-
Thông tin
-
Quiz
Vai trò của Triết học trong đời sống xã hội, tác động của nó đến hiện thực xã hội | Bài thu hoạch cá nhân môn triết học Mác -Lênin Trường Đại học sư phạm kỹ thuật TP Hồ Chí Minh
Không phải ngẫu nhiên có người coi triết học như là khoa học của mọi khoa học. Cũng không phải ngẫu nhiên trong lịch sử, nhà triết học được gọi là nhà thông thái, nhà hiền triết,
người nắm đước bí mất của sự vật… thậm chí trong lịch sử nhân loại, có thời kỳ mà xã hội
đặt nhà triết học vào vị trí cao nhất, Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Triết học Mác - Lenin (LLCT130105) 646 tài liệu
Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh 3.1 K tài liệu
Vai trò của Triết học trong đời sống xã hội, tác động của nó đến hiện thực xã hội | Bài thu hoạch cá nhân môn triết học Mác -Lênin Trường Đại học sư phạm kỹ thuật TP Hồ Chí Minh
Không phải ngẫu nhiên có người coi triết học như là khoa học của mọi khoa học. Cũng không phải ngẫu nhiên trong lịch sử, nhà triết học được gọi là nhà thông thái, nhà hiền triết,
người nắm đước bí mất của sự vật… thậm chí trong lịch sử nhân loại, có thời kỳ mà xã hội
đặt nhà triết học vào vị trí cao nhất, Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin (LLCT130105) 646 tài liệu
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh 3.1 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:






Tài liệu khác của Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Preview text:
Bài thu hoạch cá nhân
Đề bài: Vai trò của Triết học trong đời sống xã hội, tác động của nó đến hiện thực xã hội Bài làm:
Không phải ngẫu nhiên có người coi triết học như là khoa học của mọi khoa học. Cũng
không phải ngẫu nhiên trong lịch sử, nhà triết học được gọi là nhà thông thái, nhà hiền triết,
người nắm đước bí mất của sự vật… thậm chí trong lịch sử nhân loại, có thời kỳ mà xã hội
đặt nhà triết học vào vị trí cao nhất, có nhà cải tạo đặt nhà triết học vào vị trí cao nhất của
cơ cấu tổ chức xã hội (Platon với mô hình “Nhà nước lý tưởng”)…Tất cả những điều ấy
khiến triết học trở thành một môn thú vị, một cái gì đó kì bí làm con người ở mọi thời đại
đam mê, ham muốn hiểu sâu hơn và đóng góp sức mình vào cái lâu đài kì bí và hoa lệ đó.
Kể từ khi ra đời trải qua nhiều giai đoạn phát triển đạt được nhiều thành tựu rực rỡ thì triết
học luôn phản ánh sự phát triển trí tuệ loài người và thúc đẩy tư duy loài người, đôi khi còn
trở thành vũ khí sắc bén nhất cho những gì tiến bộ của sự phát triển đó. Ngày nay triết học
đã thực sự trở thành khoa học, đã hoàn chỉnh hơn vì vậy ý nghĩa là động lực cho sự phát
triển của đời sống xã hội càng rõ nét hơn, con người càng được hoàn thiện hơn về tư duy lý
luận. Đó là mặt tác động đến đời sống xã hội từ bản thân khoa học triết học. Ngày nay, mặc
dù sự phát triển như vũ báo của khoa học kỹ thuật, sự phát triển về mặt vật chất của đời
sống xã hội… cũng không hề làm giảm đi tính chất kì bí và vai trò đối với thực tiễn của
triết học, mà vấn đề là phải có một tư duy lý luận, đúng đắn để không bị “lạc lối” trong sự
phát triển đó, hơn nữa, sự phát triển về mặt xã hội của khoa học kỹ thuật… cũng tác động
ngược trở lại khoa học triết học: chứng minh hay bác bỏ những quan điểm triết học, nhận ra
được những tư tưởng đúng đắn. Với vai trò to lớn của triết học với sự phát triển tư tưởng xã
hội và với thực tiễn đời sống xã hội như vậy, bài thu hoạch này chỉ mong tổng hợp lại một
số vai trò đã được thừa nhận của triết học trong đời sống xã hội nói chung và đối với sự
phát triển khoa học nói riêng.
