N HÓA M THC CA NGƯỜI NAM B
1. S LUN
1.1. Văn hóa m thc
1.1.1. m thc:
“Ẩm thc chính biu ng ca tình u khi ta không tìm ra t ng nào đ
din t.”
Alan D.Wolfelt tng nhận định. th nói m thc tiếng dùng để
khái quát nói v việc ăn uống bao gm c cách chế biến, bày biện thưởng
thc tng món ăn, thức ung t đơn giản, đạm bc đến cu k, m v. Mi vùng
miền đều nhng nét đặc trưng riêng trong văn hóa m thc, đối với đất Vit,
t xa xưa ông cha ta đã mang m thc vào nhng câu ca dao tc ng, tr thành
ý thc văn a rất đặc trưng của Việt Nam: Đói cho sch, rách cho thơm; “Lời
chào cáo n mâm cỗ”; Ăn trông ni, ngi trông ớng”. Người Vit Nam ni
tiến trng l nghĩa, chuộng hình thức nên các món ăn Vit Nam không ch để ăn
mà còn để chiêm ngưỡng, để ng thc nét tinh tế, i hoa của người đầu bếp
đưc th hin bằng hương vị rt Vit Nam.
Mi vùng trên đất c Vit Nam ngoài nhng đặc đim chung, li li m
thc riêng mang sắc thái đặc trung vùng đất đó. Đó phong tục, thói quen,
khí hu n a từng vùng. i chung, i riêng ng hòa trn khiến phong
cách m thc Vit Nam rt phong phú. Bên cnh nhng nét m thc rt bình
n, dung dị, đơn giản. “ẩm thc sang trọng”, song với đó lại “ẩm thc va
”, nng không nghĩa “ẩm thc vỉa hè” m giá trị, m hp dẫn. Người
Vit Nam ni tiếng bốn phương trong vic sáng tạo c món ăn, mi vùng
min li nhng cách chế biến món ăn khác nhau, ch thưởng thc khác
nhau, có những nét đặc trưng riêng và đặc bit.
Vài nét v văna m thc Nam B
Vùng đt Nam B vi địa hình thun li, kênh rch chng cht đã biến nơi đây
tr thành vùng đất màu mỡ, đa sinh thái giàu thủy hi sn. T nhng ngun
nguyên liu t nhiên phong phú ấy, người dân Nam B đã chế biến thành các
món ăn khác nhau m nên kho tàng văn hóa m thc Nam B đa dạng phong
phú.
Đối vi nơi đây, yếu t sông c gn như linh hn ca vùng đất màu m
y, sông nước mang li nguồn tài nguyên phong phú đi với văn a nói chung
văn a m thc nói riêng, góp phn tạo nét đặc sc riêng, tính phong phú và
sáng to ca kho tàng m thc.
Lch s hình thành văn hóa m thc Nam B
S hình thànhphát trin
Nói đến tính hoang tính sáng to trong văn hóa m thc Nam B nói
đến đặc tính ăn ung ca ngưi Nam B th hin trong vic ăn các món
nhiu ngun gc t t nhiên s chế biến các món ăn t t nhiên đó thành
các món khác nhau. Nói đến vùng đất Nam Bộ, người ta hay nói đến s trù phú
của vùng đất này v các ngun li t nhiên, vùng đất “làm chơi ăn thiệt”. Đại đ
là, thiên nhiên đây ưu đãi cho con người, con người không phi m lng nhiu
mà vn cái ăn, i mặc. Nhưng thực tế lch s đã chứng minh rng, không
phải lúc nào vùng đất y cũng ưu ái con người, khon đãi cho con người nhiu
ngun li t nhiên. trái li, ngay t bui đầu khai phá, nhng lưu dân đã
chiến đấu mt cách hết sc gian kh để khc phc rt nhiu khó khăn do tự
nhiên gây ra.
“…
Phn ln đt đai Nam B vào các thế k XVII- XVIII rng hoang c rm, trũng
thpnh lầy, n người lưu n ngoài vic đương đu vi s khc nghit ca
thiên nhiên n phi lo chng li các loi td, cá su, mui mòng, rn rết,
ng nhiu th bnh tt hiểm ác Đi b phận đất đai còn trong tình trng
sình ly, b ngp úng o mùa mưa, thiếu c ngt vào mùa k, nhiu vùng
phèn, mn nghiêm trọng, cnh là môi trường đ cho nhiu loi chut b, u
bnh phá hoi mùa màng phát triển”. Nhiều câu ca dao, chuyn k đã nói lên nỗi
lo s ca ngưi lưun thi by gi trưc mt khung cnh thiên nhiên cùng
l lm, hiểm đầy đe dọa:
Chèo ghe s su cn chưn
Xung sông s đỉa lên rng s ma.
Bui đu, khi nhng lưu dân đt chân lên vùng đất này thì thiên nhiên đây còn
rt hoang , rng hoang c rm, thú d hoành nh. Con ngưi cm thy l
lm trưc mt cnh quan thiêng nhn nơi quê cha đt t h chưa h gp
phi. vy, đ sinh tn, phương din ăn ung, h không tho ănc món
ăn truyn thng nơi quê nhà, bi nguyên vt liu,c ngun ơng thc h chưa
h quen biết, n c đầu gặp gì ăn ny, t nhng cây c trên bờ, con cá i
ng, con chim trên tricho đến các loài sinh vt khác. nh hoang dã trong
văn hóa m thc ca ngưi Nam B đã định hình t lúc y.
Điu d nhn thy nht tính hoang này người Nam B ăn rất nhiu rau.
Đây loại thc ăn sẵn ao hồ, vườn rung, rt d m, không cn thiết phi
chế biến, ch cn hái vào ra sch ăn đưc. Ngưi ta th ăn đủ các loi
rau, t rau đắng, rau dềnh, rau răm, rau thơm, b ngót, mồng tơi, rau tập ng,
ci xanh, ci tri, tía tô, hành, h, ngò gai, ngò
rí…
đến các loi cây, đọt cây, các
loại bông, như: bông điên đin, nèo, đọt vng, xoài, cách Trong danh
mc này, th dùng để ăn sng, th dùng để nu canh, th luc lên
chm vi cá kho, thịt kho, hay nước chm.
“Hi ấy, chưa đủ thi gi để nuôi gà, vt, heo. Vic chăn nuôi đòi hỏi nhà ca n
định, cũng như ta chưa nghĩ đến vic trng rau tươi, hoc chăng vài cây t,
bi s. Bi vậy, người đng bằng Sài n ăn đủ th rau. Rau o ng ăn,
“không bổ b ngang cũng bổ b dọc” gọi cho gọn “rau rừng”. Ăn cho vui
ming, min là không chết. Nào đọt bn, trái bần chín, đọt chùm rut, bông súng,
ng điên điển, bn bn, rau da, rau ng, o nèo, lục bình, đọt xoài, trái xoài
non, đọt ổi, đọt m nguội, đọt chiếc (chiếc loi cây nh vùng nước l, gn Sài
Gòn hãy còn tên cu Rch Chiếc), i chua, thm chí trái da non cũng xt ra làm
rau”.
Đối vi các loài thy hi sn, ngoài c loi , m bt ao, đìa, ngưi ta còn
ăn cả các loài mang tính hoang dã, như: con còng, con cua, ba khía, chut, cóc,
nhái, ếch, a, rắn, lươn, le le, dơi… thậm chí người ta còn ăn cả mt s loài
côn trùng như: cào cào, dế na.
Nhưng ni bt n hết trong tính hoang này chính i trường ca vic ăn
ung. Ni Nam B thường ti quen chế biến món ăn ăn ngay ti ch,
n nh hoang đây th hin vic các món ăn gn vi không gian ca mt
khonh n, đám rung, b ao. n c ng trui mt minh chng cho
điu này, hoc mt nồi canh chua các đưc nu ngay sau buổi t đìa cũng
th hin điu đó. Bi vì, mi th đu cây nhà n. Tát đìa xong, ni ta
la nhng con lóc to, đem nu canh chua. Mi th rau, như: bc hà, ngò om,
chua,
ớt
đều có sn miếng n kế bên, kng phi ra ch mua. Khi
chín, ch vic cht chui tươi để xung lót ni đng cá, đâm thêm mt chén
mui t để chấm cá là đã có được mt món canh chua cá lóc khoái khu gia
đồng rung mênh mông. Mi ngưi gom li, đưa cayi x đế, t vi nhau vài
u vng c, cuộc đời chưa hẳn ai đã ng n ai. Hay món cào cào rang
chng hn, ni ta ch vic ra rung bt càoo, đem v lt cn, móc ruột
cho o cho rang, nêm ct gia v đã mt món ăn ri. Nng ng mt
s món ăn hoang Nam B chưa hn ngon, nng cũngphn do l
mà hp dn.
Tính sáng to trong cách chế biến món ăn ca ngưi Nam B
Cuc sống con người gi đã ổn định, người ta không phi vt v với cái ăn, cái
mc na. Do đó, t ch ăn để tn ti, ngưi ta đã nghĩ đến ăn m sao cho
ngon, và tính ng tạo trong ăn uống đã bắt đầu hình thành giai đoạn này.
Tính sáng to đây đưc th hin vic con ngưi chế biến ra các món ăn
khác nhau. Vic chế biến này được nhìn nhn hai phương diện.
Mt là, một món ăn, người ta th chế biến bng nhiu loại động thc vt khác
nhau. Ch mt món kho, ngưi ta th kho vi các loài động thc vt, hoc
thy hi sản khác nhau để tạo ra các món ăn khác nhau, với các ơng v khác
nhau. Nào là: lóc kho, trê kho, hn hn kho tiêu, sc kho, chch
kho, kho, lòng ng kho… còn c kho da kho na. Ngay ch
một món kho thôi, người ta cũng nhiều cách kho khác nhau, như: kho tiêu,
kho t, kho qut, kho khô, kho mn, kho riu…
Hai là, ch mt loài sinh vt, người ta cũng thể chế biến ra nhiều món ăn khác
nhau, với ch m khác nhau hương v cũng khác nhau. Ch mt loi lóc,
mà người ta th chế biến ra hơn 20 món khác nhau: “khô lóc nướng, khô lóc
phay trn gỏi, khô lóc chưng tương gừng, khô lóc nu choi bn, mm lóc
sng trn gi, mm lóc kho lng, mm lóc chưng nguyên con, mm lòng trn gi
đu đủ phơi se, mm lòng chưng nồi m, canh chua tuyền cá lóc, canh chua đầu
lóc, lóc luc m, cá lóc um nhào - đậu phng- c ct da, cá lóc um
khoai rạng, lóc nướng trui, lóc nướng lèo, lóc kho nước da, lóc kho
tương gừng, lóc kho ba ch - ht vt, lóc kho mm mn phi hành ti, lóc
chiên thường, lóc chiên cháy vy, lóc xào ơt xanh, lóc xào nh, lóc
xào c kiu, c xào c ngh, lóc xào cách - nhào, lóc xào tái thp
cm th mc, lóc ng phết m hành, lóc bt đất đốt, lóc đốt u,
đầu lóc hấp u mềm xương, đầu lóc nu xáng lu, đầu lóc m nhỏ
di bng chut đồng hp, t pín lù cá lóc, cá lóc xông xt mỏng nhúng rượu gc,
lóc luc cuốn nh tráng rau thơm, lóc luc tái trn da - đậu phng rang,
cháo lóc, bánh canh lóc, bún nước lèo lóc, bún Huế lóc, lòng
lóc xào gng non, lòng lóc phay trộn nhăm bắp chui, lòng lóc luc k
trn mm lòng đu đủ, lòng ng kho lt, lòng ròng kho tiêu, lòng ng
kho qut…”. Nhìn vào bảng thực đơn y, chúng ta không khi khâm phc tính
sáng to trong vic chế biến ra các món ăn cùng phong phú của ngưi Nam
B
NÉT ĐC TRƯNG V VĂN HÓA M THC NAM B
Nhng đặc trưng truyn thng v văn hóa m thc Nam B
Trong ca dao, tc ng Việt đã có i rất nhiu đến việc ăn uống. Ví d như
trong t đin thành ng Vit Nam vi khong 10.000 câu đã 1187 câu i v
ăn uống, hay mượn chuyn ăn uống đểi v đời.
Do đặc điểm địa hình sinh hot kinh tế, văn hóa Nam B đã định hình
nn văn minh sông nước, đó nguồn lương thực - thc phm chính lúa,
rau qu k c các loại rau đồng, rau rng. T s phong phú, dật y mà tri
sut quá trình khai hoang dng nghiệp, món ăn, thức ung hàng ngày của ngưi
Nam B cho trong hoàn cnh o, thiếu thn đạm bạc, hay đầy đủ, h không
th không tiếp tc khám phá sáng to nhiu phương thc nuôi trng, đánh
bt để chế biến vô s miếng ngon mt cách có bài bn t những đặc sn của địa
phương.
Đặc trưng ca giao lưu văn hóa Nam B.
Với phong cách thưởng thức mùa o thức nấy” quan niệm “ăn để mà
sống” hầu đủ ng cht tái to sức lao động, h đã tỏ ra rất sành điệu trong
vic phi hp các yêu cu cao nht ca miếng ăn: thơm, ngon, b, khe. Câu
nói “ăn đưc ng đưc tiên rt đưc ngưi Nam B quan m, xem trng,
cho nên ngồi vào bàn ăn, khi ch nhà gii thiu món nào, tht hay rau
qu, k c u, h thường nhắc nói: ăn món này b xương, hoặc tr suy dinh
ng, b gan, b phi...; u thuc này gii quyết đưc bnh “tê bi” nhc
mỏi; tráng dương, bổ thận v.v... Và không quên “động viên” gắp đũa nằm, hoc
dùng mung múc (mi đưc nhiu), c t nhiên, hãy ăn thit tình “đng mc
cỡ”, thậm chí ép ăn! Dùng ba, thấy khách ăn nhiều, ngon ming ch nhà không
th không cm thy sung sướng, hài lòng.
