Vận dụng quy luật Lượng Chất - Triết học mác lênin | Trường đại học Lao động - Xã hội

Vận dụng quy luật Lượng Chất - Triết học mác lênin | Trường đại học Lao động - Xã hội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Vận dụng quy luật Lượng – Chất để phân tích một
vấn đề của bản thân hoặc xã hội hiện nay
I. Những vấn đề lý luận của quy luật
1. Khái niệm về chất
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng bao gồm mặt chất và mặt lượng. Hai mặt đó thống nhất hữu
cơ với nhau trong sự vật, hiện tượng. Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách
quan vốn có của sự vật, hiện tượng. Là sự thống nhất hữu cơ những thuộc tính cấu thành nó,
phân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác.
Ví dụ: Nguyên tố đồng có nguyên tử lượng là 63,54 đvC, nhiệt độ nóng chảy là 1083đvC, nhiệt
độ sôi là 2880đvC…những thuộc tính này đã nói lên những chất riêng của đồng để phân biệt nó
với các kim loại khác.
2. Đặc điểm của chất:
- Chất mang tính khách quan: chất là cái vốn có, nằm bên trong sự vật hiện tượng không phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Chẳng hạn nước biển mặn tồn tại ở bên trong chứ
không phải do một lực lượng siêu nhiên, ý muốn chủ quan của con người mà có thể áp đặt được
nó.
- Chất là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, các yếu tố của sự vật.Thuộc tính là những tính
chất của sự vật, là cái vốn có của sự vật. Những thuộc tính của sự vật chỉ được bộc lộ ra bên
ngoài qua sự tác động qua lại của sự vật mang thuộc tính đó với các sự vật khác. Mỗi sự vật, hiện
tượng đều có thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Chỉ những thuộc tính cơ bản mới hợp thành
chất của sự vật, hiện tượng. Phụ thuộc vào những mối quan hệ cụ thể mà thuộc tính cơ bản và
không cơ bản mới được phân biệt rõ ràng. Chẳng hạn, trong mối quan hệ với động vật thì thuộc
tính cơ bản của con người là các thuộc tính có khả năng chế tạo, sử dụng công cụ, có tư duy còn
các thuộc tính không là thuộc tính cơ bản. Xong trong quan hệ giữa con người với con người thì
những thuộc tính như nhận dạng về dấu vân tay lại trở thành thuộc tính cơ bản.Mỗi sự vật hiện
tượng đều có quá trình tồn tại và phát triển qua nhiều giai đoạn trong mỗi giai đoạn ấy nó lại có
chất riêng. Như vậy mỗi sự vật hiện tượng không phải chỉ có một chất mà rất có thể có nhiều
chất. Ví dụ: những mức độ trưởng thành của cá nhân một con người từ ấu thơ -> mầm non -> nhi
đồng -> thiếu niên -> thanh niên…mỗi giai đoạn đó là một chất.
-Chất thể hiện tính ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng: khi nó chưa chuyển hóa thành sự
vật, hiện tượng khác thì chất của nó vẫn chưa thay đổi. Chẳng hạn như, trạng thái của nước rắn,
lỏng, khí( chất), sự thay đổi về lượng của nhiệt độ từ 40-50đvC chưa làm cho trạng thái lỏng của
nước thay đổi.
3. Khái niệm về lượng:
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy
mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật.
Biểu hiện của lượng: Lượng biểu hiện ở số lượng các thuộc tính, ở tổng số các bộ phận, ở đại
lượng tốc độ và nhịp điệu vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.Bên cạnh đó lượng còn
biểu hiện ở kích thước dài hay ngắn, số lượng lớn hay nhỏ, tổng số ít hay nhiều, trình độ cao hay
thấp, tốc độ vận động nhanh hay chậm, màu sắc đậm hay nhạt. Ví dụ như đối với phân tử Carbon
dioxide (CO2). Lượng là số nguyên tử tạo thành nó, tức hai nguyên tử cacbon (C) và một nguyên
tử oxi (O)
4. Đặc điểm của lượng
-Lượng mang tính khách quan vì lượng là một dạng biểu hiện của vật chất, chiếm một vị trí nhất
định trong không gian và tồn tại trong thời gian nhất định.Trong sự vật hiện tượng có nhiều loại
lượng khác nhau như: có lượng là yếu tố quyết định bên trong, có lượng chỉ thể hiện yếu tố bên
ngoài của sự vật, hiện tượng; sự vật hiện tượng càng phức tạp thì lượng của chúng cũng phức tạp
theo.
- Lượng có thể được xác định bằng các đơn vị đo lường cụ thể hoặc có thể nhận thức bằng con
đường trừu tượng và khái quát hóa. Trên thực tế lượng của sự vật thường được xác định bởi
những đơn vị đo lượng cụ thể như vận tốc của ánh sáng hay một phân tử bao gồm những nguyên
tử nào. Bên cạnh đó có những lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát như
trình độ nhận thức của một người, ý thức trách nhiệm cao hay thấp của một công dân,..
- Lượng thường xuyên biến đổi: Bản thân lượng không nói lên sự vật đó (số lượng nguyên tử
hợp thành nguyên tố hoá học, số lượng lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội hoặc chiều dài, chiều
rộng, chiều cao của sự vật) là gì, các thông số về lượng không ổn định mà thường xuyên biến đổi
cùng với sự vận động biến đổi của sự vật , đó là mặt không ổn định của sự vật.
Như vậy, chất và lượng là hai phương diện khác nhau của cùng một sự vật, hiện
tượng hay một qua trình nào đó trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Hai phương diện đó
điều tồn tại khách quan. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất và lượng của sự vật, hiện
tượng chỉmang tính tương đối. Có những tính quy định trong mối quan hệ này là chất
nhưng trong mối quan hệ khác lại là lượng.
5. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng:
Sự thống nhất giữa chất và lượng : Bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa
mặt chất và mặt lượng, chúng tác động qua lại lẫn nhau, chúng tồn tại trong tính quy định lẫn
nhau: tương ứng với một loại lượng nhất định thì cũng có một loại chất tương ứng và ngược
lại.Ví dụ như tương ứng với cấu tạo H - 0 - H (cấu tạo liên kết nguyên tử hyđrô và 1 nguyên tử
ôxy) thì 1 phân tử nước (H20) được hình thành với tập hợp các tính chất cơ bản, khách quan, vốn
có của nó là: không màu, không mùi, không vị, có thể hoà tan muối, axít,…“Chất” và “lượng”
luôn thống nhất hữu cơ với nhau, không tách rời nhau, tác động lẫn nhau một cách biện chứng.
Khi sự vật đang tồn tại, sự thống nhất giữa chất và lượng luôn ở trong một độ nhất định. Bất cứ
sự thay đổi nào về lượng cũng sẽ dẫn tới sự thay đổi nhất định về “chất” của sự vật, hiện tượng.
Sự thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất: Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có chất
và lượng. Khi sự vật vận động và phát triển, chất và lượng của nó cũng vận động, biến đổi, thay
đổi. Sự thay đổi của lượng và của chất không diễn ra độc lập với nhau mà chúng có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Khi lượng của sự vật, hiện tượng được tích lũy vượt quá giới hạn nhất định,
thì chất cũ sẽ mất đi, chất mới thay thế chất cũ. Không giới hạn đó gọi là độ. Độ là phạm trù triết
học dùng để chỉ khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn
bản chất của sự vật ấy. Có nghĩa là độ chỉ tính quy định, mối liện hệ thống nhất giữa chất và
lượng, độ là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản chất
của sự vật, hiện tượng. Ví dụ khi ta nung một thỏi thép ở trong lò, nhiệt độ của lò nung có thể lên
tới hàng nghìn độ song thỏi thép vẫn ở trạng thái rắn chứ chưa chuyển sang trạng thái lỏng. Khi
lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến những sự thay đổi về chất. Giới hạn
đó chính là điểm nút. Theo triết học Mác-Lênin, điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ điểm
giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật. Chúng ta có thể
hiểu, điểm nút là thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật.
Sự vật tích lũy đủ về lượng tại điểm nút sẽ làm cho chất mới của nó ra đời. Lượng mới và chất
mới của sự vật thống nhất với nhau tạo nên độ mới và điểm nút mới của sự vật đó, quá trình này
diễn ra liên tếp trong sự vật và vì vậy sự vật luôn phát triển chừng nào nó còn tồn tại. Sự vật tích
luỹ đủ về lượng tại điểm nút sẽ tạo ra bước nhảy, chất mới ra đời. Bước nhảy là phạm trù triết
học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó
gây nên. Sự giới hạn về lượng khi đạt tới điểm nút, với những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn
đến sự ra đời của chất mới. Đây chính là bước nhảy trong quá trình vận động, phát triển của sự
vật, hiện tượng. Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển và là điểm khởi đầu
cho một giai đoạn mới. Có thể nói, trong quá trình phát triển của sự vật, sự gián đoạn là tiền đề
cho sự liên tục và sự liên tục là sự kế tiếp của hàng loạt sự gián đoạn. Để hiểu rõ hơn về cái khái
niệm ta cùng xét một ví dụ: Xét “nước” nguyên chất, trong điều kiện atmotphe ở trạng thái th
lỏng (chất) được quy định bởi lượng nhiệt độ (lượng) từ 0°C đến 100°C (độ). Khi lượng nhiệt độ
biến thiên nằm ngoài khoảng giới hạn 0°C hoặc 100°C đó (điểm nút) thì tất yếu xảy ra quá trình
biến đổi trạng thái của nước từ trạng thái lỏng sang trạng thái rắn hoặc khí (bước nhảy). Như
vậy sự phát triển của bất cứ của sự vật nào cũng bắt đầu từ sự tích luỹ về lượng trong độ nhất
định cho tới điểm nút để thực hiện bước nhảy về chất. Song điểm nút của quá trình ấy không cố
định mà có thể có những thay đổi do tác động của những điều kiện khách quan và chủ quan quy
định.
