật và hiện tượng trong tự nhiên, đời sống
xã hội, tư duy con người có những mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn tồn tại khách quan.
Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật xuất hiện đến khi sự vật kết thúc. Ngoài ra, trong mỗi một lOMoAR cPSD| 45734214
sự vật có rất nhiều mâu thuẫn và trong cùng một lúc có rất nhiều mặt đối lập. Mâu thuẫn
này mất đi thì mâu thuẫn khác lại được hình thành, tiếp nối không ngừng.
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị trường, các hoạt động truyền
thông ngày càng được đẩy mạnh. Với sự xuất hiện và phát triển mạnh mẽ, Quan hệ công
chúng (Public Relations – PR) đã trở thành một công cụ hữu hiệu để tạo ra, duy trì và bảo
vệ danh tiếng của các tổ chức, doanh nghiệp. Tuy nhiên trong mọi sự vật, hiện tượng nói
chung và ngành Quan hệ công chúng nói riêng đều chứa đựng những mâu thuẫn với
những mặt đối lập. Đó là những mâu thuẫn trong mối quan hệ giữa PR với xã hội, trong
hoạt động kinh doanh, và với bản thân em. Những điều đó có thể là sự kìm hãm, đấu tranh
nhưng đồng thời cũng là động lực cho sự phát triển khi có cách nhìn nhận đúng đắn và
giải pháp phù hợp. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật mâu thuẫn đã phản ánh đúng
điều đó và mang lại những đánh giá, giải pháp khách quan để đưa những mâu thuẫn trở
thành động lực cho sự phát triển của ngành Quan hệ công chúng, của sự phát triển doanh nghiệp, xã hội.
V.I. Lênin : “ Sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập”. 2 lOMoAR cPSD| 45734214
PHẦN I. QUY LUẬT MÂU THUẪN
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập ( Quy luật mâu thuẫn ) thể hiện
bản chất, là hạt nhân của phép biện chứng duy vật, bởi quy luật đề cập tới các vấn đề cơ
bản và quan trọng nhất của phép biện chứng duy vật – vấn đề nguyên nhân, động lực của
sự vận động, phát triển. Theo V.I. Lênin, “ có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là
học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng …”. 1. Khái niệm
Theo từ điển tiếng Việt, mâu thuẫn được hiểu là tình trạng xung đột, đối chọi trực tiếp
với nhau hoặc tình trạng trái ngược nhau, phủ định nhau về một mặt nào đó hoặc tình
trạng hai mặt đối lập phát triển theo chiều trái ngược nhau ở bên trong sự vật, làm cho sự
vật biến đổi, phát triển. Mâu thuẫn còn có thể là danh từ hoặc động từ chỉ tình trạng xung
đột; và cũng có thể hiểu mâu thuẫn là sự đối chọi, không giải quyết được. Ngoài ra, tùy
từng hoàn cảnh khác nhau và tính chất của sự việc mà có thể đưa ra cách hiểu khác nhau về mâu thuẫn.
Nội dung của quy luật mâu thuẫn được làm sáng tỏ thông qua việc làm rõ những khái
niệm, phạm trù liên quan:
Mâu thuẫn biện chứng là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ, tác động theo cách vừa
thống nhất, vừa đấu tranh; vừa loại trừ, vừa chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập.
Yếu tố tạo thành mâu thuẫn biện chứng là các mặt đối lập. Mặt đối lập là những mặt,
những yếu tố … có khuynh hướng, tính chất trái ngược nhau cùng tồn tại khách quan
trong một chính thể. Trong mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất, vừa đấu tranh với
nhau tạo nên trạng thái ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng.
Trong quan niệm siêu hình phủ nhận mâu thuẫn khách quan, coi mâu thuẫn là cái phi
logic, không có sự thống nhất, chỉ có trong tư duy ( không có sự chuyển hóa )
Ví dụ :Mối quan hệ Cung – Cầu hàng hóa và dịch vụ trên thị trường là một loại mâu
thuẫn biện chứng của quá trình vận động và phát triển kinh tế; Mâu thuẫn giữa giai cấp bị
bóc lột và giai cấp bóc lột trong đời sống kinh tế…Như trong quá trình kháng chiến chống
Pháp, nhân dân ta có sự mâu thuẫn gay gắt với thực dân Pháp, khi mâu thuẫn lên đến đỉnh
điểm, động lực đứng lên đấu tranh bùng phát, nhân dân ta quả quyết đứng lên giải quyết
tranh chấp và kết quả cuối cùng là nhà nước Việt Nam độc lập, tự do dân chủ ra đời.
2. Nội dung của quy luật
* Thống nhất giữa các mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ giữa chúng và được thể hiện :
Thứ nhất, các mặt đối lập cần đến nhau, nương tựa vào nhau, làm tiền đề cho nhau
tồn tại, không có mặt này thì có mặt kia; Thứ hai, các mặt đối lập tác động ngang nhau, 3 lOMoAR cPSD| 45734214
cân bằng nhau thể hiện sự đấu tranh giữa cái mới đang hình thanh với cái cũ chưa biến
mất hẳn; Thứ ba, giữa các mặt đối lập có sự tương đồng, đồng nhất do trong các mặt đối
lập còn tồn tại những yếu tố giống nhau. Do sự đồng nhất này mà trong nhiều trường hợp,
khi mâu thuẫn xuất hiện và tác động ở điều kiện phù hợp, các mặt đối lập chuyển hóa vào
nhau, với sự đối lập, bởi mỗi sự vật, hiện tượng vừa là bản thân nó, vừa là sự vật, hiện
tượng đối lập với nó nên trong đồng nhất đã bao hàm sự khác nhau, đối lập.