Sự ra đời của triết học Ttiết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một
thời gian (khoảng từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ VII trước công nguyên). tại một số trung tâm
văn minh cổ đại của nhân loại như Trung Quốc, ấn Độ, Hi Lạp.Theo người Trung Quốc,
thuật ngữ triết học có nguồn gốc ngôn ngữ là chữ triết và khoa học này hiểu theo nghĩa là sự
truy tìm bản chất của đối tượng, triết học chính là trí, là sự hiểu biết sâu sắc của con
người.Theo người ấn Độ, triết học được coi là Danshana, có nghĩa là chiêm ngưỡng nhưng
mang hàm ý là trí thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với
lẽ phải.ở phương Tây thuật ngữ triết học suất hiện ở HiLạp, theo tiếng HiLạp triết học là
Philosophia, nghĩa là yêu mến sự thông thái, nó là khoa học vừa mang tính định hướng vừa
nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con người.Như vây, cho dù ở phương Đông
hay phương Tây, ngay từ đầu triết học đã là hoạt động tinh thần biểu hiện khả năng nhận
thức, đánh giá của con người, nó tồn tại với tư cách là một hình thái ý thức xã hội
có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về triết học, nhưng đều bao hàm những nội dung
giống nhau:Triết học nghiên cứu thế giới với tư cách là một chỉnh thể, tìm ra những quy luật
chung nhất chi phối sự vận động của chỉnh thể nói chung, của xã hôi loài người, của con
người trong cuộc sống cộng đồng nói riêng và thể hiện nó một cách có hệ thống dưới dạng
duy lý.Vậy: Triết học là hệ thống trí thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về vị
trí vai trò của con người trong thế giới ấy. Với tư cách là một khoa học, triết học không còn
là bí mật mà chỉ những nhà triết học mới biết(Ph.Ăngghen, “Chống Đuy-rinh”) nó từ “Khoa
học của các khoa học” đã trở thành một môn khoa học độc lập. Là một môn khoa học độc
lâp, Triết học cần phải có: Đối tượng riêng của nó, phải có phương pháp nghiên cứu (gần
phương pháp luận và phương pháp riêng); có các vấn đề cơ bản; có các khái niệm và các phạm trù; các quy luật.
Đầu tiên, phải nói đến đối tượng của Triết học.Theo Ph.ăngghen: “Triết học là khoa học về
các quy luật chung nhất sử sự vận động và phát triển của thế giới; từ tự nhiên, xã hội và cả
tư duy”, (Ph. ăng ghen, “chóng Đuy-rinh”)Như vậy có thể coi đối tượng của Triết học là tự
nhiên, xã hội và tư duy của con người: nhưng Triết học không phải là khoa học tự nhiên,
khoa học về xã hội, khoa học về tư duy (logic học) mà là khoa học chung nhất, nó coi thế
giới là “một chỉnh thể thống nhất ” các mặt trên.
Thứ hai, phương pháp nghiên cứu.Có một điều đặc biệt của khoa Triết học, đó là, với khoa
học này thì sự khác nhau về phương pháp luật là cơ sở để phân biệt các trường phái Triết
học (siêu hình hay biện chứng), thể hiện tính khoa học hay phản động của một hệ thống
Triết học. Nguyên nhân của hiện tượng này xuất phát từ đối tượng của Triết học: Coi thế
giới như là một chỉnh thể, nghiên cứu bao trùm thế giới: tự nhiên, xã hội, tư duy.Triết học
nghiên cứu thế giới bằng phương pháp của riêng mình khác với mọi khoa học cụ thể: Nó
xem xét thế giới như một chỉnh thể và tìm cách đưa ra một hệ thống các quan niệm về chỉnh
thể đó. Điều đó chỉ có thể thực hiện được bằng cách tổng kết toàn bộ lịch sử của khoa học
và lịch sử của bản thân Triết học.