Các hình thức cơ bản của bước nhảy:
+ Căn cứ vào thời gian thực hiện bước nhảy của bản thân sự vật có thể chia thành bước nhẩy đột
biến và bước nhảy dần dần:
Bước nhảy đột biến: là bước nhảy được thực hiện trong một thời gian rất ngắn làm thay đổi chất
của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật. Ví dụ như khối lượng Uranium 235(Ur 235) được tăng
đến khối lượng tới hạn thì sẽ xảy ra vụ nổ nguyên tử trong chốc lát. Bước nhảy dần dần là bước
nhảy được thực hiện từ từ, từng bước bằng cách tích luỹ dần dần những nhân tố của chất mới và
những nhân tố của chất cũ dần dần mất đi.
Ví dụ quá trình cách mạng đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là một thời kỳ lâu dài qua nhiều bước nhảy dần dần.Vì là một quá trình phức tạp, trong đó có
cả sự tuần tự lẫn những bước nhảy diễn ra ở từng bộ phận của sự vật ấy.
+ Căn cứ vào quy mô thực hiện bước nhảy của sự vật có bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục
bộ: Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt, các yếu tố cấu thành
sự vật. Bước nhảy cục bộ: là bước nhảy làm thay đổi chất của từng mặt, những yếu tố riêng lẻ
của sự vật.
Ví dụ như trong hiện thực, các sự vật có thuộc tính đa dạng, phong phú nên muốn thực hiện bước
nhảy toàn bộ phải thông qua những bước nhảy cục bộ. Sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
đang diễn ra từng bước nhảy cục bộ để thực hiện bước nhảy toàn bộ, tức là chúng ta đang thực
hiện những bước nhảy cục bộ ở lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực chính trị, lĩnh vực xã hội và lĩnh vực
tinh thần xã hội để đi đến bước nhảy toàn bộ - xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất
nước ta.
Chất mới ra đời tác động trở lại lượng của sự vật:
Khi chất mới ra đời, nó không tồn tại một cách thụ động mà có sự tác động trở lại đối với lượng,
được biểu hiện ở chỗ: chất mới sẽ tạo ra một lượng mới phù hợp với nó để có sự thống nhất mới
giữa chất và lượng. Sự tác động ấy thể hiện: chất mới có thể làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình
độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Chẳng hạn như, khi học sinh
vượt qua điểm nút là kỳ thi tốt nghiệp THPT, tức là thực hiện bước nhảy để trở thành sinh viên.
Trình độ văn hoá của học sinh đã cao hơn trước và sẽ tạo điều kiện cho họ thay đổi kết cấu, quy
mô, trình độ tri thức, giúp họ tiến lên trình độ cao hơn.
Như vậy, không chỉ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất mà những thay đổi
về chất cũng đã dẫn đến những thay đổi về lượng. Từ những sự phân tích ở trên có thể rút ra kết
luận: Bất kỳ sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi dần dần về lượng
vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua bước nhảy;
chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của lượng.Quá trình tác động đó diễn ra liên tục
làm cho sự vật không ngừng phát triển.
6. Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có phương diện chất và lượng tồn tại trong tính quy định
lẫn nhau, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau do đó trong thức tiễn và nhận thức phải coi trọng
cả hai phương diện chất và lượng.
+ Những sự thay đổi về lượng sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất trong điều kiện nhất định và ngược
lại do đó cần coi trọng quá trình tích lũy về lượng để làm thay đổi chất của sự vật đồng thời phát
huy tác động của chất mới để thúc đẩy sự thay đổi về lượng của sự vật.
+ Sự thay đổi về lượng chỉ làm thay đổi chất khi lượng được tích lũy đến giới hạn điểm nút do
đó trong thực tiễn cần khắc phục bệnh nôn nóng tả khuynh, bảo thủ trì trệ.
+ Bước nhảy của sự vật, hiện tượng là hết sức đa dạng, phong phú do vậy cần vận dụng linh hoạt
các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với điều kiện cụ thể. Đặc biệt trong đời sống xã hội,
quá trình phát triển không chỉ phụ thuộc vào điều kiện khách quan, mà còn phụ thuộc vào nhân
tố chủ quan của con người. Do đó, cần phải nâng cao tính tích cực chủ động của các chủ thể để
thúc đẩy quá trình chuyển hóa từ lượng đến chất một cách hiệu quả nhất.
II. Vận dụng quy luật thực tiễn vào quá trình học tập của sinh viên:
Quá trình học tập của mỗi học sinh là một quá trình dài, khó khăn và cần sự cố gắng không biết
mệt mỏi, không ngừng nghỉ của bản thân mỗi học sinh. Quy luật chuyển hóa từ sự thay đổi về
lượng dẫn đến sự thay đổi về chất thể hiện ở chỗ: mỗi học sinh tích lũy lượng (kiến thức) cho
mình bằng việc nghe các thầy cô giảng trên lớp, làm bài tập ở nhà, đọc thêm sách tham khảo,…
thành quả của quá trình tích lũy đó được đánh giá qua những bài kiểm tra, những bài thi học kỳ
và kỳ thi tốt nghiệp. Khi đã tích lũy đủ lượng tri thức cần thiết, học sinh sẽ được chuyển sang
một cấp học mới cao hơn.
1. Biểu hiện của quy luật chất lượng trong học tập:
- Sự tích lũy kiến thức:
+ Về lượng : Sinh viên cần tích lũy kiến thức qua từng bài giảng , học tập
+ Về chất: Kiến thức cần được hệ thống hóa, logic, có khả năng áp dụng thực tế.
- Sự phát triển tư duy:
+ Từ tư duy cảm tính đến tư duy lý tính.
+ Từ tư duy đơn giản đến tư duy phức tạp, sáng tạo.
- Sự hình thành kỹ năng:
+ Kỹ năng học tập, nghiên cứu.
+ Kỹ năng giải quyết vấn đề, tư duy phản biện.
+ Kỹ năng giao tiếp, thuyết trình.
2. Áp dụng quy luật chất lượng vào học tập:
- Có kế hoạch học tập cụ thể, khoa học:
+ Xác định mục tiêu rõ ràng.
+ Sắp xếp thời gian hợp lý.
+ Lựa chọn phương pháp học tập phù hợp.
- Chú trọng tích lũy kiến thức và phát triển tư duy:
+ Tham gia đầy đủ các tiết học, ghi chép cẩn thận.
+ Đọc sách, tài liệu tham khảo.
+ Suy nghĩ, phân tích, đánh giá thông tin.
- Rèn luyện kỹ năng:
+ Tham gia các hoạt động học tập nhóm, thảo luận.
+ Tự làm bài tập, giải quyết vấn đề.
+ Tham gia các khóa học kỹ năng mềm.
3. Một số lưu ý:
Học tập là một quá trình lâu dài, cần sự kiên trì, nỗ lực.
Cần học tập một cách chủ động, sáng tạo.
Kết hợp học tập với rèn luyện đạo đức, lối sống.
Vận dụng quy luật chất lượng vào học tập giúp sinh viên nâng cao hiệu quả học tập, phát triển
toàn diện và đạt được thành công.
Cụ thể
Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng dẫn tới sự thay đổi về chất
Sự thay đổi về lượng sẽ dẫn tới sự thay đổi về chất và ngược lại sự phát triển về chất sẽ
kéo theo sự thay đổi về lượng . Trong học tập , qua các kì thi ( điểm nút ) sinh viên sẽ biết
được khả năng , kết quả mà mình đã đạt được ( bước nhảy ) để có thể tiến tới các bước tiếp
theo . Các kì thi của một môn học ( bước nhảy cục bộ ) sẽ làm cho sinh viên đạt kết quả cao
cho cả học kì , cả năm học ( bước nhảy toàn bộ ). Vậy nên có thể nói mọi vật đều là sự thống
nhất giữa lượng và chất , sự thay đổi dần dần của lượng tới điểm nút sẽ dẫn tới sự thay đổi về
chất của sự vật thông qua bước nhảy , chất mới được tạora lại tác động vào sự thay đổi sinh ra
lượng mới có chất cao hơn . Quá trình đó diễn ra lien tục và không ngừng thay đổi
+ ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người ; vì
vậy ta cần phải tôn trọng hiện thực khách quan , đồng thời phát huy tính năng động chủ quan
của bản thân. Tôn trọng khách quan là tôn trọng tính khách quan của vật chất , của các quy
gian để xem xét một cách thận trọng và nghiêm túc ngay từ những năm đầu của khóa học.