Khu v của người Nam B cũng rất đặc bit: ra ny! Mn thì phi mn
quéo i (n c mm phi nguyên cht nhiu, chm mi “dính”; kho
qut phi kho cho cát tức đóng váng muối); ăn cay thì phải gng già, cũng
không th thiếu t, mà t thì chn loi t cay xé, hít (cn trái t, nhai mà môi
không git git, l tai không nghe kêu cái rắc”, hoặc chưa chảy nước mt thì
ng như chưa... đã!).
V nơi ăn, vi nhng ba cơm thưng ngày trong gia đình thì tùy điu
kin không gian căn nhà rộng hay hp mà b trí hp lý: hoc trên n, hoc
ngay trên sàn nhà. Nếu bn thân r nhau nhậu chơi thì thể trải đệm dưới
gc cây trong sân vườn hay ngoài đồng, tùy thích. Nhưng khi nhà đám tic thì
không xu xòa bày bin c bàn rt nghiêm chnh trong tinh thn quý trng
khách mi, tạo n t văn hóa rất riêng mà cũng rất chung, hài hòa gia phong
tc truyn thng với đặc điểm văn minh vùng sông nước, hu từng bước hoàn
thin nền văn hóa m thực độc đáo. Độc đáo đã biết tn dng, khai thác và
chế biến “của tri cho” mt cách kp thời theo “đơn vị tính” thời gian tháng”,
“ny” thậm chí “giờ”. Thật đúng như thế nếu ai đó vùng đầu ngun, vic
phải đi xa nhằm vào tháng mm hoc linh non xut hiện thì đành phải chu
nhịn, sau đó chừng mt tháng mm đã lớn thành m, linh non cũng
thế. Hoc trong mt năm mi đưc my ngày ra” (nưc trên đồng git
cn, rút xuống kinh, mương đ ra sông), nếu người sng ngh đánh bắt thy
sn không chun b kp mi việc để chn bắt thì xem như m y b tht thu
ngun li lớn. Rau trái cũng không khác. Đc biệt đối với rau, như bông điên
đin, rau da, rau mung... nếu hái mun, t c tri đã trưa nắng đến chiu s
không giòn, mt ngon, chức ng kích thích thèm ăn, ngăn chng lão a ca
rau do đó cũng bị gim rất đáng kể.
d: Ni canh chua của ngưi Nam B mùa ng thì dùng vi bc ,
đậu bắp, cà chua còn mùa mưa thì thể thêm các loại rau như bông súng, điên
đin, lục bình, kèoo… Trong dp l tết thì h ăn bánh tét, dưa món, củ kiu.
Nói đến văn hóa m thc Nam B mà không nhắc đến miếng tru” cả
mt s thiếu sót, bởi đó chính nét lớn mang tính truyn thng chung nht ca
n tc Vit Nam trên c ba min. Tht vậy “miếng tru” từ hàng nghìn năm,
vẫn được dân tộc ta đặc bit quý trng, bởi Trầu cau nghĩa, thuốc xỉa tình”
cho n trong giao tiếp người ta luôn trnh trọng đặt v trí “đầu câu chuyện”,
k c chuyn n nhân quan trng nht đời ca một người (“Một miếng tru là
u nhà người”). Họ ghin trầu đến nỗi “Miếng h gng, miếng động quan”,
người xưa từng “đặt vè”, cảnh giác “Nhịn thuc mua trâu, nhn tru mua
ruộng”.
Trong ăn uống của người Nam B thưng thiên v hình thc. Ngoài các
tiêu chí v an toàn v sinh thc phm, món ăn Nam B còn th hin s dân dã,
mc mc, cht phát ca người dân Nam B. Khi thưởng thức các món ăn của
ngưi dân Nam B thc khách không ch thy ngon mà còn phi trm tr khen
đẹp mt v cách sp xếp, trang trí món ăn ca người Nam B. Chng hạn như
đĩa nh tét chữ ca Nam B, nhng miếng bánh tét phi còn nguyên vn không
t, và ch phi hiện rõ nét được xếp ngay ngn trong đĩa.
Bên cnh nhng món ăn thuần túy của ngưi Vit Nam thun túy, rt
nhiều các món ăn ca Trung Hoa, Campuchia, Ti Lan đã trở nên quen thuc
với người Nam B n nh bao, hủ tiếu, xíu… các món ăn này đã đưc
ngưi dân Việt Nam nói chung người dân Nam B nói riêng đã chọn lọc đã
tr thành nhng món ăn phổ biến được s dng rng rãi.
Nhng yếu t nh ng đến văn hóa m thc Nam B
V trí đa
Nam b đưc mnh danh x s ca nhng dòng sông, nơi khong
54.000 km chiu dài sông, rạch. đâu đâu cũng đất rộng sông i, i nào cũng
kinh rch chng cht nhiu lung, hồ, búng, láng..., không nơi nào không nhung
nhúc cá, m, rn, cua, a, ếch... đã vậy còn c rng già, rừng thưa, đầy dy
chim mng, thú to, thú nhỏ. Phía y thì m non bảy núi” trập trùng, không
biết man nào “sơn hào”, còn phía n thì biển Đông, biển Tây, toàn “hải
vị”! Chính yếu t sông rạch đã p phần quan trng vào cuc sng ca người
n nơi đây.
m thc tiếng ng khái quát i v việc ăn uống. Văn hóa m thc
bao gm c cách chế biến, bày biện thưởng thc từng món ăn, thức ung, t
đơn giản, đạm bạc đến cu k m v. Chung nht vậy, song khi nói đến văn
hóa m thc mt vùng/miền nào đó thì nhất thiết phi i lên “đặc điểm tình
hình” mi th nêu được bn sắc n hóa đặc trưng cụ th ca vùng/min y.
Nam b đưc mnh danh x s ca nhng dòng sông, nơi khong
54.000 km chiu dài sông, rạch. đâu đâu cũng đất rộng sông dài, nơi nào cũng
kinh rch chng cht li lm lung, hồ, búng, láng..., không nơi nào không nhung
nhúc cá, m, rn, cua, a, ếch... đã vy còn c rng già, rừng thưa, đầy dy
chim mng, thú to, thú nhỏ. Phía này thì “năm non bảy núi” trập trùng, không
biết man nào “sơn hào”, còn phía n thì biển Đông, biển Tây, toàn “hải
vị”! Chính yếu t sông rch đã góp phn quan trng vào cuc sng ca ngưi
dân nơi đây.
Nam b đưc chia làm 2 vùng:
+ Đông Nam b Gm:
. Ria
Vũng Tàu, Binh Dương, Bình Pc, Đng Nai, Tây Ninh, Ph
HCM
Phía Bc phía Tây giáp vi Campuchia
Phía Nam và Tây Nam giáp vi Đồng bng sông Cu Long
Phía Đông Bc giáp vi Tây Nguyên
Phía ĐôngĐông Nam giáp vi Nam Trung B Bin Đông
+ Khu vực Đông Nam B các sông lớn như hệ thng sông Đng Nai,
sông Sài Gòn, sông Th Vi...Sông Sài Gòn sông Th Vải nơi tập trung các
cng chính ca khu vực như cảng Sài n, cng Cái Mép, cng Th Vi.
Đồng bng sông Cu Long mt b phn ca châu th sông Kông
din tích 39.734km². v trí nm lin k với vùng Đông Nam B, phía Bc giáp
Campuchia, phía Tây Nam vịnh Ti Lan, phía Đông Nam Biển Đông. Vùng
đồng bng ng Cu Long ca Vit Nam đưc hình thành t nhng trm tích
phù sa bi dn qua nhng k nguyên thay đổi mực nước bin; qua tng giai
đon kéo theo s hình thành nhng ging cát dc theo b bin. Nhng hot
động hn hp ca sông biển đã hình thành những vạt đất phù sa phì nhiêu
dc theo đê ven sông ln dc theo mt s ging cát ven biển đất phèn trên
trm tích đầm mặn trũng thấp như vùng Đồng Tháp Mười, t giác Long Xuyên
Tiên, tây nam sông Hu và bán đảo Cà Mau.
Đây vùng khí hậu cận ch đạo vùng nên thun li phát trin ngành
ng nghiệp (mưa nhiều, nắng ng) đặc bit phát trin trng lúa nước và cây
lương thc .
a trng nhiu nht các tnh An Giang , Kiên Giang, Long An, Đồng
Tháp, Sóc Tng, Tin Giang. Din tích sản lượng thu hoch chiếm n 50%
so vi c c. Bình quân lương thc đầu ngưi gp 3 ln so vi lương thc
trung bình c c. Nh vy nên Đồng bng sông Cu Long nơi xut khu
go ch lc ca c đất c. Ngi ra vùng này còn trồng mía, rau đậu, xoài,
da, su riêng, cam, i ...
Ngh chăn nuôi cũng khá phát triển như trâu , bò , vt .... Tu ch đưc dùng
nhiu cho cày cấy , dùng để ly tht. Vịt được nuôi nhiu nht Bc Liêu, Cà
Mau, T Vinh, Vĩnh Long, Sóc Trăng. Gia súc nuôi đây không được nhiu
cũng tnh bình quân nuôi thp nht c c
Do b bin dài sông Kông chia thành nhiu nhánh sông , khí hu
thun li cho sinh vật dưới c, kênh rch cht cht , nhiu sông ngòi , đem
li ngun thy sn thức ăn cho cá, nhiều nước ngt nước l nên thích
hp cho vic nuôi trồng đánh bắt thy sn , sản lượng thy sn chiếm 50%
nhiu nht c tnh Mau, Kiên Giang, An Giang
.Ngh nuôi trng tôm xut khẩu đang phát triển mnh. Tôm tp trung rt
gn b d nuôi nên đánh bắt rt thun tin
Ngh rừng cũng giữ vai trò quan trọng, đặc bit trng rng ngp mn ven
biển Mau, đảo Phú Quc, quần đảo Th Chu , hòn Khoai . đây nghề gi
vai trò trong vic bo v môi trường, sinh hc, các loài sinh vt môi trưng
sinh thái đa dạng.
Khí hu
Vùng đất Nam Bnằm trong vùng khí hậu nhiệt đi gió mùa, ít nhiu chu nh
ng của khí hậu xích đạo, nhiệt độ cao đều trong m. Khí hậu đây chia
thành hai mùa dệt mùa khô t tháng 11 đến tháng 3, mùa mưa từ tháng 4 đến
tháng 10. Nhng đặc đim v t nhiên này góp phn quan trng trong việc đem
li ngun
nguyên
liệu phong
phú cho m thc Nam Bộ.
Chính điều kin khí hậu nên người Nam B mới câu“ăn theo thuở, theo
thời” hay nói cách khác người địa phương tận dng nguyên liu theo tng mùa.
Mi mùa nước nổi cũng mùa linh, mùa đông ng điên đin, thiên lí, bông
súng, su đông Còn đến mùa gặt, ngưi dân li hội thưởng thc nhiu
món ngon t lóc, cua đồng, rau đắng…
Con ngưi và truyn thng
Tính hoang hào phóng:
Điu kin thiên nhiên ưu đãi dn hình thành nên tính cách hào phóng, hiếu
khách trong tp quán ăn ung ca người dân Nam B. Điu này cũng đưc
Trnh Hoài Đức nhn định: “Ở Gia Định ngưi khách đến nhà, đầu tiên gia
ch dâng tru cau, sau ng tiếp m nh, tiếp đãi trọng hu, không k ngưi
thân quen l tông tích đâu, t đều thâu np khon đãi; cho nên ngưi đi
chơi không cn đem tin go theo, li nhiu ngưi lu xâu trn thuế đi
đến x này n p, bi ch dung dưỡng vậy”. Chính đi đến đâu cũng m
được lương thực, thc phm đa dạng nên các món ăn Nam B cũng phong phú,
mang đậm phong cách thoi mái, phn o phn ánh li sng t nhiên, khoáng
đạt, hoang của người n nơi đây. Mặt khác, do phi gng mình để chng li
s khc nghit, thiếu thn ca cuc sống i vùng đất mi thu còn hoang sơ,
him tr, những con người dám ri b quê hương, không còn cách nào khác
xích li gần nhau, ơng tựa vào nhau khi khó khăn hon nn. Tính hào phóng,
hiếu khách trong tập quán ăn uống ca ngưi dân Nam B vậy mang ý nghĩa
c v vt cht ln tinh thn, bt r sâu trong lòng nhng giá tr truyn thng nhân
văn của dân tc.
Tính dung hp:
Người Nam B rt sáng to trong m thc, bt ngun t s dung hp
nhng đặc trưng văn hóa khác nhau ca nhng cng đồng ngưi cùng sinh
sng trên mảnh đất này. Đó cách x hài hòa quan h gia thiên nhiên và
con ngưi của n i đây. Dung hp s hòa lẫn vào nhau để hp thành
mt th thng nhất. Đặc điểm này th hin rất trong văn hóa m thc ca
vùng đất Nam B. Bi đây vùng đất khẩn hoang, đa s dân miền Nam
ngun gc t min Bc hoc min Trung (vùng Ngũ Qung), hòa nhp ng
cộng đồng người Khơme, Hoa, Chăm, vậy, văn hóa i đây mang tính dung
a, dung hợp là điều d hiu.
Tính dung hp trong văn hóa m thc Nam B th hin trước hết s
pha trộn văn hóa m thc các vùng min Việt Nam. Theo nhà văn Sơn Nam,
ngưi dân Nam B khi m c món ăn cúng gi ông t tiên vn chú ý đến
các món ăn truyn thng Bc B, Trung B như: thịt hm, tht luc, món xào,
thịt kho… Tuy nhiên, do lượng lương thực, thc phm nhiu, các món ăn t c
vùng min khác khi du nhập đến đây được phát trin ci biến mnh m. Si
n t min Bc, khi vào đến min Nam, tr nên to n, đặc bột hơn, trở thành
món bánh canh. Chiếc bánh tráng ca min Trung vào đến min Nam cũng
đưc thay đổi, thêm nhiu mùi v hơn, đưc chế biến theo nhiu cách khác
nhau. n bánh xèo khi dng chân vùng đất Nam B cũng to hơn, nhân bánh
đa dạng, phong phú hơn, thêm giá, đậu xanh, nước ct da, nhiu tôm thịt, ăn
kèm rt nhiu loại rau… Đó chính mt phn ức văn hóa mà người dân Nam
B mang theo khi khai hoang, định cư ở vùng đất mi y.
