Văn hóa của người tày ở tỉnh Thái Nguyên | Tiểu luận môn Cơ sở văn hóa Việt Nam Trường đại học sư phạm kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh

Chọn đề tài nghiên cứu về văn hóa của người Tày ở Tỉnh Thái Nguyên là một quyết định chặt chẽ và có ý nghĩa sâu sắc. Điều này xuất phát từ sự nhận thức về giá trị độc đáo của văn hóa người Tày, một dân tộc giàu truyền thống và đang tồn tại trong một môi trường đa văn hóa đầy thách thức. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem.

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA KINH TẾ
ĐỀ CƯƠNG TIỂU LUẬN: VĂN HÓA CỦA NGƯỜI TÀY
TỈNH THÁI NGUYÊN
Giảng viên hướng dẫn: TS.GVC Đỗ Thùy Trang
Lớp: IVNC320905_23_1_04
Danh sách sinh viên thực hiện: Nhóm 19
Họ và tên MSSV
1. Huỳnh Thị Kim Thắm 22109141
2. Nguyễn Thành An 22133002
3. Huỳnh Nguyễn Minh Duy 22950002
4. Nguyễn Thị Tố Như 22109130
5. Ngô Hoài Nhân 19161271
6. Nguyễn Ngọc Quỳnh Nga 22109110
TP. HCM, tháng 12 năm 2023
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
Tp. Hồ Chí Minh, ngày ... tháng ... năm 2023
Kí tên
Đỗ Thùy Trang
BẢNG PHÂN CHIA CÔNG VIỆC
T
T
Họ tên MSSV
Nhiệm vụ
Hoàn
thàn
h
1
Huỳnh Thị Kim Thắm 22109141
100%
2
Nguyễn Thành An 22133002
100%
3
Huỳnh Nguyễn Minh Duy 22950002
100%
4
Nguyễn Thị Tố Như
22109130
100%
5
Ngô Hoài Nhân 19161271
100%
6
Nguyễn Ngọc Quỳnh Nga 22109110
100%
Ghi chú:
Tỷ lệ %= 100%
Trưởng nhóm:
(Email: 21124240@student.hcmute.edu.vn)
MỞ ĐẦU TIỂU LUẬN
1. Lý Do Chọn Đề Tài:
Chọn đề tài nghiên cứu về văn hóa của người Tày ở Tỉnh Thái Nguyên một quyết
định chặt chẽ và có ý nghĩa sâu sắc. Điều này xuất phát từ sự nhận thức về giá trị độc đáo
của văn hóa người Tày, một dân tộc giàu truyền thống đang tồn tại trong một môi
trường đa văn hóa đầy thách thức. do quan trọng nhất mong muốn hiểu hơn về
cách cộng đồng người Tày tại Thái Nguyên duy trì, thay đổi, tương tác với văn hóa
xung quanh.
Việc tìm hiểu về văn hóa của người Tày không chỉ mang lại kiến thức vững về truyền
thống lịch sử, còn chìa khóa để mở rộng tầm nhìn về đa dạng văn hóa tại Việt
Nam. Những nghiên cứu này có thể làm sáng tỏ những giá trị cốt lõi, tín ngưỡng, và thực
hành hàng ngày của cộng đồng này, từ đó đóng góp vào việc bảo tồn phát triển văn
hóa dân tộc trong bối cảnh thế giới ngày nay đang liên tục biến đổi.
Qua việc nghiên cứu về văn hóa người Tày, chúng ta có cơ hội đặt mình vào bối cảnh
xã hội đa văn hóa tìm hiểu về sự tương tác giữa các nền văn hóa khác nhau. Điều này
không chỉ mang lại những hiểu biết sâu rộngcòn đưa ra cơ hội xây dựng cầu nối văn
hóa, thúc đẩy sự hiểu biết tôn trọng giữa các cộng đồng. vậy, việc chọn đề tài này
không chỉ một hành động nghiên cứu còn sự cam kết đóng góp vào sự hiểu biết
toàn cầu về văn hóa và nhân loại.
2. Mục Tiêu Nghiên Cứu:
Nắm bắt sự phong phú, độc đáo của văn hóa người Tày ở Thái Nguyên.
Hiểu những giá trị văn hóa truyền thống sự phát triển của trong bối cảnh
đương đại.
Phân tích tác động của môi trường và các yếu tố khác đối với văn hóa người Tày.
3. Đối Tượng Nghiên Cứu:
Cộng đồng người Tày tại Thái Nguyên.
Những người giữ truyền thống văn hóa.
Những người ảnh hưởng đến sự phát triển và duy trì văn hóa Tày.
4. Phạm Vi Nghiên Cứu:
Nghiên cứu stập trung vào các diễn đàn văn hóa, lễ hội, truyền thống gia đình,
nghệ thuật truyền thống của người Tày.
Xác định các đặc điểm độc đáo về ngôn ngữ, phục trang, và lối sống.
So sánh sự giữ gìn và biến đổi của văn hóa truyền thống trong thời kỳ đương đại.
5. Phương Pháp Nghiên Cứu:
Phương pháp quan sát: Theo dõi các sự kiện văn hóa, lễ hội, các hoạt động hàng
ngày của cộng đồng.
Phương pháp phân tích nội dung: Nghiên cứu tài liệu, truyền thuyết,các hình thức
văn bản khác để hiểu sâu về văn hóa người Tày.
6. Kết cấu tiểu luận
Chương 1: Tìm Hiểu Chung về Người Tày ở Tỉnh Thái Nguyên
Chương này tập trung vào việc cung cấp cái nhìn tổng quan về cộng đồng người
Tày tại Thái Nguyên. Nghiên cứu đưa ra thông tin về lịch sử, địa lý, các khía cạnh
quan trọng của cuộc sống hàng ngày của người Tày. Chương cũng đặt ra các câu hỏi
hướng dẫn để hỗ trợ việc tìm hiểu chi tiết hơn về nền văn hóa của họ.
Chương 2: Văn Hóa Vật Chất và Văn Hóa Tinh Thần của Người Tày ở Thái Nguyên
Chương này đi sâu vào phân tích về hai khía cạnh quan trọng của văn hóa người
Tày: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Nghiên cứu đặt ra những điểm nổi bật về văn
hóa vật chất như phục trang, nghệ thuật truyền thống, đồ trang sức,... Đồng thời,
chương cũng đề cập đến những giá trị, tín ngưỡng, và thực hành tinh thần của người Tày,
giúp hiểu rõ hơn về ý thức và tâm huyết của cộng đồng này trong bối cảnh đương đại.
Phần Kết Luận:
Cuối cùng, phần kết luận tóm tắt những điểm quan trọng từ hai chương trước,
nhấn mạnh vào những hiểu biết mới về văn hóa của người Tày Thái Nguyên. Kết luận
cũng thể đề cập đến những thách thức triển vọng trong việc bảo tồn phát triển
văn hóa này trong bối cảnh hiện đại, mở ra hướng cho các nghiên cứu hoạch định
tương lai.
CHƯƠNG 1: TÌM HIỂU CHUNG VỀ NGƯỜI TÀY Ở TỈNH THÁI NGUYÊN
1. Tìm hiểu chung về tỉnh thái nguyên
1.1 Lịch sử hình thành
1.1.1 Thời tiền sử
Thái Nguyên là nơi sinh sống của người Việt cổ từ xa xưa. Tại khu vực Hang Óc, xã
Bình Long, người ta đã tìm thấy dấu vết của người tiền s cách đây ít nhất 7.000 -
8.000 năm, vỏ ốc bị chặt đuôi xương động vật là tàn tích thức ăn của người cổ đại.
Từ những m 1980, cũng tại khu vực Nhai, các nhà khảo cổ học đã phát hiện dấu
tích của người Việt cổ tại khu vực Mai Đá Ngườm, Thần Sa. Hang Phiêng Tung của
Thần Sa, Hang n I, Mái vòm Sơn II, Hang Tham Choong, Hang Na Ngun,
Hang Đà Ranh cùngng chục nghìn hiện vật khác với các công cụ chạm khắc bằng đá
cuội như: thanh, rìu, Mảnh tước, rìu tay, công cụ chặt nh núm cuội, ng c chặt rìa,
công cụ chặt 2 lưỡi, công cụ hình sừng bò... đặc biệt.
Các nhà khảo c vừa phát hiện ba bộ ơng người cổ làng Mai Đá Ngườm. Mái đá
Ngườm địa điểm quan trọng nhất của di chỉ Thần Sa 4 lớp n hóa khảo cổ,
trong đó lớp thứ 4 tượng trưng cho thời kỳ đồ đá Trung Cổ.
2.1.1 Thời kỳ các triều đại phong kiến
Dưới triều Đinh, Tiền vào TKX, đất nước được chia làm 10 đạo. Khi Thái Tổ lên
ngôi năm 1010, 10 đạo được đổi thành 24 lộ, các vùng xa xôi hẻo lánh như Thái Nguyên
nằm trong các châu biên viễn.
Thời thuộc Minh (1407-1427), trấn Thái Nguyên được đổi thành phủ Thái Nguyên, lệ
thuộc vào ty Bố Chính. Năm 1426, phủ Thái Nguyên đổi thành Thái Nguyên Thừa Chính
ty, gồm 3 phủ nhỏ là: Thái Nguyên, Phú Bình, Thông Hóa.
Thời Lê Sơ, vào năm 1428 Thái Nguyên thuộc Bắc Đạo. Năm 1466, Lê Thánh Tông chia
lại 5 đạo thành 12 đạo Thừa Tuyên, Thái Nguyên Thái Nguyên Thừa Tuyên. Năm
1467, Nhà tiến hành điều tra địa hình, địa giới, hoàn thành lập bản đồ quốc gia Đại
Việt vào năm 1469. Cùng thời gian này, Thái Nguyên Thừa Tuyên được đổi thành Ninh
Sóc Thừa Tuyên, gồm 3 phủ: Phú Bình, Thông Hóa, Cao Bằng. Đến năm 1483, Ninh Sóc
Thừa Tuyên đổi thành xứ Thái Nguyên. 1533 lại đổi xứ thành trấn Thái Nguyên. Năm
1677, phủ Cao Bằng tách khỏi trấn Thái Nguyên thành trấn Cao Bằng. Thủ phủ trấn Thái
Nguyên lúc này đặt tại xã Bình Kỳ, huyện Thiên Phúc (Sóc Sơn, Hà Nội ngày nay).
Dưới thời Gia Long Nguyễn Ánh, Thái Nguyên thuộc tổng trấn Bắc Thành. Năm 1813,
sau khi huyện Thiên Phúc tách khỏi trấn Thái Nguyên nhập về Bắc Ninh. Thủ phủ
chuyển về thành Đồng Mỗ, huyện Đồng Hỷ (nay thuộc phường Trưng Vương, thành phố
Thái Nguyên). Năm 1831-1832, Minh Mạng chia cả nước làm 30 tỉnh 1 phủ Thừa
Thiên. Trấn Thái Nguyên được đổi thành tỉnh Thái Nguyên. Đến năm 1836, tỉnh Thái
Nguyên có 3 phủ, 9 huyện và 2 châu.
