Vấn đề con người | Môn Triết học Mác - Lênin | Đại học Sư Phạm Hà Nội

Vấn đề con người | Môn Triết học Mác - Lênin | Đại học Sư Phạm Hà Nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!

lOMoARcPSD| 40367505
Chủ đề: Bản chất con người theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
a. Con người là thực thể sinh học và xã hội:
* Mặt sinh học:
+ Để nói về con người với cách một thực thể sinh học, c - Lênin khẳng
định: “Điều cụ thể đầu tiên cần phải xác định tổ chức thể của những nhân
ấy mối quan hệ tổ chức thể ấy tạo ra giữa họ phần còn lại của giới tự
nhiên” [C. Mác và Ph. Ăng ghen toàn tập, sdd, tập 3, tr. 11].
+ Con người một thực thể sinh học, sản phẩm của quá trình phát triển,
tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên. Với tư cách một thực thể sinh học, con người
cũng như các động vật khác nhu cầu tự nhiên: ăn, uống, hít thở, tính dục, sinh con
đẻ cái,… Những nhu cầu này đích thực là nhu cầu của sinh vật mà tất cả những loài
động vật khác đều có. + Với tư cách là một thực thể sinh học, con người phải phục
tùng những quy luật của giới tự nhiên như: sinh - lão - bệnh - tử, di truyền biến
dị, trao đổi qua lại giữa cơ thể với môi trường, đồng hóa và dị hóa,…
+ Giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người: Để tồn tại và phát triển, con
người không thể tách mình ra khỏi tự nhiên được mà phải dựa vào tự nhiên để sinh
tồn (tự nhiên môi trường sinh tồn của con người). Con người cần ánh sáng mặt
trời, cần không khí để thở, cần tìm kiếm thức ăn, cải tạo tự nhiên để tạo ra sản phẩm
phục vụ nhu cầu đa dạng của nó: thực phẩm, quần áo, nhà ở,... Nói cách khác giới
tự nhiên chính là thân thể vô cơ của con người.
* Mặt xã hội:
+ Con người chỉ có thể tồn tại và phát triển trong xã hội loài người: nghĩa là
con người chỉ thể tồn tại phát triển trong tương quan giữa người với người,
trong các cộng đồng xã hội, như: gia đình, làng xóm, quốc gia dân tộc,… Nó không
thể tồn tại và phát triển nếu tách ra khỏi xã hội loài người. Trong khi con vật có thể
tồn tại mà không cần đến cộng đồng xã hội, có thể tồn tại một cách đơn độc. + Con
lOMoARcPSD| 40367505
người có các hoạt động xã hội mà hoạt động quan trọng nhất là lao động sản xuất.
Từ lao động sản xuất mà ngôn ngữ và tư duy, ý thức được hình thành: Ngôn ngữ và
tư duy, ý thức là sự thể hiện tập trung và nổi trội tính xã hội của con người. Con vật
không tư duy nhưng con người thì tư duy, ngôn ngữ. Ngôn ngvà tư duy là sự
thể hiện tập trung cho tính xã hội của con người bởi vì ngôn ngữ và tư duy chỉ được
hình thành phát triển trong xã hội, thông qua lao động giao tiếp hay ơng
quan giữa người với người. Chính vì thế, ngôn ngữ, tư duy chính là minh chứng sâu
sắc cho tính xã hội của con người.
b. Con người khác biệt với con vật ngay từ khi con người bắt đầu sản xuất
ra những tư liệu sinh hoạt của mình
+ Để phân biệt giữa con người con vật thbằng nhiều hoạt động khác
nhau: tôn giáo, ý thức, nghệ thuật,… Nhưng hoạt động đầu tiên làm cho con người
tách ra khỏi đời sống động vật chính hoạt động lao động sản xuất hay là hoạt động
sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình. Nếu con vật chỉ sử dụng những thứ
sẵn trong tự nhiên thì con người không chỉ biết khai thác những thứ có sẵn trong tự
nhiên còn biết lao động sản xuất tạo ra của cái vật chất phục vụ đời sống của
mình. Đây chính hoạt động mang tính bản chất, đặc trưng của con người của
con người, làm cho con người khác biệt rất xa với con vật. Mác viết: con vật chỉ tái
sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên” [C.