Bên cnh s phát trin t văn hóa m thc của người Vit Bc B
Trung B, m thc Nam B còn chu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa m thc ca
cộng đồng người Khơme, Hoa, Chăm Vi tính cách o hip, phóng khoáng,
trên nn tng của điều kiện thiên nhiên ưu đãi, người Nam B tiếp tc thu nhn,
ci biến những món ăn thức ung ca các tộc người cộng cư, làm phong phú
thêm kho tàng m thc ca mình. Tác gi Hoàng Xuân Việt đã gọi đây tính
“tng hóa = tng hp và biến hóa” trong ẩm thc Nam B.
Tính dung hợp trong văn hóa m thc ca người Vit Nam B còn th
hin s nh ng t các nn m thc khác như: Trung Quc, Thái Lan,
Pháp, Campuchia… Đây đim khác bit so vi văn hóa m thc ca ngưi
Vit min Bc. Rt nhiều món ăn thức ung ngun gc t Trung Quốc như:
h tiếu, phá lấu, chao, hoành thánh… chỉ mt Nam B, ít xut hin min
Bắc. Người min Bắc cũng không sử dng phê vn thc ung theo chân
ngưi Pháp vào Vit Nam mt cách thưng xuyên như ngưi min Nam, thay
vào đó các loại c ung c truyn ca n tc như: chè, nước vi. Người
min Bc thích ăn bánh chưng, bánh y, bánh giò, nhng th bánh dân tc;
trong khi đó, Nam B, khu v ca ngưi dân ngoài nhng th bánh quen
thuc còn nh flan, bánh gato, các loi bánh ngt vn không phi nhng
th bánh truyn thng. Các món ăn ca ngưi dân Nam B thường đặc trưng
bi v ngt ca đưng, c da, c ct da, thói quen du nhp t văn hóa
m thc n Độ, Ti Lan. Vic du nhp các loi thức ăn nhanh cùng với phong
cách phc v m thc chuyên nghiệp, đã thể hin s nhanh nhy của văn hóa
Nam B nói chung, văn hóa m thc nói riêng trong quá trình tiếp xúc giao lưu
vi các nn văn hóa phương yTất c nhng điu đó khiến cho m thc
ng đất cc nam ca t quc mang v phong phú, đa dng n bt k vùng
min nào c ta.
Tính năng đng phá cách
nhng lưu dân đi m cõi, khai phá n tính cách ca người Vit Nam
B ngoài s hiếu khách, o phóng còn ng động, thích phiêu lưu, thích cái
mi. Khác vi Bc Bộ, nơi người dân ưa thích s ổn định, ngưi n Nam B
thưng không chp nhn s ng buc theo mt trt t, khuôn kh o đó. Họ
sn sàng chp nhn cái mi, gia nhp cái mới vào nh trang văn hóa ca mình
như một phương thức để tn ti, phát triển trong điều kin mới. “Nói chung họ
nhng ngưi lp i không chu ni s áp bc nh trng nghèo kh
ca vùng quê đặc bit cc Nam Trung B đã đi tìm mt cuc sng khác
Nam B. Chính h cũng phải mt tinh thần can đảm xa ri nhng giá tr c
truyn mt chút tính cách phiêu lưu ca nhng ngưi “khai sơn trăm thảo”,
m đường đến mt chân tri mới”.
Điu y th hin qua nhng giá tr văn a m thc vùng đt Nam
B. m thc s gia gimo bo, sn sàng cho thêm các ph gia mi m đ
làm mi món ăn làm mi khu v. Đây cũng mt đim khác bit so vi m
thc min Bc, i luôn bo th, nghiêm ngt trong cách chế biến, s dng gia
v. S phá ch đã m cho nhng món ăn Nam B dù ngun gc t mi
min t quc nhưng li mang nhng màu sc mi. Nếu con min Bc
không chp nhn th lá nào kc ngoài lá chanh tcon gà min Nam sn
ng đón nhn nhng gia v khác (lá giang, s, đinh lăng, rau răm). Món canh
chua cũng nhiều biến th khác nhau, tùy vào điều kin nguyên liu c th ca
từng địa phương. n canh chua (cá) ca Nam B: canh chua lóc, canh chua
linh bông súng, canh chua bông điên đin, canh chua bông lau, bông
so đũa, canh chua cá kèo lá giang, canh chua khô cá sc, khô cá daMón
n riêu ca ngưi min Bc vi nguyên liu đơn gin ch chua, cua đng
(có th thêm đu chiên) thìn riêu ca ni Nam b li thêm rt nhiu
nguyên liệu n: huyết heo, ch, giò heo, ốcNn chung, ngưi Vit Nam
B luôn tìm cách đổi mi món ăn, t ngun liu đến cách chế biến, cách dùng
ph gia ít khi đúc kết mt món ăn nào đó thành công thc định sn n m
thc min Bc.
V ng x trong ăn uống, nếu như văn a m thc Bc B mang tính tôn
ti, chun mc do chu ảnh hưởng sâu sc ca Nho giáo, thì Nam Bộ, đặc điểm
y tr nên m nhạt hơn nhiều. Xét t ci nguồn, văn hóa Nam B văn hóa
ca nhng lưu dân mà đa phần nông dân, th th công nghèo, binh lính đào
ngũ hoc gii ngũ, nhân b lưu đày, nhng ngưi trn binh dch... Chính
vy, trong ăn ung, ngưi Vit Nam B gn như không b ràng buc bi
những quy định, phép tc, l nghi mang tính tôn ti, chun mc. Chng hạn như
món c nướng trui, ngoài vic th hiện không gian dân dã, khoáng đt ca
việc ăn uống còn mang đậm cách ng x thân tình, bình đẳng của người n
vùng đất y. “Một nét văn hóa thú vị đây thực khách không ch gm
nhng người lao động tát đìa chủ đìa cá, mà tất c nhng ai mt ti ch
đều đưc mi tham d cuc vui, t ngưi ch bt hôi đến ngưi đi coi chơi,
t ngưi ln đến em mc đồng… vi không khí bình đẳng, dân ch đầy p
tình người”.
Văn hóa Nam B mang trong mình những nét văn hóa va truyn thng,
va hin đại, va thng nht, va đa dng, va thun Vit, va không thun
Vit. S phát trin mnh m của văn hóa m thực vùng đất y, xét v mt
phương diện nào đó, sự tích y của nhng giá tr m thc truyn thng ca
n tc Việt Nam đã được vun đắp qua hàng năm lch s, cng vi cht xúc tác
điều kin thun li v t nhiên hội con người, Nam B đã mang đến mt
din mạo văn hóa m thực đặc trưng trong tiến trình lch s văn a dân tc Vit
Nam.
Vai trò ca văn hóa m thc đối vi vùng đất Nam B
Trong đi sng:
Hiển nhiên, để duy trì s sống, ăn uống luôn vic quan trng. Tuy nhiên,
quan nim ca con ngưi v chuyn này thì khách nhau. Ngưi phươngy coi
ăn chuyn tm thưng không đáng nói. Ni Vit Namng nghip ci tính
thiết thc thì, trái li, ng khai nói n rng: Có thc mi vực được đo. Nó
quan trng ti mc Tri cũng không dám xâm phm: Trời đánh tnh ba ăn.
Mi hot đôngj ca ca ngưi Vit Nam nói chung Nam B nói riêng đu ly
ăn làm đầu: ăn ung, ăn , ăn mc, ăn nói, ăn ci, ăn hc, ăn tiêu, ăn ng, ăn
cp, ăn trộmNgay c khi tính thi gian đều lấy ăn ung và cy trng làm đơn
v, làm nhanh thì khong gip tru, lâu n mt ct chin ni cơm, còn o
i tới hàng năm thai mùa a, mi gtr (lương, thuế, học phí) đu qui ra
go.
Ăn uống văn a, chính xác n, đó văn hóa tn dụng môi trường t
nhiên. Cho nên, s không ngc nhiên khi n nền gc du mục ( như
phương Tây hoặc bc Trung Hoa) li thiên v ăn thịt, còn trong cấu bữa ăn
của ngưi Vit Nam thì li bc l rt dấu ăn của truyn thống văn hóa nông
nghiệp lúa nước: cơ cấu bữa ăn, nguyên liệu làm ra món ăn, món ăn chính.
Trong du lch
Trong những năm qua s đóng góp của du lch Nam B vào s phát trin
kinh tế - hi Nam B gia tang đáng k. Nếu như năm 1991 tổng GDP ca du
lch mới đạt được 18,36 triệu USD, thì đến m 1995 đã đạt 67,12 triu USD. Và
theo s tính toán thì tng USD ca du lch s càng ngày càng tang. S phát trin
ca du lịch đã kéo theo sự chuyn dịch cơ cấu ca nn kinh tế ca Nam B.
Phi nói rng, công cuc công nghip hóa, hiện đại a Nam B v c
c , đang đưa Nam B vào mt c ngot mi. Thng li ca công cuc
y s nâng tm vóc Nam B lên bình din mi, vi nhng tin hoa thanh lch
hiện đại. S phát trin ca các ngành kinh tế, đặc bit du lịch đã ảnh hưởng
đến ngh thut m thc Nam B.
Trong mt chuyến đi, chi tiêu ca khách du lịch nh cho lưu trú ăn
ung nhu cu không th thiếu. Theo như s liệu đã thống kế ca Vin Nghiên
cu phát trin du lịch thì vào m 1995, trung bình mi ngày khách quc tế đến
Vit Nam chi tiêu khong 70 USD. Phn ln ngun chi tiêu ca khách tp chung
vào lưu trú ( chiếm 50,17 %) ăn uống ( chiếm 19,6 %) sau đó mua hàng lưu
nim ( chiếm 13,34%), l hành vn chuyn ( chiếm 9,55 %) và các dch v khác (
chiếm 8,34 %). Tuy nhiên, vic chi tiêu y li có mt gii hn nhất định. Vì vy,
mun tang ngun thu thì phi nâng cao ăn ung lên thành vic thưởng thc
ngh thut m thực. Điều này đã đucợ thực khách sành ăn như Tản Đà đúc kết:
“Ăn cái gì? Ăn như thế nào? Ăn đâu?”
Với tiêu chí đó,muốn ph biến văn hóa Nam B - Việt Nam đến vi mi
ngưi trên khp các vùng min ca đất c cũng như khách c ngoài đến
vi Vit Nam thì ngoài các hoạt động tuyên truyn qung cáo bằng văn hóa
phm, tham quan di tích lch s thì văn hóa m thc cũng mt phương thc
tiếp th hiu qu. như dân ta đã từng đúc kết: Miếng ngon nh lâu”. Thông
qua việc thưởng thc ngh thut m thc, khách du lch th hiểu đucợ v
phong tc, tp quán, li sng, li nh x cũng như vnw hóa của nơi đó. Điều
y s tạo được ấn tượng tốt đẹp cho du khách, m cho h thy chuyến đi của
mình ý nghĩa. Bi mt trong nhng mục đích của du lch m rng tm
hiu biết, thấy được nhng điều mi l tại điểm đến. Đây cũng thể coi như
mt yếu t thu hút khách, to thành sn phm du lịch đặc bit, s hp dn
trong chuyến đi. Mặt khác, việc thưng thức các món ăn ngon cũn dịp để thc
khách ly li sinh lc cho th để tham gia trn vn thưởng thc đưc
những đặc sắc trong chương trình du lch.
Mt vài món ăn đc trưng vùng đất Nam B
Canh chua cht: Long An một món ăn hết sức độc đáo tên
canh chua cht. Làm nên hương v ngt ngào cho món canh chua cht thì
không th thiếu nguyên liu chính nhng chú cht phn thịt thơm ngon,
phn trng bùi và béo ngy.
Bánh tét Long An: Bánh tét th trấn Đức Hòa t lâu đã trở thành mt
trong những món ăn đặc sn ni tiếng Long An. Bánh tét Đc Hòa ngon bi
để làm được 1 phn bánh tét Đức Hòa đòi hỏi người nu bánh phi tht t m t
khâu chn nguyên liu go, tht ba rọi, đậu xanh… để nu bánh.
Đuông dừa: Đuông dừa hay sâu da mt loi côn trùng sng nhiu
trong thân cây da. Bến Tre thì đuông da thường được ăn sống trong chén
mm t. Nếu không ăn đuông da sng đưc thì du khách th kêu món
đuông da chiên bt hoc đuông da ng… để d ăn hơn.
tai ng chn xù: Hu hết các đám tic đưc t chc mit n,
trên bàn ăn người ta tng thy nh nh mt con tai tượng chiên chù vô
ng thơm ngon, hp dn. Nếu “tín đồ” ca món ăn này t khi đến nh Long,
du khách đừng nên b l. tai ơng chiên mt màu vàng óng , trông vô
ng bt mắt. Khi ăn vào, thc kch s cm nhn được đ gn rm ca b
ngoài da cá, vy cá, v ngọt thơm ca tng th tai ng thường đưc
ăn kèm với các loi rau, ci.
H tiếu Sa Đéc: Cũng với công thc chung khi nu h tiếu, cũng với các
nguyên liệu như tôm, thịt heo, trng cút, xíu, gan, thịt xay… nhưng người dân
Đồng Tháp quyết nu riêng n c ngt trong mùi thơm quyến rũ.
Đến Đồng Tp phi th mt h tiếu Sa Đéc mi thy cm thy sng khoái.
Bánh tm ngan dừa: Món y thường được ăn m vi xíu mi, tht ba ri
gan heo băm nhỏ. Mt đĩa bánh tằm ngan da ngon phi si bánh ngon
cng vi các gia v ph tr khác như đưng, ti, hành phi, tiêu… Cho bánh tm
lên dĩa, sau đó cho xíu mi, tht ba gi, gan heo, chút rau thơm, giá sng ri chan
c xt lên trộn đều là có ngay món nh tm ngan dừa thơm ngon.