Sự khác nhau cơ bản giữa việc học tập ở phổ thông và Đại học . Quá trình chúng ta học tập tại
phổ thông là nền móng để xây dựng trình độ học vấn cho con người , là cơ sở để thiết lập một
nền giáo dục Đại học. Bởi vậy nhà trường phổ thông và đại học có quan hệ mật thiết với nhau ,
nhưng vì mục tiêu , yêu cầu đào tạo , mỗi cấp có mức độ khác nhau , do đó nhiệm vụ học tập
của người học sinh phổ thông khác với nhiệm vụ học tập và nghiên cứu của sinh viên . Ở
trường Đại học sinh viên phải quan tâm đến các hình thức học tập : thí nghiệm , thực
nghiệm , bảo vệ đồ án , làm đề tài khoa học . . . tất cả những việc làm đó đều có nhữngyêu cầu
mới và cao hơn nhiều so với cách học ở trường phổ thông . Ở đây có sự khác nhau về bản chất
chứ không chỉ là sự thay đổi về hình thức bởi vậy có thể nói sự chuyển đổi từ phổ thông
lên Đại học cũng giống như quá trình biến đổi từ lượng thành chất . Chính vì vậy mà người
sinh viên cần thay đổi nếp sống mới sao cho phù hợp hoàn cảnh hiện tại , phù hợp với các yêu
cầu của ngành giáo dục đối với Đại học. Chỉ khi nào làm được như vậy sinh viên mới hi vọng
đạt được những thành tích rực rỡ trong quá trình học tập và nghiên cứu của mình
+Ý thức học tập của sinh viên Nhiệm vụ của một người sinh viên trường Đại học là phải học
tập rèn luyện tu dưỡng phấn đấu thành những người lao động tốt , những cán bộ công nhân
viên chức góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước. Mỗi sinh viên phải tự đặt ra
cho mình những câu hỏi : “ học để làm gì?” , “ học để phục vụ ai?” . Xác địn được mục đích
học tập nghiên cứu là hiểu được mình phải phấn đấu để trở thành con người như thế nào ?
Muốn thế người sinh viên phải thường xuyên nâng cao trình độ nhận thức về tình hình , nhiệm
vụ , nắm vững yêu cầu của ngành giáo giục nhất là đối với bậc giáo dục Đại học cùng các vấn
đề khác có liên quan.
+ Ngoài ra sinh viên phải biết cách tự suy nghĩ lại và biết cách lật ngược vấn đề theo một
cách khác. Khả năng này giúp cho sinh viên biết cách cải thiện điều kiện, phương pháp pháp
và kết quả học tập của mình. Về bản chất, tư duy đại học không phải là một thứ tư duy đơn
tuyển, một chiều mà đóchính là hình thức tư duy đa tuyển , phức hợp đòi hỏi người đọc,
người dạy, người nghiên cứu phải cótính sang tạo cao, luôn biết cách lật ngược vấn đề theo
một cách khác, soi sáng vấn đề từ những khía cạnh chưa ai đề cập đến. Giải lao, giải trí một
hoạt động cũng quan trọng không kém so với học tập chính khóa. Ai không biết cách nghỉ
ngơi, giải trí thì cũng có thể xem như người đó không biết cách học hoặc là có kết quả học tập
không cao.
+ Tinh thần đoàn kết thương yêu giúp đỡ nhau trong học tập nghiên cứu. “ Bản chất con người
không phải là cái gì trừu tượng vốn có của cá nhân riêng biệt. Trong cuộc sống hàng ngày cũng
như trong học tập, sinh viên cần phải tích cực làm việc, học tập theo nhóm, tổ chức để rèn luyện
khả năng làm việc tập thể và tìm ra được những thiếu sót của mỗi người. Ngoài ra chúng ta, mỗi
người cần làm tốt công tác phê bình và tự phê bình và phải luôn có tinhthần vươn lên
- Thực trạng ý thức học tập của sinh viên:
Học tập mà không rõ mục tiêu cũng giống như ta bắn một mũi tên mà chưa xác định được đích
vậy. Đã đến lúc sinh viên cần nhìn lại chính mình để thẳng thắn thừa nhận những khuyết
điểm, để chấn chỉnh lại quá trình học tập, chính sinh viên mới có thể tự điều trị “căn bệnh”
lười của mình.
Ngày nay, đất nước đa trong thời kỳ hội nhập và đi lên, mỗi chúng ta cần nhận thấy
bản thân mình cần có trách nhiệm trong việc xây dựng và phát triển đất nước, không chỉ góp
tài mà còn góp sức, góp tài vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước giàu mạnh, sánh
vai với các cường quốc năm châu, nhưng cũng đồng thời phải hoàn thành trách nhiệm của
một người thanh niên, chủ động trong việc hoàn thành tốt mọi việc, học tập, ứng dụng tốt
những kiến thức học được vào trong cuộc sống và xã hội . Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tuy chỉ với
sức lực cá nhân chẳng thể thay đổi toàn thể cục diện, nhưng với sự đồng lồng và quyết tâm
của toàn thể thanh niên trẻ Việt Nam, nó sẽ có những tác động tích cực đến thành tựu nước
giáo dục nước nhà.
- Kết Luận
Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về
chất và ngược lại ta rút ra một số vấn đề trong học tập và rèn luyên của sinh viên : Sự vận động
và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích lũy dần dần về lượng đến 1 giới hạn
nhất định, chuyển hóa về chất và việc học tập rèn luyện của sinh viên .
Để có được tấm bằng đại học chúng ta cần phải thực hiện đầy đủ các học phần và hoàn thành tốt
các kỳ thi.Muốn được như vây chúng ta cần phải cố gắng nỗ lực trong học tập, phải tìm ra các
phương hướng học tập đúng đắn để đạt được kết quả cao nhất.
Ví dụ đơn giản, nếu ở cấp 3, một môn học kéo dài một năm thì ở đại học, một môn học sẽ chỉ
kéo dài khoảng 1 đến 2 tháng. Rõ ràng, lượng kiến thức tăng lên đáng kể sẽ mang đến những khó
khăn cho tân sinh viên. Không chỉ chênh lệch về lượng kiến thức mà còn có sự đa dạng về kiến
thức ở bậc đại học và trung học phổ thông. Không giống như phong cách học tập thụ động của
trường trung học, sinh viên đại học tham gia vào nhiều hoạt động nhóm, thuyết trình, hoạt động
ngoại khóa, v.v. Chính những thay đổi về lượng kiến thức, thời gian và cách học đã khiến nhiều
tân sinh viên khó thích nghi với môi trường học tập và giáo dục mới. Sự khác biệt lớn nhất giữa
trung học và đại học có lẽ là nhiệm vụ học tập. Việc lên lớp đối với bậc trung học chỉ là hoàn
thành các mục tiêu mà giáo viên đề ra nhưng đối với sinh viên Đại học, điều họ đang đối mặt
không chỉ là những nhiệm vụ đơn thuần trên lớp mà họ còn phải thực hiện các kì thực tập, phải
bắt đầu đặt ra mục tiêu cho tương lai của họ. Ngoài ra, khi lên Đại học, ý thức tự giác là yếu tố
quan trọng nhất, không còn sổ liên lạc hay họp phụ huynh như bậc trung học, tinh thần tự học sẽ
được phát huy rõ rệt. Có thể nới sự chuyển đổi từ phổ thông lên Đại học cũng giống như quá
trình biến đổi từ lượng thành chất. Chính vì vậy mà mỗi sinh viên cần phải thích nghi, thay đổi
nếp sống mới sao cho phù hợp với môi trường đại học để đạt được những thành tích cao trong
quá rình học tập và nghiên cứu của mình.
Từng bước tích lũy kiến thức một cách chính xác, đầy đủ:
Như chúng ta đã biết, sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diến ra bằng cách tích
lũy dần dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển về chất và việc
học tập của sinh viên cũng vậy. Để có một tầm bằng Cử nhân yêu cầu mỗi sinh viên cần phải tích
lũy đủ số lượng các tín chỉ của các môn học. Có thể coi học tập là quá trình tích lũy về lượng,
điểm nút là các kỳ thi, thi cử là bước nhảy. Do đó, trong hoạt động nhận thức, học tập của sinh
viên phải biết từng bước tích lũy về lượng ( tri thức) làm biến đổi về chất (kết quả học tập) theo
quy luật.. Hàng ngày, sinh viên đều phải đến trường để học tập, tiếp thu những kiến thức mới.
Qua quá trình rèn luyện tích luỹ kiến thức của sinh viên trong 4 năm trên giảng đường, từ thầy cô
hay các kì thực tập( lượng)…và tốt nghiệp Đại học đạt kết quả cao, cầm tấm bằng Cử nhân, đảm
bảo về chuyên môn cho mỗi sinh viên ra trường làm việc. Nói cách khác chất đã thay đổi và biến
đổi sang chất mới.