* Đấu tranh giữa các mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ sự tác động qua lại theo
hướng bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa chúng và sự tác động đó cũng không tách rời sự
khác nhau, thống nhất, đồng nhất giữa chúng trong một mâu thuẫn.
So với đấu tranh giữa các mặt đối lập thì thống nhất giữa chúng có tính tạm thời,
tương đối, có điều kiện, nghĩa là sự thống nhất đó chỉ tồn tại trong trạng thái đứng im
tương đối của sự vật, hiện tượng. Còn đấu tranh có tính tuyệt đối, nghĩa là đấu tranh phá
vỡ sự ổn định tương đối của chúng dẫn đến sự chuyển hóa về chất của chúng. Tính tuyệt
đối của đấu tranh gắn với sự tự thân vận động, phát triển diễn ra không ngừng của sự vật,
hiện tượng. Về vấn đề này, khi chú ý nhiều hơn đến tính tuyệt đối của “đấu tranh”, V.I.
Lênin đã viết: “Sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập”.
Mâu thuẫn giữa các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng là nguyên nhân, giải quyết
mâu thuẫn đó là động lực của sự vận động và phát triển. Sự vận động, phát triển của sự
vật, hiện tượng là tự thân. Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập này là nguyên
nhân, động lực bên trong của sự vận động và phát triển, làm cho cái cũ mất đi và cái mới
ra đời; trong đó chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt đối lập (bên trong) mới làm cho sự
vật, hiện tượng phát triển.
3. Phân loại mâu thuẫn
Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, hiện tượng có
mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản. Mâu thuẫn cơ bản tác động trong suốt quá
trình tồn tại của sự vật, hiện tượng, quy định bản chất, sự phát triển của chúng từ khi hình
thành đến khi tiêu vong. Mâu thuẫn này được giải quyết thì sự vật sẽ thay đổi căn bản về
chất.(Ví dụ: mâu thuẫn giữa việc có tiền ít và muốn đi du lịch nhiều là mâu thuẫn cơ bản
vì nó liên quan đến giá trị sống của bạn A). Mâu thuẫn không cơ bản chỉ đặc trưng cho
một phương diện nào đó và quy định sự vận động, phát triển của một hay một số mặt của
sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn này được giải quyết không làm cho sự vật thay đổi về chất
và nó chịu sự chi phối của mâu thuẫn cơ bản.(Ví dụ: Mâu thuẫn giữa phòng A và phòng B
trong nội bộ công ty X mà ta nêu ở trên là mâu thuẫn không cơ bản)
Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện
tượng trong mỗi giai đoạn nhất định, chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu.
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giải đoạn phát triển nhất định
của sự vật, nó chi phối các mâu thuẫn khác trong giai đoạn đó. Giải quyết được mâu thuẫn 4 lOMoAR cPSD| 45734214
chủ yếu trong từng giai đoạn là điều kiện để sự vật chuyển sang giai đoạn phát triển mới.
Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu có quan hệ chặt chẽ với nhau. Mâu thuẫn chủ
yếu có thể là một hình thức biểu hiện nổi bật của mâu thuẫn cơ bản, hay là kết quả vận
động tổng hợp của các mâu thuẫn cơ bản ở một giai đoạn nhất định. Việc giải quyết mâu
thuẫn chủ yếu tạo điều kiện giải quyết từng bước mâu thuẫn cơ bản (Ví dụ: ở nước ta
trong cuộc khai thác thuộc địa lần 2 những năm 20 của thế kỉ XX mâu thuẫn giữa toàn
thể dân tộc Việt Nam Đối với thực dân Pháp là mâu thuẫn chủ yếu). Mâu thuẫn thứ yếu
là những mâu thuẫn ra đời và tồn tại trong một giai đoạn phát triển nào đó của sự vật,
nhưng nó không đóng vai trò chi phối mà bị mâu thuẫn chủ yếu chi phối. Giải quyết mâu
thuẫn thứ yếu góp phần vào việc từng bước giải quyết mâu thuẫn chủ yếu (Ví dụ: trong
cuộc khai thác thuộc địa lần 2 vào những năm 20 của thế kỉ XX, mâu thuẫn giữa nông dân
với địa chủ phong kiến là mâu thuẫn thứ yếu)
Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét, ta có thể phân loại các mâu thuẫn
thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài. Mâu thuẫn bên trong là sự tác động
qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng… đối lập của cùng một sự vật. (Ví dụ: Mâu thuẫn
giữa hoạt động ăn và hoạt động bài tiết là mâu thuẫn bên trong mỗi con người.) Mâu
thuẫn bên ngoài đối với một sự vật nhất định là mâu thuẫn diễn ra trong mối quan hệ giữa
sự vật đó với các sự vật khác; tuy cũng ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của chúng,
nhưng phải thông qua mâu thuẫn bên trong mới phát huy được tác dụng(Ví dụ: Mâu thuẫn
về kinh tế giữa nước ta với các nước khác trong ASEAN là mâu thuẫn bên ngoài)
Căn cứ vào tính chất của lợi ích cơ bản là đối lập nhau trong mối quan hệ giữa các
giai cấp ở một giai đoạn lịch sử nhất định, trong xã hội có mâu thuẫn đối kháng và mâu
thuẫn không đối kháng. Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những
tập đoàn người có lợi ích cơ bản đối lập nhau (Ví dụ: Mâu thuẫn giữa công nhân với giới
chủ, giữa nông dân với địa chủ, giữa thuộc địa với chính quốc…). Mâu thuẫn không đối
kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng xã hội có lợi ích cơ bản thống nhất với nhau,
chỉ đối lập về những lợi ích không cơ bản, cục bộ, tạm thời (Ví dụ: Mâu thuẫn giữa thành
thị và nông thông, giữa lao động trí óc với lao động chân tay…).