Lu mm Cn Thơ: Nhiu ngưi nói mun thưởng thc đầy đủ các
hương v hay các món ngon min Tây thì cách nhanh nht th lu mm.
Thường lu mm Cần T gồm nước lèo a s được nu t mm linh,
st, trèn, lóc hoc rô…). Mt ni lu ngon thì c lèo phi
chuẩn.Và ăn kèm với lu không th thiếu các loại rau xanh và bún tươi.
Thc trng văn hóa m thc Nam B hin nay
n ăn:
Nam B mt trong những đầu mi giao thông quan trng ca c c.
Cùng vi nhng chính sách đầu của nhà nước trong vic phát trin hoàn
thin c s h tng giao thông vn ti Nam B ph cn to thun li thúc đẩy
s thông thương hàng hoá, làm cho thực phm phc v cho m thc ca th đô
ngày càng đa dạng phong p hơn. Nam B bây gi hàng trăm loại quà
ngon, mỗi mùa đều th quà riêng bit, hết mùa muốn ăn thì cũng được
nhp khu t những nơi khác v. Chúng ta không chi t c món rau qu mi
như: xu hào, bắp cải, xúp lơ, lách ... bằng cách Vit Nam hoá tên gi và cách
chế biến như từ nm đu đủ, hoa chuối, đến nm xu o thịt khô, như bún
riêu ăn lẫn vi rau lách thái hay rau diếp ca t tiên ta ngày xưa, xu hào luộc
chm vi mm cá, trn cà rt ca Tây với đu đủ ca ta...
Sau thi k ảnh hưởng văn hoá m thc Trung Hoa, văn hoá m thc Vit
Nam
nam B li chu ảnh hưởng ca văn hoá phương Tây qua văn hoá Pháp
vi nhng món ăn: Sa các sn phm t sa (sữa, (Beurre), pho mát
(Promage), bánh m (nhng thế h trước gi bánh Tây), pa (paté), c
st (sauce).
Tt nhiên còn nh ng ngoi lai nhng nhân t ngoi sinh khác
như: cà ri (Ấn Độ), Kim chi (Hàn Quc), gi cá (Nht Bn).
Hin nay thực đơn trong các nhà hàng khách sn ti Việt Nam cũng như
Nam B thường chia ra thành các món ăn Âu, món ăn Á, món ăn Việt Nam. Điều
đó cho chúng ta thấy được s phong phú đa dạng của các món ăn. Người Nam
B hay khách du lch th thưởng thc rt nhiu món ăn ngon đặc sc khi
đến vi Nam B.
Bên cnh mt tích cc mà hi nhập đem lại thì cũng đặt ra cho m thc
Nam B nhng thách thc. Hin nay, rt nhiều món ăn truyền thng Nam B
dn dn mất đi hay hiếm dần đi. Đó chính là mt tiêu cc ca hi nhp, m mt
đi trong kho tàng văn hoá ẩm thc Nam B nhng giá tr đã tồn ti lâu đời.
Đồ ung:
Hin nay, Nam Brt nhiu loi chè. Nhng loi chè truyn thng
như chè búp Thái Nguyên, Hà Giang, Phú Th... vẫn được người nam B ưa
chung. Các nhà sn xut chè Vit Nam gần đây đã tung ra thị trường rt nhiu
loi chè truyn thống ướp hương v đóng gói như chè nhài, chè sen, chè hoa
cúc, hoa ngâu, hoè, sói... vi mẫu mã baođẹp.
Bên cạnh đó, Nam B hiện đang có rất nhiu loi trà nhp ngoại như: trà
Tàu, chè sâm Triu Tiên, trà Lipton nhãn vàng ca Anh, trà Nestea, trà Dilmah...
Các loi trà này hp dn khách hàng đủ chng loi phong phú, phc v đối
ng ch yếu là gii tr ng động. Ngoài các loi chè, Nam B hiện nay cũng
du nhp rt nhiu đồ ung có gc nhp ngoại n: nước khoáng các loại, nưc
ngt có ga (Coca - cola, Sevenup, Sprite), cafe (Pháp), rượu vang (Pháp),
cocktail, sâm panh (champange)...
Cuc sng ngày càng tr nên bn rn, gii tr Nam B gi ưa chuộng vi
nhng loi trà túi lc hay hoà tan trên th trường. Chúng ta có th đễ dàng pha
chế, nhanh chóng và tin li. Ngoài ra, còn có rt nhiu loi đồ ung vi cách
thc pha chế mi l. Có th đơn cử ra đây như cách thức pha chế cocktail, sinh
tố.được xem nhưnhững hình thc chế biến mi ca ngh thut pha chế
đồ ung Nam B.
KT LUN
Ăn uống là mt b phn thiết yếu cu thành bn sắc văn hóa dân tộc, là
mt trong nhng lĩnh vực th hiện đặc tính ca mt dân tc. Tn dải đất Vit
Nam ngoài nhng đặc trưng chung nhất v ăn uống thì vn có nhng khu v
riêng ca tng vùng, s dĩ như vậy là do có s khác bit v điu kiện địa lý, môi
trường sinh thái và ngun nguyên liu ti ch làm n thc phẩmn ăn ca
ngưi Vit Nam B rt đa dạng, phong phú là mt trong nhng yếu t độc đáo
của văn hóa Vit Nam.
l s độc đáo đây là do điều kin thiên nhiên hình thành nên là phn
nhiu cng vi s sáng to ca ngưi dân địa phương. Nguyên liu chế biến
n các món ăn ngon Miền Tây Nam b li rt gn gủi, đơn giản, bình d như
chính con người nơi đây vậy. Đó có th là các loại côn trùng, hoặc các loài động
vật nhỏ sng hoang dại như: Ếch, cua đồng, rn, c, chuột đồng...... vài cng
rau mọc sau , ngi đồng, hoc trái bu,qu p trên giàn. Bt ngun t
những khó khăn thiếu thn trong quá trình đi khẩn hoang tìm vùng đất mới. Để
sinh tn ngưi dân nơi đây đã tận dng mi nguyên liệu sntrong t nhiên.
Cũng chính s khc nghit của thiên nhiên đã khiến h luôn sáng to, linh
hoạt và năng động. S sáng to, linh hot và năng động ấy cũng thể hiện nét
trong cách người Nam b chế biến các món ăn ngon hàng ngày, lúc gi chp,
cúng tế hay nhng ngày tết c truyn. S sáng to trong m thc của người dân
Nam B chưa bao giờ làm chúng ta hết ngc nhiên. T một món ăn người ta có
th chế biến bng nhiu loi thc phm khác nhau ví d như chỉ với món kho đã
có cá lóc kho, cá trê kho,hn hn kho tiêu, cá sc kho, cá chch kho,
kho, cá lòng ròng kho còn có c gà khoda kho na.
Nam b đưc hình thành trên nn đất phù sa mi nên đất đai rt màu m.
Vùng đất mà đâu đâu ta cũng thấy đất rộng sông dài, nơi o cũng kinh rạch
chng cht. ... thế nên sn vt phong phú, hi sn di dào, nhiu cá, tôm, rn,
cua, rùa, ếch ... Nam b xưa kia vùng đất hoang vu, thiên nhiên khc nghit
vi nhng dòng lch s còn ghi li nhng hình ảnh: muỗi kêu như sáo thổi, đĩa
lnh tựa bánh cánh” hay “dưới sng su li trên b cọp um”. Vào những ngày
đầu “mang ơm đi m cõi”, sau khi con người t nhiều nơi đặc bit là nhng
cư dân vùng đất Ngũ Quảng đã rời b quê nhà mang theo hoài bo và ý chí
khn hoang để khai khn vùng đất này để sinh sng h đã phải đương đầu vi
s khc nghit của thiên nhiên nơi đây phải chng chi vi thú d,mui
mng,rn rết,cùng nhiu th bnh tt him ác. Nhưng với tinh thn lc quan h
đã vượt qua khó khăn, th thách để xây dng nên vùng đất màu m và trù phú
ngày hôm nay. H tương tr lẫn nhau cùng nhau vượt qua mọi khó khăn gian
khy dng nền văn hóa đặc sc và nn m thc phong phú
Ăn uống gi đây không ch là nhu cu thun túy của con người để duy trì
s sống, ăn uống còn là bn sắc, văn hóa của vùng, min, ca Quc gia, dân
tc. Mi quc gia, dân tộc đều có mt nét văn hóa ăn uống đặc thù ca mình.
m thực Nam Bộ dù không cầu kì trong khâu bày trí nng vẫn rt hp dn bi
s tươi ngon, dồi dào ca nguyên liu s gin đơn mộc mc trong chế biến,
thưng thc nhưng vẫn mang mt t rt riêng không pha ln, điều đó đã làm
n nhng đặc trưng độc đáo trong văn hóa ẩm thc Nam B và để li ấn tượng
khó qn cho người dân và thc khách.
TÀI LIU THAM KHO:
1.
Thạch Phương, Hồ Lê, Văn a dân gian người Vit Nam B, Nxb
Tng hp TP.HCM, 2014
2.
Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Nxb Tng Hợp Đồng Nai,
2005
3.
Nguyn Nhã, Bn sc m thc Vit Nam, Nxb Thông tn, Hà Ni,
2009
4.
Văn Thành, Văn Hóa Nam B qua cái nhìn ca Sơn Nam, Nxb
Tr, 2013
5.
Nguyn Th Diu Thảo, Văn hóa ẩm thc Vit Nam và thế giới, Đại
hc Sài n, 2013
6.
Trn Ngọc Tm, Văn hóa người Vit vùng Tây Nam B, Nxb
VHVN, 2014
7.
Phan Th Yến Tuyết, Đời sng xã hi
kinh tế văn hóa ca ngư dân
và cư n vùng biển Nam B, Nxb Đi hc Quc Gia TP.HCM, 2016
8.
Nguyn Văn Quí, Nghệ thut m thc trong phát trin du lch Nam
Bộ, trường Trung Cp Đi Vit TP.HCM
9.
m thc Min Nam Vit Nam, Wikipedia
10.
Nam B, Wikipedia
11.
Đào Duy Anh, Vit Nam Văn Hóa S Cương, Nxb Thi Đi,
2010
12.
Dương Văn Sáu, Phát trin sn phm du lch Vit Nam, Tp
chí Du lch Vit Nam, 2010
13.
Trn Ty Anh, Giáo trình du lịch văn hóa
Nhng Vấn Đ
lun và Nghip V, Nxb Giáo Dc, 2011

Preview text:

VĂN HÓA ẨM THỰC CỦA NGƯỜI NAM BỘ 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Văn hóa ẩm thực 1.1.1. Ẩm thực:
“Ẩm thực chính là biểu tượng của tình yêu khi ta không tìm ra từ ngữ nào để
diễn tả.” – Alan D.Wolfelt từng nhận định. Có thể nói ẩm thực là tiếng dùng để
khái quát nói về việc ăn và uống bao gồm cả cách chế biến, bày biện và thưởng
thức từng món ăn, thức uống từ đơn giản, đạm bạc đến cầu kỳ, mỹ vị. Mỗi vùng
miền đều có những nét đặc trưng riêng trong văn hóa ẩm thực, đối với đất Việt,
từ xa xưa ông cha ta đã mang ẩm thực vào những câu ca dao tục ngữ, trở thành
ý thức văn hóa rất đặc trưng của Việt Nam: “Đói cho sạch, rách cho thơm”; “Lời
chào cáo hơn mâm cỗ”; “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”. Người Việt Nam nổi
tiến trọng lễ nghĩa, chuộng hình thức nên các món ăn Việt Nam không chỉ để ăn
mà còn để chiêm ngưỡng, để hưởng thức nét tinh tế, tài hoa của người đầu bếp
được thể hiện bằng hương vị rất Việt Nam.
Mỗi vùng trên đất nước Việt Nam ngoài những đặc điểm chung, lại có lối ẩm
thực riêng mang sắc thái và đặc trung vùng đất đó. Đó là phong tục, thói quen,
khí hậu và văn hóa từng vùng. Cái chung, cái riêng cùng hòa trộn khiến phong
cách ẩm thực Việt Nam rất phong phú. Bên cạnh những nét ẩm thực rất bình
dân, dung dị, đơn giản. Có “ẩm thực sang trọng”, song với đó lại có “ẩm thực vỉa
hè”, nhưng không có nghĩa là “ẩm thực vỉa hè” kém giá trị, kém hấp dẫn. Người
Việt Nam nổi tiếng bốn phương trong việc sáng tạo các món ăn, và mỗi vùng
miền lại có những cách chế biến món ăn khác nhau, cách thưởng thức khác
nhau, có những nét đặc trưng riêng và đặc biệt.
Vài nét về văn hóa ẩm thực Nam Bộ
Vùng đất Nam Bộ với địa hình thuận lợi, kênh rạch chằng chịt đã biến nơi đây
trở thành vùng đất màu mỡ, đa sinh thái giàu thủy hải sản. Từ những nguồn
nguyên liệu tự nhiên phong phú ấy, người dân Nam Bộ đã chế biến thành các
món ăn khác nhau làm nên kho tàng văn hóa ẩm thực Nam Bộ đa dạng phong phú.
Đối với nơi đây, yếu tố sông nước gần như là linh hồn của vùng đất màu mỡ
này, sông nước mang lại nguồn tài nguyên phong phú đối với văn hóa nói chung
và văn hóa ẩm thực nói riêng, góp phần tạo nét đặc sắc riêng, tính phong phú và
sáng tạo của kho tàng ẩm thực.