Sinh viên phải tự học tập và rèn luyện tính tích cực, tự chủ, nghiêm túc, trung thực:
Cuộc sống vẫn luôn vận hành và phát triển không ngừng theo thời gian, và con người cũng phải
chạy đua để theo kịp thời gian. Là một sinh viên, chúng ta cũng cần cải thiện bản thân phấn đấu
không ngừng nghỉ. Ai trong chúng ta sinh ra đều có sứ mệnh là sống và làm việc, thành công hay
không dựa trên sự nỗ lực của mỗi người. Chính vì vậy, việc tự học, tự nghiên cứu trau dồi kiến
thức của mỗi sinh viên là hết sức cần thiết. Trong đời sống con người, muốn có bất kì sự thay đỏi
về chất nào cũng đều phải có sự tích luỹ về lượng, dưới sự giúp đỡ nào của bất kì ai thì đều
không có sự biến đổi nào về chất. Như trong thi cử, sinh viên có thể gian lận để vượt qua kì thi ,
nhưng bản chất thì vẫn chưa sự tích luỹ nào để làm biến đổi về chất.
Trong học tập và nghiên cứu cần tiến hành từ dễ đến khó, tránh nóng vội đốt cháy
giai đoạn:
Từ quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại
có thể rút ra một vài kết luận có ý nghĩa phương pháp luận trong việc học tập và rèn luyện của
sinh viên như sau: để có thể cầm được tấm bằng Cử nhân, sinh viên phải tích luỹ đủ số lượng các
tín chỉ môn học; để môn học có kết quả tốt, sinh viên phải tích luỹ đủ số lượng tiết của các môn
học. Có thể coi thời gian học là độ, các bài kiểm tra là các điểm nút và điểm số đạt yêu cầu là
bước nhảy. Khi kết quả thi (bước nhảy) đạt kết quả tốt phản ánh sự kết thúc môt giai đoạn tích
luỹ kiến thức trong quá trình học tập rèn luyện của sinh viên. Vì vậy, trong việc học tập và các
hoạt động học thuật khác, sinh viên phải từng bước tích luỹ kiến thức (lượng) để làm thay đổi kết
quả học tập (chất) theo quy luật. Trong quá trình học tập và rèn luyện, sinh viên cần tránh tư
tưởng nhảy cấp. Nghĩa là sau khi hoàn thành kiến thức cơ bản, tức đã có sự biến đổi về chất thì
sinh viên mới có thể tiếp tục nghiên cứu những kiến thức khó hơn. Ví dụ như trước khi lên Đại
học sinh viên phải vượt qua kì thi tốt nghiệp THPT trước, nếu không, tình trạng mất gốc sẽ xảy
ra. Hay trong quá trình học tập và nghiên cứu, sinh viên luôn bị xao nhãng bởi những chuyện
ngoài lề. Cho đến khi giai đoạn thi đến gần mới bắt đầu học lại từ đầu, đó là giai đoạn ôn thi chứ
không phải giai đoạn học lại kiến thức mới. Chính vì vậy, dù sinh viên có chăm học cũng không
thể đảm bảo đủ lượng kiến thức để vượt qua kì thi. Tóm lại, muốn tiếp thu được nhiều kiến thức
và có kết quả cao trong các kì thi, sinh viên phải học dần mỗi ngày, từ kiến thức cơ bản đến nâng
cao. Từ đó, sự biến đổi về lượng sẽ dẫn đến sự biến đổi về chất theo hướng tích cực
Liên tục phấn đấu học tập và rèn luyện, tránh tư tưởng chủ quan:
Để có thể bước ra ngoài xã hội khắc nghiệt, những sinh viên cần trang bị cho mình từ những điều
đơn giản nhất như kĩ năng giao tiếp, ngôn ngữ,… cho đến những kiến thức to lớn, thành tựu
trong cuộc sống về các lĩnh vực khoa học – nghệ thuật. Việc trải qua hơn 12 năm học tập là
khoảng thời gian bước đệm cho hành trình tích luỹ ấy. Không những thế, chúng ta vẫn phải tiếp
thu những kỹ năng mềm cho cuộc sống mai sau. Trong quá trình liên tục phấn đấu học tập
ấy,quá trình chuyển hoá từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại được
thể hiện ở việc sinh viên tích luỹ kiến thức. Áp dụng quy luật lượng chất, sinh viên liên tục phấn
đấu học tập, tìm kiếm những thông tin, mang về những “lượng” tốt, có cơ sở và đầy đủ. Từ đó,
làm biến đổi “chất” tốt hơn, tạo nên các thành tích, thành tựu tương ứng cho sự nỗ lực ấy. Ở
trường Đại học, ngoài các bài giảng trên lớp, sinh viên còn tự tìm tòi, nghiên cứu ở thư viện, giáo
trình, luận văn, luận án, thầ cô, bạn bè,… tích luỹ và học hỏi những kĩ năng mềm thiết yếu cho
mai sau. Được tự do sáng tạo và trau dồi những “lượng” ở mức tối ưu nhất, sinh viên luôn đạt
được những thứ “chất” lượng nhất: tấm bằng cử nhân, những học bổng,… và tự tin bước ra đời.
Cứ như vậy, quá trình chuyển đổi giữa chất lượng liên tục diễn ra không ngừng nghỉ trong sự
phát triển, liên tục phấn đấu không ngừng ở mỗi sinh viên, giúp họ tự tin vững bước trong hành
trang cuộc đời mình. Khi ấy, nhiệm vụ của sinh viên là khai phá hết tiềm năng tri thức, kho dữ
liệu và ứng dụng vào thực tiễn và tiếp tục mở rộng con đường khoa học – nghệ thuật, tránh bị tư
tưởng bảo thủ và chủ quan nghĩ rằng mình đã làm hết sức có thể.
Rèn luyện ý thức học tập của sinh viên:
Đầu tiên, trong sự vận động và phát triển phải biết tích luỹ về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất;
không được nôn nóng cũng như không được bảo thủ. Quá trình học tập phải được tích luỹ từ từ,
đầy đủ kiến thức, hoàn thiện kỹ năng; không được bỏ qua kiến thức cơ bản. Việc bỏ bước trong
tích luỹ sẽ dẫn đến sự không hoàn thiện về độ, việc thực hiện bước nhảy sẽ không thành công và
không thể hình thành chất mới. Ví dụ, nếu bạn hỏng kiến thức cơ bản ở bậc tiểu học, bạn sẽ
không thể thực hiện bước nhảy để được học ở cấp trung học. Nếu bạn cố thực hiện bước nhảy,
tức là bạn vượt qua điểm nút một cách ép buộc, chất mới được hình thành nhưng nó không là vận
dụng theo quy luật lượng – chất. Những sự thay đổi về chất do thực hiện bước nhảy gây nên chỉ
xảy ra khi lượng đã thay đổi đến nút, độ được hoàn thiện từ sự tích luỹ đầy đủ về chất. Bên cạnh,
dù rằng sự phát triển và vận động của sự vật, hiện tượng là việc liên tục thực hiện các bước nhảy,
bạn phải chú ý đến độ trong quá trình thay đổi của lượng, không vội vàng mà bỏ bước. Tư tưởng
bảo thủ ngăn bạn không dám vượt qua điểm nút. Như là một kỳ thi học sinh giỏi, mặc dù bạn có
đủ kiến thức được tích luỹ để tham gia kỳ thi, nhưng lại không đủ tự tin để thực hiện bước nhảy,
thì quá trình tích luỹ đó chỉ được xem là tích luỹ về lượng mà không có sự thay đổi về chất. Bạn
phải nhận thức được mối liên kết giữa các yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng để lựa chọn phương
pháp tích luỹ phù hợp, đẩy nhanh tiến độ tích luỹ, kèm theo chất lượng của độ. Vận dụng được
mối liên kết đó sẽ giúp bạn hiểu rõ bản chất, quy luật của chất, nâng cao chất lượng của độ
Nhóm 4: Quy luật lượng chất vào vấn đề học tập của sinh viên
Trưởng nhóm: Bùi Thị Hồng
Stt Họ tên Công việc
46 Nguyễn Thị Bích Hợp vận dụng chất lượng vào quá trình
học tập của sinh viên
38 Nguyễn Thị Hạnh Làm ppt, đóng góp ý tưởng,chỉnh sửa
39 Phạm Hồng Hạnh vận dụng chất lượng vào quá trình
học tập của sinh viên
124 Nguyễn Thị Bảo Yến vận dụng chất lượng vào quá trình
học tập của sinh viên
43 Đào Thị Hoài Làm ppt, đóng góp ý tưởng,chỉnh sửa
40 Lê Thu Hằng vận dụng chất lượng vào quá trình
học tập của sinh viên
45 Bùi Thị Hồng vận dụng, tổng hợp, chỉnh sửa bài
hoàn chỉnh, Thuyết trình
47 Đậu Thị Huyền khái niệm chất - lượng đầy đủ ,ví dụ
cụ thể
41 Phí Thị Minh Hằng vận dụng chất lượng vào quá trình
học tập của sinh viên
48 Hoàng Khánh Huyền vận dụng chất lượng vào quá trình
học tập của sinh viên
42 Trần Thị Hoa Làm ppt, đóng góp ý tưởng,chỉnh sửa
37 Phạm Thị Ngọc Hà hình ảnh ,1 số ví dụ cụ thể của quá
trình học tập của sinh viên
44 Dương Việt Hoàng vận dụng chất lượng vào quá trình
học tập của sinh viên
| 1/12

Preview text:

Vận dụng quy luật Lượng – Chất để phân tích một
vấn đề của bản thân hoặc xã hội hiện nay
I. Những vấn đề lý luận của quy luật

1. Khái niệm về chất
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng bao gồm mặt chất và mặt lượng. Hai mặt đó thống nhất hữu
cơ với nhau trong sự vật, hiện tượng. Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách
quan vốn có của sự vật, hiện tượng. Là sự thống nhất hữu cơ những thuộc tính cấu thành nó,
phân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác.