Thứ ba, vấn đề cơ bản của triết học là Triết học cũng như những khoa học khác phải giải
quyết rất nhiều vấn đề có liên quan với nhau, trong đó vấn đề cực kỳ quan trọng là nền tảng
và là điểm xuất phát để giải quyết những vấn đề còn lại được gọi là vấn đề cơ bản của Triết
học. Theo Ph. Ăng ghen “vấn đề cơ bản lớn của mọi Triết học, đặc biệt là Triết học hiện đại,
là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại.Giải quyết vấn đề cơ bản của Triết học không chỉ
xác định được nền tảng và điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của Triết học mà nó
còn là tiêu chuẩn để xác định lập trường, thế giới quan của các Triết gia và học thuyết của
họ.Vấn đề cơ bản của Triết học có hai mặt mỗi mặt phải trả lời cho một câu hỏi lớn:Mặt thứ
nhất: giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?
Mặt thứ hai: con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?Trả lời cho hai câu
hỏi trên liên quan mật thiết đến việc hình thành các trường phái Triết học và các học thuyết
về nhận thức của Triết học.
Thứ tư, hệ thống các phạm trù và các quy luật.Mỗi bộ môn khoa học đều có một hệ thống
phạm trù riêng của mình phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản
và phổ biến thuộc phạm vi khoa học đó nghiên cứu.Với các khoa học chuyên ngành các
phạm trù chỉ phản ánh những mối liên hệ chung trên một lĩnh vực nhất định của hiện thực
thuộc phạm vi nghiên cứu của môn khoa học chuyên ngành đó. Khác với điều đó, các phạm
trù của phép biện chứng duy vật như:(vật chất”, “ý thức”, “vận động”, “đứng im”, “mâu
thuẫn”) là những khái niệm trung nhất phản ánh những mặt những thuộc tính, những mối
liên hệ cơ bản và phổ biến nhất không phải chỉ của một lĩnh vực nhất định nào đấy của hiện
thực, mà của toàn bộ thế giới hiện thực, bao gồm cả tự nhiên, xã hội và tư duy. Mọi sự vật,
hiện tượng đều có nguyên nhân xuất hiện, đều có quá trình vận động biến đổi, đều có mâu
thuẫn… nghĩa là đều có những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ được phản ánh
trong các phạm trù của Triết học.
Thế giới quan đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống của con người và xã hội loài
người. Tồn tại trong thế giới dù muốn hay không con người cũng phải nhận thức thế giới và
nhận thức bản thân mình. Những tri thức này dần dần hình thành nên thế giới quan lại trở
thành nhân tố định hướng, thế giới quan nên thế giới quan. Khi đã hình thành, thế giới quan
trở thành nhân tố định hướng cho quá trình con người tiếp tục nhận thức thế giới. Như vậy,
thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực và trình độ phát triển
của thế giới quan là tiêu chí quan trọng về sự trưởng thành của mỗi cá nhân cũng như của
mỗi cộng đồng xã hội nhất định.Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới
quan, làm cho thế giới quan phát triển như một quán trình tự giác dựa trên sự tổng kế kinh
nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa học đưa lại.Phương pháp luận là lý luận về phương
pháp, là hệ thống các quan điểm chỉ đạo việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các
phương pháp.Tuy không phải là một ngành khoa học độc lập nhưng phương pháp luận là
một bộ phận không thể thiếu được trong bất kỳ một ngành khoa học nào. Xét phạm vi tác
dụng của nó, phương pháp luân ngành; phương pháp luận chứng và phương pháp luận chung nhất.
+ Phương pháp luận ngành là phương pháp luận của một ngành khoa học cụ thể nào đó.
+ Phương pháp luận chung là phương pháp luận được sử dụng cho 1 số ngành khoa học.