Mác và Ăngghen toàn tập, tập 3, tr. 10].
+ Chính lao động sản xuất đã cải tạo bản năng sinh học của con người làm cho
con người trở thành người theo đúng nghĩa. Lao động đã làm hoàn thiện thân xác
của con người, khiến cho nó dáng đi thẳng, hoàn thiện các giác quan và phát triển
não bộ. Chính lao động đã phát triển duy, ý thức, ngôn ngữ, chữ viết; chính lao
động giúp con người xây dựng nền văn minh vật chất tinh thần giới tự nhiên
lOMoARcPSD| 40367505
thứ hai, phần không sẵn. Điều này Ăngghen đã làm điều này trong tác phẩm
Tác dụng của lao động trong quá trình chuyển biến từ vượn thành người.
c. Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân mình
+ Triết học Mác khẳng định, con người vừa là sản phẩm của sự phát triển lâu
dài của giới tự nhiên, vừa là sản phẩm của lịch shội vừa sản phẩm của
chính bản thân mình.
+ Một mặt, sự hình thành nhân cách con người vừa bị quy định bởi điều kiện
tự nhiên, hoàn cảnh lịch s- hội; mặt khác bản chất, nhân cách của con người còn
sản phẩm do chính tạo ra. Con người không thụ động để hoàn cảnh nhào nặn
mình mà nó còn chủ động để sáng tạo ra chính nó. Một phần là hoàn cảnh nhào nặn
nên chúng ta phần còn lại chính chúng ta nhào nặn nên chính mình. d/ Con
người vừa là chủ thể của lịch sử, cũng là sản phẩm của lịch sử
+ Con vật không sáng tạo ra lịch sử: Con người và con vật đều có lịch sử của
mình, nhưng lịch sử của động vật quá trình phát triển dần dần của chúng cho tới
trạng thái hiện nay. Lịch sử ấy không phải do chúng làm ra mà chúng tham dự vào,
nhưng ngay cả khi chúng tham dự vào thì chúng cũng không ý thức được điều ấy.
Và như vậy, con vật không phải là chủ thể của quá trình lịch sử của chúng.
+ Con người sáng tạo ra lịch sử: Con người có lịch sử của mình và con người
chính chủ thể của quá trình lịch sử đó. Vậy con người đã sáng tạo ra lịch sử như
thế nào?
Hoạt động lịch sử đầu tiên khiến con người tách ra khỏi đời sống con vật chính
hoạt động chế tạo ra công cụ sản xuất. Chính thời điểm đó con người bắt đầu sáng
tạo ra lịch sử của mình.
lOMoARcPSD| 40367505
Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã tạo ra toàn bnền văn
minh vật chất để phục vụ nhu cầu của mình. Từ trên sở hoạt động sản xuất vật
chất, con người đã sáng tạo ra toàn bộ đời sống tinh thần: chính trị, pháp luật, đạo
đức, tôn giáo, nghệ thuật, khoa học, triết học,... Cũng thông qua hoạt động sản xuất,
con người đã làm cho lịch sử vận động phát triển từ trình độ này sang trình độ
khác, từ thấp lên cao.
* con người là sản phẩm của lịch sử
+ Không thể có con người trừu tượng, thoát ly khỏi mọi điều kiện, hoàn cảnh
lịch sử sự hình thành và phát triển con người luôn chịu sự quy định của điều kiện
tự nhiên, hoàn cảnh xã hội và thời đại mà nó đang sống.
+ Shình thành phát triển con người bị quy định bởi giới tự nhiên: con
người là một thực thể sinh học, là một bộ phận của giới tự nhiên. Để tồn tại và phát
triển, con người để tồn tại phải tuân theo các quy luật của giới tnhiên, phải biến
đổi mình để thích nghi, thích ứng, hòa nhịp với giới tự nhiên.
+ Shình thành phát triển con người còn bị quy định bởi môi trường
hội: Con người không chỉ bị quy định bởi môi trường tự nhiên mà còn bị quy định
bởi môi trường xã hội. So với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội có ảnh hưởng
trực tiếp và quyết định đến con người hơn. Chính môi trường xã hội ấy đã nhào nặn
nên con người, ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đến sự hình thành phát triển
bản chất con người.