Ví dụ: Nguyên tố đồng có nguyên tử lượng là 63,54 đvC, nhiệt độ nóng chảy là 1083đvC, nhiệt
độ sôi là 2880đvC…những thuộc tính này đã nói lên những chất riêng của đồng để phân biệt nó với các kim loại khác.
2. Đặc điểm của chất:
- Chất mang tính khách quan: chất là cái vốn có, nằm bên trong sự vật hiện tượng không phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Chẳng hạn nước biển mặn tồn tại ở bên trong chứ
không phải do một lực lượng siêu nhiên, ý muốn chủ quan của con người mà có thể áp đặt được nó.
- Chất là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, các yếu tố của sự vật.Thuộc tính là những tính
chất của sự vật, là cái vốn có của sự vật. Những thuộc tính của sự vật chỉ được bộc lộ ra bên
ngoài qua sự tác động qua lại của sự vật mang thuộc tính đó với các sự vật khác. Mỗi sự vật, hiện
tượng đều có thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Chỉ những thuộc tính cơ bản mới hợp thành
chất của sự vật, hiện tượng. Phụ thuộc vào những mối quan hệ cụ thể mà thuộc tính cơ bản và
không cơ bản mới được phân biệt rõ ràng. Chẳng hạn, trong mối quan hệ với động vật thì thuộc
tính cơ bản của con người là các thuộc tính có khả năng chế tạo, sử dụng công cụ, có tư duy còn
các thuộc tính không là thuộc tính cơ bản. Xong trong quan hệ giữa con người với con người thì
những thuộc tính như nhận dạng về dấu vân tay lại trở thành thuộc tính cơ bản.Mỗi sự vật hiện
tượng đều có quá trình tồn tại và phát triển qua nhiều giai đoạn trong mỗi giai đoạn ấy nó lại có
chất riêng. Như vậy mỗi sự vật hiện tượng không phải chỉ có một chất mà rất có thể có nhiều
chất. Ví dụ: những mức độ trưởng thành của cá nhân một con người từ ấu thơ -> mầm non -> nhi
đồng -> thiếu niên -> thanh niên…mỗi giai đoạn đó là một chất.
-Chất thể hiện tính ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng: khi nó chưa chuyển hóa thành sự
vật, hiện tượng khác thì chất của nó vẫn chưa thay đổi. Chẳng hạn như, trạng thái của nước rắn,
lỏng, khí( chất), sự thay đổi về lượng của nhiệt độ từ 40-50đvC chưa làm cho trạng thái lỏng của nước thay đổi.
3. Khái niệm về lượng:
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy
mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật.
Biểu hiện của lượng: Lượng biểu hiện ở số lượng các thuộc tính, ở tổng số các bộ phận, ở đại
lượng tốc độ và nhịp điệu vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.Bên cạnh đó lượng còn
biểu hiện ở kích thước dài hay ngắn, số lượng lớn hay nhỏ, tổng số ít hay nhiều, trình độ cao hay
thấp, tốc độ vận động nhanh hay chậm, màu sắc đậm hay nhạt. Ví dụ như đối với phân tử Carbon
dioxide (CO2). Lượng là số nguyên tử tạo thành nó, tức hai nguyên tử cacbon (C) và một nguyên tử oxi (O)
4. Đặc điểm của lượng
-Lượng mang tính khách quan vì lượng là một dạng biểu hiện của vật chất, chiếm một vị trí nhất
định trong không gian và tồn tại trong thời gian nhất định.Trong sự vật hiện tượng có nhiều loại
lượng khác nhau như: có lượng là yếu tố quyết định bên trong, có lượng chỉ thể hiện yếu tố bên
ngoài của sự vật, hiện tượng; sự vật hiện tượng càng phức tạp thì lượng của chúng cũng phức tạp theo.
- Lượng có thể được xác định bằng các đơn vị đo lường cụ thể hoặc có thể nhận thức bằng con
đường trừu tượng và khái quát hóa. Trên thực tế lượng của sự vật thường được xác định bởi
những đơn vị đo lượng cụ thể như vận tốc của ánh sáng hay một phân tử bao gồm những nguyên
tử nào. Bên cạnh đó có những lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát như
trình độ nhận thức của một người, ý thức trách nhiệm cao hay thấp của một công dân,..
- Lượng thường xuyên biến đổi: Bản thân lượng không nói lên sự vật đó (số lượng nguyên tử
hợp thành nguyên tố hoá học, số lượng lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội hoặc chiều dài, chiều
rộng, chiều cao của sự vật) là gì, các thông số về lượng không ổn định mà thường xuyên biến đổi
cùng với sự vận động biến đổi của sự vật , đó là mặt không ổn định của sự vật. 
Như vậy, chất và lượng là hai phương diện khác nhau của cùng một sự vật, hiện
tượng hay một qua trình nào đó trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Hai phương diện đó
điều tồn tại khách quan. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất và lượng của sự vật, hiện
tượng chỉmang tính tương đối. Có những tính quy định trong mối quan hệ này là chất
nhưng trong mối quan hệ khác lại là lượng.

5. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng:
Sự thống nhất giữa chất và lượng : Bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa
mặt chất và mặt lượng, chúng tác động qua lại lẫn nhau, chúng tồn tại trong tính quy định lẫn
nhau: tương ứng với một loại lượng nhất định thì cũng có một loại chất tương ứng và ngược
lại.Ví dụ như tương ứng với cấu tạo H - 0 - H (cấu tạo liên kết nguyên tử hyđrô và 1 nguyên tử
ôxy) thì 1 phân tử nước (H20) được hình thành với tập hợp các tính chất cơ bản, khách quan, vốn
có của nó là: không màu, không mùi, không vị, có thể hoà tan muối, axít,…“Chất” và “lượng”
luôn thống nhất hữu cơ với nhau, không tách rời nhau, tác động lẫn nhau một cách biện chứng.
Khi sự vật đang tồn tại, sự thống nhất giữa chất và lượng luôn ở trong một độ nhất định. Bất cứ
sự thay đổi nào về lượng cũng sẽ dẫn tới sự thay đổi nhất định về “chất” của sự vật, hiện tượng.
Sự thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất: Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có chất
và lượng. Khi sự vật vận động và phát triển, chất và lượng của nó cũng vận động, biến đổi, thay
đổi. Sự thay đổi của lượng và của chất không diễn ra độc lập với nhau mà chúng có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Khi lượng của sự vật, hiện tượng được tích lũy vượt quá giới hạn nhất định,
thì chất cũ sẽ mất đi, chất mới thay thế chất cũ. Không giới hạn đó gọi là độ. Độ là phạm trù triết
học dùng để chỉ khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn
bản chất của sự vật ấy. Có nghĩa là độ chỉ tính quy định, mối liện hệ thống nhất giữa chất và
lượng, độ là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản chất
của sự vật, hiện tượng. Ví dụ khi ta nung một thỏi thép ở trong lò, nhiệt độ của lò nung có thể lên
tới hàng nghìn độ song thỏi thép vẫn ở trạng thái rắn chứ chưa chuyển sang trạng thái lỏng. Khi
lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến những sự thay đổi về chất. Giới hạn
đó chính là điểm nút. Theo triết học Mác-Lênin, điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ điểm
giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật. Chúng ta có thể
hiểu, điểm nút là thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật.
Sự vật tích lũy đủ về lượng tại điểm nút sẽ làm cho chất mới của nó ra đời. Lượng mới và chất
mới của sự vật thống nhất với nhau tạo nên độ mới và điểm nút mới của sự vật đó, quá trình này
diễn ra liên tếp trong sự vật và vì vậy sự vật luôn phát triển chừng nào nó còn tồn tại. Sự vật tích
luỹ đủ về lượng tại điểm nút sẽ tạo ra bước nhảy, chất mới ra đời. Bước nhảy là phạm trù triết
học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó
gây nên. Sự giới hạn về lượng khi đạt tới điểm nút, với những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn
đến sự ra đời của chất mới. Đây chính là bước nhảy trong quá trình vận động, phát triển của sự
vật, hiện tượng. Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển và là điểm khởi đầu
cho một giai đoạn mới. Có thể nói, trong quá trình phát triển của sự vật, sự gián đoạn là tiền đề
cho sự liên tục và sự liên tục là sự kế tiếp của hàng loạt sự gián đoạn. Để hiểu rõ hơn về cái khái
niệm ta cùng xét một ví dụ: Xét “nước” nguyên chất, trong điều kiện atmotphe ở trạng thái thể
lỏng (chất) được quy định bởi lượng nhiệt độ (lượng) từ 0°C đến 100°C (độ). Khi lượng nhiệt độ
biến thiên nằm ngoài khoảng giới hạn 0°C hoặc 100°C đó (điểm nút) thì tất yếu xảy ra quá trình
biến đổi trạng thái của nước từ trạng thái lỏng sang trạng thái rắn hoặc khí (bước nhảy). Như
vậy sự phát triển của bất cứ của sự vật nào cũng bắt đầu từ sự tích luỹ về lượng trong độ nhất
định cho tới điểm nút để thực hiện bước nhảy về chất. Song điểm nút của quá trình ấy không cố
định mà có thể có những thay đổi do tác động của những điều kiện khách quan và chủ quan quy định. 