2.1.2 Từ những năm 1890 đến 1965
Thời Pháp thuộc, bắt đầu từ năm 1890, chính quyền thực dân đã tách huyện Bình Xuyên
ra khỏi tỉnh Thái Nguyên, thành lập tỉnh Vĩnh An, thực thi quyền lực quân sự, chia Thái
Nguyên thành các tiểu khu quân sự cho quan quân đội. vậy, từ tháng 10 năm 1890
đến tháng 9 năm 1892, tỉnh Thái Nguyên bị giải thể phân tán ra các vùng khác nhau
dưới sự quản lý của chính quyền quân sự Pháp.
Theo sắc lệnh do Toàn quyền Đông Dương từ ngày 10 đến ngày 15 tháng 10 năm
1892, các vùng phân tán (trừ vùng Bình Thuận) được trả về tỉnh Thái Nguyên và đặt dưới
sự quản lãnh sự. Ngày 12 tháng 6 năm 1894, Toàn quyền Đông Dương ban hành nghị
định sáp nhập hai tỉnh Cẩm Hoa Cao Lạc vào Quân đoàn Cao Bình của Quân khu
Quảng Bình thứ hai, đồng thời thành lập quân Thái Kinh. Sư đoàn quân sự gồm có 13 chỉ
huy. Trong s đó, quân đoàn Thái Nguyên tổng cộng 5 phân đội. Ngày 11/4/1900,
Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập tỉnh Bắc Chấn trên sở toàn bộ huyện
Thông Hà của Thái Nguyên.
Ngày 1 tháng 7 năm 1956, Thái Nguyên là một trong sáu tỉnh của Khu tự trị Bắc Việt mới
thành lập [18], thị trấn Thái Nguyên thủ phủ của Khu tự trị Bắc Việt. Lúc này, huyện
Phổ Yên được sáp nhập vào tỉnh Vĩnh Phúc, huyện Phú Bình sáp nhập vào tỉnh Bắc
Giang, nhưng một năm sau, hai huyện này được chuyển về tỉnh Thái Nguyên thuộc
Khu tự trị Bắc Việt. Khu tự trị Bắc Việt tồn tại cho đến khi giải thể vào cuối năm 1975.
Ngày 19/10/1962, Ủy ban Chính phủ ban hành Quyết định số 114-CP về việc thành lập
thành phố Thái Nguyên.
Ngày 21/4/1965, Ủy ban Thường vụ Quốc hội của chính phủm thời ra Quyết định số
103-NQ-TVQH sáp nhập hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn thành tỉnh Bắc Thái.
2.1.3 Từ năm 1997 tới nay
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội ban hành nghị quyết về việc chia và điều chỉnh địa
giới một số tỉnh. Theo đó, chia tỉnh Bắc Thái thành hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn.
Sau khi tái lập, tỉnh Thái Nguyên có 9 đơn vị hành chính gồm thành phố Thái Nguyên, thị
xã Sông Công và 7 huyện: Đại Từ, Định Hóa, Đồng Hỷ, Phổ Yên, Phú Bình, Phú Lương,
Võ Nhai.
Ngày 15 tháng 5 năm 2015, thành lập thành phố Sông Công trên sở toàn bộ diện tích
và dân số của thị xã Sông Công, thành lập thị Phổ Yên trên cơ sở toàn bộ diện tích
dân số của huyện Phổ Yên.[22]
Ngày 10 tháng 4 năm 2022, thành lập thành phố Phổ Yên trên sở toàn bộ diện tích
dân số của thị xã Phổ Yên.Tỉnh Thái Nguyên có 3 thành phố và 6 huyện như hiện nay.
1.2 Vị trí địa và điều kiện tự nhiên
1.2.1 Vị trí địa lý
rungm hành chính của tỉnh là thành phố Thái Nguyên,ch trung tâm thủ đô Nội
khoảng 75 km, cách trung tâm thành ph Hải Phòng khoảng 200 km, cách biên giới
Việt Nam - Trung Quốc khoảng 200 km, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp tỉnh Lạng n và tỉnh Bắc Giang
Phía tây giáp tỉnh Vĩnh Phúc tỉnh Tuyên Quang
Phía nam giáp thủ đô Hà Nội
Phía bắc giáp tỉnh Bắc Kạn
Với vị trí địa một trong những trung tâm chính trị, kinh tế và giáo dục của khu Việt
Bắc nói riêng, của vùng trung du miền núi phía bắci chung, Thái Nguyên là cửa ngõ
giao lưu kinh tế - xã hội giữa vùng trung du miền núi với vùng đồng bằng Bắc Bộ. Việc
giao lưu đã được thực hiện thông qua hệ thống đường bộ, đường sắt, đường ng hình
rẻ quạt mà thành phố Thái Nguyên đầu nút.
Với vị trí vô cùng thuận lợi về giao thông, cách n bay quốc tế Nội Bài 50 km, cách
biên giới Trung Quốc 200 km, cách trung tâm Nội 75 km và cách cảng Hải Phòng
200 km. Thái Nguyên còn đầu mối giao thông quan trọng với hệ thống đường bộ,
đường sắt, ng ngòi hình quạt nối liền các tỉnh, thành phố; Quốc lộ 3 nối Nội với
Bắc Kạn; Cao Bằng cửa khẩu Việt Nam Trung Quốc; Quốc lộ 1B đi Lạng n;
Quốc lộ 37 Bắc Ninh, Bắc Giang, Tuyên Quang; đường Hồ C Minh; thiết bị 5; hệ
thống sông Đa Phúc – Hải Phòng; Đường sắt Thái Nguyên - Hà Nội - Kép, Lạng Sơn.
1.2.2 Điều kiện tự nhiên
a. Địa hình đất đai
Địa hình tỉnh Thái Ngun chủ yếu đồi núi thấp, thấp dần từ bắc xuống nam. Diện
tích đồi núi trên 100 m so với mực nước biển chiếm 2/3 tổng diện tích toàn tỉnh, còn lại
có độ cao dưới 100 m so với mực nước biển.
Đất núi chiếm 48,4% diện tích tự nhiên Thái Nguyên, độ cao trên 200 m, hình tnh
do sự phong hóa trên các đá Macma, đá biến chất trầm tích xưa. Đất đồi chiếm
31,4% diện tích tnhiên chủ yếu hình thành trên sa thạch, bột kết phiến sét và một phần
phù sa cổ kiến tạo.Đất ruộng chiếm 12,4% diện tích đất tự nhiên, trong đó một phần
phân bố dọc theo các con suối, rải c, không tập trung, chịu s tác động lớn của địa
hình và khí hậu khắc nghiệt.
Dãy núi Thái Nguyên không cao lắm, toàn bộ phần phía nam của dãy núi Ngân Sơn
Bắc Sơn. Địa hình cao nhất là dãy núi Tam Đảo, đỉnh cao nhất 1.590 m; Sườn phía
Đông của dãy núi Tam Đảo phía Tây Nam tỉnh Thái Nguyên (bao gồm các thị trấn phía
Tây huyện Đại Từ) độ cao khoảng 1.000 m, sau đó giảm nhanh về phía thung lũng
sông Công và vùng hồ Núi Cốc.
phía Đông của tỉnh, vùng đất chỉ cao từ 500 đến 600 m, gồm ch yếu các khối đá
vôi có cùng độ cao mặt đất.
Phía nam tỉnh, địa hình thấp hơn nhiều, có một s i thấp nhô lên khỏi các vùng đồi
thấp. ng trung du phía nam vùng đồng bằng p sa các con sông đều cao dưới
100m. Địa hình không phức tạp so với các tỉnh trung du miền i khác, đây là một
lợi thế của Thái Nguyên.
b. Khí hậu và thời tiết
Khí hậu chia làm 4 mùa rõ rệt: Xuân Hạ Thu Đông; Lượng mưa trung bình hàng
năm khoảng 2.000 - 2.500 mm; Tổng số giờ nắng trong năm dao động từ 1.300 đến
1.750 giờ. Nhìn chung, k hậu tỉnh Thái Nguyên thuận lợi cho pt triển nông, lâm
nghiệp.
Nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới m nhưng do tác động từ địa nh n khí hậu
Thái Nguyên về mùa đông được chia thành 3 vùng rõ rệt:
Vùng lạnh nhất nằm ở phía bắc quận Võ Nhai.
Vùng lạnh vừa phải gồm các huyện Định Hóa, Phú Lương Nam Võ Nhai.
Vùng nóng gồm: Thái Nguyên, Sông Công, th trấn Phổn và các huyện Đồng
Hỷ, Phú Bình, Đại Từ.
c. Tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên khng sản rất phong phú, có lợi thế so sánh lớn trong việc phát triển các
ngành luyện kim, khai khoáng... Tỉnh Thái Nguyên tr lượng than lớn thứ hai cả
nước; Kim loại màu bao gồm thiếc, chì, kẽm, vonfram, vàng, đồng, niken, thủy ngân...
Khoáng sản vật liệu xây dựng cũng là nguồn nguyên liệu có tiềm năng rất lớn để sản
xuất xi măng,c loại đá ốpt vật liệu xây dựng. Tỉnh Thái Nguyên khuyến khích
các dự án đầu chế biếnu khoáng sản. Về than, 4 mỏ có trữ lượng hơn 100 triệu
tấn. Quặng sắt 47 mỏ điểm khai thác với trữ lượng gần 100 triệu tấn. Titan có 18
mỏ với trữ lượng thăm khoảng 18 triệu tấn; 3 mỏ thiếc có trữ lượng trên 13 triệu
tấn; Vonfram có trữ lượng hơn 110 triệu tấn... Về VLXD 2 mỏ đất sét trữ lượng hơn
80 triệu tấn; đá vôi xây dựng trữ lượng 100 tm3; mỏ đất sét cao lanh trữ lượng hơn
20 triệu m3…
1.3 Các thành phần dân tộc trong huyện
1.3.1 Mật độ dân số
Theo điều tra n số ngày 01/4/2019, dân số tỉnh Thái Nguyên 1.286.751 người,
trong đó có 629.197 nam 657.554 nữ. Tổng dân số thành thị 410.267 người
(31,9%) tổng dân số ng thôn 876.484 người (68,1%). Cũng theo Tổng cục
Thống , tốc độ ng dân số tự nhiên của Thái Nguyên năm 2019 1,36%. Tỷ trọng
dân số sống thành thị của tỉnh đứng thứ 18 cả nước, đứng th nhất trong các tỉnh
Trung du và miền núi phía Bắc, cao thứ hai vùng thủ đô (chỉ sau thành phố Hà Nội). Tỷ
lệ đô thị hóa của Thái Nguyên đến năm 2023 là 41,73%.
Tỷ lệ tăng dân số bình quân hàng năm giai đoạn 2009-2019 đạt 1,36%/năm , tốc độ tăng
bình quân giai đoạn 10 năm qua cao hơn so với tốc động bình quân của 10 năm trước
và cao hơn so với mức tăng của bình quân chung của cả nước.