Việc phân biệt mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng có ý nghĩa trong việc xác
định đúng phương pháp giải quyết mâu thuẫn. Giải quyết mâu thuẫn đối kháng phải
bằng mâu thuẫn đối kháng. Giải quyết mâu thuẫn không đối kháng thì phải bằng
phương pháp đàm phán, hiệp thương…
4. Ý nghĩa của phương pháp luận
Thứ nhất, thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng; từ đó
giải quyết mâu thuẫn phải tuân theo quy luật, điều kiện khách quan. Muốn phát hiện mâu 5 lOMoAR cPSD| 45734214
thuẫn cần tìm ra thể thống nhất của các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng; từ đó tìm ra
phương hướng, giải pháp đúng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Thứ hai, phân tích mâu thuẫn cần bắt đầu từ việc xem xét quá trình phát sinh, phát
triển của từng loại mâu thuẫn; xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ giữa các mâu thuẫn
và điều kiện chuyển hóa giữa chúng. Phải biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ thể và
đề ra được phương pháp giải quyết mâu thuẫn đó.
Thứ ba, phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh giữa các mặt
đối lập, không điều hòa mâu thuẫn cũng không nóng vội hay bảo thủ, bởi giải quyết mâu
thuẫn còn phụ thuộc vào điều kiện đã đủ và chin muồi hay chưa. 6 lOMoAR cPSD| 45734214
PHẦN II. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA QUY LUẬT MÂU
THUẪN GẮN VỚI NGÀNH QUAN HỆ CÔNG CHÚNG
1. TỔNG QUAN VỀ QUAN HỆ CÔNG CHÚNG 1.1. Khái niệm PR
Quan hệ công chúng (Public Relations - PR) là công việc quản lý các mối quan hệ
giao tiếp cộng đồng để xây dựng và gìn giữ hình ảnh tích cực một cơ quan tổ chức hay
doanh nghiệp. Mục đích của quan hệ công chúng là quảng bá, thuyết phục khách hàng
tiềm năng (nhà đầu tư, đối tác, nhân viên...) duy trì lối quan điểm tích cực hoặc thuận lợi
cho sản phẩm, dịch vụ hoặc cho công ty, doanh nghiệp đó.
Như đã nói, theo quan điểm truyền thống thì PR không được nhìn nhận là một hình
thức marketing. Mà nó có nhiệm vụ chính là duy trì mối quan hệ có lợi song song, giữa
hai bên doanh nghiệp và công chúng. Như vậy, khách hàng hiện tại và khách hàng tiềm
năng trong trường hợp này, chỉ chiếm một phần rất nhỏ so với cả cộng đồng công chúng
rộng lớn. Điều đó một lần nữa khẳng định marketing và PR là hai bộ phần khác nhau hoàn
toàn.Theo một quan điểm khác, PR lại trở thành một chức năng quan trọng không thể
thiếu trong marketing. Bởi vì tất cả các mối quan hệ phi-khách hàng, trong một hoàn cảnh
thị trường nào đó đều có vai trò vô cùng cần thiết. Cũng có nghĩa là PR phụ thuộc hoàn
toàn vào marketing. Theo một nhà nghiên cứu về PR thì ngày càng có nhiều đơn vị, công
ty chấp nhận PR với vai trò chính thức là một trong những chức năng của marketing.
Hiện tại, với vai trò mới này PR đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ với marketing.
Để có thể tạo dựng hình ảnh tốt đẹp nhất trên mọi phương diện, cho doanh nghiệp cũng
như cho sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp.
Ngoài ra, hiện nay đang có hơn 500 định nghĩa khác nhau về PR:
Từ điển Bách khoa toàn thư Thế giới (The World Book Encyclopedia) : “PR là hoạt
động nhằm mục đích tăng cường khả năng giao tiếp và hiểu biết lẫn nhau giữa một tổ
chức hoặc cá nhân với một hoặc nhiều nhóm công chúng.”
Học giả Frank Jefkins nhận định : “ PR bao gồm tất cả các hình thức giao tiếp được
lên kế hoạch, cả bên trong và bên ngoài tổ chức, giữa một tổ chức và công chúng của nó,
nhằm đạt được những mục tiêu cụ thể liên quan đến sự hiểu biết lẫn nhau.”
Tuyên bố Mexico, 1978 : “PR là một nghệ thuật và khoa học xã hội, phân tích những
xu hướng, dự đoán những kết quả, tư vấn cho các nhà lãnh đạo của các tổ chức và thực
hiện các chương trình hành động đã được lập kế hoạch nhằm phục vụ lợi ích cho cả tổ chức lẫn công chúng.”