Các hình thức cơ bản của bước nhảy:
+ Căn cứ vào thời gian thực hiện bước nhảy của bản thân sự vật có thể chia thành bước nhẩy đột
biến và bước nhảy dần dần:
Bước nhảy đột biến: là bước nhảy được thực hiện trong một thời gian rất ngắn làm thay đổi chất
của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật. Ví dụ như khối lượng Uranium 235(Ur 235) được tăng
đến khối lượng tới hạn thì sẽ xảy ra vụ nổ nguyên tử trong chốc lát. Bước nhảy dần dần là bước
nhảy được thực hiện từ từ, từng bước bằng cách tích luỹ dần dần những nhân tố của chất mới và
những nhân tố của chất cũ dần dần mất đi.
Ví dụ quá trình cách mạng đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là một thời kỳ lâu dài qua nhiều bước nhảy dần dần.Vì là một quá trình phức tạp, trong đó có
cả sự tuần tự lẫn những bước nhảy diễn ra ở từng bộ phận của sự vật ấy.
+ Căn cứ vào quy mô thực hiện bước nhảy của sự vật có bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục
bộ: Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt, các yếu tố cấu thành
sự vật. Bước nhảy cục bộ: là bước nhảy làm thay đổi chất của từng mặt, những yếu tố riêng lẻ của sự vật.
Ví dụ như trong hiện thực, các sự vật có thuộc tính đa dạng, phong phú nên muốn thực hiện bước
nhảy toàn bộ phải thông qua những bước nhảy cục bộ. Sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
đang diễn ra từng bước nhảy cục bộ để thực hiện bước nhảy toàn bộ, tức là chúng ta đang thực
hiện những bước nhảy cục bộ ở lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực chính trị, lĩnh vực xã hội và lĩnh vực
tinh thần xã hội để đi đến bước nhảy toàn bộ - xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. 
Chất mới ra đời tác động trở lại lượng của sự vật:
Khi chất mới ra đời, nó không tồn tại một cách thụ động mà có sự tác động trở lại đối với lượng,
được biểu hiện ở chỗ: chất mới sẽ tạo ra một lượng mới phù hợp với nó để có sự thống nhất mới
giữa chất và lượng. Sự tác động ấy thể hiện: chất mới có thể làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình
độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Chẳng hạn như, khi học sinh
vượt qua điểm nút là kỳ thi tốt nghiệp THPT, tức là thực hiện bước nhảy để trở thành sinh viên.
Trình độ văn hoá của học sinh đã cao hơn trước và sẽ tạo điều kiện cho họ thay đổi kết cấu, quy
mô, trình độ tri thức, giúp họ tiến lên trình độ cao hơn.
Như vậy, không chỉ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất mà những thay đổi
về chất cũng đã dẫn đến những thay đổi về lượng. Từ những sự phân tích ở trên có thể rút ra kết
luận: Bất kỳ sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi dần dần về lượng
vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua bước nhảy;
chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của lượng.Quá trình tác động đó diễn ra liên tục
làm cho sự vật không ngừng phát triển.
6. Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có phương diện chất và lượng tồn tại trong tính quy định
lẫn nhau, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau do đó trong thức tiễn và nhận thức phải coi trọng
cả hai phương diện chất và lượng.
+ Những sự thay đổi về lượng sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất trong điều kiện nhất định và ngược
lại do đó cần coi trọng quá trình tích lũy về lượng để làm thay đổi chất của sự vật đồng thời phát
huy tác động của chất mới để thúc đẩy sự thay đổi về lượng của sự vật.
+ Sự thay đổi về lượng chỉ làm thay đổi chất khi lượng được tích lũy đến giới hạn điểm nút do
đó trong thực tiễn cần khắc phục bệnh nôn nóng tả khuynh, bảo thủ trì trệ.
+ Bước nhảy của sự vật, hiện tượng là hết sức đa dạng, phong phú do vậy cần vận dụng linh hoạt
các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với điều kiện cụ thể. Đặc biệt trong đời sống xã hội,
quá trình phát triển không chỉ phụ thuộc vào điều kiện khách quan, mà còn phụ thuộc vào nhân
tố chủ quan của con người. Do đó, cần phải nâng cao tính tích cực chủ động của các chủ thể để
thúc đẩy quá trình chuyển hóa từ lượng đến chất một cách hiệu quả nhất.
II. Vận dụng quy luật thực tiễn vào quá trình học tập của sinh viên:
Quá trình học tập của mỗi học sinh là một quá trình dài, khó khăn và cần sự cố gắng không biết
mệt mỏi, không ngừng nghỉ của bản thân mỗi học sinh. Quy luật chuyển hóa từ sự thay đổi về
lượng dẫn đến sự thay đổi về chất thể hiện ở chỗ: mỗi học sinh tích lũy lượng (kiến thức) cho
mình bằng việc nghe các thầy cô giảng trên lớp, làm bài tập ở nhà, đọc thêm sách tham khảo,…
thành quả của quá trình tích lũy đó được đánh giá qua những bài kiểm tra, những bài thi học kỳ
và kỳ thi tốt nghiệp. Khi đã tích lũy đủ lượng tri thức cần thiết, học sinh sẽ được chuyển sang
một cấp học mới cao hơn.
1. Biểu hiện của quy luật chất lượng trong học tập:
- Sự tích lũy kiến thức:
+ Về lượng : Sinh viên cần tích lũy kiến thức qua từng bài giảng , học tập
+ Về chất: Kiến thức cần được hệ thống hóa, logic, có khả năng áp dụng thực tế. - Sự phát triển tư duy:
+ Từ tư duy cảm tính đến tư duy lý tính.
+ Từ tư duy đơn giản đến tư duy phức tạp, sáng tạo. - Sự hình thành kỹ năng:
+ Kỹ năng học tập, nghiên cứu.
+ Kỹ năng giải quyết vấn đề, tư duy phản biện.
+ Kỹ năng giao tiếp, thuyết trình.
2. Áp dụng quy luật chất lượng vào học tập:
- Có kế hoạch học tập cụ thể, khoa học:
+ Xác định mục tiêu rõ ràng.
+ Sắp xếp thời gian hợp lý.
+ Lựa chọn phương pháp học tập phù hợp. -
Chú trọng tích lũy kiến thức và phát triển tư duy:
+ Tham gia đầy đủ các tiết học, ghi chép cẩn thận.
+ Đọc sách, tài liệu tham khảo.
+ Suy nghĩ, phân tích, đánh giá thông tin. - Rèn luyện kỹ năng:
+ Tham gia các hoạt động học tập nhóm, thảo luận.
+ Tự làm bài tập, giải quyết vấn đề.
+ Tham gia các khóa học kỹ năng mềm. 3. Một số lưu ý: 
Học tập là một quá trình lâu dài, cần sự kiên trì, nỗ lực. 
Cần học tập một cách chủ động, sáng tạo. 
Kết hợp học tập với rèn luyện đạo đức, lối sống.
Vận dụng quy luật chất lượng vào học tập giúp sinh viên nâng cao hiệu quả học tập, phát triển
toàn diện và đạt được thành công. Cụ thể
Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng dẫn tới sự thay đổi về chất
Sự thay đổi về lượng sẽ dẫn tới sự thay đổi về chất và ngược lại sự phát triển về chất sẽ
kéo theo sự thay đổi về lượng . Trong học tập , qua các kì thi ( điểm nút ) sinh viên sẽ biết
được khả năng , kết quả mà mình đã đạt được ( bước nhảy ) để có thể tiến tới các bước tiếp
theo . Các kì thi của một môn học ( bước nhảy cục bộ ) sẽ làm cho sinh viên đạt kết quả cao
cho cả học kì , cả năm học ( bước nhảy toàn bộ ). Vậy nên có thể nói mọi vật đều là sự thống
nhất giữa lượng và chất , sự thay đổi dần dần của lượng tới điểm nút sẽ dẫn tới sự thay đổi về
chất của sự vật thông qua bước nhảy , chất mới được tạora lại tác động vào sự thay đổi sinh ra
lượng mới có chất cao hơn . Quá trình đó diễn ra lien tục và không ngừng thay đổi
+ ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người ; vì
vậy ta cần phải tôn trọng hiện thực khách quan , đồng thời phát huy tính năng động chủ quan
của bản thân. Tôn trọng khách quan là tôn trọng tính khách quan của vật chất , của các quy
gian để xem xét một cách thận trọng và nghiêm túc ngay từ những năm đầu của khóa học.