Dân Thái Nguyên phân bố không đều, vùng cao miền i dân rất thưa thớt,
trong khi vùng thành thị đồng bằng dân đông đúc. Mật độ dân s thấp nhất là
huyện Nhai với 80 người/km2, cao nhất thị trấn Thái Nguyên với mật độ 1.903
người/km2, thứ hai thị trấn Phổ Yên với mật độ 760 người/km2, sau đó thị trấn
sông Công. với mật độ 705,3 người/km2.
1.3.2 Các dân tộc sinh sống
Dân tộc
Dân số
(người)
Tỉ lệ
so với
tổng
dân số
tỉnh
Dân số đô
thị
(người)
Tỉ lệ
so với dân
số
dân tộc
Dân số nông
thôn
(người)
Tỉ lệ
so với dân
số
dân tộc
Kinh 821.083 73,1% 249.305 30,4% 571.778 69,6%
Tày 123.197 11% 21.319 17,3% 101.878 82,7%
Nùng 63.816 5,7% 7.716 12,1% 56.100 87,9%
Sán Dìu 44.134 3,9% 3.941 8,9% 40.193 91,1%
Sán
Chay
32.483 2,9% 1.101 3,4% 31.382 96,6%
Dao 25.360 2,3% 1.186 4,7% 24.174 95,3%
H’Mông 7.230 0,6% 237 0,03% 6.993 99,97%
Hoa 2.064 0,18% 712 34,5% 1.352 65,5%
(Nguồn:https://vi.wikipedia.org/wiki)
Dân tộc tày số lượng dân đứng hàng thứ hai trong các dân tộc của tỉnh (chiếm
10,15%). Họ mặt tất cả các huyện, thành phố trong tỉnh, tập trung đông nhất
huyện Định Hoá (41,1%), tiếp đến các huyện: Phú Lương (18,6%), Đại Từ (12,7%),
Nhai (12,5%). Theo điều tra dân số năm 2019, dân tộc Tày định tại Thái Nguyên
150.404 người, chiếm 11,0% dân s toàn tỉnh và 15,0% tổng số người Tày tại Việt
Nam.
2. Tìm hiểu chung về người Tày ở tỉnh Thái Nguyên.
2.1 Nguồn gốc và dân số hiện nay
Người Tày mặt Việt Nam từ rất sớm, từ cuối thiên niên kỷ thứ nhất
trước Công nguyên và là một trong những chủ nhân đầu tiên của nước Việt cổ.
Theo điều tra dân số năm 2019, người Tày Việt Nam n số 1.845.492
người, dân tộc dân số đứng thứ 2 tại Việt Nam. Dân tộc Tày Thái Nguyên
khoảng 150.404 người, chiếm 11,0% dân số toàn tỉnh 15,0% tổng số người
Tày tại Việt Nam.
Một số nhóm người chính được chính phủ Việt Nam coi là dân tộc Tày:
Người Ngạn một nhóm dân của hai tỉnh Cao Bằng Giang, được xếp vào
nhóm dân tộc Tày nhưng có ngôn ngữ gần gũi với ngôn ngữ Giáy.
Người Pa Dí sống chủ yếu ở Mường Khương, tỉnh Lào Cai, với dân số khoảng 2.000
người. Họ được xếp vào nhóm dân tộc Tày, nhưng ngôn ngữ Pa lại thuộc nhóm
Thái Tây Nam. Người Thu Lào sống Mường Khương Si Ma Cai của Lào Cai,
họ nói tiếng Thu Lào gần với tiếng Tráng.
Người Phen là một nhánh của người Tày sống ở Bình Liêu, Quảng Ninh. Họ di cư từ
huyện Phong Thành, Quảng Đông (nay thuộc khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây,
Trung Quốc) đến Quảng Ninh tự xưng Phén nhằn ( Phiên nhân, nghĩa
người từ bên kia biên giới), khác biệt với Thổ nhân, có nghĩa là người Tày bản địa.
Thổ hóa các dân tộc Nùng, Dao, Việt được Tày hóa. Một số người Việt,
trong đó tu sĩ, quan lại đã diđến khu vực biên giới giữa Việt Nam và Trung
Quốc để sinh sống, rồi nhiều thế hệ sau trở thành người Tày ngày nay được
chính phủ Việt Nam xếp vào danh sách người Tày, những người này thường sống
các tỉnh lỵ, các quận trưởng hoặc các làng/thôn ngoại ô các trung tâm dân
này. Họ thường sở hữu nhiều đất đai hơn tương đối giàu có. giàu hơn người
Tày bản địa xung quanh.
2.2 Tình hình kinh tế
Người Tày dân tộc nông thôn truyền thống làm nông vùng đất ngập
nước. Từ lâu họ đã quen với phương pháp thâm canh, tưới tiêu quảng canh như
đào mương, làm cọn, lấy nước để tưới ruộng. Ngoài lúa nước, người Tày còn
trồng lúa nương, hoau, cây ăn quả, cây công nghiệp. Chăn nuôi phát triển với
nhiều loại gia súc, gia cầm nhưng chăn nuôi thả rông vẫn rất phổ biến. Trọng tâm
nghề thủ công của gia đình. Nổi tiếng nhất thổ cẩm, nhiều hoa văn đẹp,
độc đáo.
Người Tày khai thác các thung lũng, đồi núi nơi họ cư trú thành những cánh
đồng, ruộng bậc thang màu mỡ; trong vườn rừng với những cây cọ, cây hồi và cây
ăn quả xanh. nhiều vùng, người Tày hiện nay đã biết đa dạng hóa cấu cây
trồng bằng cách kết hợp các kỹ thuật nông nghiệp truyền thống như trồng xen,
luân canh, xen canh, sử dụng phân bón vi sinh, hóa học... Phát triển chăn nuôi
ngày càng phát triển cùng với nhiều loại gia súc, gia cầm. Người Tày nhiều
nghề thủ công như đan rổ, dệt vải, nhuộm chàm, làm ngói, chế biến gỗ...
Các tộc Tày Thổ hóa thường sở hữu nhiều đất đai hơn tương đối giàu có.
giàu có hơn người Tày bản địa xung quanh.
2.3 Sơ lược về văn hóa & xã hội
Với vị trí địa thuận lợi, cận kề với đồng bằng Bắc Bộ tiếp giáp với
Trung Quốc, khu vực cư trú của người Tày ở Đông Bắc từ xưa đã diễn ra việc trao
đổi buôn bán sầm uất với nhiều chợ phiên nổi tiếng như chợ Kỳ Lừa, chợ Đồng
Đăng của tỉnh Lạng Sơn; chợ Quảng Uyên, chợ Trùng Khánh của tỉnh Cao Bằng
hay chợ Chu, chợ Đu của tỉnh Thái Nguyên…
Người Tày nhiều hình thức tín ngưỡng dân gian khác nhau như trong
phạm vi gia đình thờ tổ tiên, thờ mụ, Phật Quan Âm, Táo quân, ngoài
bản thì thờ thổ thần, một số bản thờ thành hoàng, một số nơi còny chùa để
thờ Phật. Các nghi lễ vòng đời cũng có ý nghĩa quan trọng trong đời sống tinh thần
của người Tày.
Người Tày chủ yếu theo tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
Họ quan niệm: “Vạn vật hữu linh” nên họ coi mọi thứ đều có linh hồn.
Trong gia đình bất cứ công việc xảy ra thì đều phải khấn báo với gia tiên,
Khách phụ nữ thai, mới sinh không được phép ngồi hay nằm trên ghế,
giường trước bàn thờ.
Trong tôn giáo của người Tày, ngày tảo mộ (3/3 âm lịch) ngày lễ quan trọng
nhất của người Tày (Có một số nơi người Tày đi tảo mộ trước Tết Nguyên Đán
(1/1 âm lịch) khoảng 2-5 ngày, và coi Tết Nguyên Đán như là ngày lễ quan trọng
nhất của trong năm)
Tuy nhiên ngoài tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên người Tày còn chịu ảnh hưởng của
tôn giáo như Phật, Đạo, Nho.
CHƯƠNG 2: VĂN HÓA VẬT CHẤT VĂN HÓA TINH THẦN CỦA
NGƯỜI TÀY Ở THÁI NGUYÊN
2.1 Văn hóa vật chất
2.1.1 Trang phục truyền thống
Văn hóa vật chất của người Tày ở Thái Nguyên bao gồm nhiều khía cạnh, trong đó
trang phục truyền thống một phần quan trọng. Trang phục truyền thống của người Tày
thường thể hiện nét đẹp và sự đặc trưng văn hóa của dân tộc này.
Trang phục nam truyền thống của người Tày thường bao gồm áo dài cổ tròn hoặc cổ
thuyền, áo dáng rộng dài che đến gót chân, đan hoặc thêu các họa tiết trang trí
phong phú trên áo. Quần ngố (quần lửng) thường được kết hợp với áo dài. Đặc biệt,
người Tày nam thường đội nón lá tròn hoặc nón lá trái xoan làm từ lá chuối.
Trang phục nữ truyền thống của người Tày thường gồm áo dài cổ tròn hoặc cổ
thuyền, áo có dáng rộng và dài che đến gót chân, thêu hoặc đan các hoa văn trên áo. Váy
dài (váy xòe) thường được kết hợp với áo dài. Phụ kiện như khăn đội đầu, dây chuyền,
vòng cổ, vòng tay, và khuyên tai cũng được sử dụng để trang trí và tăng thêm sự quyến rũ
cho trang phục.
Trang phục truyền thống của người Tày thường được làm từ các loại vải tự nhiên
như lanh, tằm, gấm, vải brocade được làm thủ công tỉ mỉ. Các màu sắc chủ đạo
trong trang phục truyền thống màu đen, trắng, đỏ xanh dương. Các hoa văn họa
tiết trên trang phục thường mang ý nghĩa tâm linh, văn hóa truyền thống của người
Tày.
Khăn xếp cũng một phụ kiện không thể thiếu trong trang phục truyền thống của
người Tày. Khăn xếp là một miếng vải vuông, kích thước khoảng 1m x 1m, được gấp
thành hình tam giác đội lên đầu. Khăn xếp thường màu đỏ, xanh, vàng hoặc trắng,
được trang trí bằng các họa tiết thêu hoặc dệt. Khăn xếp không chỉ có tác dụng che nắng,
che mưa, còn một biểu tượng của sự trang trọng, tôn kính văn minh. Nón
một loại nón được làm bằngdong hoặc chuối, có hình nón tròn, có quai đeo. Nón
thường được mặc bởi người làm nông, làm ruộng, hoặc đi chợ.
Trang phục truyền thống của người Tày không chỉ phản ánh sự gần gũi với thiên
nhiên, mà còn thể hiện sự tinh tế, sáng tạo và đa dạng của văn hóa vật chất của họ. Trang
phục truyền thống của người Tày cũng một phần của di sản văn hóa dân tộc, cần được
bảo tồn và phát huy. Nó là một cách để thể hiện lòng tự hào về nguồn gốc dân tộc và duy
trì và phát triển văn hóa truyền thống của người Tày ở Thái Nguyên.