+ Phương pháp luận chung nhất là phương pháp luận được dùng làm điểm xuất phát cho
việc xác định các phương pháp luận chung, các phương pháp hoạt động khác của con
người.Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới và vai trò của
con người trong thế giới đó; với việc nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã
hội và tư duy triết học thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất khẳng định điều
này, Ph.Ăngghen viết – khi phê phán những nhà khoa học tự nhiên siêu hình không thấy
được mối quan hệ biện chứng các ngành khoa học, không thấy được sự khác nhau giữa tư
duy lý luận với tư duy thực nghiệm.”Những nhà khoa học tự nhiên tưởng rảng họ thoát khỏi
triết học bằng cách không để ý đến nó hoặc phỉ báng nó. Nhưng vì không có tư duy thì họ
không thể tiến lên được một bước nào và muốn tư duy thì họ cần có những phạm trù lôgíc,
mà những phạm trù ấy thì họ lấy một cách không phê phán, hoặc lấy trong cái ý thức chung,
thông thường của những người gọi là có học thức, cái ý thức bị thống trị bởi những tàn tích
của những hệ thống triết học lỗi thời hoặc lấy trong những mảnh vụ của các giáo trình triết
học bắt buộc trong các trường đại học (đó không chỉ là những quan điểm rời rạc mà còn là
một mớ hổ lớn những ý kiến của những người thuộc các trường phái hết sức khác nhau và
thường là những trường phái tồi tệ nhất) Hoặc lấy trong những tác phẩm triết học đủ loại mà
họ đọc một cách không có hệ thống và không có phê phán.
– Cho nên, dù sao, rút cục lại, họ vẫn bị lệ thuộc vào triết học và đáng tiếc thường là thứ
triết học tồi tệ nhất. Những kẻ nô lệ của những tàn tích thông tục hoá, tồi tệ nhất của những
học thuyết triết học tồi tệ nhất.Dù những nhà khoa học tự nhiên có làm gì đi nữa thì họ cũng
vẫn bị triết học chi phối, vấn đề chỉ ở chỗ họ muốn bị chi phối bởi một thức triết học tồi tệ
hợp mốt, hay họ muốn được hướng dẫn bởi một hình thức tư duy lý luận dựa trên sự hiểu
biết về lịch sử tư tưởng và những thành tự của nó “”(PH.Ăng ghen; “Biện chứng của tự
nhiên”)Vì vậy, mỗi quan điểm lý luận của triết học đồng thời là một nguyên tắc trong việc
xác định phương pháp, là lý luận về phương pháp.Những chức năng nói trên được thực hiện
ở các học thuyết triết học khoa học tạo nên khả năng cải tạo thế giới của học thuyết triết học
đó, trở thành một công cụ hữu hiệu trong hoạt động chế ngự giới tự nhiên và sự nghiệp giải
phóng con người của những lực lượng sản xuất.
- Mỗi hệ thống triết học đều ra đời trong những hoàn cảnh xã hội nhất định, phản ánh tư
tưởng, địa vị, mong muốn của giai cấp mà nó phục vụ; mối hệ tư tưởng Triết học đó đều là
“tinh hoa của thời đại” đó.C.Mác viết rằng: “Các Triết ra không mọc lên như nấm từ trái đất,
họ là sản phẩm của thời đại, của dân tộc mình, mà dòng sữa tinh tế nhất quý giá và vô hình
được tập trung lại trong những tư tưởng Triết học”.Hay như G.V. Hegel, ông coi sự ra đời
của các học thuyết Triết học là “sự tất yếu”, coi “triết học là tinh hoa của thời đại mình,và do
đó nó thực hiện chức năng được xã hội phó thác trong phạm vi của thời đại và chỉ khi đó
tính tích cực của tư duy triết học mới được phát huy.
- Cùng với tư cách là một hình thái ý thức xã hội nhưng là hình thái ý thức xã hội đặc biệt,
chung nhất, Triết học, nếu phản ánh đúng xu thế của thời đại thì nó sẽ là cơ sở lý luận cho
giai cấp tiến bộ thực hiện sự nghiệp của mình, chỉ đạo thực tiễn hoạt động trên tất cả các
lĩnh vực của đới sống xã hội, từ đó nó trở thành động lực về mặt tinh thần cho sự phát triển xã hội
Chúng ta đều biết rằng, khoa học càng phát triển và nhất là khi khoa học gặp phải những
khó khăn (gặp phải những tình huống có vấn đề) thì dù muốn hay không người ta cũng
không thể không tìm đến triết học. Lịch sử đã cho thấy, những người sáng lập ra cơ học
lượng tử, sáng lập ra những ngành vật lý khác nhau - họ đều là những nhà vật lý học lỗi lạc
của thế kỷ 20 - bản thân họ đều là những người ủng hộ hoặc theo một trường phái triết học
nào đó. Thực tế là càng nghiên cứu về sau và khi họ có được những phát minh làm cơ sở
cho những lý thuyết mới thì quan điểm cũng thay đổi một cách căn bản khi cho rằng: Khoa
học tự nhiên không thể thiếu triết học được. Theo Ăng ghen thì: Các nhà khoa học tự nhiên
không thể thiếu triết học. Vấn đề ở chỗ họ muốn được dẫn dắt bởi một thứ triết học đúng
đắn hay một thứ triết học hợp thời trang.