Sự khác nhau cơ bản giữa việc học tập ở phổ thông và Đại học . Quá trình chúng ta học tập tại
phổ thông là nền móng để xây dựng trình độ học vấn cho con người , là cơ sở để thiết lập một
nền giáo dục Đại học. Bởi vậy nhà trường phổ thông và đại học có quan hệ mật thiết với nhau ,
nhưng vì mục tiêu , yêu cầu đào tạo , mỗi cấp có mức độ khác nhau , do đó nhiệm vụ học tập
của người học sinh phổ thông khác với nhiệm vụ học tập và nghiên cứu của sinh viên . Ở
trường Đại học sinh viên phải quan tâm đến các hình thức học tập : thí nghiệm , thực
nghiệm , bảo vệ đồ án , làm đề tài khoa học . . . tất cả những việc làm đó đều có nhữngyêu cầu
mới và cao hơn nhiều so với cách học ở trường phổ thông . Ở đây có sự khác nhau về bản chất
chứ không chỉ là sự thay đổi về hình thức bởi vậy có thể nói sự chuyển đổi từ phổ thông
lên Đại học cũng giống như quá trình biến đổi từ lượng thành chất . Chính vì vậy mà người
sinh viên cần thay đổi nếp sống mới sao cho phù hợp hoàn cảnh hiện tại , phù hợp với các yêu
cầu của ngành giáo dục đối với Đại học. Chỉ khi nào làm được như vậy sinh viên mới hi vọng
đạt được những thành tích rực rỡ trong quá trình học tập và nghiên cứu của mình
+Ý thức học tập của sinh viên Nhiệm vụ của một người sinh viên trường Đại học là phải học
tập rèn luyện tu dưỡng phấn đấu thành những người lao động tốt , những cán bộ công nhân
viên chức góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước. Mỗi sinh viên phải tự đặt ra
cho mình những câu hỏi : “ học để làm gì?” , “ học để phục vụ ai?” . Xác địn được mục đích
học tập nghiên cứu là hiểu được mình phải phấn đấu để trở thành con người như thế nào ?
Muốn thế người sinh viên phải thường xuyên nâng cao trình độ nhận thức về tình hình , nhiệm
vụ , nắm vững yêu cầu của ngành giáo giục nhất là đối với bậc giáo dục Đại học cùng các vấn đề khác có liên quan.
+ Ngoài ra sinh viên phải biết cách tự suy nghĩ lại và biết cách lật ngược vấn đề theo một
cách khác. Khả năng này giúp cho sinh viên biết cách cải thiện điều kiện, phương pháp pháp
và kết quả học tập của mình. Về bản chất, tư duy đại học không phải là một thứ tư duy đơn
tuyển, một chiều mà đóchính là hình thức tư duy đa tuyển , phức hợp đòi hỏi người đọc,
người dạy, người nghiên cứu phải cótính sang tạo cao, luôn biết cách lật ngược vấn đề theo
một cách khác, soi sáng vấn đề từ những khía cạnh chưa ai đề cập đến. Giải lao, giải trí một
hoạt động cũng quan trọng không kém so với học tập chính khóa. Ai không biết cách nghỉ
ngơi, giải trí thì cũng có thể xem như người đó không biết cách học hoặc là có kết quả học tập không cao.
+ Tinh thần đoàn kết thương yêu giúp đỡ nhau trong học tập nghiên cứu. “ Bản chất con người
không phải là cái gì trừu tượng vốn có của cá nhân riêng biệt. Trong cuộc sống hàng ngày cũng
như trong học tập, sinh viên cần phải tích cực làm việc, học tập theo nhóm, tổ chức để rèn luyện
khả năng làm việc tập thể và tìm ra được những thiếu sót của mỗi người. Ngoài ra chúng ta, mỗi
người cần làm tốt công tác phê bình và tự phê bình và phải luôn có tinhthần vươn lên
- Thực trạng ý thức học tập của sinh viên:
Học tập mà không rõ mục tiêu cũng giống như ta bắn một mũi tên mà chưa xác định được đích
vậy. Đã đến lúc sinh viên cần nhìn lại chính mình để thẳng thắn thừa nhận những khuyết
điểm, để chấn chỉnh lại quá trình học tập, chính sinh viên mới có thể tự điều trị “căn bệnh” lười của mình.
Ngày nay, đất nước đa trong thời kỳ hội nhập và đi lên, mỗi chúng ta cần nhận thấy
bản thân mình cần có trách nhiệm trong việc xây dựng và phát triển đất nước, không chỉ góp
tài mà còn góp sức, góp tài vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước giàu mạnh, sánh
vai với các cường quốc năm châu, nhưng cũng đồng thời phải hoàn thành trách nhiệm của
một người thanh niên, chủ động trong việc hoàn thành tốt mọi việc, học tập, ứng dụng tốt
những kiến thức học được vào trong cuộc sống và xã hội . Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tuy chỉ với
sức lực cá nhân chẳng thể thay đổi toàn thể cục diện, nhưng với sự đồng lồng và quyết tâm
của toàn thể thanh niên trẻ Việt Nam, nó sẽ có những tác động tích cực đến thành tựu nước giáo dục nước nhà. - Kết Luận
Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về
chất và ngược lại ta rút ra một số vấn đề trong học tập và rèn luyên của sinh viên : Sự vận động
và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích lũy dần dần về lượng đến 1 giới hạn
nhất định, chuyển hóa về chất và việc học tập rèn luyện của sinh viên .
Để có được tấm bằng đại học chúng ta cần phải thực hiện đầy đủ các học phần và hoàn thành tốt
các kỳ thi.Muốn được như vây chúng ta cần phải cố gắng nỗ lực trong học tập, phải tìm ra các
phương hướng học tập đúng đắn để đạt được kết quả cao nhất.
Ví dụ đơn giản, nếu ở cấp 3, một môn học kéo dài một năm thì ở đại học, một môn học sẽ chỉ
kéo dài khoảng 1 đến 2 tháng. Rõ ràng, lượng kiến thức tăng lên đáng kể sẽ mang đến những khó
khăn cho tân sinh viên. Không chỉ chênh lệch về lượng kiến thức mà còn có sự đa dạng về kiến
thức ở bậc đại học và trung học phổ thông. Không giống như phong cách học tập thụ động của
trường trung học, sinh viên đại học tham gia vào nhiều hoạt động nhóm, thuyết trình, hoạt động
ngoại khóa, v.v. Chính những thay đổi về lượng kiến thức, thời gian và cách học đã khiến nhiều
tân sinh viên khó thích nghi với môi trường học tập và giáo dục mới. Sự khác biệt lớn nhất giữa
trung học và đại học có lẽ là nhiệm vụ học tập. Việc lên lớp đối với bậc trung học chỉ là hoàn
thành các mục tiêu mà giáo viên đề ra nhưng đối với sinh viên Đại học, điều họ đang đối mặt
không chỉ là những nhiệm vụ đơn thuần trên lớp mà họ còn phải thực hiện các kì thực tập, phải
bắt đầu đặt ra mục tiêu cho tương lai của họ. Ngoài ra, khi lên Đại học, ý thức tự giác là yếu tố
quan trọng nhất, không còn sổ liên lạc hay họp phụ huynh như bậc trung học, tinh thần tự học sẽ
được phát huy rõ rệt. Có thể nới sự chuyển đổi từ phổ thông lên Đại học cũng giống như quá
trình biến đổi từ lượng thành chất. Chính vì vậy mà mỗi sinh viên cần phải thích nghi, thay đổi
nếp sống mới sao cho phù hợp với môi trường đại học để đạt được những thành tích cao trong
quá rình học tập và nghiên cứu của mình. 
Từng bước tích lũy kiến thức một cách chính xác, đầy đủ:
Như chúng ta đã biết, sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diến ra bằng cách tích
lũy dần dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển về chất và việc
học tập của sinh viên cũng vậy. Để có một tầm bằng Cử nhân yêu cầu mỗi sinh viên cần phải tích
lũy đủ số lượng các tín chỉ của các môn học. Có thể coi học tập là quá trình tích lũy về lượng,
điểm nút là các kỳ thi, thi cử là bước nhảy. Do đó, trong hoạt động nhận thức, học tập của sinh
viên phải biết từng bước tích lũy về lượng ( tri thức) làm biến đổi về chất (kết quả học tập) theo
quy luật.. Hàng ngày, sinh viên đều phải đến trường để học tập, tiếp thu những kiến thức mới.
Qua quá trình rèn luyện tích luỹ kiến thức của sinh viên trong 4 năm trên giảng đường, từ thầy cô
hay các kì thực tập( lượng)…và tốt nghiệp Đại học đạt kết quả cao, cầm tấm bằng Cử nhân, đảm
bảo về chuyên môn cho mỗi sinh viên ra trường làm việc. Nói cách khác chất đã thay đổi và biến đổi sang chất mới. 