2.1.2 Nhà ở truyền thống
Nhà ở truyền thống của người Tày ở Thái Nguyên phản ánh cách sống văn hóa
của dân tộc này. Nhà truyền thống của người Tày thường được xây dựng bằng gỗ
kiểu kiến trúc độc đáo.
Một ngôi nhà truyền thống của người Tày thường có hai tầng. Tầng trên cùng là nơi
sinh hoạt chính của gia đình, còn tầng dưới được sử dụng để chăn nuôi lưu trữ nông
sản. Ngôi nhà thường có hình chữ nhật, với mái ngói dốc một số ngôi nhà có mái thái.
Những ngôi nhà truyền thống này được xây dựng với những cột gỗ chắc chắn các bức
tường được làm từ tre hoặc gỗ.
Ngôi nhà truyền thống của người Tày có không gian sống chung chung cho cả gia
đình. Trong nhà có sàn nhà cao, được làm từ gỗ hoặc đất nén. Một số ngôi nhà còn có lều
lửa ở giữa nhà, được dùng để nấu nướng và làm ấm trong mùa đông lạnh giá. Nhà cửa và
cửa sổ thường được trang trí bằng những họa tiết truyền thống các nét hoa văn đẹp
mắt.
Ngôi nhà truyền thống của người Tày không chỉ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hàng
ngày mà còn thể hiện niềm tin tâm linh và sự tôn trọng đối với tổ tiên. Thường được xây
theo hướng đông nam hoặc đông bắc, hướng mặt trời mọc. Người Tày tin rằng hướng nhà
ảnh hưởng đến sự may mắn, sức khỏe tài lộc của gia chủ. Người Tày cũng chú ý đến
ngày giờ tốt để xây nhà, chọn cột đặt cột. Nhiều gia đình người Tày Thái Nguyên
vẫn duy trì và giữ gìn ngôi nhà truyền thống như một phần không thể thiếu trong văn hóa
của họ.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển và hiện đại hóa, người Tày Thái Nguyên cũng
đã chuyển sang sử dụng những ngôi nhà hiện đại và tiện nghi hơn. Mặc dù vậy, những giá
trị văn hóa truyền thống của ngôi nhà truyền thống vẫn được gìn giữ truyền lại từ
thế hệ này sang thế hệ khác, đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì danh tính tinh
thần văn hóa của người Tày ở Thái Nguyên.
2.1.3 Nhạc cụ truyền thống
Văn hóa vật chất của người Tày Thái Nguyên cũng được thể hiện qua các nhạc
cụ truyền thống dân tộc này sử dụng. Nhạc cụ truyền thống của người Tày vai trò
quan trọng trong các hoạt động âm nhạc và diễn văn nghệ truyền thống.
Một trong những nhạc cụ truyền thống quan trọng của người Tày kèn (hay còn
gọi sáo). Kèn được làm từ một cây trúc, nhiều lỗ thổi âm thanh trong trẻo.
Người chơi kèn của người Tày thường thổi theo kỹ thuật đặc biệt, tạo ra những giai điệu
độc đáo phong cách riêng. Kèn thường được s dụng trong các buổi hòa nhạc, lễ hội
và các sự kiện văn hóa truyền thống.
Ngoài ra, người Tày còn sử dụng nhiều nhạc cụ khác như đàn bầu, đàn tỳ bà, đàn
nhị, sáo trúc trống. Đàn bầu một nhạc cụ dây đơn, được làm từ một y gỗ tròn
một dây dọc qua. Người chơi đàn bầu sẽ sử dụng ngón tay cách thổi để tạo ra âm
thanh đặc trưng. Đàn tỳ một nhạc cụ đàn hình dáng giống như cây đàn guitar,
nhưng thân đàn hẹp hơn. Đàn tỳ được chơi bằng cách sử dụng ngón tay để nhấn
vào các dây và sử dụng cây gậy để đánh.
Các nhạc cụ truyền thống của người Tày không chỉ tạo ra âm thanh đẹp còn
mang trong mình sự gắn kết với văn hóa và truyền thống của dân tộc. Những giai điệu và
nhịp điệu từ các nhạc cụ này thường được sử dụng trong các bài ca, điệu tiết mục
biểu diễn truyền thống của người Tày. Chúng đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì
và phát triển văn hóa âm nhạc độc đáo của người Tày ở Thái Nguyên
2.2 Văn hóa tinh thần
2.2.1 Lễ hội truyền thống
2.2.1.1 Lễ hội Lồng Tồng
Lồng Tồng (Lồng Tông trong tiếng Tày) có nghĩa là "xuống đồng". Cũng như người
Việt, từ xa xưa, đồng bào miền núi phía Bắc, nhất là các dân tộc Tày, Nùng đã sinh sống
gắn với thiên nhiên, với bản làng, núi đồi, ruộng đồng nương rẫy nên các phong
tục, tập quán của họ luôn mang đậm nét văn hóa truyền thống. Lễ hội Lồng tồng được
người dân nơi đây coi lễ hội quan trọng bậc nhất, gắn liền với nông nghiệp trồng trọt,
được tổ chức hàng năm nhằm gửi gắm những mong ước của con người.
Trước ngày tổ chức lễ hội Lồng tồng, các bản Tày chuẩn bị các công việc cho ngày
hội như chuẩn bị lễ cúng thần linh bao gồm gà, xôi màu, hoa quả, tiền vàng, trầu cau,
bánh... chọn thửa ruộng gần trung tâm, nơi bằng phẳng thuận tiện cho tổ chức nghi
thức xuống đồng, tổ chức hội thi cấy. Các bản cũng chọn chiếc cày đẹp, chắc khỏe, dán
giấy màu, chọn con trâu tốt để thực hiện những đường cày đầu tiên của năm mới. Như
nhiều lễ hội của các dân tộc khác, Lồng tồng có hai phần: phần lễ và phần hội.
a. Phần Lễ
Phần Lễ hoạt động tín ngưỡng cầu trời cho mưa thuận gió hoà, cây cối tốt tươi,
mùa màng bội thu, đời sống ấm no. Ðể chuẩn bị lễ ngoài đồng, mỗi gia đình sắm một
mâm cỗ theo khả năng, nhiều nhà làm từ vài chục đến một trăm món. những gia
đình dâng mâm cao đến 5 tầng lễ vật, ngoài các loại bánh kẹo còn các món ăn được
chế biến công phu, trên mỗi mâm đều một chiếc bánh hình bông hoa nhiều mầu sắc.
Mỗi mâm cỗ còn thêm hai đôi quả còn được làm bằng vải mầu, trong nhồi cát, bông,
có tua rua nhiều mầu sắc sặc sỡ.
Mâm lễ được đặt trang trọng trên bàn giữa khu đất bằng ngay trên bờ ruộng, nơi
sân khấu lễ hội. Các nghi lễ được các bậc cao niên trong bản tiếnnh như rước nước,
cúng thần bản, thần suối, thần núi, cúng cây còn... Với mong muốn thần linh sẽ ban cho
con người, cho dân bản nguồn nước để tưới cho những cánh đồng, ban cho mưa thuận gió
hòa để mùa màng được bội thu, cho con người sức khỏe để cày cấy. Tất cả những khát
vọng về cuộc sống ấm no, hạnh phúc, sinh sôi nảy nở, mọi điều an lành đều được người
dân gửi gắm vào mỗi mâm Tồng (mâm lễ) của mình dâng lên các vị thần.
b. Phần Hội
Phần cúng lễ cũng chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn, còn dành thời gian cho
phần hội. Muốn tổ chức phần hội, người làm lễ phải xin phép Thành hoàng làng bằng
cách dâng lễ tại chân cột còn, sau khi chủ nhang làm lễ và tiến hành tung quả còn ba lần
thì dân làng bắt đầu vào hội.
Mở đầu phần hội nghi thức đi đường cày đầu tiên của năm mới. Người nông dân
đại diện sẽ thắng trâu vào cày bắt đầu cày thửa ruộng được dân bản chọn. Mọi người
đứng xung quanh trên bờ cổ vũ, khích lệ. Sau khi cày xong, nước được đưa về ruộng
nghi thức cấy những cây mạ đầu tiên của năm.
Phần hội có các trò chơi dân gian truyền thống. Người Tày thường chọn bãi cỏ bằng
phẳng, rộng lớn vị trí trung tâm thuận lợi cho việc đi laị, vui chơi của dân bản các
vùng lân cận. Những nơi đình truyền thống tổ chức thì lễ hội diễn ra trên sân
đình lễ hội thường được tổ chức cấp xã, cấp huyên sự tham gia của chính quyền
địa phương và Phòng Văn hóa - Thể thao huyện, cán bộ văn hóa xã
2.2.1.2 Lễ hội tranh đầu pháo
Lễ hội Tranh đầu pháo được tổ chức với nhiều nghi thức độc đáo như: Khai quang
mở mắt rồng, lễ khao quân, lễ tế thần, lễ rước thần. Trong đó, trò chơi quan trọng nhất là
"Tranh đầu pháo".
Phần thi tranh đầu pháo gắn liền với câu chuyện kể về Nùng Trí Cao - một vị tướng
quân người dân tộc Tày đã tổ chức khao quân mừng chiến thắng tại nơi đây với tên gọi
"hội thua phảo" (nghĩa hội tranh đầu pháo), nhằm nêu cao tinh thần thượng võ, biểu
dương sức khỏe. Đầu pháomột vòng sắt quấn các tua ngũ sắc đặt lên chòi cao, sau
khi đốt pháo, đầu pháo rơi xuống, các đội cướp pháo ở các làng bản đã đăng ký vào tranh
cướp, ai cướp được đến tế thần nhận phần thưởng. Nay bỏ tục đốt pháo, người chủ lễ
đứng lên cao tung đầu pháo xuống sân, nơi tổ chức cướp pháo. Người dân địa phương
quan niệm: trong ngày hội, ai bắt được vòng lộc pháo thì cả năm sẽ gặp may mắn, phát
tài, phát lộc.