Như vậy là cùng với sự phát triển của khoa học (nhất là những tình huống có vấn đề), người
ta lại càng phải quan tâm đấn triết học nhiều hơn. Đặc biệt khoảng giữa thế kỷ 19 - khi khoa
học chưa có những phát minh mang tính thời đại cũng có nghĩa là lúc đó khoa học tự nhiên
gặp khủng hoảng và người ta đã giải thích nó theo những cách khác nhau, cuối cùng là dẫn
đến cách giải thích duy tâm về những thành tựu mới đó. Đây chính là lúc triết học thể hiện
sâu sắc vai trò định hướng của mình.
Sang thế kỷ 20, khoa học đã bùng nổ trên các lĩnh vực, đặc biệt là sinh học. Dường như tất
cả các trường phái đều quan tâm và đều tìm cách giải thích có lợi cho triết học của mình,
đặc biệt là tôn giáo. Có thể nói, sự quan tâm đến khía cạnh phương pháp luận là do nhu cầu
của thực tiễn, đòi hỏi phải giải quyết những vấn đề do cuộc sống đặt ra; do bản thân sự phát
triển của khoa học, khoa học phải giải quyết những vấn đề khó khăn, những tình huống có
vấn đề và liên quan đến cuộc đấu tranh giữa những lập trường triết học khác nhau.
Qua sự khảo sát sơ lược về vai trò của triết học trong đời sống xã hội nói chung và đối với
sự phát triển của khoa học nói riêng, rút ra một số nhận xét sau:
Vai trò của triết học đối với đời sốnglà:” không phải là giải thích thế giới mà vấn đề là ở chỗ
cải tạo thế giới” ( C.Mác ), triết học phải là khoa học “giải thích thế giới thế tục chứ không
phải là thoát ly thế giới thế tục “(C Mác; “Lời nói đầu trang phê phán Nhà nước pháp quyền
của Hêghel “).Triết học tác động đến đời sống hiện thực trên vị trí, tư cách đặc biệt. Nó là
hạt nhân cơ bản của thế giới qua
- Khi bàn về vai trò của Triết học trong đời sống xã hội, tác động của nó đến hiện thực xã
hội thì trước tiên phải quán triệt rằng: Triết học là môn khoa học chân chính, chứ không phải
là tập hợp những tư tưởng giải thích thế giới của những Triết gia, những nhà tư tưởng,
Những tư tưởng của họ không phải là xuất phát từ hảo tâm hay thành ý của họ.Tuy nhiên,
Triết học cũng là một hình thái ý thức xã hội, Về tính chất này của nó, nó phủ định tính chất
là một khoa học chuyên nghành ( là một bộ phận của hình thái ý thức xã hội khoa học) vì
vậy nó là một khoa học đặc biệt mang tính chung nhất trừu tượng nhất về thế giới.
- Mối quan hệ giữa triết học và khoa học đã được làm rõ xuyên suốt quá trình tồn tại và phát
triển của khoa học. Lịch sử đã chứng minh rằng nếu thiếu quan điểm về phương luận đúng
đắn đối với các vấn đề về mối liên hệ lẫn nhau giữa các khoa học thì thành tựu lớn lao của
một ngành khoa học có thể sinh ra những xu hướng không những không thúc đẩy sự phát
triển của các ngành khác mà thậm chí còn cản trở chúng.
Tóm lại sự hình thành và phát triển của triết học không thể tách rời với đời sống xã hội nói
chung và với sự phát triển của khoa học nói riêng.