1.2. Chức năng của PR theo quan điểm marketing
Xét về phương diện marketing thì các hoạt động quan hệ công chúng có chức năng hỗ 7 lOMoAR cPSD| 45734214
trợ cho các mục tiêu marketing. Các mục tiêu đó chính là: nâng cao khả năng nhận thức,
truyền thông và hướng dẫn, tạo sự hiểu biết, xây dựng niềm tin, tạo cơ hội và thúc đẩy
người tiêu dùng chấp nhận mua hàng. Theo quan điểm trong lĩnh vực marketing thì PR có
một số chức năng có thể kể đến:
• Tạo ra sức nóng và hiệu quả để tiếp cận thị trường
• Giới thiệu sản phẩm mà không cần dùng quảng cáo
• Hỗ trợ các chương trình marketing đưa ra thông điệp đáng tin cậy hơn
• Có sức ảnh hưởng không nhỏ đối với nhóm khách hàng tiên phong
• Bảo vệ sản phẩm và đưa ra lý do khuyến khích người tiêu dùng mua hàng
2. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA QUY LUẬT MÂU THUẪN GẮN
VỚI NGÀNH QUAN HỆ CÔNG CHÚNG
Mâu thuẫn mang tính chất khách quan, mọi sự vật, hiện tượng trong xã hội và ngay
chính xã hội vẫn luôn tồn tại mâu thuẫn. Mâu thuẫn xuất hiện và tồn tại từ khởi nguyên
cho đến khi tiêu vong và nó là động lực của sự phát triển. V.I. Lê nin nhận định: “tính chất
biện chứng của sự phát triển xã hội, diễn ra trong mâu thuẫn và thông qua các mâu
thuẫn”. Mâu thuẫn cơ bản ở nước ta hiện nay, nổi bật nhất là trên lĩnh vực kinh tế, và mỗi
ngành nghề đều chứa đựng những mâu thuẫn khác nhau. Tất nhiên, sự đối lập chỉ mang
tính chất cục bộ, còn thống nhất là cơ bản. Và khi nhận thức đúng và đưa ra cách giải
quyết đúng đắn, các mâu thuẫn sẽ trở thành “động lực cho sự phát triển”. Với ngành Quan
hệ công chúng (PR) cũng chứa đựng những mặt đối lập và thống nhất. Đó là sự mâu thuẫn
trong xã hội, mâu thuẫn trong hoạt động kinh doanh, và mâu thuẫn trong chính ngành học
với đối tượng học ngành. Đây có thể sẽ là nguồn gốc của khủng hoảng nhưng cũng sẽ là
căn nguyên giúp Quan hệ công chúng cũng như kinh tế, xã hội, con người Việt Nam phát
triển khi vận dụng ý nghĩa phương pháp luận với những giải pháp đúng đắn.
2.1. Ý NGHĨA CỦA PHƯƠNG PHÁP LUẬN VỚI QUAN HỆ CÔNG CHÚNG TRONG XÃ HỘI
2.1.1 Sự mới mẻ và nhu cầu của xã hội
Quan hệ công chúng (PR) từ sớm đã xuất hiện và phát triển ở các nước phương Tây
như Mỹ, Đức, Anh… và một số quốc gia ở Châu Á như Ấn Độ. Đã có rất nhiều giả thuyết
được đưa ra lý giải về nguồn gốc của ngành quan hệ công chúng. Như Frank Jefskin nhận
định: “PR ra đời cùng lúc với nền văn minh nhân loại”. Ông chứng minh rằng, từ lúc nhân
loại chưa có chữ viết, loài người đã dùng chữ tượng hình và tranh vẽ như một phương tiện
để giao tiếp. Các phương tiện này đều chứa đựng một thông điệp nào đó mà người gửi
muốn người nhận hiểu. Khi có chữ viết, các tôn giáo đã viết sách để truyền bá đến công
chúng và tin vào nó. Tất cả các hoạt động này được cho là một hình thức sơ khai của PR.
Một số học giả cho rằng, PR xuất hiện ở Trung Quốc từ 9.000 năm trước với vai trò của 8 lOMoAR cPSD| 45734214
Lã Bất Vi – nhà mưu sĩ hàng đầu của thời Xuân Thu Chiến Quốc. Giả thuyết 3: Năm
1946, Hiệp hội quan hệ công chúng đầu tiên trên thế giới được thành lập. Đầu thế kỷ XX,
tại Hà Lan xuất hiện phòng quan hệ công chúng… Như vậy có thể thấy rõ nguồn gốc sâu
xa, và sự hình thành, phát triển từ sớm của ngành Quan hệ công chúng.
Tuy nhiên ở Việt Nam, Quan hệ công chúng vẫn là một ngành khá mới mẻ. Trong
quan điểm của nhiều người, Quan hệ công chúng (PR) với quảng cáo hay quan hệ báo chí
là một. Đặc biệt với những người lớn, những thế hệ trước chưa có khái niệm và hiểu rõ về
Quan hệ công chúng. Trong các trường đại học, cao đằng, ngành học Quan hệ công chúng
chưa thực sự phổ biến và chưa được chuyên môn hóa sâu sắc. Các sách, giáo trình liên
quan đến PR bằng Tiếng Việt không nhiều, chủ yếu là các sách viết bằng tiếng nước
ngoài. Trong hoạt động kinh doanh, giá trị và hiệu quả hoạt động PR chưa được các doanh
nghiệp khai thác tối đa, và các doanh nghiệp chưa gặt hái trọn vẹn những lợi ích to lớn từ
hoạt động PR mang lại. Ngân sách cho PR còn quá ít nhưng có xu hướng gia tăng trong
những năm gần đây. Thông thường ngân sách dành cho hoạt động PR chỉ bằng 10% so
với quảng cá, thiếu bộ phận nhân sự PR chuyên nghiệp, thiếu một hành lang pháp lý để
phát triển ngành Quan hệ công chúng,…
Tuy vậy cũng không thể phủ nhận tiềm năng to lớn của ngành Quan hệ công chúng
khi nhu cầu của xã hội quá lớn. Trong bối cảnh thị trường ngày nay, cùng với sự phát triển
của xã hội, nhu cầu đời sống của người dân ngày càng được nâng cao, các mặt loại hàng
hóa, dịch vụ càng trở nên phong phú và đa dạng. Đi đôi với đó là sức cạnh tranh giữa các
mặt hàng càng gay gắt hơn và mỗi doanh nghiệp đều cần phải xây dựng hình ảnh và
quảng bá về hình ảnh riêng biệt của mình đến công chúng. P. Kotler nói rằng: “Doanh
nghiệp cần tập hợp các hoạt động nhằm tạo cho sản phẩm và thương hiệu sản phẩm một
vị trí xác định trên thị trường”. Đây chính là khả năng mà các hoạt động của ngành Quan
hệ công chúng có thể mang lại và là điều kiện để PR – một phương pháp hữu hiệu, ít tốn
kém có thể phát triển mạnh mẽ. Có thể thấy thực trạng ở nước ta hiện nay, Quan hệ công
chúng là một ngành xu hướng trong những năm gần đây, thể hiện ở điểm thi tuyển sinh
trung học phổ thông, ngành học này cũng đã và đang được đưa giảng dạy ở rất nhiều
trường đại học trên cả nước ( trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Học viện Báo chí và
tuyên truyền, Đại học Văn Lang…). Sự hội nhập toàn cầu đang diễn ra hết sức mạnh mẽ,
khả năng tiếp cận đến các tri thức về ngành Quan hệ công chúng đang được đẩy mạnh,
các giảng viên được đào tạo bài bản từ các giảng viên nước ngoài.