Sau trò tranh đầu pháo các trò chơi dân gian, như: múa rồng, múa kỳ lân, tung
còn, hát lượn, chơi đu, biểu diễn dân tộc, cờ tướng, đá bóng, triển lãm tranh
ảnh...Hằng năm, Lễ hội tranh đầu pháo thị trấn Quảng Uyên được tổ chức từ chiều 30
tháng Giêng đến hết ngày mùng 2/2 Âm lịch, không chỉ để tưởng nhớ các vị thần linh,
anh hùngcông với nước mà còn hoạt động mở đầu cho một năm mới, cầu cho mưa
thuận, gió hòa, mùa màng bội thu...
| 1/26

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH KHOA KINH TẾ
ĐỀ CƯƠNG TIỂU LUẬN: VĂN HÓA CỦA NGƯỜI TÀY Ở TỈNH THÁI NGUYÊN
Giảng viên hướng dẫn: TS.GVC Đỗ Thùy Trang
Lớp: IVNC320905_23_1_04
Danh sách sinh viên thực hiện: Nhóm 19 Họ và tên MSSV
1. Huỳnh Thị Kim Thắm 22109141 2. Nguyễn Thành An 22133002
3. Huỳnh Nguyễn Minh Duy 22950002
4. Nguyễn Thị Tố Như
22109130 5. Ngô Hoài Nhân 19161271
6. Nguyễn Ngọc Quỳnh Nga 22109110
TP. HCM, tháng 12 năm 2023
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
Tp. Hồ Chí Minh, ngày ... tháng ... năm 2023 Kí tên Đỗ Thùy Trang
BẢNG PHÂN CHIA CÔNG VIỆC Hoàn T Họ tên MSSV thàn T Nhiệm vụ h 1 Huỳnh Thị Kim Thắm 22109141 100% 2 Nguyễn Thành An 22133002 100% 3 Huỳnh Nguyễn Minh Duy 22950002 100% 4 Nguyễn Thị Tố Như 22109130 100% 5 Ngô Hoài Nhân 19161271 100% 6 Nguyễn Ngọc Quỳnh Nga 22109110 100% Ghi chú:  Tỷ lệ %= 100% Trưởng nhóm:
(Email: 21124240@student.hcmute.edu.vn)
MỞ ĐẦU TIỂU LUẬN
1. Lý Do Chọn Đề Tài:
Chọn đề tài nghiên cứu về văn hóa của người Tày ở Tỉnh Thái Nguyên là một quyết
định chặt chẽ và có ý nghĩa sâu sắc. Điều này xuất phát từ sự nhận thức về giá trị độc đáo
của văn hóa người Tày, một dân tộc giàu truyền thống và đang tồn tại trong một môi
trường đa văn hóa đầy thách thức. Lý do quan trọng nhất là mong muốn hiểu rõ hơn về
cách cộng đồng người Tày tại Thái Nguyên duy trì, thay đổi, và tương tác với văn hóa xung quanh.
Việc tìm hiểu về văn hóa của người Tày không chỉ mang lại kiến thức vững về truyền
thống và lịch sử, mà còn là chìa khóa để mở rộng tầm nhìn về đa dạng văn hóa tại Việt
Nam. Những nghiên cứu này có thể làm sáng tỏ những giá trị cốt lõi, tín ngưỡng, và thực
hành hàng ngày của cộng đồng này, từ đó đóng góp vào việc bảo tồn và phát triển văn
hóa dân tộc trong bối cảnh thế giới ngày nay đang liên tục biến đổi.
Qua việc nghiên cứu về văn hóa người Tày, chúng ta có cơ hội đặt mình vào bối cảnh
xã hội đa văn hóa và tìm hiểu về sự tương tác giữa các nền văn hóa khác nhau. Điều này
không chỉ mang lại những hiểu biết sâu rộng mà còn đưa ra cơ hội xây dựng cầu nối văn
hóa, thúc đẩy sự hiểu biết và tôn trọng giữa các cộng đồng. Vì vậy, việc chọn đề tài này
không chỉ là một hành động nghiên cứu mà còn là sự cam kết đóng góp vào sự hiểu biết
toàn cầu về văn hóa và nhân loại.
2. Mục Tiêu Nghiên Cứu:
 Nắm bắt sự phong phú, độc đáo của văn hóa người Tày ở Thái Nguyên.
 Hiểu rõ những giá trị văn hóa truyền thống và sự phát triển của nó trong bối cảnh đương đại.
 Phân tích tác động của môi trường và các yếu tố khác đối với văn hóa người Tày.
3. Đối Tượng Nghiên Cứu:
 Cộng đồng người Tày tại Thái Nguyên.
 Những người giữ truyền thống văn hóa.
 Những người ảnh hưởng đến sự phát triển và duy trì văn hóa Tày.
4. Phạm Vi Nghiên Cứu:
 Nghiên cứu sẽ tập trung vào các diễn đàn văn hóa, lễ hội, truyền thống gia đình, và
nghệ thuật truyền thống của người Tày.
 Xác định các đặc điểm độc đáo về ngôn ngữ, phục trang, và lối sống.
 So sánh sự giữ gìn và biến đổi của văn hóa truyền thống trong thời kỳ đương đại.
5. Phương Pháp Nghiên Cứu:
 Phương pháp quan sát: Theo dõi các sự kiện văn hóa, lễ hội, và các hoạt động hàng ngày của cộng đồng.
 Phương pháp phân tích nội dung: Nghiên cứu tài liệu, truyền thuyết, và các hình thức
văn bản khác để hiểu sâu về văn hóa người Tày.
6. Kết cấu tiểu luận
Chương 1: Tìm Hiểu Chung về Người Tày ở Tỉnh Thái Nguyên
Chương này tập trung vào việc cung cấp cái nhìn tổng quan về cộng đồng người
Tày tại Thái Nguyên. Nghiên cứu đưa ra thông tin về lịch sử, địa lý, và các khía cạnh
quan trọng của cuộc sống hàng ngày của người Tày. Chương cũng đặt ra các câu hỏi
hướng dẫn để hỗ trợ việc tìm hiểu chi tiết hơn về nền văn hóa của họ.
Chương 2: Văn Hóa Vật Chất và Văn Hóa Tinh Thần của Người Tày ở Thái Nguyên
Chương này đi sâu vào phân tích về hai khía cạnh quan trọng của văn hóa người
Tày: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Nghiên cứu đặt ra những điểm nổi bật về văn
hóa vật chất như phục trang, nghệ thuật truyền thống, và đồ trang sức,... Đồng thời,
chương cũng đề cập đến những giá trị, tín ngưỡng, và thực hành tinh thần của người Tày,
giúp hiểu rõ hơn về ý thức và tâm huyết của cộng đồng này trong bối cảnh đương đại. Phần Kết Luận:
Cuối cùng, phần kết luận tóm tắt những điểm quan trọng từ hai chương trước,
nhấn mạnh vào những hiểu biết mới về văn hóa của người Tày ở Thái Nguyên. Kết luận
cũng có thể đề cập đến những thách thức và triển vọng trong việc bảo tồn và phát triển
văn hóa này trong bối cảnh hiện đại, mở ra hướng cho các nghiên cứu và hoạch định tương lai.
CHƯƠNG 1: TÌM HIỂU CHUNG VỀ NGƯỜI TÀY Ở TỈNH THÁI NGUYÊN
1. Tìm hiểu chung về tỉnh thái nguyên

1.1 Lịch sử hình thành 1.1.1 Thời tiền sử
Thái Nguyên là nơi sinh sống của người Việt cổ từ xa xưa. Tại khu vực Hang Óc, xã
Bình Long, người ta đã tìm thấy dấu vết của người tiền sử cách đây ít nhất 7.000 -
8.000 năm, vỏ ốc bị chặt đuôi và xương động vật là tàn tích thức ăn của người cổ đại.
Từ những năm 1980, cũng tại khu vực Võ Nhai, các nhà khảo cổ học đã phát hiện dấu
tích của người Việt cổ tại khu vực Mai Đá Ngườm, xã Thần Sa. Hang Phiêng Tung của
Thần Sa, Hang Hà Sơn I, Mái vòm Hà Sơn II, Hang Tham Choong, Hang Na Ngun,
Hang Đà Ranh cùng hàng chục nghìn hiện vật khác với các công cụ chạm khắc bằng đá
cuội như: thanh, rìu, Mảnh tước, rìu tay, công cụ chặt hình núm cuội, công cụ chặt rìa,
công cụ chặt 2 lưỡi, công cụ hình sừng bò... đặc biệt.
Các nhà khảo cổ vừa phát hiện ba bộ xương người cổ ở làng Mai Đá Ngườm. Mái đá
Ngườm là địa điểm quan trọng nhất của di chỉ Thần Sa và có 4 lớp văn hóa khảo cổ,
trong đó lớp thứ 4 tượng trưng cho thời kỳ đồ đá Trung Cổ.
2.1.1 Thời kỳ các triều đại phong kiến
Dưới triều Đinh, Tiền Lê vào TKX, đất nước được chia làm 10 đạo. Khi Lý Thái Tổ lên
ngôi năm 1010, 10 đạo được đổi thành 24 lộ, các vùng xa xôi hẻo lánh như Thái Nguyên
nằm trong các châu biên viễn.
Thời thuộc Minh (1407-1427), trấn Thái Nguyên được đổi thành phủ Thái Nguyên, lệ
thuộc vào ty Bố Chính. Năm 1426, phủ Thái Nguyên đổi thành Thái Nguyên Thừa Chính
ty, gồm 3 phủ nhỏ là: Thái Nguyên, Phú Bình, Thông Hóa.
Thời Lê Sơ, vào năm 1428 Thái Nguyên thuộc Bắc Đạo. Năm 1466, Lê Thánh Tông chia
lại 5 đạo thành 12 đạo Thừa Tuyên, Thái Nguyên là Thái Nguyên Thừa Tuyên. Năm
1467, Nhà Lê tiến hành điều tra địa hình, địa giới, hoàn thành lập bản đồ quốc gia Đại
Việt vào năm 1469. Cùng thời gian này, Thái Nguyên Thừa Tuyên được đổi thành Ninh
Sóc Thừa Tuyên, gồm 3 phủ: Phú Bình, Thông Hóa, Cao Bằng. Đến năm 1483, Ninh Sóc
Thừa Tuyên đổi thành xứ Thái Nguyên. 1533 lại đổi xứ thành trấn Thái Nguyên. Năm
1677, phủ Cao Bằng tách khỏi trấn Thái Nguyên thành trấn Cao Bằng. Thủ phủ trấn Thái
Nguyên lúc này đặt tại xã Bình Kỳ, huyện Thiên Phúc (Sóc Sơn, Hà Nội ngày nay).
Dưới thời Gia Long Nguyễn Ánh, Thái Nguyên thuộc tổng trấn Bắc Thành. Năm 1813,
sau khi huyện Thiên Phúc tách khỏi trấn Thái Nguyên nhập về Bắc Ninh. Thủ phủ
chuyển về thành Đồng Mỗ, huyện Đồng Hỷ (nay thuộc phường Trưng Vương, thành phố
Thái Nguyên). Năm 1831-1832, Minh Mạng chia cả nước làm 30 tỉnh và 1 phủ Thừa
Thiên. Trấn Thái Nguyên được đổi thành tỉnh Thái Nguyên. Đến năm 1836, tỉnh Thái
Nguyên có 3 phủ, 9 huyện và 2 châu.
2.1.2 Từ những năm 1890 đến 1965
Thời Pháp thuộc, bắt đầu từ năm 1890, chính quyền thực dân đã tách huyện Bình Xuyên
ra khỏi tỉnh Thái Nguyên, thành lập tỉnh Vĩnh An, thực thi quyền lực quân sự, chia Thái
Nguyên thành các tiểu khu quân sự cho sĩ quan quân đội. Vì vậy, từ tháng 10 năm 1890
đến tháng 9 năm 1892, tỉnh Thái Nguyên bị giải thể và phân tán ra các vùng khác nhau
dưới sự quản lý của chính quyền quân sự Pháp.