Sự hình thành bản chất con người chịu sự quy định bởi điều kiện, hoàn cảnh
lịch sử xã hội như: gia đình, nhà trường, giai cấp, dân tộc, thời đại, truyền thống đạo
đức, văn hóa,… mà nó đang sống. Bởi vậy, con người trong xã hội chiếm hữu nô lệ
khác với con người trong, con người trong xã hội phong kiến khác với con người
lOMoARcPSD| 40367505
trong hội tư bản, khác với con người hiện nay. Con người sống thành thị khác
với nông thôn. Ở phương Đông khác với phương Tây là vậy.
đ/ Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các mối
quan hệ xã hội:
Trong luận cương về Phoiơbắc, Mác viết: Bản chất con người không phải
cái trừu tượng cố hữu của nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản
chất con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội” [M-A, tập, tr. 11].
+ Con người hiện thực: Trước Mác, người ta cũng nhận thức vcon người
nhưng con người nhân, trừu tượng: con người thoát ra khỏi mọi điều kiện tự
nhiên, điều kiện hội. Trong khi đó, triết học Mác - Lênin, không xem xét con người
với cách những nhân trừu tượng xem xét con người với cách con
người cụ thể, đang sống trong một thời đại nhất định, trong điều kiện lịch sử nhất
định.
+ Con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội: Khi con người tồn tại, nó
tham gia vào rất nhiều những mối quan hệ xã hội: vật chất, tinh thần, gia đình, giai
cấp, dân tộc, chính trị, pháp luật, tôn giáo, khoa học,… Thông qua những mối quan
hệ ấy, bản chất con người được hình thành và phát triển; cũng thông qua những mối
quan hệ ấy mà bản chất con người sẽ được bộc lộ ra.
Liên hệ với việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa?
+ Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vì thế vấn đề xây
dựng phát huy nhân tố con một trong những nhiệm vụ trọng tâm đối với sự
nghiệp cách mạng của nước ta. Trong Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam
(1991) khẳng định: con người giữ vị trí trung tâm trong sự nghiệp cách mạng.
“Nguồn lực lớn nhất, quý báu nhất của chúng ta là tiềm lực con người Việt Nam”.
Vấn đề này vẫn tiếp tục được khẳng định thông qua các kỳ Đại hội gần đây.
lOMoARcPSD| 40367505
+ Để phát huy nhân tố con người trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam cần phải thực hiện đồng bộ các vấn đề sau:
1/ Trên lĩnh vực kinh tế: Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường thành tựu phát triển của nền văn
minh nhân loại, không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà tồn tại khách quan trong quá
trình xây dựng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế này phải đảm bảo được sự tăng trưởng
kinh tế với sự tăng lên của GDP bình quân đầu người hàng năm, từ đó nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho con người.
2/ Trên lĩnh vực giáo dục: Nâng cao hiệu quả giáo dục, phát triển nguồn nhân
lực. Nhiệm vụ của giáo dục là “giáo dục cái đất nước cần chứ không giáo dục i
mà ta có”. Mục tiêu của giáo dục phải hướng tới phát triển con người toàn diện: đức
- trí - thể - mỹ. Cần tăng cường giáo dục đạo đức, giáo dục pháp luật, lý tưởng sống
trong nhân dân, đặc biệt là tầng lớp thanh niên. [tri thức khoa học].
3/ Trên lĩnh vực văn hóa nghệ thuật: Văn hóa nghthuật sự sáng tạo theo
yêu cầu của cái đẹp, là động lực thúc đẩy con người vươn tới sự hoàn thiện toàn mĩ.