Những điều mới khi xuất hiện thường mang theo những cơn sốt, đó là các mặt đối
lập, và nó bao hàm cả sự thống nhất và đấu tranh. Sự mới mẻ và nhu cầu xã hội của ngành
Quan hệ công chúng chính là sự mâu thuẫn khách quan. Khi gắn với quy luật mâu thuẫn,
ý nghĩa của phương pháp luận này càng khẳng định sự khách quan của hai mặt đối lập
trên. Từ đó có thể thấy rõ nguồn gốc của mâu thuẫn này là do nền kinh tế thị trường Việt
Nam đang chuyển biến hết sức mạnh mẽ từ khi đổi mới, quá trình hội nhập quốc tế hết
sức năng động, những ngành nghề mới ra đời, cùng với sự phát triển của nền kinh tế kéo 9 lOMoAR cPSD| 45734214
theo những nhu cầu lớn về hàng hóa, dịch vụ đặc biệt là truyền thông. Vì vậy, ngành Quan
hệ công chúng xuất hiện và chứa đựng tiềm năng to lớn. Nguyên tắc để giải quyết mâu
thuẫn này trước hết là cần đẩy mạnh cho giáo dục, hoàn thiện và đảm bảo kiến thức của
ngành học, giúp cho công chúng có khái niệm đúng đắn về PR, khắc phục những hạn chế
ban đầu. Từ đó đảm bảo về nguồn nhân lực giúp cho tiềm năng của ngành được phát huy
tối đa đáp ứng nhu cầu của xã hội. Sau đó các doanh nghiệp cần đầu tư mạnh mẽ cho các
chiến dịch PR, các nhân sự Quan hệ công chúng… giúp cho hình ảnh của doanh nghiệp
được truyền bá đến quảng đại công chúng, kéo theo doanh thu của doanh nghiệp và nền
kinh tế của đất nước đi lên. Khi Quan hệ công chúng được trang bị đầy đủ, mọi người có
cái nhìn đúng đắn hơn khi đó nó sẽ phát huy tối đa khả năng, đáp ứng nhu cầu của xã hội
và mâu thuẫn được giải quyết.
2.1.2. Cơ hội việc làm và mức độ cạnh tranh
Quan hệ công chúng là ngành mới nổi ở Việt Nam với tiềm năng hết sức to lớn có thể
thấy từ nhu cầu của thị trường. Hiệp hội Quảng cáo Việt Nam thống kê, hiện nay ở Việt
Nam có khoảng 7.000 công ty quảng cáo, nhân lực cho ngành này ít nhất là 70.000 lao
động. Thêm vào đó là các tập đoàn truyền thông, các công ty PR đang phát triển rầm rộ
cũng đang có nhu cầu về nguồn nhân lực lớn. Do đó, hầu hết các công ty PR đều khó
khăn trong việc tìm kiếm nhân sự được đào tạo theo nghề nghiệp này, buộc phải tuyển
dụng người từ các chuyên ngành khác như báo chí, ngoại ngữ, kinh tế và được đào tào
qua các khoá học ngắn hạn hoặc các học phần nằm trong chương trình đào tạo đại học,
thậm chí có những người làm PR nhưng chưa hề qua một khóa đào tạo nào về PR. Bên
cạnh đó, ngoài thị trường trong nước, cơ hội việc làm từ các công ty nước ngoài là rất lớn
khi Quan hệ công chúng đã xuất hiện từ rất sớm, đặc biệt là ở các nước Châu Âu. Điều đó
có thể thấy cơ hội việc làm rất lớn dành cho nhân sự ngành Quan hệ công chúng.
Nhưng đồng thời mức độ cạnh tranh trong tương lai là rất lớn. Giới trẻ hiện nay mang
những đặc tính nổi bật: năng động, sáng tạo, nhiệt huyết, cầu tiến, phá bỏ ranh giới… và
điều này rất phù hợp với những yêu cầu của ngành Quan hệ công chúng nói riêng. Xã hội
phát triển, nhu cầu thị trường cao hơn đồng nghĩa với việc xã hội đòi hỏi về kỹ năng
chuyên môn cao hơn, mức cạnh tranh khốc liệt hơn dành cho người lao động. Nhu cầu
được nâng cao đòi hỏi chất lượng cũng phải tăng (giá tiền đi đôi với chất lượng). Đây là
một thách thức lớn dành cho nhân sự ngành Quan hệ công chúng khi đây vẫn còn là một
ngành nghề mới và càng khó hơn khi muốn lấn sân sang thị trường lao động nước ngoài.