Theo sắc lệnh do Toàn quyền Đông Dương ký từ ngày 10 đến ngày 15 tháng 10 năm
1892, các vùng phân tán (trừ vùng Bình Thuận) được trả về tỉnh Thái Nguyên và đặt dưới
sự quản lý lãnh sự. Ngày 12 tháng 6 năm 1894, Toàn quyền Đông Dương ban hành nghị
định sáp nhập hai tỉnh Cẩm Hoa và Cao Lạc vào Quân đoàn Cao Bình của Quân khu
Quảng Bình thứ hai, đồng thời thành lập quân Thái Kinh. Sư đoàn quân sự gồm có 13 chỉ
huy. Trong số đó, quân đoàn Thái Nguyên có tổng cộng 5 phân đội. Ngày 11/4/1900,
Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập tỉnh Bắc Chấn trên cơ sở toàn bộ huyện
Thông Hà của Thái Nguyên.
Ngày 1 tháng 7 năm 1956, Thái Nguyên là một trong sáu tỉnh của Khu tự trị Bắc Việt mới
thành lập [18], thị trấn Thái Nguyên là thủ phủ của Khu tự trị Bắc Việt. Lúc này, huyện
Phổ Yên được sáp nhập vào tỉnh Vĩnh Phúc, huyện Phú Bình sáp nhập vào tỉnh Bắc
Giang, nhưng một năm sau, hai huyện này được chuyển về tỉnh Thái Nguyên và thuộc
Khu tự trị Bắc Việt. Khu tự trị Bắc Việt tồn tại cho đến khi giải thể vào cuối năm 1975.
Ngày 19/10/1962, Ủy ban Chính phủ ban hành Quyết định số 114-CP về việc thành lập thành phố Thái Nguyên.
Ngày 21/4/1965, Ủy ban Thường vụ Quốc hội của chính phủ lâm thời ra Quyết định số
103-NQ-TVQH sáp nhập hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn thành tỉnh Bắc Thái.
2.1.3 Từ năm 1997 tới nay
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội ban hành nghị quyết về việc chia và điều chỉnh địa
giới một số tỉnh. Theo đó, chia tỉnh Bắc Thái thành hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn.
Sau khi tái lập, tỉnh Thái Nguyên có 9 đơn vị hành chính gồm thành phố Thái Nguyên, thị
xã Sông Công và 7 huyện: Đại Từ, Định Hóa, Đồng Hỷ, Phổ Yên, Phú Bình, Phú Lương, Võ Nhai.
Ngày 15 tháng 5 năm 2015, thành lập thành phố Sông Công trên cơ sở toàn bộ diện tích
và dân số của thị xã Sông Công, thành lập thị xã Phổ Yên trên cơ sở toàn bộ diện tích và
dân số của huyện Phổ Yên.[22]
Ngày 10 tháng 4 năm 2022, thành lập thành phố Phổ Yên trên cơ sở toàn bộ diện tích và
dân số của thị xã Phổ Yên.Tỉnh Thái Nguyên có 3 thành phố và 6 huyện như hiện nay.
1.2 Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên 1.2.1 Vị trí địa lý
rung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Thái Nguyên, cách trung tâm thủ đô Hà Nội
khoảng 75 km, cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 200 km, cách biên giới
Việt Nam - Trung Quốc khoảng 200 km, có vị trí địa lý:
 Phía đông giáp tỉnh Lạng Sơn và tỉnh Bắc Giang
 Phía tây giáp tỉnh Vĩnh Phúc và tỉnh Tuyên Quang
 Phía nam giáp thủ đô Hà Nội
 Phía bắc giáp tỉnh Bắc Kạn
Với vị trí địa lý là một trong những trung tâm chính trị, kinh tế và giáo dục của khu Việt
Bắc nói riêng, của vùng trung du miền núi phía bắc nói chung, Thái Nguyên là cửa ngõ
giao lưu kinh tế - xã hội giữa vùng trung du miền núi với vùng đồng bằng Bắc Bộ. Việc
giao lưu đã được thực hiện thông qua hệ thống đường bộ, đường sắt, đường sông hình
rẻ quạt mà thành phố Thái Nguyên là đầu nút.
Với vị trí vô cùng thuận lợi về giao thông, cách sân bay quốc tế Nội Bài 50 km, cách
biên giới Trung Quốc 200 km, cách trung tâm Hà Nội 75 km và cách cảng Hải Phòng
200 km. Thái Nguyên còn là đầu mối giao thông quan trọng với hệ thống đường bộ,
đường sắt, sông ngòi hình quạt nối liền các tỉnh, thành phố; Quốc lộ 3 nối Hà Nội với
Bắc Kạn; Cao Bằng và cửa khẩu Việt Nam – Trung Quốc; Quốc lộ 1B đi Lạng Sơn;
Quốc lộ 37 Bắc Ninh, Bắc Giang, Tuyên Quang; đường Hồ Chí Minh; thiết bị 5; hệ
thống sông Đa Phúc – Hải Phòng; Đường sắt Thái Nguyên - Hà Nội - Kép, Lạng Sơn.
1.2.2 Điều kiện tự nhiên
a. Địa hình đất đai
Địa hình tỉnh Thái Nguyên chủ yếu là đồi núi thấp, thấp dần từ bắc xuống nam. Diện
tích đồi núi trên 100 m so với mực nước biển chiếm 2/3 tổng diện tích toàn tỉnh, còn lại
có độ cao dưới 100 m so với mực nước biển.
Đất núi chiếm 48,4% diện tích tự nhiên ở Thái Nguyên, độ cao trên 200 m, hình thành
do sự phong hóa trên các đá Macma, đá biến chất và trầm tích xưa. Đất đồi chiếm
31,4% diện tích tự nhiên chủ yếu hình thành trên sa thạch, bột kết phiến sét và một phần
phù sa cổ kiến tạo.Đất ruộng chiếm 12,4% diện tích đất tự nhiên, trong đó một phần
phân bố dọc theo các con suối, rải rác, không tập trung, chịu sự tác động lớn của địa
hình và khí hậu khắc nghiệt.
Dãy núi Thái Nguyên không cao lắm, toàn bộ phần phía nam là của dãy núi Ngân Sơn
và Bắc Sơn. Địa hình cao nhất là dãy núi Tam Đảo, đỉnh cao nhất 1.590 m; Sườn phía
Đông của dãy núi Tam Đảo phía Tây Nam tỉnh Thái Nguyên (bao gồm các thị trấn phía
Tây huyện Đại Từ) có độ cao khoảng 1.000 m, sau đó giảm nhanh về phía thung lũng
sông Công và vùng hồ Núi Cốc.
Ở phía Đông của tỉnh, vùng đất chỉ cao từ 500 đến 600 m, gồm chủ yếu là các khối đá
vôi có cùng độ cao mặt đất.
Phía nam tỉnh, địa hình thấp hơn nhiều, có một số núi thấp nhô lên khỏi các vùng đồi
thấp. Vùng trung du ở phía nam và vùng đồng bằng phù sa các con sông đều cao dưới
100m. Địa hình không phức tạp so với các tỉnh trung du và miền núi khác, đây là một
lợi thế của Thái Nguyên.
b. Khí hậu và thời tiết
Khí hậu chia làm 4 mùa rõ rệt: Xuân – Hạ – Thu – Đông; Lượng mưa trung bình hàng
năm khoảng 2.000 - 2.500 mm; Tổng số giờ nắng trong năm dao động từ 1.300 đến
1.750 giờ. Nhìn chung, khí hậu tỉnh Thái Nguyên thuận lợi cho phát triển nông, lâm nghiệp.
Nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm nhưng do tác động từ địa hình nên khí hậu
Thái Nguyên về mùa đông được chia thành 3 vùng rõ rệt:
 Vùng lạnh nhất nằm ở phía bắc quận Võ Nhai.
 Vùng lạnh vừa phải gồm các huyện Định Hóa, Phú Lương và Nam Võ Nhai.
 Vùng nóng gồm: Thái Nguyên, Sông Công, thị trấn Phổ Yên và các huyện Đồng Hỷ, Phú Bình, Đại Từ.
c. Tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên khoáng sản rất phong phú, có lợi thế so sánh lớn trong việc phát triển các
ngành luyện kim, khai khoáng... Tỉnh Thái Nguyên có trữ lượng than lớn thứ hai cả
nước; Kim loại màu bao gồm thiếc, chì, kẽm, vonfram, vàng, đồng, niken, thủy ngân...
Khoáng sản và vật liệu xây dựng cũng là nguồn nguyên liệu có tiềm năng rất lớn để sản
xuất xi măng, các loại đá ốp lát và vật liệu xây dựng. Tỉnh Thái Nguyên khuyến khích
các dự án đầu tư chế biến sâu khoáng sản. Về than, có 4 mỏ có trữ lượng hơn 100 triệu
tấn. Quặng sắt có 47 mỏ và điểm khai thác với trữ lượng gần 100 triệu tấn. Titan có 18
mỏ với trữ lượng thăm dò khoảng 18 triệu tấn; Có 3 mỏ thiếc có trữ lượng trên 13 triệu
tấn; Vonfram có trữ lượng hơn 110 triệu tấn... Về VLXD có 2 mỏ đất sét trữ lượng hơn
80 triệu tấn; đá vôi xây dựng trữ lượng 100 tỷ m3; mỏ đất sét cao lanh trữ lượng hơn 20 triệu m3…
1.3 Các thành phần dân tộc trong huyện
1.3.1 Mật độ dân số

Theo điều tra dân số ngày 01/4/2019, dân số tỉnh Thái Nguyên là 1.286.751 người,
trong đó có 629.197 nam và 657.554 nữ. Tổng dân số thành thị là 410.267 người
(31,9%) và tổng dân số nông thôn là 876.484 người (68,1%). Cũng theo Tổng cục
Thống kê, tốc độ tăng dân số tự nhiên của Thái Nguyên năm 2019 là 1,36%. Tỷ trọng
dân số sống ở thành thị của tỉnh đứng thứ 18 cả nước, đứng thứ nhất trong các tỉnh
Trung du và miền núi phía Bắc, cao thứ hai vùng thủ đô (chỉ sau thành phố Hà Nội). Tỷ
lệ đô thị hóa của Thái Nguyên đến năm 2023 là 41,73%.
Tỷ lệ tăng dân số bình quân hàng năm giai đoạn 2009-2019 đạt 1,36%/năm , tốc độ tăng
bình quân giai đoạn 10 năm qua cao hơn so với tốc độ tăng bình quân của 10 năm trước
và cao hơn so với mức tăng của bình quân chung của cả nước.