Lịch sử hình thành văn hóa ẩm thực Nam Bộ
Sự hình thành và phát triển
Nói đến tính hoang dã và tính sáng tạo trong văn hóa ẩm thực Nam Bộ là nói
đến đặc tính ăn uống của người Nam Bộ thể hiện trong việc ăn các món có
nhiều nguồn gốc từ tự nhiên và sự chế biến các món ăn từ tự nhiên đó thành
các món khác nhau. Nói đến vùng đất Nam Bộ, người ta hay nói đến sự trù phú
của vùng đất này về các nguồn lợi tự nhiên, vùng đất “làm chơi ăn thiệt”. Đại để
là, thiên nhiên ở đây ưu đãi cho con người, con người không phải làm lụng nhiều
mà vẫn có cái ăn, cái mặc. Nhưng thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, không
phải lúc nào vùng đất này cũng ưu ái con người, khoản đãi cho con người nhiều
nguồn lợi tự nhiên. Mà trái lại, ngay từ buổi đầu khai phá, những lưu dân đã
chiến đấu một cách hết sức gian khổ để khắc phục rất nhiều khó khăn do tự nhiên gây ra. “…
Phần lớn đất đai Nam Bộ vào các thế kỷ XVII- XVIII là rừng hoang cỏ rậm, trũng
thấp sình lầy, nên người lưu dân ngoài việc đương đầu với sự khắc nghiệt của
thiên nhiên còn phải lo chống lại các loại thú dữ, cá sấu, muỗi mòng, rắn rết,
cùng nhiều thứ bệnh tật hiểm ác… Đại bộ phận đất đai còn ở trong tình trạng
sình lầy, bị ngập úng vào mùa mưa, thiếu nước ngọt vào mùa khô, nhiều vùng
phèn, mặn nghiêm trọng, chính là môi trường để cho nhiều loại chuột bọ, sâu
bệnh phá hoại mùa màng phát triển”. Nhiều câu ca dao, chuyện kể đã nói lên nỗi
lo sợ của người lưu dân thời bấy giờ trước một khung cảnh thiên nhiên vô cùng
lạ lẫm, bí hiểm và đầy đe dọa:
Chèo ghe sợ sấu cắn chưn
Xuống sông sợ đỉa lên rừng sợ ma.
Buổi đầu, khi những lưu dân đặt chân lên vùng đất này thì thiên nhiên ở đây còn
rất hoang sơ, rừng hoang cỏ rậm, thú dữ hoành hành. Con người cảm thấy lạ
lẫm trước một cảnh quan thiêng nhiên mà ở nơi quê cha đất tổ họ chưa hề gặp
phải. Vì vậy, để sinh tồn, ở phương diện ăn uống, họ không thể nào ăn các món
ăn truyền thống nơi quê nhà, bởi nguyên vật liệu, các nguồn lương thực họ chưa
hề quen biết, nên lúc đầu gặp gì ăn nấy, từ những cây cỏ trên bờ, con cá dưới
sông, con chim trên trời… cho đến các loài sinh vật khác. Tính hoang dã trong
văn hóa ẩm thực của người Nam Bộ đã định hình từ lúc này.
Điều dễ nhận thấy nhất ở tính hoang dã này là người Nam Bộ ăn rất nhiều rau.
Đây là loại thức ăn có sẵn ở ao hồ, vườn ruộng, rất dễ tìm, không cần thiết phải
chế biến, chỉ cần hái vào rửa sạch là ăn được. Người ta có thể ăn đủ các loại
rau, từ rau đắng, rau dềnh, rau răm, rau thơm, bồ ngót, mồng tơi, rau tập tàng,
cải xanh, cải trời, tía tô, hành, hẹ, ngò gai, ngò rí… đến các loại cây, đọt cây, các
loại bông, như: bông điên điển, cù nèo, đọt vừng, lá xoài, lá cách… Trong danh
mục này, có thứ dùng để ăn sống, có thứ dùng để nấu canh, có thứ luộc lên
chấm với cá kho, thịt kho, hay nước chấm.
“Hồi ấy, chưa đủ thời giờ để nuôi gà, vịt, heo. Việc chăn nuôi đòi hỏi nhà cửa ổn
định, cũng như ta chưa nghĩ đến việc trồng rau tươi, hoặc chăng là vài cây ớt,
bụi sả. Bởi vậy, người đồng bằng và Sài Gòn ăn đủ thứ rau. Rau nào cũng ăn,
“không bổ bề ngang cũng bổ bề dọc” gọi cho gọn là “rau rừng”. Ăn cho vui
miệng, miễn là không chết. Nào đọt bần, trái bần chín, đọt chùm ruột, bông súng,
bông điên điển, bồn bồn, rau dừa, rau ngổ, kèo nèo, lục bình, đọt xoài, trái xoài
non, đọt ổi, đọt cơm nguội, đọt chiếc (chiếc là loại cây nhỏ vùng nước lợ, gần Sài
Gòn hãy còn tên cầu Rạch Chiếc), ổi chua, thậm chí trái dừa non cũng xắt ra làm rau”.
Đối với các loài thủy hải sản, ngoài các loại cá, tôm bắt ở ao, đìa, người ta còn
ăn cả các loài mang tính hoang dã, như: con còng, con cua, ba khía, chuột, cóc,
nhái, ếch, rùa, rắn, lươn, le le, dơi… và thậm chí người ta còn ăn cả một số loài
côn trùng như: cào cào, dế… nữa.
Nhưng nổi bật hơn hết trong tính hoang dã này chính là môi trường của việc ăn
uống. Người Nam Bộ thường có thói quen chế biến món ăn và ăn ngay tại chỗ,
nên tính hoang dã ở đây thể hiện ở việc các món ăn gắn với không gian của một
khoảnh vườn, đám ruộng, bờ ao. Món cá lóc nướng trui là một minh chứng cho
điều này, hoặc một nồi canh chua cá lóc được nấu ngay sau buổi tát đìa cũng
thể hiện điều đó. Bởi vì, mọi thứ đều là cây nhà lá vườn. Tát đìa xong, người ta
lựa những con cá lóc to, đem nấu canh chua. Mọi thứ rau, như: bạc hà, ngò om,
cà chua, ớt… đều có sẵn ở miếng vườn kế bên, không phải ra chợ mua. Khi
chín, chỉ việc chặt lá chuối tươi để xuống lót nồi và đựng cá, đâm thêm một chén
muối ớt để chấm cá là đã có được một món canh chua cá lóc khoái khẩu giữa
đồng ruộng mênh mông. Mọi người gom lại, đưa cay vài xị đế, hát với nhau vài
câu vọng cổ, cuộc đời chưa hẳn ai đã sướng hơn ai. Hay món cào cào rang
chẳng hạn, người ta chỉ việc ra ruộng bắt cào cào, đem về lặt chân, móc ruột…
cho vào chảo rang, nêm chút gia vị là đã có một món ăn rồi. Nhưng cũng có một
số món ăn hoang dã ở Nam Bộ dù chưa hẳn là ngon, nhưng cũng có phần do lạ mà hấp dẫn.
Tính sáng tạo trong cách chế biến món ăn của người Nam Bộ
Cuộc sống con người giờ đã ổn định, người ta không phải vất vả với cái ăn, cái
mặc nữa. Do đó, từ chỗ ăn để tồn tại, người ta đã nghĩ đến ăn làm sao cho
ngon, và tính sáng tạo trong ăn uống đã bắt đầu hình thành ở giai đoạn này.
Tính sáng tạo ở đây được thể hiện ở việc con người chế biến ra các món ăn
khác nhau. Việc chế biến này được nhìn nhận ở hai phương diện.
Một là, một món ăn, người ta có thể chế biến bằng nhiều loại động thực vật khác
nhau. Chỉ một món kho, người ta có thể kho với các loài động thực vật, hoặc
thủy hải sản khác nhau để tạo ra các món ăn khác nhau, với các hương vị khác
nhau. Nào là: cá lóc kho, cá trê kho, cá hủn hỉn kho tiêu, cá sặc kho, cá chạch
kho, cá rô kho, cá lòng ròng kho… còn có cả gà kho và dừa kho nữa. Ngay chỉ
có một món kho thôi, người ta cũng có nhiều cách kho khác nhau, như: kho tiêu,
kho tộ, kho quẹt, kho khô, kho mẳn, kho riệu…
Hai là, chỉ một loài sinh vật, người ta cũng có thể chế biến ra nhiều món ăn khác
nhau, với cách làm khác nhau và hương vị cũng khác nhau. Chỉ một loại cá lóc,
mà người ta có thể chế biến ra hơn 20 món khác nhau: “khô lóc nướng, khô lóc
xé phay trộn gỏi, khô lóc chưng tương gừng, khô lóc nấu choại bần, mắm lóc
sống trộn gỏi, mắm lóc kho lỏng, mắm lóc chưng nguyên con, mắm lòng trộn gỏi
đu đủ phơi se, mắm lòng chưng nồi cơm, canh chua tuyền cá lóc, canh chua đầu
cá lóc, cá lóc luộc hèm, cá lóc um lá nhào - đậu phộng- nước cốt dừa, cá lóc um
khoai rạng, cá lóc nướng trui, cá lóc nướng lèo, cá lóc kho nước dừa, cá lóc kho
tương gừng, cá lóc kho ba chỉ - hột vịt, cá lóc kho mắm mẳn phi hành tỏi, cá lóc
chiên thường, cá lóc chiên cháy vảy, cá lóc xào ơt xanh, cá lóc xào hành, cá lóc
xào củ kiệu, cá lóc xào củ nghệ, cá lóc xào lá cách - lá nhào, cá lóc xào tái thập
cẩm thổ mộc, cá lóc nướng phết mỡ hành, cá lóc bịt đất đốt, cá lóc đốt rượu,
đầu cá lóc hấp rượu mềm xương, đầu cá lóc nấu xáng lẩu, đầu cá lóc băm nhỏ
dồi bụng chuột đồng hấp, tả pín lù cá lóc, cá lóc xông xắt mỏng nhúng rượu gốc,
cá lóc luộc cuốn bánh tráng rau thơm, cá lóc luộc tái trộn dừa - đậu phộng rang,
cháo cá lóc, bánh canh cá lóc, bún nước lèo cá lóc, bún bò Huế cá lóc, lòng cá
lóc xào gừng non, lòng cá lóc xé phay trộn nhăm bắp chuối, lòng cá lóc luộc kỹ
trộn mắm lòng đu đủ, cá lòng ròng kho lạt, cá lòng ròng kho tiêu, cá lòng ròng
kho quẹt…”. Nhìn vào bảng thực đơn này, chúng ta không khỏi khâm phục tính
sáng tạo trong việc chế biến ra các món ăn vô cùng phong phú của người Nam Bộ
NÉT ĐẶC TRƯNG VỀ VĂN HÓA ẨM THỰC NAM BỘ
Những đặc trưng truyền thống về văn hóa ẩm thực Nam Bộ
Trong ca dao, tục ngữ Việt đã có nói rất nhiều đến việc ăn uống. Ví dụ như
trong từ điển thành ngữ Việt Nam với khoảng 10.000 câu đã có 1187 câu nói về
ăn uống, hay mượn chuyện ăn uống để nói về đời.
Do đặc điểm địa hình và sinh hoạt kinh tế, văn hóa Nam Bộ đã định hình
nền văn minh sông nước, ở đó nguồn lương thực - thực phẩm chính là lúa, cá và
rau quả kể cả các loại rau đồng, rau rừng. Từ sự phong phú, dư dật ấy mà trải
suốt quá trình khai hoang dựng nghiệp, món ăn, thức uống hàng ngày của người
Nam Bộ cho dù trong hoàn cảnh nào, thiếu thốn đạm bạc, hay đầy đủ, họ không
thể không tiếp tục khám phá và sáng tạo nhiều phương thức nuôi trồng, đánh
bắt để chế biến vô số miếng ngon một cách có bài bản từ những đặc sản của địa phương.
Đặc trưng của giao lưu văn hóa Nam Bộ.
Với phong cách thưởng thức “mùa nào thức nấy” và quan niệm “ăn để mà
sống” hầu có đủ dưỡng chất tái tạo sức lao động, họ đã tỏ ra rất sành điệu trong
việc phối hợp các yêu cầu cao nhất của miếng ăn: thơm, ngon, bổ, khỏe. Câu
nói “ăn được ngủ được là tiên” rất được người Nam Bộ quan tâm, xem trọng,
cho nên ngồi vào bàn ăn, khi chủ nhà giới thiệu món nào, dù là cá thịt hay rau
quả, kể cả rượu, họ thường nhắc nói: ăn món này bổ xương, hoặc trị suy dinh
dưỡng, bổ gan, bổ phổi...; rượu thuốc này giải quyết được bệnh “tê bại” nhức
mỏi; tráng dương, bổ thận v.v... Và không quên “động viên” gắp đũa nằm, hoặc
dùng muỗng múc (mới được nhiều), cứ tự nhiên, hãy ăn thiệt tình “đừng mắc
cỡ”, thậm chí ép ăn! Dùng bữa, thấy khách ăn nhiều, ngon miệng chủ nhà không
thể không cảm thấy sung sướng, hài lòng.
Khẩu vị của người Nam Bộ cũng rất đặc biệt: gì ra nấy! Mặn thì phải mặn
quéo lưỡi (như nước mắm phải nguyên chất và nhiều, chấm mới “dính”; kho
quẹt phải kho cho có cát tức có đóng váng muối); ăn cay thì phải gừng già, cũng
không thể thiếu ớt, mà ớt thì chọn loại ớt cay xé, hít hà (cắn trái ớt, nhai mà môi
không giựt giựt, lỗ tai không nghe kêu “cái rắc”, hoặc chưa chảy nước mắt thì
dường như chưa... đã!).