Văn hóa nghệ thuật góp phần xây dựng tình cảm tốt đẹp, tác động tới nếp nghĩ, lối
sống, phong cách làm việc của con người. Việc xây dựng một nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc sẽ tác dụng tích cực góp phần xây dựng con người Việt
Nam phát triển toàn diện trong thời đại toàn cầu hóa.
| 1/6

Preview text:

lOMoAR cPSD| 40367505
Chủ đề: Bản chất con người theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
a. Con người là thực thể sinh học và xã hội:
* Mặt sinh học:
+ Để nói về con người với tư cách là một thực thể sinh học, Mác - Lênin khẳng
định: “Điều cụ thể đầu tiên cần phải xác định là tổ chức cơ thể của những cá nhân
ấy và mối quan hệ mà tổ chức cơ thể ấy tạo ra giữa họ và phần còn lại của giới tự
nhiên” [C. Mác và Ph. Ăng ghen toàn tập, sdd, tập 3, tr. 11].
+ Con người là một thực thể sinh học, là sản phẩm của quá trình phát triển,
tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên. Với tư cách là một thực thể sinh học, con người
cũng như các động vật khác có nhu cầu tự nhiên: ăn, uống, hít thở, tính dục, sinh con
đẻ cái,… Những nhu cầu này đích thực là nhu cầu của sinh vật mà tất cả những loài
động vật khác đều có. + Với tư cách là một thực thể sinh học, con người phải phục
tùng những quy luật của giới tự nhiên như: sinh - lão - bệnh - tử, di truyền và biến
dị, trao đổi qua lại giữa cơ thể với môi trường, đồng hóa và dị hóa,…
+ Giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người: Để tồn tại và phát triển, con
người không thể tách mình ra khỏi tự nhiên được mà phải dựa vào tự nhiên để sinh
tồn (tự nhiên là môi trường sinh tồn của con người). Con người cần ánh sáng mặt
trời, cần không khí để thở, cần tìm kiếm thức ăn, cải tạo tự nhiên để tạo ra sản phẩm
phục vụ nhu cầu đa dạng của nó: thực phẩm, quần áo, nhà ở,... Nói cách khác giới
tự nhiên chính là thân thể vô cơ của con người.
* Mặt xã hội:
+ Con người chỉ có thể tồn tại và phát triển trong xã hội loài người: nghĩa là
con người chỉ có thể tồn tại và phát triển trong tương quan giữa người với người,
trong các cộng đồng xã hội, như: gia đình, làng xóm, quốc gia dân tộc,… Nó không
thể tồn tại và phát triển nếu tách ra khỏi xã hội loài người. Trong khi con vật có thể
tồn tại mà không cần đến cộng đồng xã hội, có thể tồn tại một cách đơn độc. + Con lOMoAR cPSD| 40367505
người có các hoạt động xã hội mà hoạt động quan trọng nhất là lao động sản xuất.
Từ lao động sản xuất mà ngôn ngữ và tư duy, ý thức được hình thành: Ngôn ngữ và
tư duy, ý thức là sự thể hiện tập trung và nổi trội tính xã hội của con người. Con vật
không có tư duy nhưng con người thì có tư duy, ngôn ngữ. Ngôn ngữ và tư duy là sự
thể hiện tập trung cho tính xã hội của con người bởi vì ngôn ngữ và tư duy chỉ được
hình thành và phát triển trong xã hội, thông qua lao động và giao tiếp hay là tương
quan giữa người với người. Chính vì thế, ngôn ngữ, tư duy chính là minh chứng sâu
sắc cho tính xã hội của con người.
b. Con người khác biệt với con vật ngay từ khi con người bắt đầu sản xuất
ra những tư liệu sinh hoạt của mình
+ Để phân biệt giữa con người và con vật có thể bằng nhiều hoạt động khác
nhau: tôn giáo, ý thức, nghệ thuật,… Nhưng hoạt động đầu tiên làm cho con người
tách ra khỏi đời sống động vật chính là hoạt động lao động sản xuất hay là hoạt động
sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình. Nếu con vật chỉ sử dụng những thứ có
sẵn trong tự nhiên thì con người không chỉ biết khai thác những thứ có sẵn trong tự
nhiên mà còn biết lao động sản xuất tạo ra của cái vật chất phục vụ đời sống của
mình. Đây chính là hoạt động mang tính bản chất, đặc trưng của con người của
con người, làm cho con người khác biệt rất xa với con vật. Mác viết: “con vật chỉ tái
sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên” [C.