Dân cư Thái Nguyên phân bố không đều, vùng cao và miền núi dân cư rất thưa thớt,
trong khi vùng thành thị và đồng bằng dân cư đông đúc. Mật độ dân số thấp nhất là
huyện Võ Nhai với 80 người/km2, cao nhất là thị trấn Thái Nguyên với mật độ 1.903
người/km2, thứ hai là thị trấn Phổ Yên với mật độ 760 người/km2, sau đó là thị trấn
sông Công. với mật độ 705,3 người/km2.
1.3.2 Các dân tộc sinh sống Tỉ lệ
so với Dân số đô Tỉ lệ

Dân số nông Tỉ lệ Dân số Dân tộc tổng thị so với dân thôn so với dân
(người) dân số (người) số (người) số tỉnh dân tộc dân tộc Kinh 821.083 73,1% 249.305 30,4% 571.778 69,6% Tày 123.197 11% 21.319 17,3% 101.878 82,7% Nùng 63.816 5,7% 7.716 12,1% 56.100 87,9% Sán Dìu 44.134 3,9% 3.941 8,9% 40.193 91,1% Sán 32.483 2,9% 1.101 3,4% 31.382 96,6% Chay Dao 25.360 2,3% 1.186 4,7% 24.174 95,3% H’Mông 7.230 0,6% 237 0,03% 6.993 99,97% Hoa 2.064 0,18% 712 34,5% 1.352 65,5%
(Nguồn:https://vi.wikipedia.org/wiki)
Dân tộc tày có số lượng cư dân đứng hàng thứ hai trong các dân tộc của tỉnh (chiếm
10,15%). Họ có mặt ở tất cả các huyện, thành phố trong tỉnh, tập trung đông nhất là ở
huyện Định Hoá (41,1%), tiếp đến là các huyện: Phú Lương (18,6%), Đại Từ (12,7%),
Võ Nhai (12,5%). Theo điều tra dân số năm 2019, dân tộc Tày định cư tại Thái Nguyên
có 150.404 người, chiếm 11,0% dân số toàn tỉnh và 15,0% tổng số người Tày tại Việt Nam.
2. Tìm hiểu chung về người Tày ở tỉnh Thái Nguyên.
2.1 Nguồn gốc và dân số hiện nay
Người Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, từ cuối thiên niên kỷ thứ nhất
trước Công nguyên và là một trong những chủ nhân đầu tiên của nước Việt cổ.
Theo điều tra dân số năm 2019, người Tày ở Việt Nam có dân số 1.845.492
người, là dân tộc có dân số đứng thứ 2 tại Việt Nam. Dân tộc Tày ở Thái Nguyên
có khoảng 150.404 người, chiếm 11,0% dân số toàn tỉnh và 15,0% tổng số người Tày tại Việt Nam.
Một số nhóm người chính được chính phủ Việt Nam coi là dân tộc Tày:
 Người Ngạn là một nhóm cư dân của hai tỉnh Cao Bằng và Hà Giang, được xếp vào
nhóm dân tộc Tày nhưng có ngôn ngữ gần gũi với ngôn ngữ Giáy.
 Người Pa Dí sống chủ yếu ở Mường Khương, tỉnh Lào Cai, với dân số khoảng 2.000
người. Họ được xếp vào nhóm dân tộc Tày, nhưng ngôn ngữ Pa Dí lại thuộc nhóm
Thái Tây Nam. Người Thu Lào sống ở Mường Khương và Si Ma Cai của Lào Cai,
họ nói tiếng Thu Lào gần với tiếng Tráng.
 Người Phen là một nhánh của người Tày sống ở Bình Liêu, Quảng Ninh. Họ di cư từ
huyện Phong Thành, Quảng Đông (nay thuộc khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây,
Trung Quốc) đến Quảng Ninh và tự xưng là Phén nhằn ( 偏人 Phiên nhân, nghĩa là
người từ bên kia biên giới), khác biệt với Thổ nhân, có nghĩa là người Tày bản địa.
Thổ hóa là các dân tộc Nùng, Dao, Việt được Tày hóa. Một số người Việt,
trong đó có tu sĩ, quan lại đã di cư đến khu vực biên giới giữa Việt Nam và Trung
Quốc để sinh sống, rồi nhiều thế hệ sau trở thành người Tày và ngày nay được
chính phủ Việt Nam xếp vào danh sách người Tày, những người này thường sống
ở các tỉnh lỵ, các quận trưởng hoặc các làng/thôn ở ngoại ô các trung tâm dân cư
này. Họ thường sở hữu nhiều đất đai hơn và tương đối giàu có. giàu có hơn người Tày bản địa xung quanh.
2.2 Tình hình kinh tế
Người Tày là dân tộc nông thôn có truyền thống làm nông ở vùng đất ngập
nước. Từ lâu họ đã quen với phương pháp thâm canh, tưới tiêu quảng canh như
đào mương, làm cọn, lấy nước để tưới ruộng. Ngoài lúa nước, người Tày còn
trồng lúa nương, hoa màu, cây ăn quả, cây công nghiệp. Chăn nuôi phát triển với
nhiều loại gia súc, gia cầm nhưng chăn nuôi thả rông vẫn rất phổ biến. Trọng tâm
là nghề thủ công của gia đình. Nổi tiếng nhất là thổ cẩm, có nhiều hoa văn đẹp, độc đáo.
Người Tày khai thác các thung lũng, đồi núi nơi họ cư trú thành những cánh
đồng, ruộng bậc thang màu mỡ; trong vườn rừng với những cây cọ, cây hồi và cây
ăn quả xanh. Ở nhiều vùng, người Tày hiện nay đã biết đa dạng hóa cơ cấu cây
trồng bằng cách kết hợp các kỹ thuật nông nghiệp truyền thống như trồng xen,
luân canh, xen canh, sử dụng phân bón vi sinh, hóa học... Phát triển chăn nuôi
ngày càng phát triển cùng với nhiều loại gia súc, gia cầm. Người Tày có nhiều
nghề thủ công như đan rổ, dệt vải, nhuộm chàm, làm ngói, chế biến gỗ...
Các tộc Tày Thổ hóa thường sở hữu nhiều đất đai hơn và tương đối giàu có.
giàu có hơn người Tày bản địa xung quanh.
2.3 Sơ lược về văn hóa & xã hội
Với vị trí địa lý thuận lợi, cận kề với đồng bằng Bắc Bộ và tiếp giáp với
Trung Quốc, khu vực cư trú của người Tày ở Đông Bắc từ xưa đã diễn ra việc trao
đổi buôn bán sầm uất với nhiều chợ phiên nổi tiếng như chợ Kỳ Lừa, chợ Đồng
Đăng của tỉnh Lạng Sơn; chợ Quảng Uyên, chợ Trùng Khánh của tỉnh Cao Bằng
hay chợ Chu, chợ Đu của tỉnh Thái Nguyên…
Người Tày có nhiều hình thức tín ngưỡng dân gian khác nhau như trong
phạm vi gia đình có thờ tổ tiên, thờ Bà mụ, Phật Bà Quan Âm, Táo quân, ngoài
bản thì thờ thổ thần, một số bản có thờ thành hoàng, một số nơi còn xây chùa để
thờ Phật. Các nghi lễ vòng đời cũng có ý nghĩa quan trọng trong đời sống tinh thần của người Tày.
 Người Tày chủ yếu theo tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
 Họ quan niệm: “Vạn vật hữu linh” nên họ coi mọi thứ đều có linh hồn.
 Trong gia đình có bất cứ công việc gì xảy ra thì đều phải khấn báo với gia tiên,
Khách và phụ nữ có thai, mới sinh không được phép ngồi hay nằm trên ghế, giường trước bàn thờ.
 Trong tôn giáo của người Tày, ngày tảo mộ (3/3 âm lịch) là ngày lễ quan trọng
nhất của người Tày (Có một số nơi người Tày đi tảo mộ trước Tết Nguyên Đán
(1/1 âm lịch) khoảng 2-5 ngày, và coi Tết Nguyên Đán như là ngày lễ quan trọng nhất của trong năm)
 Tuy nhiên ngoài tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên người Tày còn chịu ảnh hưởng của
tôn giáo như Phật, Đạo, Nho.
CHƯƠNG 2: VĂN HÓA VẬT CHẤT VÀ VĂN HÓA TINH THẦN CỦA
NGƯỜI TÀY Ở THÁI NGUYÊN
2.1 Văn hóa vật chất
2.1.1 Trang phục truyền thống
Văn hóa vật chất của người Tày ở Thái Nguyên bao gồm nhiều khía cạnh, trong đó
trang phục truyền thống là một phần quan trọng. Trang phục truyền thống của người Tày
thường thể hiện nét đẹp và sự đặc trưng văn hóa của dân tộc này.
Trang phục nam truyền thống của người Tày thường bao gồm áo dài cổ tròn hoặc cổ
thuyền, áo có dáng rộng và dài che đến gót chân, đan hoặc thêu các họa tiết trang trí
phong phú trên áo. Quần ngố (quần lửng) thường được kết hợp với áo dài. Đặc biệt,
người Tày nam thường đội nón lá tròn hoặc nón lá trái xoan làm từ lá chuối.
Trang phục nữ truyền thống của người Tày thường gồm áo dài cổ tròn hoặc cổ
thuyền, áo có dáng rộng và dài che đến gót chân, thêu hoặc đan các hoa văn trên áo. Váy
dài (váy xòe) thường được kết hợp với áo dài. Phụ kiện như khăn đội đầu, dây chuyền,
vòng cổ, vòng tay, và khuyên tai cũng được sử dụng để trang trí và tăng thêm sự quyến rũ cho trang phục.
Trang phục truyền thống của người Tày thường được làm từ các loại vải tự nhiên
như lanh, tơ tằm, gấm, vải brocade và được làm thủ công tỉ mỉ. Các màu sắc chủ đạo
trong trang phục truyền thống là màu đen, trắng, đỏ và xanh dương. Các hoa văn và họa
tiết trên trang phục thường mang ý nghĩa tâm linh, văn hóa và truyền thống của người Tày.
Khăn xếp cũng là một phụ kiện không thể thiếu trong trang phục truyền thống của
người Tày. Khăn xếp là một miếng vải vuông, có kích thước khoảng 1m x 1m, được gấp
thành hình tam giác và đội lên đầu. Khăn xếp thường có màu đỏ, xanh, vàng hoặc trắng,
được trang trí bằng các họa tiết thêu hoặc dệt. Khăn xếp không chỉ có tác dụng che nắng,
che mưa, mà còn là một biểu tượng của sự trang trọng, tôn kính và văn minh. Nón lá là
một loại nón được làm bằng lá dong hoặc lá chuối, có hình nón tròn, có quai đeo. Nón lá
thường được mặc bởi người làm nông, làm ruộng, hoặc đi chợ.
Trang phục truyền thống của người Tày không chỉ phản ánh sự gần gũi với thiên
nhiên, mà còn thể hiện sự tinh tế, sáng tạo và đa dạng của văn hóa vật chất của họ. Trang
phục truyền thống của người Tày cũng là một phần của di sản văn hóa dân tộc, cần được
bảo tồn và phát huy. Nó là một cách để thể hiện lòng tự hào về nguồn gốc dân tộc và duy
trì và phát triển văn hóa truyền thống của người Tày ở Thái Nguyên.