Thức tế khách quan khi kinh tế phát triển, hội nhập toàn cầu tiền lương tăng đòi hỏi
chuyên môn hóa phải cao hơn. Quan hệ công chúng là một ngành mũi nhọn ở cả hiện tại
và tương lai vì thế nên đòi hỏi nguồn nhân lực rất lớn, nhưng đồng thời cũng yêu cầu cao
về chất lượng để có thể bắt kịp với sự phát triển chung của thế giới. Nguồn gốc sâu xa là
do chiến tranh làm cho kinh tế Việt Nam chậm trễ hơn các nước khác. Hiện nay kinh tế 10 lOMoAR cPSD| 45734214
Việt Nam đang phát triển nhanh chóng nên việc đào thải sẽ dễ xảy ra nếu không có sự đổi
mới trong nhận thức. Giải pháp cần đó là đầu từ vào công tác đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao trước hết là đáp ứng nhu cầu thị trường sau là đẩy mạnh thúc đẩy nền kinh tế
phát triển. Đây chính là việc vận dụng ý nghĩa phương pháp luận của quy luật mâu thuẫn
vào việc giải quyết các vẫn đề của xã hội với mục đích chung là thúc đẩy sự vận động phát triển.
2.2. Ý NGHĨA CỦA PHƯƠNG PHÁP LUẬN VỚI QUAN HỆ CÔNG CHÚNG TRONG
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH – KHỦNG HOẢNG TRUYỀN THÔNG
a) Khủng hoảng truyền thông
Khủng hoảng là bất kì sự kiện nào dẫn đến tình hình không ổn định và nguy hiểm ảnh
hưởng đến một cá nhân, một nhóm, cộng đồng hoặc toàn xã hội. Khủng hoảng truyền
thông theo Barrera là bất kì tình thế nào đe dọa tới hoạt động và uy tín công ty, thường là
bởi báo chí quan tâm vừa đưa những tin bất lợi hoặc tiêu cực. Khủng hoảng cũng có thể là
tình huống mà trong con mắt của báo chí hay công chúng, công ty không có những phản
ứng thích hợp trước các tình huống. Friedman (2012) cho rằng khủng hoảng truyền thông
“không phải là một điều xấu, nó có thể là một sự thay đổi triệt để để trở nên tốt hoặc xấu”.
Khủng hoảng truyền thông luôn luôn có khả năng xảy ra do xuất phát từ nhiều nguyên
nhân : do thông tin sai lệch hoặc tin đồn được phát tán trên mạng xã hội, chất lượng sản
phẩm hoặc dịch vụ, hành vi, thái độ của nhân viên, vi phạm pháp luật,… Khủng hoảng
truyền thông luôn tiềm tàng trong mọi hoạt động của cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức do
mạng xã hội ngày càng phát triển, mọi thông tin luôn được cập nhật liên tục. Giờ đây, mỗi
công dân đều có thể trở thành một phóng viên chỉ với trong tay một chiếc điện thoại di
động thông minh được kết nối internet. Và khi sự cố xảy ra, họ ngay lập tức có thể phát
tán thông tin trên mạng, chia sẻ với bạn bè chỉ trong giây lát. Sự phát triển bùng nổ của
các phương tiện thông tin đại chúng đã có tác động lớn tới hoạt động xử lý khủng hoảng
truyền thông tại các doanh nghiệp. Mọi rào cản không gian, thời gian bị xóa nhòa và cùng
với nó là sự gia tăng số người tham gia vào cuộc khủng hoảng. Theo thống kê từ trang
web www.internetlivestats.com thì cứ mỗi một giây trôi qua có 9.119 trạng thái được chia
sẻ trên Twitter, 2.051 bức ảnh được đăng trên Instagram, 100.261 video được xem trên
YouTube và 2.392.199 thư điện tử được gửi. Qua những số liệu thống kê trên, có thể thấy
tốc độ lan truyền thông tin trên mạng internet ngày nay là vô cùng lớn và hứa hẹn sẽ còn
phát triển trong tương lai không xa. Cùng với đó là sự cạnh tranh khốc liệt của các bên và
sự nhạy cảm của cư dân mạng.
Đặc điểm của khủng hoảng truyền thông : Xảy ra đột ngột và không thể lường trước;
Tốc độ lan truyền nhanh chóng, đặc biệt trong bối cảnh mạng xã hội và internet phát triển
như ngày nay; Gây hậu quả tiêu cực đến nhiều mặt; Ảnh hưởng lâu dài đến tổ chức; Đa
dạng mức độ; Gây xáo trộn trong nội bộ tổ chức/ doanh nghiệp. 11 lOMoAR cPSD| 45734214
b) Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật mâu thuẫn trong khủng hoảng truyền thông
Tất cả các sự kiện dẫn đến khủng hoảng truyền thông là những rủi ro mà cá nhân, tổ
chức, doanh nghiệp cần phải sẵn sàng đối mặt để có thể nhận được giá trị. “Lợi ích” và
“rủi ro” là mâu thuẫn luôn luôn hiện hữu mà ngành Quan hệ công chúng sẽ phải đối mặt
và giải quyết trong hoạt động kinh doanh. Những hoạt động kinh doanh muốn thành công
dù là cá nhân hay doanh nghiệp đều cần phải dùng đến truyền thông; và đặc thù của
truyền thông luôn kèm theo rủi ro trong thời đại công nghệ số. Truyền thông như con dao
hai lưỡi mang lại giá trị to lớn nhưng đồng thời tiềm tàng những rủi ro có thể dẫn tới sự
sụp đổ của cả một doanh nghiệp. Đây chính là những mặt đối lập mà truyền thông mang
lại. Có thể thấy sự phát triển của mạng xã hội càng thúc đấy sự đấu tranh giữa ‘lợi ích’ và
‘rủi ro’ của truyền thông càng thêm sâu sắc, đồng thời với đó là sự tác động của báo chí,
đối thủ cạnh tranh, sự truyền tải thông tin … Như một quỹ đầu tư mạo hiểm, giá trị mang
lại càng lớn thì rủi ro kèm theo cũng tương ứng.