Mác và Ăngghen toàn tập, tập 3, tr. 10].
+ Chính lao động sản xuất đã cải tạo bản năng sinh học của con người làm cho
con người trở thành người theo đúng nghĩa. Lao động đã làm hoàn thiện thân xác
của con người, khiến cho nó có dáng đi thẳng, hoàn thiện các giác quan và phát triển
não bộ. Chính lao động đã phát triển tư duy, ý thức, ngôn ngữ, chữ viết; chính lao
động giúp con người xây dựng nền văn minh vật chất và tinh thần giới tự nhiên lOMoAR cPSD| 40367505
thứ hai, phần không có sẵn. Điều này Ăngghen đã làm rõ điều này trong tác phẩm
Tác dụng của lao động trong quá trình chuyển biến từ vượn thành người.
c. Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân mình
+ Triết học Mác khẳng định, con người vừa là sản phẩm của sự phát triển lâu
dài của giới tự nhiên, vừa là sản phẩm của lịch sử xã hội và vừa là sản phẩm của chính bản thân mình.
+ Một mặt, sự hình thành nhân cách con người vừa bị quy định bởi điều kiện
tự nhiên, hoàn cảnh lịch sử - xã hội; mặt khác bản chất, nhân cách của con người còn
là sản phẩm do chính nó tạo ra. Con người không thụ động để hoàn cảnh nhào nặn
mình mà nó còn chủ động để sáng tạo ra chính nó. Một phần là hoàn cảnh nhào nặn
nên chúng ta và phần còn lại là chính chúng ta nhào nặn nên chính mình. d/ Con
người vừa là chủ thể của lịch sử, cũng là sản phẩm của lịch sử
+ Con vật không sáng tạo ra lịch sử: Con người và con vật đều có lịch sử của
mình, nhưng lịch sử của động vật là quá trình phát triển dần dần của chúng cho tới
trạng thái hiện nay. Lịch sử ấy không phải do chúng làm ra mà chúng tham dự vào,
nhưng ngay cả khi chúng tham dự vào thì chúng cũng không ý thức được điều ấy.
Và như vậy, con vật không phải là chủ thể của quá trình lịch sử của chúng.
+ Con người sáng tạo ra lịch sử: Con người có lịch sử của mình và con người
chính là chủ thể của quá trình lịch sử đó. Vậy con người đã sáng tạo ra lịch sử như thế nào?
Hoạt động lịch sử đầu tiên khiến con người tách ra khỏi đời sống con vật chính
là hoạt động chế tạo ra công cụ sản xuất. Chính thời điểm đó con người bắt đầu sáng
tạo ra lịch sử của mình. lOMoAR cPSD| 40367505
Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã tạo ra toàn bộ nền văn
minh vật chất để phục vụ nhu cầu của mình. Từ trên cơ sở hoạt động sản xuất vật
chất, con người đã sáng tạo ra toàn bộ đời sống tinh thần: chính trị, pháp luật, đạo
đức, tôn giáo, nghệ thuật, khoa học, triết học,... Cũng thông qua hoạt động sản xuất,
con người đã làm cho lịch sử vận động và phát triển từ trình độ này sang trình độ khác, từ thấp lên cao.
* con người là sản phẩm của lịch sử
+ Không thể có con người trừu tượng, thoát ly khỏi mọi điều kiện, hoàn cảnh
lịch sử mà sự hình thành và phát triển con người luôn chịu sự quy định của điều kiện
tự nhiên, hoàn cảnh xã hội và thời đại mà nó đang sống.
+ Sự hình thành và phát triển con người bị quy định bởi giới tự nhiên: con
người là một thực thể sinh học, là một bộ phận của giới tự nhiên. Để tồn tại và phát
triển, con người để tồn tại phải tuân theo các quy luật của giới tự nhiên, phải biến
đổi mình để thích nghi, thích ứng, hòa nhịp với giới tự nhiên.
+ Sự hình thành và phát triển con người còn bị quy định bởi môi trường xã
hội: Con người không chỉ bị quy định bởi môi trường tự nhiên mà còn bị quy định
bởi môi trường xã hội. So với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội có ảnh hưởng
trực tiếp và quyết định đến con người hơn. Chính môi trường xã hội ấy đã nhào nặn
nên con người, ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đến sự hình thành và phát triển bản chất con người.