2.1.2 Nhà ở truyền thống
Nhà ở truyền thống của người Tày ở Thái Nguyên phản ánh cách sống và văn hóa
của dân tộc này. Nhà truyền thống của người Tày thường được xây dựng bằng gỗ và có
kiểu kiến trúc độc đáo.
Một ngôi nhà truyền thống của người Tày thường có hai tầng. Tầng trên cùng là nơi
sinh hoạt chính của gia đình, còn tầng dưới được sử dụng để chăn nuôi và lưu trữ nông
sản. Ngôi nhà thường có hình chữ nhật, với mái ngói dốc và một số ngôi nhà có mái thái.
Những ngôi nhà truyền thống này được xây dựng với những cột gỗ chắc chắn và các bức
tường được làm từ tre hoặc gỗ.
Ngôi nhà truyền thống của người Tày có không gian sống chung chung cho cả gia
đình. Trong nhà có sàn nhà cao, được làm từ gỗ hoặc đất nén. Một số ngôi nhà còn có lều
lửa ở giữa nhà, được dùng để nấu nướng và làm ấm trong mùa đông lạnh giá. Nhà cửa và
cửa sổ thường được trang trí bằng những họa tiết truyền thống và các nét hoa văn đẹp mắt.
Ngôi nhà truyền thống của người Tày không chỉ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hàng
ngày mà còn thể hiện niềm tin tâm linh và sự tôn trọng đối với tổ tiên. Thường được xây
theo hướng đông nam hoặc đông bắc, hướng mặt trời mọc. Người Tày tin rằng hướng nhà
ảnh hưởng đến sự may mắn, sức khỏe và tài lộc của gia chủ. Người Tày cũng chú ý đến
ngày giờ tốt để xây nhà, chọn cột và đặt cột. Nhiều gia đình người Tày ở Thái Nguyên
vẫn duy trì và giữ gìn ngôi nhà truyền thống như một phần không thể thiếu trong văn hóa của họ.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển và hiện đại hóa, người Tày ở Thái Nguyên cũng
đã chuyển sang sử dụng những ngôi nhà hiện đại và tiện nghi hơn. Mặc dù vậy, những giá
trị văn hóa và truyền thống của ngôi nhà truyền thống vẫn được gìn giữ và truyền lại từ
thế hệ này sang thế hệ khác, đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì danh tính và tinh
thần văn hóa của người Tày ở Thái Nguyên.
2.1.3 Nhạc cụ truyền thống
Văn hóa vật chất của người Tày ở Thái Nguyên cũng được thể hiện qua các nhạc
cụ truyền thống mà dân tộc này sử dụng. Nhạc cụ truyền thống của người Tày có vai trò
quan trọng trong các hoạt động âm nhạc và diễn văn nghệ truyền thống.
Một trong những nhạc cụ truyền thống quan trọng của người Tày là kèn (hay còn
gọi là sáo). Kèn được làm từ một cây trúc, có nhiều lỗ thổi và có âm thanh trong trẻo.
Người chơi kèn của người Tày thường thổi theo kỹ thuật đặc biệt, tạo ra những giai điệu
độc đáo và phong cách riêng. Kèn thường được sử dụng trong các buổi hòa nhạc, lễ hội
và các sự kiện văn hóa truyền thống.
Ngoài ra, người Tày còn sử dụng nhiều nhạc cụ khác như đàn bầu, đàn tỳ bà, đàn
nhị, sáo trúc và trống. Đàn bầu là một nhạc cụ dây đơn, được làm từ một cây gỗ tròn và
có một dây dọc qua. Người chơi đàn bầu sẽ sử dụng ngón tay và cách thổi để tạo ra âm
thanh đặc trưng. Đàn tỳ bà là một nhạc cụ đàn có hình dáng giống như cây đàn guitar,
nhưng có thân đàn hẹp hơn. Đàn tỳ bà được chơi bằng cách sử dụng ngón tay để nhấn
vào các dây và sử dụng cây gậy để đánh.
Các nhạc cụ truyền thống của người Tày không chỉ tạo ra âm thanh đẹp mà còn
mang trong mình sự gắn kết với văn hóa và truyền thống của dân tộc. Những giai điệu và
nhịp điệu từ các nhạc cụ này thường được sử dụng trong các bài ca, vũ điệu và tiết mục
biểu diễn truyền thống của người Tày. Chúng đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì
và phát triển văn hóa âm nhạc độc đáo của người Tày ở Thái Nguyên
2.2 Văn hóa tinh thần
2.2.1 Lễ hội truyền thống
2.2.1.1 Lễ hội Lồng Tồng
Lồng Tồng (Lồng Tông trong tiếng Tày) có nghĩa là "xuống đồng". Cũng như người
Việt, từ xa xưa, đồng bào miền núi phía Bắc, nhất là các dân tộc Tày, Nùng đã sinh sống
gắn bó với thiên nhiên, với bản làng, núi đồi, ruộng đồng và nương rẫy nên các phong
tục, tập quán của họ luôn mang đậm nét văn hóa truyền thống. Lễ hội Lồng tồng được
người dân nơi đây coi là lễ hội quan trọng bậc nhất, gắn liền với nông nghiệp trồng trọt,
được tổ chức hàng năm nhằm gửi gắm những mong ước của con người.
Trước ngày tổ chức lễ hội Lồng tồng, các bản Tày chuẩn bị các công việc cho ngày
hội như chuẩn bị lễ cúng thần linh bao gồm gà, xôi màu, hoa quả, tiền vàng, trầu cau,
bánh... và chọn thửa ruộng gần trung tâm, ở nơi bằng phẳng thuận tiện cho tổ chức nghi
thức xuống đồng, tổ chức hội thi cấy. Các bản cũng chọn chiếc cày đẹp, chắc khỏe, dán
giấy màu, chọn con trâu tốt để thực hiện những đường cày đầu tiên của năm mới. Như
nhiều lễ hội của các dân tộc khác, Lồng tồng có hai phần: phần lễ và phần hội. a. Phần Lễ
Phần Lễ là hoạt động tín ngưỡng cầu trời cho mưa thuận gió hoà, cây cối tốt tươi,
mùa màng bội thu, đời sống ấm no. Ðể chuẩn bị lễ ở ngoài đồng, mỗi gia đình sắm một
mâm cỗ theo khả năng, có nhiều nhà làm từ vài chục đến một trăm món. Có những gia
đình dâng mâm cao đến 5 tầng lễ vật, ngoài các loại bánh kẹo còn có các món ăn được
chế biến công phu, trên mỗi mâm đều có một chiếc bánh hình bông hoa nhiều mầu sắc.
Mỗi mâm cỗ còn có thêm hai đôi quả còn được làm bằng vải mầu, trong nhồi cát, bông,
có tua rua nhiều mầu sắc sặc sỡ.
Mâm lễ được đặt trang trọng trên bàn giữa khu đất bằng ngay trên bờ ruộng, nơi có
sân khấu lễ hội. Các nghi lễ được các bậc cao niên trong bản tiến hành như rước nước,
cúng thần bản, thần suối, thần núi, cúng cây còn... Với mong muốn thần linh sẽ ban cho
con người, cho dân bản nguồn nước để tưới cho những cánh đồng, ban cho mưa thuận gió
hòa để mùa màng được bội thu, cho con người sức khỏe để cày cấy. Tất cả những khát
vọng về cuộc sống ấm no, hạnh phúc, sinh sôi nảy nở, mọi điều an lành đều được người
dân gửi gắm vào mỗi mâm Tồng (mâm lễ) của mình dâng lên các vị thần. b. Phần Hội
Phần cúng lễ cũng chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn, còn dành thời gian cho
phần hội. Muốn tổ chức phần hội, người làm lễ phải xin phép Thành hoàng làng bằng
cách dâng lễ tại chân cột còn, sau khi chủ nhang làm lễ và tiến hành tung quả còn ba lần
thì dân làng bắt đầu vào hội.
Mở đầu phần hội là nghi thức đi đường cày đầu tiên của năm mới. Người nông dân
đại diện sẽ thắng trâu vào cày và bắt đầu cày thửa ruộng được dân bản chọn. Mọi người
đứng xung quanh trên bờ cổ vũ, khích lệ. Sau khi cày xong, nước được đưa về ruộng là
nghi thức cấy những cây mạ đầu tiên của năm.
Phần hội có các trò chơi dân gian truyền thống. Người Tày thường chọn bãi cỏ bằng
phẳng, rộng lớn có vị trí trung tâm thuận lợi cho việc đi laị, vui chơi của dân bản và các
vùng lân cận. Những nơi có đình và có truyền thống tổ chức thì lễ hội diễn ra trên sân
đình và lễ hội thường được tổ chức ở cấp xã, cấp huyên có sự tham gia của chính quyền
địa phương và Phòng Văn hóa - Thể thao huyện, cán bộ văn hóa xã
2.2.1.2 Lễ hội tranh đầu pháo
Lễ hội Tranh đầu pháo được tổ chức với nhiều nghi thức độc đáo như: Khai quang
mở mắt rồng, lễ khao quân, lễ tế thần, lễ rước thần. Trong đó, trò chơi quan trọng nhất là "Tranh đầu pháo".
Phần thi tranh đầu pháo gắn liền với câu chuyện kể về Nùng Trí Cao - một vị tướng
quân người dân tộc Tày đã tổ chức khao quân mừng chiến thắng tại nơi đây với tên gọi là
"hội thua phảo" (nghĩa là hội tranh đầu pháo), nhằm nêu cao tinh thần thượng võ, biểu
dương sức khỏe. Đầu pháo là một vòng sắt có quấn các tua ngũ sắc đặt lên chòi cao, sau
khi đốt pháo, đầu pháo rơi xuống, các đội cướp pháo ở các làng bản đã đăng ký vào tranh
cướp, ai cướp được đến tế thần và nhận phần thưởng. Nay bỏ tục đốt pháo, người chủ lễ
đứng lên cao tung đầu pháo xuống sân, nơi tổ chức cướp pháo. Người dân địa phương
quan niệm: trong ngày hội, ai bắt được vòng lộc pháo thì cả năm sẽ gặp may mắn, phát tài, phát lộc.
Sau trò tranh đầu pháo là các trò chơi dân gian, như: múa rồng, múa kỳ lân, tung
còn, hát lượn, chơi đu, biểu diễn võ dân tộc, cờ tướng, đá bóng, triển lãm tranh
ảnh...Hằng năm, Lễ hội tranh đầu pháo thị trấn Quảng Uyên được tổ chức từ chiều 30
tháng Giêng đến hết ngày mùng 2/2 Âm lịch, không chỉ để tưởng nhớ các vị thần linh,
anh hùng có công với nước mà còn là hoạt động mở đầu cho một năm mới, cầu cho mưa
thuận, gió hòa, mùa màng bội thu...