Và trách nhiệm của nhân sự Quan hệ công chúng là cần vận dụng đúng ý nghĩa phương
pháp luận quy luật mâu thuẫn. Cần nhận thức rõ sự tồn tại của mâu thuẫn dẫn đến khủng
hoảng truyền thông. Rủi ro và lợi ích luôn tồn tại song song, không thể xóa bỏ bởi thế hai
mặt đối lập này vừa đấu tranh vừa thống nhất. Trước hết cần nhận thức rõ không thể hoàn
toàn xóa bỏ rủi ro. Cần phải tìm lại nguồn gốc sâu xa của cuộc khủng hoảng và tùy vào
mức độ khác nhau của khủng hoảng mà đưa ra cách giải quyết khác nhau. Và từ đó rút ra
bài học từ những cuộc khủng hoảng truyền thông, cũng như cách thức giải quyết. Và
khủng hoảng truyền thông không hẳn là xấu như Friedman nhận định, từ khủng hoảng đó
mà công chúng biết đến doanh nghiệp nhiều hơn, hoặc chỉ đơn giản là việc rút ra được bài
học để có thể phát triển hơn.
Các ví dụ về cách thức giải quyết khủng hoảng truyền thông theo quy luật mâu thuẫn:
KFC : một cửa hàng bán gà rán nhưng lại hết gà, đến tháng 2/2018, chuỗi cửa hàng KFC
ở Anh đã vướng vào một cuộc khủng hoảng do phát sinh các vấn đề về chuỗi cung ứng.
Mâu thuẫn ở đây là chuỗi cửa hàng lớn với nguồn hàng ít ở thời điểm đó. Và đây lại còn
là một cuộc khủng hoảng truyền thông nên bên cạnh giải quyết mâu thuẫn, KFC còn đưa
ra lời xin lỗi khách hàng vừa để chế giễu sự cố của chính mình: “Một cửa hàng gà rán mà
lại không có thịt gà, thật đáng xấu hổ”.
Johnson & Johnson vấp phải khủng hoảng truyền thông nghiêm trọng khi có 7 người tử
vong sau khi sử dụng Tylenol – dòng thuốc giảm đau của hãng. Cách xử lý truyền thông
của hãng là Chủ động đưa ra thông báo về vụ việc và cảnh báo an toàn cho người tiêu
dùng ngưng sử dụng sản phẩm trên các phương tiện truyền thông. Tạm dừng tất cả các
hoạt động sản xuất, quảng cáo, buôn bán về sản phẩm. Gửi thông báo đến các cơ sở chăm
sóc sức khỏe và đơn vị có liên quan về sự việc. Hình thành đường dây nóng hỗ trợ giải
đáp các thắc mắc của khách hàng về tính an toàn của sản phẩm. Nhanh chóng thu hồi 31 12 lOMoAR cPSD| 45734214
triệu sản phẩm Tylenol. Sau khi điều tra, nguyên nhân là trong viên nang Tylenol
ExtraStrength đã bị thay bằng những viên thuốc được tẩm xyanua và trà trộn vào các cửa
hàng dược phẩm, thực phẩm tại thành phố Chicago.
"Quản trị khủng hoảng, nghe đúng là căng thẳng vì không ai muốn gặp khủng hoảng,
dù trong cuộc sống hay công việc. Nhưng đối với chuyên gia PR, họ sẽ có cách nghĩ khác
bản lĩnh hơn, nhìn nhận vấn đề khách quan, bình tĩnh hơn. Họ sáng suốt, sáng tạo và từ đó
đưa ra giải pháp tổ chức vượt qua khủng hoảng một cách thành công. Xử lý khủng hoảng
là một kỹ năng chiến lược mà các chuyên gia được đào tạo, tự đào tạo và trưởng thành
ngày qua ngày. Do đó, hãy xem đây là một công việc sáng tạo hơn là xem đó như áp lực",
ThS Huỳnh Nguyễn Kim Phượng (Chủ nhiệm ngành Quan hệ công chúng HUTECH) cho biết.
2.3. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA QUY LUẬT MÂU THUẪN GẮN VỚI
BẢN THÂN VÀ NGÀNH HỌC – QUAN HỆ CÔNG CHÚNG
Quan hệ công chúng là ngành học đòi hỏi sự sáng tạo, năng động cùng với đó là
1. Khả năng giao tiếp: biểu hiện tốt cả khi nói và viết. Đây là tố chất quan trọng hàng
đầu của người làm công tác PR, đó là sự tự tin trước đám đông, quyết đoán khi đàm phán,
linh hoạt khi trao đổi công việc; khả năng viết lách nhuần nhuyễn, giàu sức thuyết phục,
quảng bá tốt. Dựa vào khả năng này, bạn dễ dàng xây dựng những mối quan hệ tin cậy
với đối tác, khách hàng hiện tại và tiềm năng.
2. Kiến thức xã hội sâu rộng,để trở thành một người hoạt động chuyên nghiệp trong
lĩnh vực Quan hệ công chúng, đòi hỏi bạn phải có vốn kiến thức xã hội phong phú. Công
việc của người làm PR bao gồm cả tư vấn chiến lược, sáng tạo những phương thức hoạt
động cả trong kinh doanh và các hoạt động mang tính cộng đồng khác một cách hiệu quả.
Do đó, việc am hiểu sâu rộng các lĩnh vực của đời sống là một yêu cầu tất yếu.