Về nơi ăn, với những bữa cơm thường ngày trong gia đình thì tùy điều
kiện không gian căn nhà rộng hay hẹp mà bố trí hợp lý: hoặc trên bàn, hoặc
ngay trên sàn nhà. Nếu là bạn thân rủ nhau nhậu chơi thì có thể trải đệm dưới
gốc cây trong sân vườn hay ngoài đồng, tùy thích. Nhưng khi nhà có đám tiệc thì
không xuề xòa mà bày biện cỗ bàn rất nghiêm chỉnh trong tinh thần quý trọng
khách mời, tạo nên nét văn hóa rất riêng mà cũng rất chung, hài hòa giữa phong
tục truyền thống với đặc điểm văn minh vùng sông nước, hầu từng bước hoàn
thiện nền văn hóa ẩm thực độc đáo. Độc đáo vì đã biết tận dụng, khai thác và
chế biến “của trời cho” một cách kịp thời theo “đơn vị tính” thời gian là “tháng”,
“ngày” thậm chí “giờ”. Thật đúng như thế nếu ai đó ở vùng đầu nguồn, có việc
phải đi xa nhằm vào tháng cá mờm hoặc cá linh non xuất hiện thì đành phải chịu
nhịn, vì sau đó chừng một tháng cá mờm đã lớn thành cá cơm, cá linh non cũng
thế. Hoặc trong một năm mới có được mấy ngày “cá ra” (nước trên đồng giựt
cạn, cá rút xuống kinh, mương để ra sông), nếu người sống nghề đánh bắt thủy
sản không chuẩn bị kịp mọi việc để chặn bắt cá thì xem như năm ấy bị thất thu
nguồn lợi lớn. Rau trái cũng không khác. Đặc biệt đối với rau, như bông điên
điển, rau dừa, rau muống... nếu hái muộn, từ lúc trời đã trưa nắng đến chiều sẽ
không giòn, mất ngon, chức năng kích thích thèm ăn, ngăn chống lão hóa của
rau do đó cũng bị giảm rất đáng kể.
Ví dụ: Nồi canh chua của người Nam Bộ mùa nóng thì dùng với bạc hà,
đậu bắp, cà chua còn mùa mưa thì có thể thêm các loại rau như bông súng, điên
điển, lục bình, kèo nèo… Trong dịp lễ tết thì họ ăn bánh tét, dưa món, củ kiệu.
Nói đến văn hóa ẩm thực ở Nam Bộ mà không nhắc đến “miếng trầu” là cả
một sự thiếu sót, bởi đó chính là nét lớn mang tính truyền thống chung nhất của
dân tộc Việt Nam trên cả ba miền. Thật vậy “miếng trầu” từ hàng nghìn năm, nó
vẫn được dân tộc ta đặc biệt quý trọng, bởi “Trầu cau là nghĩa, thuốc xỉa là tình”
cho nên trong giao tiếp người ta luôn trịnh trọng đặt nó ở vị trí “đầu câu chuyện”,
kể cả chuyện hôn nhân quan trọng nhất đời của một người (“Một miếng trầu là
dâu nhà người”). Họ ghiền trầu đến nỗi “Miếng hạ gộng, miếng động quan”,
người xưa từng “đặt vè”, và cảnh giác “Nhịn thuốc mua trâu, nhịn trầu mua ruộng”.
Trong ăn uống của người Nam Bộ thường thiên về hình thức. Ngoài các
tiêu chí về an toàn vệ sinh thực phẩm, món ăn Nam Bộ còn thể hiện sự dân dã,
mộc mạc, chất phát của người dân Nam Bộ. Khi thưởng thức các món ăn của
người dân Nam Bộ thực khách không chỉ thấy ngon mà còn phải trầm trồ khen
đẹp mắt về cách sắp xếp, trang trí món ăn của người Nam Bộ. Chẳng hạn như
đĩa bánh tét chữ của Nam Bộ, những miếng bánh tét phải còn nguyên vẹn không
nát, và chữ phải hiện rõ nét được xếp ngay ngắn trong đĩa.
Bên cạnh những món ăn thuần túy của người Việt Nam thuần túy, rất
nhiều các món ăn của Trung Hoa, Campuchia, Thái Lan đã trở nên quen thuộc
với người Nam Bộ như bánh bao, hủ tiếu, xá xíu… và các món ăn này đã được
người dân Việt Nam nói chung và người dân Nam Bộ nói riêng đã chọn lọc và đã
trở thành những món ăn phổ biến được sử dụng rộng rãi.
Những yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa ẩm thực Nam Bộ Vị trí địa lý
Nam bộ được mệnh danh là xứ sở của những dòng sông, nơi có khoảng
54.000 km chiều dài sông, rạch. đâu đâu cũng đất rộng sông dài, nơi nào cũng
kinh rạch chằng chịt và nhiều lung, hồ, búng, láng..., không nơi nào không nhung
nhúc cá, tôm, rắn, cua, rùa, ếch... đã vậy còn có cả rừng già, rừng thưa, đầy dẫy
chim muông, thú to, thú nhỏ. Phía này thì “năm non bảy núi” trập trùng, không
biết cơ man nào là “sơn hào”, còn phía nọ thì biển Đông, biển Tây, toàn là “hải
vị”! Chính yếu tố sông rạch đã góp phần quan trọng vào cuộc sống của người dân nơi đây.
Ẩm thực là tiếng dùng khái quát nói về việc ăn và uống. Văn hóa ẩm thực
bao gồm cả cách chế biến, bày biện và thưởng thức từng món ăn, thức uống, từ
đơn giản, đạm bạc đến cầu kỳ mỹ vị. Chung nhất là vậy, song khi nói đến văn
hóa ẩm thực ở một vùng/miền nào đó thì nhất thiết phải nói lên “đặc điểm tình
hình” mới có thể nêu được bản sắc văn hóa đặc trưng cụ thể của vùng/miền ấy.
Nam bộ được mệnh danh là xứ sở của những dòng sông, nơi có khoảng
54.000 km chiều dài sông, rạch. đâu đâu cũng đất rộng sông dài, nơi nào cũng
kinh rạch chằng chịt lại lắm lung, hồ, búng, láng..., không nơi nào không nhung
nhúc cá, tôm, rắn, cua, rùa, ếch... đã vậy còn có cả rừng già, rừng thưa, đầy dẫy
chim muông, thú to, thú nhỏ. Phía này thì “năm non bảy núi” trập trùng, không
biết cơ man nào là “sơn hào”, còn phía nọ thì biển Đông, biển Tây, toàn là “hải
vị”! Chính yếu tố sông rạch đã góp phần quan trọng vào cuộc sống của người dân nơi đây.
Nam bộ được chia làm 2 vùng: + Đông Nam bộ Gồm:
. Bà Ria – Vũng Tàu, Binh Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Tây Ninh, Phố HCM
 Phía Bắc và phía Tây giáp với Campuchia
 Phía Nam và Tây Nam giáp với Đồng bằng sông Cửu Long
 Phía Đông Bắc giáp với Tây Nguyên
 Phía Đông và Đông Nam giáp với Nam Trung Bộ và Biển Đông
+ Khu vực Đông Nam Bộ có các sông lớn như hệ thống sông Đồng Nai,
sông Sài Gòn, sông Thị Vải...Sông Sài Gòn và sông Thị Vải là nơi tập trung các
cảng chính của khu vực như cảng Sài Gòn, cảng Cái Mép, cảng Thị Vải.
Đồng bằng sông Cửu Long là một bộ phận của châu thổ sông Mê Kông có
diện tích 39.734km². Có vị trí nằm liền kề với vùng Đông Nam Bộ, phía Bắc giáp
Campuchia, phía Tây Nam là vịnh Thái Lan, phía Đông Nam là Biển Đông. Vùng
đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam được hình thành từ những trầm tích
phù sa và bồi dần qua những kỷ nguyên thay đổi mực nước biển; qua từng giai
đoạn kéo theo sự hình thành những giồng cát dọc theo bờ biển. Những hoạt
động hỗn hợp của sông và biển đã hình thành những vạt đất phù sa phì nhiêu
dọc theo đê ven sông lẫn dọc theo một số giồng cát ven biển và đất phèn trên
trầm tích đầm mặn trũng thấp như vùng Đồng Tháp Mười, tứ giác Long Xuyên –
Hà Tiên, tây nam sông Hậu và bán đảo Cà Mau.
Đây là vùng có khí hậu cận xích đạo vùng nên thuận lợi phát triển ngành
nông nghiệp (mưa nhiều, nắng nóng) đặc biệt là phát triển trồng lúa nước và cây lương thực .
Lúa trồng nhiều nhất ở các tỉnh An Giang , Kiên Giang, Long An, Đồng
Tháp, Sóc Trăng, Tiền Giang. Diện tích và sản lượng thu hoạch chiếm hơn 50%
so với cả nước. Bình quân lương thực đầu người gấp 3 lần so với lương thực
trung bình cả nước. Nhờ vậy nên Đồng bằng sông Cửu Long là nơi xuất khẩu
gạo chủ lực của cả đất nước. Ngoài ra vùng này còn trồng mía, rau đậu, xoài, dừa, sầu riêng, cam, bưởi ...
Nghề chăn nuôi cũng khá phát triển như trâu , bò , vịt .... Trâu chỉ được dùng
nhiều cho cày cấy , bò dùng để lấy thịt. Vịt được nuôi nhiều nhất Bạc Liêu, Cà
Mau, Trà Vinh, Vĩnh Long, Sóc Trăng. Gia súc nuôi ở đây không được nhiều và
cũng là tỉnh có bình quân nuôi thấp nhất cả nước
Do có bờ biển dài và có sông Mê Kông chia thành nhiều nhánh sông , khí hậu
thuận lợi cho sinh vật dưới nước, kênh rạch chặt chịt , nhiều sông ngòi , lũ đem
lại nguồn thủy sản và thức ăn cho cá, có nhiều nước ngọt và nước lợ nên thích
hợp cho việc nuôi trồng và đánh bắt thủy sản , sản lượng thủy sản chiếm 50%
nhiều nhất ở các tỉnh Cà Mau, Kiên Giang, An Giang
.Nghề nuôi trồng tôm cá xuất khẩu đang phát triển mạnh. Tôm cá tập trung rất
gần bờ và dễ nuôi nên đánh bắt rất thuận tiện
Nghề rừng cũng giữ vai trò quan trọng, đặc biệt trồng rừng ngập mặn ven
biển Cà Mau, đảo Phú Quốc, quần đảo Thổ Chu , hòn Khoai . Vì đây là nghề giữ
vai trò trong việc bảo vệ môi trường, sinh học, các loài sinh vật và môi trường sinh thái đa dạng. Khí hậu
Vùng đất Nam Bộ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, ít nhiều chịu ảnh
hưởng của khí hậu xích đạo, nhiệt độ cao đều trong năm. Khí hậu ở đây chia
thành hai mùa rõ dệt mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3, mùa mưa từ tháng 4 đến
tháng 10. Những đặc điểm về tự nhiên này góp phần quan trọng trong việc đem
lại nguồn nguyên liệu phong phú cho ẩm thực Nam Bộ.
Chính vì điều kiện khí hậu nên người Nam Bộ mới có câu“ăn theo thuở, ở theo
thời” hay nói cách khác người địa phương tận dụng nguyên liệu theo từng mùa.
Mỗi mùa nước nổi cũng là mùa cá linh, mùa đông bông điên điển, thiên lí, bông
súng, sầu đông… Còn đến mùa gặt, người dân lại có cơ hội thưởng thức nhiều
món ngon từ cá lóc, cua đồng, rau đắng…
Con người và truyền thống
Tính hoang dã và hào phóng:
Điều kiện thiên nhiên ưu đãi dần hình thành nên tính cách hào phóng, hiếu
khách trong tập quán ăn uống của người dân Nam Bộ. Điều này cũng được
Trịnh Hoài Đức nhận định: “Ở Gia Định có người khách đến nhà, đầu tiên gia
chủ dâng trầu cau, sau dâng tiếp cơm bánh, tiếp đãi trọng hậu, không kể người
thân sơ quen lạ tông tích ở đâu, ắt đều thâu nạp khoản đãi; cho nên người đi
chơi không cần đem tiền gạo theo, mà lại có nhiều người lậu xâu trốn thuế đi
đến xứ này ẩn núp, bởi vì có chỗ dung dưỡng vậy”. Chính vì đi đến đâu cũng tìm
được lương thực, thực phẩm đa dạng nên các món ăn Nam Bộ cũng phong phú,
mang đậm phong cách thoải mái, phần nào phản ánh lối sống tự nhiên, khoáng
đạt, hoang dã của người dân nơi đây. Mặt khác, do phải gồng mình để chống lại
sự khắc nghiệt, thiếu thốn của cuộc sống nơi vùng đất mới thuở còn hoang sơ,
hiểm trở, những con người dám rời bỏ quê hương, không còn cách nào khác là
xích lại gần nhau, nương tựa vào nhau khi khó khăn hoạn nạn. Tính hào phóng,
hiếu khách trong tập quán ăn uống của người dân Nam Bộ vì vậy mang ý nghĩa
cả về vật chất lẫn tinh thần, bắt rễ sâu trong lòng những giá trị truyền thống nhân văn của dân tộc. Tính dung hợp:
Người Nam Bộ rất sáng tạo trong ẩm thực, bắt nguồn từ sự dung hợp
những đặc trưng văn hóa khác nhau của những cộng đồng người cùng sinh
sống trên mảnh đất này. Đó là cách xử lý hài hòa quan hệ giữa thiên nhiên và
con người của cư dân nơi đây. Dung hợp là sự hòa lẫn vào nhau để hợp thành
một thể thống nhất. Đặc điểm này thể hiện rất rõ trong văn hóa ẩm thực của
vùng đất Nam Bộ. Bởi đây là vùng đất khẩn hoang, đa số cư dân miền Nam có
nguồn gốc từ miền Bắc hoặc miền Trung (vùng Ngũ Quảng), hòa nhập cùng
cộng đồng người Khơme, Hoa, Chăm, vì vậy, văn hóa nơi đây mang tính dung
hòa, dung hợp là điều dễ hiểu.