Sự hình thành bản chất con người chịu sự quy định bởi điều kiện, hoàn cảnh
lịch sử xã hội như: gia đình, nhà trường, giai cấp, dân tộc, thời đại, truyền thống đạo
đức, văn hóa,… mà nó đang sống. Bởi vậy, con người trong xã hội chiếm hữu nô lệ
khác với con người trong, con người trong xã hội phong kiến khác với con người lOMoAR cPSD| 40367505
trong xã hội tư bản, khác với con người hiện nay. Con người sống ở thành thị khác
với nông thôn. Ở phương Đông khác với phương Tây là vậy.
đ/ Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các mối
quan hệ xã hội:
Trong luận cương về Phoiơbắc, Mác viết: Bản chất con người không phải là
cái gì trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản
chất con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội” [M-A, tập, tr. 11].
+ Con người hiện thực: Trước Mác, người ta cũng nhận thức về con người
nhưng là con người cá nhân, trừu tượng: con người thoát ra khỏi mọi điều kiện tự
nhiên, điều kiện xã hội. Trong khi đó, triết học Mác - Lênin, không xem xét con người
với tư cách những cá nhân trừu tượng mà xem xét con người với tư cách là con
người cụ thể, đang sống trong một thời đại nhất định, trong điều kiện lịch sử nhất định.
+ Con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội: Khi con người tồn tại, nó
tham gia vào rất nhiều những mối quan hệ xã hội: vật chất, tinh thần, gia đình, giai
cấp, dân tộc, chính trị, pháp luật, tôn giáo, khoa học,… Thông qua những mối quan
hệ ấy, bản chất con người được hình thành và phát triển; cũng thông qua những mối
quan hệ ấy mà bản chất con người sẽ được bộc lộ ra.
Liên hệ với việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa?
+ Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vì thế vấn đề xây
dựng và phát huy nhân tố con là một trong những nhiệm vụ trọng tâm đối với sự
nghiệp cách mạng của nước ta. Trong Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam
(1991) khẳng định: con người giữ vị trí trung tâm trong sự nghiệp cách mạng.
“Nguồn lực lớn nhất, quý báu nhất của chúng ta là tiềm lực con người Việt Nam”.
Vấn đề này vẫn tiếp tục được khẳng định thông qua các kỳ Đại hội gần đây. lOMoAR cPSD| 40367505
+ Để phát huy nhân tố con người trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam cần phải thực hiện đồng bộ các vấn đề sau:
1/ Trên lĩnh vực kinh tế: Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường là thành tựu phát triển của nền văn
minh nhân loại, không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà tồn tại khách quan trong quá
trình xây dựng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế này phải đảm bảo được sự tăng trưởng
kinh tế với sự tăng lên của GDP bình quân đầu người hàng năm, từ đó nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho con người.
2/ Trên lĩnh vực giáo dục: Nâng cao hiệu quả giáo dục, phát triển nguồn nhân
lực. Nhiệm vụ của giáo dục là “giáo dục cái mà đất nước cần chứ không giáo dục cái
mà ta có”. Mục tiêu của giáo dục phải hướng tới phát triển con người toàn diện: đức
- trí - thể - mỹ. Cần tăng cường giáo dục đạo đức, giáo dục pháp luật, lý tưởng sống
trong nhân dân, đặc biệt là tầng lớp thanh niên. [tri thức khoa học].
3/ Trên lĩnh vực văn hóa nghệ thuật: Văn hóa nghệ thuật là sự sáng tạo theo
yêu cầu của cái đẹp, là động lực thúc đẩy con người vươn tới sự hoàn thiện toàn mĩ.
Văn hóa nghệ thuật góp phần xây dựng tình cảm tốt đẹp, tác động tới nếp nghĩ, lối
sống, phong cách làm việc của con người. Việc xây dựng một nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc sẽ có tác dụng tích cực góp phần xây dựng con người Việt
Nam phát triển toàn diện trong thời đại toàn cầu hóa.