3. Khả năng quan sát, phán đoán và xử lý vấn đề tốt: giúp bạn đón đầu được những
thay đổi cũng như dự đoán xu hướng của vấn đề, dễ dàng giải quyết mọi tình huống phát
sinh trong quá trình tổ chức công việc. Vì vậy, yếu tố tổ chức cũng được xem trọng trong
danh sách đáp án của câu hỏi "Ngành Quan hệ công chúng yêu cầu những gì?"
4. Trình độ ngoại ngữ và tin học: trong thời đại công nghệ thông tin và giao thương
quốc tế mạnh mẽ, khả năng ngoại ngữ, tin học chính là một lợi thế giúp bạn trở thành một
ứng viên sáng giá cho vị trí PR chuyên nghiệp. Về khả năng này, bạn sẽ được chú trọng
đào tạo trong môi trường học tập mà mình chọn lựa. Với các trường đại học đào tạo theo
mô hình chuẩn quốc tế như Trường Đại học Kinh tế - Tài chính thành phố Hồ Chí Minh
(UEF) thì ngoại ngữ là một trong những lợi thế vượt trội của sinh viên. 13 lOMoAR cPSD| 45734214
5. Không bỏ qua việc chăm chút cho ngoại hình: một vẻ ngoài lịch thiệp, trang nhã
luôn tạo độ tin cậy và sức hút trong giao tiếp đối với một người muốn gắn bó với ngành
Quan hệ công chúng lâu dài cùng đam mê thành công trong nghề này.
Tuy nhiên so với những yêu cầu của ngành Quan hệ công chúng đặt ra, bản thân em
còn rất nhiều thiếu sót, đó là sự đối lập giữa tính hướng nội với yêu cầu về khả năng giao
tiếp, hoạt bát, năng động. Tuy nhiên khi lựa chọn vào ngành Quan hệ công chúng em thấy
rõ khả năng bản thân sẽ được thúc đẩy để phát triển bản thân. Để đáp ứng, thích nghi với
chuyên ngành mình chọn, việc năng động, hoạt bát là điều em cần phải học hỏi và điều đó
sẽ thúc đẩy sự phát triển toàn diện của bản thân. Mỗi người có những đặc điểm, tính cách
khác nhau và không ai là phù hợp hoàn toàn với một ngành nghề nào, ở đâu đó vẫn sẽ tồn
tại những mâu thuẫn. Mâu thuẫn là động lực của sự phát triển nên không cần từ bỏ những
nét tính cách riêng của bản thân, bởi mỗi cá nhân là một cá thể đặc biệt, mà cần phải biết
linh hoạt để có thể phù hợp với yêu cầu của từng ngành nghề, từng tình huống cụ thể.
Có một đoạn văn rằng: Trường đại học có hai giảng viên, một giảng viên khi lên giảng
đường luôn vui vẻ, mang lại năng lượng trong từng bài giảng của mình, trò chuyện với
sinh viên rất thoải mái và được rất nhiều sinh viên yêu quý, các lớp học của thầy luôn chật
kín sinh viên. Nhưng giảng viên kia luôn luôn im lặng, không thích giao tiếp với sinh viên
ngoài giờ, chỉ đi từ trường rồi về thẳng đến nhà ở tận ngoại ô, thầy thích ở một mình
không thích sinh viên đến nhà hỏi bài, hay chào hỏi. Nhưng cả hai lại là cùng một người. KẾT LUẬN
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập ( Quy luật mâu thuẫn ) là hạt
nhân của phép biện chứng duy vật, đã đề cập đến vẫn đề nguyên nhân, động lực của sự
vận động, phát triển. Quy luật mâu thuẫn đã cho thấy rõ sự thống nhất và đấu tranh giữa
các mặt đối lập. Mâu thuẫn tồn tại trong mọi sự vật, hiện tượng và mâu thuẫn chính là
động lực của sự vận động, phát triển. Mâu thuẫn mang tính khách quan và phải tôn trọng.
Khi giải quyết được mâu thuẫn, tìm ra nguồn gốc, vai trò, vị trí, mối quan hệ giữa các
mâu thuẫn và đưa ra giải pháp phù hợp tùy vào điều kiện thì sẽ được tới sự phát triển của sự vật, hiện tượng.
Quan hệ công chúng du nhập vào Việt Nam từ những năm 90 của thế kỉ XX và được
rất nhiều doanh nghiệp ưa chuộng bởi sự mới mẻ, tiết kiệm và giá trị truyền thông mang
lại rất lớn. Tuy nhiên, trong nội tại ngành Quan hệ công chúng cũng đang chứa đựng
nhiều mâu thuẫn có thể là nguy cơ kìm hãm sự phát triển của ngành. Vì vậy để có thể phát
huy tối đa tiềm năng của PR, thúc đẩy Việt Nam phát triển mạnh mẽ, bắt kịp với xu thế
chung của thời đại thì cần phải có những biện pháp, giải pháp phù hợp kịp thời của Nhà
nước; cần vận dụng chính xác quy luật mâu thuẫn và ý nghĩa của phương pháp luận chính
là chìa khóa có thể giúp cho ngành Quan hệ công chung có thể phát triển mạnh mẽ ở Việt 14 lOMoAR cPSD| 45734214 Nam. 15 lOMoAR cPSD| 45734214
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Triết học Mác – Lê nin (Dành
cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị ). NXB Chính trị quốc gia – Sự thật 2.
https://www.hdiu.edu.vn/tin-tuc/Nhu-cau-lon-tu-nganh-Quan-he-cong- chung-415 3.
https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-cong-nghe-thanh-
pho-hochi-minh/marketing-truyen-thong/tieu-luan-quan-he-cong-chung-nhom- 2/33623080 4.
https://www.uef.edu.vn/tin-tuyen-sinh/hoc-nganh-quan-he-cong-chung-yeu- caunhung-gi-476 16