Sinh viên phải tự học tập và rèn luyện tính tích cực, tự chủ, nghiêm túc, trung thực:
Cuộc sống vẫn luôn vận hành và phát triển không ngừng theo thời gian, và con người cũng phải
chạy đua để theo kịp thời gian. Là một sinh viên, chúng ta cũng cần cải thiện bản thân phấn đấu
không ngừng nghỉ. Ai trong chúng ta sinh ra đều có sứ mệnh là sống và làm việc, thành công hay
không dựa trên sự nỗ lực của mỗi người. Chính vì vậy, việc tự học, tự nghiên cứu trau dồi kiến
thức của mỗi sinh viên là hết sức cần thiết. Trong đời sống con người, muốn có bất kì sự thay đỏi
về chất nào cũng đều phải có sự tích luỹ về lượng, dưới sự giúp đỡ nào của bất kì ai thì đều
không có sự biến đổi nào về chất. Như trong thi cử, sinh viên có thể gian lận để vượt qua kì thi ,
nhưng bản chất thì vẫn chưa sự tích luỹ nào để làm biến đổi về chất. 
Trong học tập và nghiên cứu cần tiến hành từ dễ đến khó, tránh nóng vội đốt cháy giai đoạn:
Từ quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại
có thể rút ra một vài kết luận có ý nghĩa phương pháp luận trong việc học tập và rèn luyện của
sinh viên như sau: để có thể cầm được tấm bằng Cử nhân, sinh viên phải tích luỹ đủ số lượng các
tín chỉ môn học; để môn học có kết quả tốt, sinh viên phải tích luỹ đủ số lượng tiết của các môn
học. Có thể coi thời gian học là độ, các bài kiểm tra là các điểm nút và điểm số đạt yêu cầu là
bước nhảy. Khi kết quả thi (bước nhảy) đạt kết quả tốt phản ánh sự kết thúc môt giai đoạn tích
luỹ kiến thức trong quá trình học tập rèn luyện của sinh viên. Vì vậy, trong việc học tập và các
hoạt động học thuật khác, sinh viên phải từng bước tích luỹ kiến thức (lượng) để làm thay đổi kết
quả học tập (chất) theo quy luật. Trong quá trình học tập và rèn luyện, sinh viên cần tránh tư
tưởng nhảy cấp. Nghĩa là sau khi hoàn thành kiến thức cơ bản, tức đã có sự biến đổi về chất thì
sinh viên mới có thể tiếp tục nghiên cứu những kiến thức khó hơn. Ví dụ như trước khi lên Đại
học sinh viên phải vượt qua kì thi tốt nghiệp THPT trước, nếu không, tình trạng mất gốc sẽ xảy
ra. Hay trong quá trình học tập và nghiên cứu, sinh viên luôn bị xao nhãng bởi những chuyện
ngoài lề. Cho đến khi giai đoạn thi đến gần mới bắt đầu học lại từ đầu, đó là giai đoạn ôn thi chứ
không phải giai đoạn học lại kiến thức mới. Chính vì vậy, dù sinh viên có chăm học cũng không
thể đảm bảo đủ lượng kiến thức để vượt qua kì thi. Tóm lại, muốn tiếp thu được nhiều kiến thức
và có kết quả cao trong các kì thi, sinh viên phải học dần mỗi ngày, từ kiến thức cơ bản đến nâng
cao. Từ đó, sự biến đổi về lượng sẽ dẫn đến sự biến đổi về chất theo hướng tích cực 
Liên tục phấn đấu học tập và rèn luyện, tránh tư tưởng chủ quan:
Để có thể bước ra ngoài xã hội khắc nghiệt, những sinh viên cần trang bị cho mình từ những điều
đơn giản nhất như kĩ năng giao tiếp, ngôn ngữ,… cho đến những kiến thức to lớn, thành tựu
trong cuộc sống về các lĩnh vực khoa học – nghệ thuật. Việc trải qua hơn 12 năm học tập là
khoảng thời gian bước đệm cho hành trình tích luỹ ấy. Không những thế, chúng ta vẫn phải tiếp
thu những kỹ năng mềm cho cuộc sống mai sau. Trong quá trình liên tục phấn đấu học tập
ấy,quá trình chuyển hoá từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại được
thể hiện ở việc sinh viên tích luỹ kiến thức. Áp dụng quy luật lượng chất, sinh viên liên tục phấn
đấu học tập, tìm kiếm những thông tin, mang về những “lượng” tốt, có cơ sở và đầy đủ. Từ đó,
làm biến đổi “chất” tốt hơn, tạo nên các thành tích, thành tựu tương ứng cho sự nỗ lực ấy. Ở
trường Đại học, ngoài các bài giảng trên lớp, sinh viên còn tự tìm tòi, nghiên cứu ở thư viện, giáo
trình, luận văn, luận án, thầ cô, bạn bè,… tích luỹ và học hỏi những kĩ năng mềm thiết yếu cho
mai sau. Được tự do sáng tạo và trau dồi những “lượng” ở mức tối ưu nhất, sinh viên luôn đạt
được những thứ “chất” lượng nhất: tấm bằng cử nhân, những học bổng,… và tự tin bước ra đời.
Cứ như vậy, quá trình chuyển đổi giữa chất lượng liên tục diễn ra không ngừng nghỉ trong sự
phát triển, liên tục phấn đấu không ngừng ở mỗi sinh viên, giúp họ tự tin vững bước trong hành
trang cuộc đời mình. Khi ấy, nhiệm vụ của sinh viên là khai phá hết tiềm năng tri thức, kho dữ
liệu và ứng dụng vào thực tiễn và tiếp tục mở rộng con đường khoa học – nghệ thuật, tránh bị tư
tưởng bảo thủ và chủ quan nghĩ rằng mình đã làm hết sức có thể. 
Rèn luyện ý thức học tập của sinh viên:
Đầu tiên, trong sự vận động và phát triển phải biết tích luỹ về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất;
không được nôn nóng cũng như không được bảo thủ. Quá trình học tập phải được tích luỹ từ từ,
đầy đủ kiến thức, hoàn thiện kỹ năng; không được bỏ qua kiến thức cơ bản. Việc bỏ bước trong
tích luỹ sẽ dẫn đến sự không hoàn thiện về độ, việc thực hiện bước nhảy sẽ không thành công và
không thể hình thành chất mới. Ví dụ, nếu bạn hỏng kiến thức cơ bản ở bậc tiểu học, bạn sẽ
không thể thực hiện bước nhảy để được học ở cấp trung học. Nếu bạn cố thực hiện bước nhảy,
tức là bạn vượt qua điểm nút một cách ép buộc, chất mới được hình thành nhưng nó không là vận
dụng theo quy luật lượng – chất. Những sự thay đổi về chất do thực hiện bước nhảy gây nên chỉ
xảy ra khi lượng đã thay đổi đến nút, độ được hoàn thiện từ sự tích luỹ đầy đủ về chất. Bên cạnh,
dù rằng sự phát triển và vận động của sự vật, hiện tượng là việc liên tục thực hiện các bước nhảy,
bạn phải chú ý đến độ trong quá trình thay đổi của lượng, không vội vàng mà bỏ bước. Tư tưởng
bảo thủ ngăn bạn không dám vượt qua điểm nút. Như là một kỳ thi học sinh giỏi, mặc dù bạn có
đủ kiến thức được tích luỹ để tham gia kỳ thi, nhưng lại không đủ tự tin để thực hiện bước nhảy,
thì quá trình tích luỹ đó chỉ được xem là tích luỹ về lượng mà không có sự thay đổi về chất. Bạn
phải nhận thức được mối liên kết giữa các yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng để lựa chọn phương
pháp tích luỹ phù hợp, đẩy nhanh tiến độ tích luỹ, kèm theo chất lượng của độ. Vận dụng được
mối liên kết đó sẽ giúp bạn hiểu rõ bản chất, quy luật của chất, nâng cao chất lượng của độ
Nhóm 4: Quy luật lượng chất vào vấn đề học tập của sinh viên
Trưởng nhóm: Bùi Thị Hồng Stt Họ tên Công việc 46 Nguyễn Thị Bích Hợp
vận dụng chất lượng vào quá trình học tập của sinh viên 38 Nguyễn Thị Hạnh
Làm ppt, đóng góp ý tưởng,chỉnh sửa 39 Phạm Hồng Hạnh
vận dụng chất lượng vào quá trình học tập của sinh viên 124 Nguyễn Thị Bảo Yến
vận dụng chất lượng vào quá trình học tập của sinh viên 43 Đào Thị Hoài
Làm ppt, đóng góp ý tưởng,chỉnh sửa 40 Lê Thu Hằng
vận dụng chất lượng vào quá trình học tập của sinh viên 45 Bùi Thị Hồng
vận dụng, tổng hợp, chỉnh sửa bài hoàn chỉnh, Thuyết trình 47 Đậu Thị Huyền
khái niệm chất - lượng đầy đủ ,ví dụ cụ thể 41 Phí Thị Minh Hằng
vận dụng chất lượng vào quá trình học tập của sinh viên 48 Hoàng Khánh Huyền
vận dụng chất lượng vào quá trình học tập của sinh viên 42 Trần Thị Hoa
Làm ppt, đóng góp ý tưởng,chỉnh sửa 37 Phạm Thị Ngọc Hà
hình ảnh ,1 số ví dụ cụ thể của quá
trình học tập của sinh viên 44 Dương Việt Hoàng
vận dụng chất lượng vào quá trình học tập của sinh viên