Tính dung hợp trong văn hóa ẩm thực Nam Bộ thể hiện trước hết ở sự
pha trộn văn hóa ẩm thực các vùng miền Việt Nam. Theo nhà văn Sơn Nam,
người dân Nam Bộ khi làm các món ăn cúng giỗ ông bà tổ tiên vẫn chú ý đến
các món ăn truyền thống ở Bắc Bộ, Trung Bộ như: thịt hầm, thịt luộc, món xào,
thịt kho… Tuy nhiên, do lượng lương thực, thực phẩm nhiều, các món ăn từ các
vùng miền khác khi du nhập đến đây được phát triển và cải biến mạnh mẽ. Sợi
bún từ miền Bắc, khi vào đến miền Nam, trở nên to hơn, đặc bột hơn, trở thành
món bánh canh. Chiếc bánh tráng của miền Trung vào đến miền Nam cũng
được thay đổi, thêm nhiều mùi vị hơn, được chế biến theo nhiều cách khác
nhau. Món bánh xèo khi dừng chân ở vùng đất Nam Bộ cũng to hơn, nhân bánh
đa dạng, phong phú hơn, thêm giá, đậu xanh, nước cốt dừa, nhiều tôm thịt, ăn
kèm rất nhiều loại rau… Đó chính là một phần ký ức văn hóa mà người dân Nam
Bộ mang theo khi khai hoang, định cư ở vùng đất mới này.
Bên cạnh sự phát triển từ văn hóa ẩm thực của người Việt ở Bắc Bộ và
Trung Bộ, ẩm thực Nam Bộ còn chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa ẩm thực của
cộng đồng người Khơme, Hoa, Chăm… Với tính cách hào hiệp, phóng khoáng,
trên nền tảng của điều kiện thiên nhiên ưu đãi, người Nam Bộ tiếp tục thu nhận,
cải biến những món ăn thức uống của các tộc người cộng cư, làm phong phú
thêm kho tàng ẩm thực của mình. Tác giả Hoàng Xuân Việt đã gọi đây là tính
“tổng hóa = tổng hợp và biến hóa” trong ẩm thực Nam Bộ.
Tính dung hợp trong văn hóa ẩm thực của người Việt ở Nam Bộ còn thể
hiện ở sự ảnh hưởng từ các nền ẩm thực khác như: Trung Quốc, Thái Lan,
Pháp, Campuchia… Đây là điểm khác biệt so với văn hóa ẩm thực của người
Việt ở miền Bắc. Rất nhiều món ăn thức uống có nguồn gốc từ Trung Quốc như:
hủ tiếu, phá lấu, chao, hoành thánh… chỉ có mặt ở Nam Bộ, ít xuất hiện ở miền
Bắc. Người miền Bắc cũng không sử dụng cà phê vốn là thức uống theo chân
người Pháp vào Việt Nam một cách thường xuyên như người miền Nam, thay
vào đó là các loại nước uống cổ truyền của dân tộc như: chè, nước vối. Người
miền Bắc thích ăn bánh chưng, bánh dày, bánh giò, những thứ bánh dân tộc;
trong khi đó, ở Nam Bộ, khẩu vị của người dân ngoài những thứ bánh quen
thuộc còn có bánh flan, bánh gato, các loại bánh ngọt vốn không phải là những
thứ bánh truyền thống. Các món ăn của người dân Nam Bộ thường đặc trưng
bởi vị ngọt của đường, nước dừa, nước cốt dừa, thói quen du nhập từ văn hóa
ẩm thực Ấn Độ, Thái Lan. Việc du nhập các loại thức ăn nhanh cùng với phong
cách phục vụ ẩm thực chuyên nghiệp, đã thể hiện sự nhanh nhạy của văn hóa
Nam Bộ nói chung, văn hóa ẩm thực nói riêng trong quá trình tiếp xúc giao lưu
với các nền văn hóa phương Tây… Tất cả những điều đó khiến cho ẩm thực ở
vùng đất cực nam của tổ quốc mang vẻ phong phú, đa dạng hơn bất kỳ vùng miền nào ở nước ta.
Tính năng động phá cách
Là những lưu dân đi mở cõi, khai phá nên tính cách của người Việt ở Nam
Bộ ngoài sự hiếu khách, hào phóng còn năng động, thích phiêu lưu, thích cái
mới. Khác với Bắc Bộ, nơi người dân ưa thích sự ổn định, người dân Nam Bộ
thường không chấp nhận sự ràng buộc theo một trật tự, khuôn khổ nào đó. Họ
sẵn sàng chấp nhận cái mới, gia nhập cái mới vào hành trang văn hóa của mình
như một phương thức để tồn tại, phát triển trong điều kiện mới. “Nói chung họ là
những người lớp dưới và vì không chịu nổi sự áp bức và tình trạng nghèo khổ
của vùng quê cũ đặc biệt là ở cực Nam Trung Bộ đã đi tìm một cuộc sống khác
ở Nam Bộ. Chính họ cũng phải có một tinh thần can đảm xa rời những giá trị cổ
truyền và một chút tính cách phiêu lưu của những người “khai sơn trăm thảo”,
mở đường đến một chân trời mới”.
Điều này thể hiện rõ qua những giá trị văn hóa ẩm thực ở vùng đất Nam
Bộ. Ẩm thực có sự gia giảm táo bạo, sẵn sàng cho thêm các phụ gia mới mẻ để
làm mới món ăn và làm mới khẩu vị. Đây cũng là một điểm khác biệt so với ẩm
thực miền Bắc, nơi luôn bảo thủ, nghiêm ngặt trong cách chế biến, sử dụng gia
vị. Sự phá cách đã làm cho những món ăn ở Nam Bộ dù có nguồn gốc từ mọi
miền tổ quốc nhưng lại mang những màu sắc mới. Nếu con gà ở miền Bắc
không chấp nhận thứ lá nào khác ngoài lá chanh thì con gà ở miền Nam sẵn
sàng đón nhận những gia vị khác (lá giang, sả, đinh lăng, rau răm…). Món canh
chua cũng có nhiều biến thể khác nhau, tùy vào điều kiện nguyên liệu cụ thể của
từng địa phương. Món canh chua (cá) của Nam Bộ: canh chua cá lóc, canh chua
cá linh bông súng, canh chua cá rô bông điên điển, canh chua cá bông lau, bông
so đũa, canh chua cá kèo lá giang, canh chua khô cá sặc, khô cá dứa… Món
bún riêu của người miền Bắc với nguyên liệu đơn giản chỉ là cà chua, cua đồng
(có thể thêm đậu hũ chiên) thì bún riêu của người Nam bộ lại có thêm rất nhiều
nguyên liệu như: huyết heo, chả, giò heo, ốc… Nhìn chung, người Việt ở Nam
Bộ luôn tìm cách đổi mới món ăn, từ nguyên liệu đến cách chế biến, cách dùng
phụ gia và ít khi đúc kết một món ăn nào đó thành công thức định sẵn như ẩm thực miền Bắc.
Về ứng xử trong ăn uống, nếu như văn hóa ẩm thực Bắc Bộ mang tính tôn
ti, chuẩn mực do chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, thì ở Nam Bộ, đặc điểm
này trở nên mờ nhạt hơn nhiều. Xét từ cội nguồn, văn hóa Nam Bộ là văn hóa
của những lưu dân mà đa phần là nông dân, thợ thủ công nghèo, binh lính đào
ngũ hoặc giải ngũ, tù nhân bị lưu đày, những người trốn binh dịch... Chính vì
vậy, trong ăn uống, người Việt ở Nam Bộ gần như không bị ràng buộc bởi
những quy định, phép tắc, lễ nghi mang tính tôn ti, chuẩn mực. Chẳng hạn như
món cá lóc nướng trui, ngoài việc thể hiện không gian dân dã, khoáng đạt của
việc ăn uống còn mang đậm cách ứng xử thân tình, bình đẳng của người dân
vùng đất này. “Một nét văn hóa thú vị ở đây là thực khách không chỉ gồm có
những người lao động tát đìa và chủ đìa cá, mà tất cả những ai có mặt tại chỗ
đều được mời tham dự cuộc vui, từ người chờ bắt hôi cá đến người đi coi chơi,
từ người lớn đến em bé mục đồng… với không khí bình đẳng, dân chủ đầy ắp tình người”.
Văn hóa Nam Bộ mang trong mình những nét văn hóa vừa truyền thống,
vừa hiện đại, vừa thống nhất, vừa đa dạng, vừa thuần Việt, vừa không thuần
Việt. Sự phát triển mạnh mẽ của văn hóa ẩm thực vùng đất này, xét về một
phương diện nào đó, là sự tích lũy của những giá trị ẩm thực truyền thống của
dân tộc Việt Nam đã được vun đắp qua hàng năm lịch sử, cộng với chất xúc tác
là điều kiện thuận lợi về tự nhiên xã hội con người, Nam Bộ đã mang đến một
diện mạo văn hóa ẩm thực đặc trưng trong tiến trình lịch sử văn hóa dân tộc Việt Nam.
Vai trò của văn hóa ẩm thực đối với vùng đất Nam Bộ Trong đời sống:
Hiển nhiên, để duy trì sự sống, ăn uống luôn là việc quan trọng. Tuy nhiên,
quan niệm của con người về chuyện này thì khách nhau. Người phương Tây coi
ăn là chuyện tầm thường không đáng nói. Người Việt Nam nông nghiệp cới tính
thiết thực thì, trái lại, công khai nói lên rằng: Có thực mới vực được đạo. Nó
quan trọng tới mức Trời cũng không dám xâm phạm: Trời đánh tránh bữa ăn.
Mọi hoạt đôngj của của người Việt Nam nói chung và Nam Bộ nói riêng đều lấy
ăn làm đầu: ăn uống, ăn ở, ăn mặc, ăn nói, ăn chơi, ăn học, ăn tiêu, ăn ngủ, ăn
cắp, ăn trộm…Ngay cả khi tính thời gian đều lấy ăn uống và cấy trồng làm đơn
vị, làm nhanh thì khoảng giập bã trầu, lâu hơn một chút là chin nồi cơm, còn kéo
dài tới hàng năm thì hai mùa lúa, mọi giá trị (lương, thuế, học phí…) đều qui ra gạo.
Ăn uống văn hóa, chính xác hơn, đó là văn hóa tận dụng môi trường tự
nhiên. Cho nên, sẽ không có gì ngạc nhiên khi cư dân nền gốc du mục ( như
phương Tây hoặc bắc Trung Hoa) lại thiên về ăn thịt, còn trong cơ cấu bữa ăn
của người Việt Nam thì lại bộc lộ rất rõ dấu ăn của truyền thống văn hóa nông
nghiệp lúa nước: cơ cấu bữa ăn, nguyên liệu làm ra món ăn, món ăn chính. Trong du lịch
Trong những năm qua sự đóng góp của du lịch Nam Bộ vào sự phát triển
kinh tế - xã hội Nam Bộ gia tang đáng kể. Nếu như năm 1991 tổng GDP của du
lịch mới đạt được 18,36 triệu USD, thì đến năm 1995 đã đạt 67,12 triệu USD. Và
theo sự tính toán thì tổng USD của du lịch sẽ càng ngày càng tang. Sự phát triển
của du lịch đã kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế của Nam Bộ.
Phải nói rằng, công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Nam Bộ vầ cả
nước , đang đưa Nam Bộ vào một bước ngoặt mới. Thắng lợi của công cuộc
này sẽ nâng tầm vóc Nam Bộ lên bình diện mới, với những tin hoa và thanh lịch
hiện đại. Sự phát triển của các ngành kinh tế, đặc biệt là du lịch đã ảnh hưởng
đến nghệ thuật ẩm thực Nam Bộ.
Trong một chuyến đi, chi tiêu của khách du lịch dành cho lưu trú và ăn
uống là nhu cầu không thể thiếu. Theo như số liệu đã thống kế của Viện Nghiên
cứu phát triển du lịch thì vào năm 1995, trung bình mỗi ngày khách quốc tế đến
Việt Nam chi tiêu khoảng 70 USD. Phần lớn nguồn chi tiêu của khách tập chung
vào lưu trú ( chiếm 50,17 %) và ăn uống ( chiếm 19,6 %) sau đó là mua hàng lưu
niệm ( chiếm 13,34%), lữ hành vận chuyển ( chiếm 9,55 %) và các dịch vụ khác (
chiếm 8,34 %). Tuy nhiên, việc chi tiêu này lại có một giới hạn nhất định. Vì vậy,
muốn tang nguồn thu thì phải nâng cao ăn uống lên thành việc thưởng thức
nghệ thuật ẩm thực. Điều này đã đucợ thực khách sành ăn như Tản Đà đúc kết:
“Ăn cái gì? Ăn như thế nào? Ăn ở đâu?”
Với tiêu chí đó,muốn phổ biến văn hóa Nam Bộ - Việt Nam đến với mọi
người trên khắp các vùng miền của đất nước cũng như khách nước ngoài đến
với Việt Nam thì ngoài các hoạt động tuyên truyền quảng cáo bằng văn hóa
phẩm, tham quan di tích lịch sử thì văn hóa ẩm thực cũng là một phương thức
tiếp thị hiểu quả. Vì như dân ta đã từng đúc kết: “ Miếng ngon nhớ lâu”. Thông
qua việc thưởng thức nghệ thuật ẩm thực, khách du lịch có thể hiểu đucợ về
phong tục, tập quán, lối sống, lối hành xử cũng như vnw hóa của nơi đó. Điều
này sẽ tạo được ấn tượng tốt đẹp cho du khách, làm cho họ thấy chuyến đi của
mình có ý nghĩa. Bởi vì một trong những mục đích của du lịch là mở rộng tầm
hiểu biết, thấy được những điều mới lạ tại điểm đến. Đây cũng có thể coi như là
một yếu tố thu hút khách, tạo thành sản phẩm du lịch đặc biệt, là sự hấp dẫn
trong chuyến đi. Mặt khác, việc thưởng thức các món ăn ngon cũn là dịp để thực
khách lấy lại sinh lực cho cơ thể để tham gia trọn vẹn và thưởng thức được
những đặc sắc trong chương trình du lịch.
Một vài món ăn đặc trưng ở vùng đất Nam Bộ
Canh chua cá chốt: Ở Long An có một món ăn hết sức độc đáo tên là
canh chua cá chốt. Làm nên hương vị ngọt ngào cho món canh chua cá chốt thì
không thể thiếu nguyên liệu chính là những chú cá chốt có phần thịt thơm ngon,
phần trứng bùi và béo ngậy.
Bánh tét Long An: Bánh tét ở thị trấn Đức Hòa từ lâu đã trở thành một
trong những món ăn đặc sản nổi tiếng ở Long An. Bánh tét Đức Hòa ngon bởi vì
để làm được 1 phần bánh tét Đức Hòa đòi hỏi người nấu bánh phải thật tỉ mỉ từ
khâu chọn nguyên liệu gạo, thịt ba rọi, đậu xanh… để nấu bánh.
Đuông dừa: Đuông dừa hay sâu dừa là một loại côn trùng sống nhiều
trong thân cây dừa. Ở Bến Tre thì đuông dừa thường được ăn sống trong chén
mắm ớt. Nếu không ăn đuông dừa sống được thì du khách có thể kêu món
đuông dừa chiên bột hoặc đuông dừa nướng… để dễ ăn hơn.
Cá tai tượng chiên xù: Hầu hết các đám tiệc được tổ chức ở miệt vườn,
trên bàn ăn người ta thường thấy hình ảnh một con cá tai tượng chiên chù vô
cùng thơm ngon, hấp dẫn. Nếu là “tín đồ” của món ăn này thì khi đến Vĩnh Long,
du khách đừng nên bỏ lỡ. Cá tai tương chiên xù một màu vàng óng ả, trông vô
cùng bắt mắt. Khi ăn vào, thực khách sẽ cảm nhận được độ giòn rụm của bề
ngoài da cá, vảy cá, vị ngọt thơm của từng thớ cá… Cá tai tượng thường được
ăn kèm với các loại rau, cải.
Hủ tiếu Sa Đéc: Cũng với công thức chung khi nấu hủ tiếu, cũng với các
nguyên liệu như tôm, thịt heo, trứng cút, xá xíu, gan, thịt xay… nhưng người dân
Đồng Tháp có bí quyết nấu riêng nên nước ngọt trong và mùi thơm quyến rũ.
Đến Đồng Tháp phải thử một tô hủ tiếu Sa Đéc mới thấy cảm thấy sảng khoái.
Bánh tầm ngan dừa: Món này thường được ăn kèm với xíu mại, thịt ba rọi
và gan heo băm nhỏ. Một đĩa bánh tằm ngan dừa ngon phải có sợi bánh ngon
cộng với các gia vị phụ trợ khác như đường, tỏi, hành phi, tiêu… Cho bánh tằm
lên dĩa, sau đó cho xíu mại, thịt ba gọi, gan heo, chút rau thơm, giá sống rồi chan
nước xốt lên trộn đều là có ngay món bánh tằm ngan dừa thơm ngon.
Lẩu mắm Cần Thơ: Nhiều người nói muốn thưởng thức đầy đủ các
hương vị hay các món ngon ở miền Tây thì cách nhanh nhất là thử lẩu mắm.
Thường lẩu mắm Cần Thơ gồm có nước lèo (đa số là được nấu từ mắm cá linh,
cá sặt, cá trèn, cá lóc hoặc cá rô…). Một nồi lẩu ngon thì nước lèo phải
chuẩn.Và ăn kèm với lẩu không thể thiếu các loại rau xanh và bún tươi.
Thực trạng văn hóa ẩm thực Nam Bộ hiện nay Món ăn:
Nam Bộ là một trong những đầu mối giao thông quan trọng của cả nước.
Cùng với những chính sách đầu tư của nhà nước trong việc phát triển và hoàn
thiện cở sở hạ tầng giao thông vận tải Nam Bộ và phụ cận tạo thuận lợi thúc đẩy
sự thông thương hàng hoá, làm cho thực phẩm phục vụ cho ẩm thực của thủ đô
ngày càng đa dạng và phong phú hơn. Nam Bộ bây giờ có hàng trăm loại quà
ngon, mỗi mùa đều có thứ quà riêng biệt, hết mùa muốn ăn thì cũng có vì được
nhập khẩu từ những nơi khác về. Chúng ta không chối từ các món rau quả mới
như: xu hào, bắp cải, xúp lơ, xà lách ... bằng cách Việt Nam hoá tên gọi và cách
chế biến như là từ nộm đu đủ, hoa chuối, đến nộm xu hào thịt bò khô, như bún
riêu ăn lẫn với rau xà lách thái hay rau diếp của tổ tiên ta ngày xưa, xu hào luộc
chấm với mắm cá, trộn cà rốt của Tây với đu đủ của ta...
Sau thời kỳ ảnh hưởng văn hoá ẩm thực Trung Hoa, văn hoá ẩm thực Việt
Nam – nam Bộ lại chịu ảnh hưởng của văn hoá phương Tây qua văn hoá Pháp
với những món ăn: Sữa và các sản phẩm từ sữa (sữa, bơ (Beurre), pho mát
(Promage), bánh mỳ (những thế hệ trước gọi là bánh Tây), pa tê (paté), nước sốt (sauce).
Tất nhiên còn có ảnh hưởng ngoại lai và những nhân tố ngoại sinh khác
như: cà ri (Ấn Độ), Kim chi (Hàn Quốc), gỏi cá (Nhật Bản).
Hiện nay thực đơn trong các nhà hàng khách sạn tại Việt Nam cũng như
Nam Bộ thường chia ra thành các món ăn Âu, món ăn Á, món ăn Việt Nam. Điều
đó cho chúng ta thấy được sự phong phú đa dạng của các món ăn. Người Nam
Bộ hay khách du lịch có thể thưởng thức rất nhiều món ăn ngon và đặc sắc khi đến với Nam Bộ.
Bên cạnh mặt tích cực mà hội nhập đem lại thì nó cũng đặt ra cho ẩm thực
Nam Bộ những thách thức. Hiện nay, có rất nhiều món ăn truyền thống Nam Bộ
dần dần mất đi hay hiếm dần đi. Đó chính là mặt tiêu cực của hội nhập, làm mất
đi trong kho tàng văn hoá ẩm thực Nam Bộ những giá trị đã tồn tại lâu đời. Đồ uống:
Hiện nay, ở Nam Bộ có rất nhiều loại chè. Những loại chè truyền thống
như chè búp Thái Nguyên, Hà Giang, Phú Thọ... vẫn được người nam Bộ ưa
chuộng. Các nhà sản xuất chè Việt Nam gần đây đã tung ra thị trường rất nhiều
loại chè truyền thống ướp hương vị đóng gói như chè nhài, chè sen, chè hoa
cúc, hoa ngâu, hoè, sói... với mẫu mã và bao bì đẹp.
Bên cạnh đó, Nam Bộ hiện đang có rất nhiều loại trà nhập ngoại như: trà
Tàu, chè sâm Triều Tiên, trà Lipton nhãn vàng của Anh, trà Nestea, trà Dilmah...
Các loại trà này hấp dẫn khách hàng đủ chủng loại phong phú, phục vụ đối
tượng chủ yếu là giới trẻ năng động. Ngoài các loại chè, Nam Bộ hiện nay cũng
du nhập rất nhiều đồ uống có gốc nhập ngoại như: nước khoáng các loại, nước
ngọt có ga (Coca - cola, Sevenup, Sprite), cafe (Pháp), rượu vang (Pháp),
cocktail, sâm panh (champange)...
Cuộc sống ngày càng trở nên bận rộn, giới trẻ Nam Bộ giờ ưa chuộng với
những loại trà túi lọc hay hoà tan trên thị trường. Chúng ta có thể đễ dàng pha
chế, nhanh chóng và tiện lợi. Ngoài ra, còn có rất nhiều loại đồ uống với cách
thức pha chế mới lạ. Có thể đơn cử ra đây như cách thức pha chế cocktail, sinh
tố. Nó được xem như là những hình thức chế biến mới của nghệ thuật pha chế đồ uống Nam Bộ. KẾT LUẬN
Ăn uống là một bộ phận thiết yếu cấu thành bản sắc văn hóa dân tộc, là
một trong những lĩnh vực thể hiện đặc tính của một dân tộc. Trên dải đất Việt
Nam ngoài những đặc trưng chung nhất về ăn uống thì vẫn có những khẩu vị
riêng của từng vùng, sở dĩ như vậy là do có sự khác biệt về điều kiện địa lý, môi
trường sinh thái và nguồn nguyên liệu tại chỗ làm nên thực phẩm… Món ăn của
người Việt ở Nam Bộ rất đa dạng, phong phú là một trong những yếu tố độc đáo của văn hóa Việt Nam.
Có lẽ sự độc đáo ở đây là do điều kiện thiên nhiên hình thành nên là phần
nhiều cộng với sự sáng tạo của người dân địa phương. Nguyên liệu chế biến
nên các món ăn ngon Miền Tây Nam bộ lại rất gần gủi, đơn giản, bình dị như
chính con người nơi đây vậy. Đó có thể là các loại côn trùng, hoặc các loài động
vật nhỏ sống hoang dại như: Ếch, cua đồng, rắn, ốc, chuột đồng......Là vài cọng
rau mọc sau hè, ngoài đồng, hoặc trái bầu,quả mướp trên giàn. Bắt nguồn từ
những khó khăn thiếu thốn trong quá trình đi khẩn hoang tìm vùng đất mới. Để
sinh tồn người dân nơi đây đã tận dụng mọi nguyên liệu sẵn có trong tự nhiên.
Cũng chính sự khắc nghiệt của thiên nhiên đã khiến họ luôn sáng tạo, linh
hoạt và năng động. Sự sáng tạo, linh hoạt và năng động ấy cũng thể hiện rõ nét
trong cách người Nam bộ chế biến các món ăn ngon hàng ngày, lúc giỗ chạp,
cúng tế hay những ngày tết cổ truyền. Sự sáng tạo trong ẩm thực của người dân
Nam Bộ chưa bao giờ làm chúng ta hết ngạc nhiên. Từ một món ăn người ta có
thể chế biến bằng nhiều loại thực phẩm khác nhau ví dụ như chỉ với món kho đã
có cá lóc kho, cá trê kho, cá hủn hỉn kho tiêu, cá sặc kho, cá chạch kho, cá rô
kho, cá lòng ròng kho… còn có cả gà kho và dừa kho nữa.
Nam bộ được hình thành trên nền đất phù sa mới nên đất đai rất màu mỡ.
Vùng đất mà đâu đâu ta cũng thấy đất rộng sông dài, nơi nào cũng kinh rạch
chằng chịt. ... thế nên sản vật phong phú, hải sản dồi dào, nhiều cá, tôm, rắn,
cua, rùa, ếch ... Nam bộ xưa kia là vùng đất hoang vu, thiên nhiên khắc nghiệt
với những dòng lịch sử còn ghi lại những hình ảnh: “muỗi kêu như sáo thổi, đĩa
lềnh tựa bánh cánh” hay “dưới sống sấu lội trên bờ cọp um”. Vào những ngày
đầu “mang gươm đi mở cõi”, sau khi con người từ nhiều nơi đặc biệt là những
cư dân vùng đất Ngũ Quảng đã rời bỏ quê nhà mang theo hoài bảo và ý chí
khẩn hoang để khai khẩn vùng đất này để sinh sống họ đã phải đương đầu với
sự khắc nghiệt của thiên nhiên nơi đây phải chống chọi với thú dữ,muỗi
mồng,rắn rết,cùng nhiều thứ bệnh tật hiểm ác. Nhưng với tinh thần lạc quan họ
đã vượt qua khó khăn, thử thách để xây dựng nên vùng đất màu mỡ và trù phú
ngày hôm nay. Họ tương trợ lẫn nhau cùng nhau vượt qua mọi khó khăn gian
khổ và xây dựng nền văn hóa đặc sắc và nền ẩm thực phong phú
Ăn uống giờ đây không chỉ là nhu cầu thuần túy của con người để duy trì
sự sống, ăn uống còn là bản sắc, văn hóa của vùng, miền, của Quốc gia, dân
tộc. Mỗi quốc gia, dân tộc đều có một nét văn hóa ăn uống đặc thù của mình.
Ẩm thực Nam Bộ dù không cầu kì trong khâu bày trí nhưng vẫn rất hấp dẫn bởi
sự tươi ngon, dồi dào của nguyên liệu sự giản đơn mộc mạc trong chế biến,
thưởng thức nhưng vẫn mang một nét rất riêng không pha lẫn, điều đó đã làm
nên những đặc trưng độc đáo trong văn hóa ẩm thực Nam Bộ và để lại ấn tượng
khó quên cho người dân và thực khách.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Thạch Phương, Hồ Lê, Văn hóa dân gian người Việt ở Nam Bộ, Nxb Tổng hợp TP.HCM, 2014
2. Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Nxb Tổng Hợp Đồng Nai, 2005
3. Nguyễn Nhã, Bản sắc ẩm thực Việt Nam, Nxb Thông tấn, Hà Nội, 2009
4. Võ Văn Thành, Văn Hóa Nam Bộ qua cái nhìn của Sơn Nam, Nxb Trẻ, 2013
5. Nguyễn Thị Diệu Thảo, Văn hóa ẩm thực Việt Nam và thế giới, Đại học Sài Gòn, 2013
6. Trần Ngọc Thêm, Văn hóa người Việt ở vùng Tây Nam Bộ, Nxb VHVN, 2014
7. Phan Thị Yến Tuyết, Đời sống xã hội – kinh tế văn hóa của ngư dân
và cư dân vùng biển Nam Bộ, Nxb Đại học Quốc Gia TP.HCM, 2016
8. Nguyễn Văn Quí, Nghệ thuật ẩm thực trong phát triển du lịch ở Nam
Bộ, trường Trung Cấp Đại Việt TP.HCM
9. Ẩm thực Miền Nam Việt Nam, Wikipedia 10. Nam Bộ, Wikipedia
11. Đào Duy Anh, Việt Nam Văn Hóa Sứ Cương, Nxb Thời Đại, 2010
12. Dương Văn Sáu, Phát triển sản phẩm du lịch Việt Nam, Tạp
chí Du lịch Việt Nam, 2010
13. Trần Thúy Anh, Giáo trình du lịch văn hóa – Những Vấn Đề Lý
luận và Nghiệp Vụ, Nxb Giáo Dục, 2011