



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58886076
Tài liệu phân tích chuyên sâu ngữ văn lớp 12 VIỆT BẮC (Tố Hữu)
Chính nhà thơ Tố Hữu đã từng viết: “Thơ chỉ trào ra khi trong tim ta cuộc sống đã tràn đầy
“. Bài thơ “Việt Bắc “đã ra đời vào hoàn cảnh ấy- trong phút chia tay đầy lưu luyến ân tình của
người con cách mạng miền xuôi với nhân dân miền núi Tây Bắc sau những ngày cùng sẻ chia “tấm
chăn sui “, “củ sắn lùi “. Giữa những ngày đầu đông tháng 10 năm 1945, khi những cơn gió ngàn
vùng cao bắt đầu thổi, ngoài trời kia trở rét thì một làn hơi ấm khác đã thổi vào lòng người, thổi
vào thi đàn dân tộc, đó là làn hơi của khúc ca mừng chiến thắng “Việt Bắc “. Bài thơ là tuyệt tác
tiêu biểu cho tài năng của “lá cờ tiên phong “trong nền thơ ca Cách Mạng - Tố Hữu. Đồng thời,
tác phẩm cũng mang đậm phong cách thơ trữ tình chính trị vừa sâu lắng lại vừa dùng chứa những
mạch nguồn thiêng liêng của 1 thứ tình cảm lớn lao trong nhà thơ: Tình yêu đất nước, nhân dân.
PHÂN TÍCH ĐOẠN 1: 8 CÂU ĐẦU
“Mình về mình có nhớ ta
...Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay “
“Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng “
Dân tộc ta đã trải qua hàng nghìn năm chống giặc ngoại xâm, truyền thống yêu nước ăn sâu bám
rễ vào tiềm thức những con dân đất Việt. Vạn toán lính cầm súng bảo vệ tổ quốc, triệu người vợ
vững chắc hậu phương, và bao thi sĩ dùng thơ ca đánh đuổi kẻ thù. Như Đặng Thai Mai từng nhận
xét: “Với Tố Hữu, thơ là vũ khí đấu tranh Cách mạng. Đó chính là đặc sắc và cũng là bí quyết độc
đáo của Tố Hữu trong thơ ca “. Quả vậy, qua Việt Bắc của Tố Hữu, ta đắm mình vào dòng chảy
câu từ hào hùng và nỗi nhớ thiết tha giữa những cuộc chia ly định mệnh lúc bấy giờ:
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Miền cảm xúc dào dạt kết tinh từ những lần chia xa đau thương đã giúp Tố Hữu chấp bút nên 1 lOMoAR cPSD| 58886076
Tài liệu phân tích chuyên sâu ngữ văn lớp 12
những dòng thơ sâu sắc này. Cảm hứng Cách mạng được ông biến tấu tài ba, tái hiện chân thật kỉ
niệm thời chiến cùng tình yêu giữa bom rơi đạn lạc. Chỉ với bốn cặp lục bát, tác giả giúp người
đọc cảm nhận rõ vẻ bịn rịn, xuyến xao của đồng bào Việt Bắc, mở đầu chính là lời của người ở lại:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn “
Ta dễ dàng hiểu được, sở dĩ người ở lại cất lời trước bởi vì cảm xúc dâng trào, bởi người ra đi sẽ
bắt đầu 1 cuộc hành trình mới, 1 cuộc sống mới, còn người ở lại vẫn sống trong không gian cũ tràn
đầy hoài niệm, họ sợ người đi sẽ lãng quên những ân tình bao năm ấp ủ:
“Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy “
Cảm giác trống vắng, hụt hẫng, day dứt, ám ảnh vì cảnh vẫn đó còn bóng người thì thấp thoáng
nơi nào. Những “người vợ bé bỏng chiều quê “, những “người gái nhỏ hậu phương “, những bà
mẹ Việt Nam anh hùng, họ tuy nán lại quê nhà nhưng gánh chịu nhiều buồn bã, xót thương nhất,
nên chẳng lạ khi nỗi nghẹn ngào bỗng chốc vỡ oà. Ở đây, độc giả thấy cách xưng hô 'mình - ta'
quen thuộc trong ca dao Việt Nam
“Mình về mình có nhớ chăng
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười “, Bộc lộ tình cảm gắn bó thân
thương của đôi vợ chồng Việt Bắc. Tố hữu sử dụng cách gọi lãng mạn ấy nhằm đưa tính dân tộc,
những tình cảm lớn lao của thời đại mới vào nghệ thuật thơ ca, dấy lên trong ta những xúc cảm
đặc biệt khó gọi tên. Những câu ca ngọt ngào của tình yêu đã trở thành những câu hỏi xao xuyến
của nghĩa tình cách mạng, thể hiện nỗi nhớ nhung của người ở lại với người về xuôi. Đoạn thơ sử
dụng phép lặp quen thuộc trong ca dao xưa khiến nỗi nhớ trở nên miên man, da diết, không thể
nguôi ngoai, cũng đồng thời tạo nên âm hưởng day dứt, trăn trở, góp phần thể hiện một trong
những cảm hứng chủ đạo của bài thơ.
Xuôi theo lời của người chinh phụ, Tố hữu như mở ra trước mắt ta hoàn cảnh chiều dài lịch sử
đất nước thời cuộc với cụm từ mười lăm năm. Đây là khoảng thời gian ghi tạc nhiều dấu ấn của
nhân dân khi chứng kiến ba cột mốc quan trọng với Tổ quốc. Trong câu thơ cửa Việt Bắc, mười 2 lOMoAR cPSD| 58886076
Tài liệu phân tích chuyên sâu ngữ văn lớp 12
lăm năm là khoảng thời gian “từ khi kháng nhật, thuở còn Việt Minh “(1941-1945), và sau đó là
những năm tháng kháng chiến chống pháp(1946-1954), là khoảng thời gian Việt Bắc trở thành căn
cứ địa Cách mạng, trở thành thủ đô gió ngàn. Đại từ ấy “khiến những danh từ chỉ thời gian đứng
trước nó bị đẩy về 1 quá khứ thật xa xăm, trở thành khoảng thời gian gợi nỗi nhớ thương, ngậm
ngùi, tiếc nuối. Thời gian kết hợp với câu hỏi tu từ 'có nhớ ta', 'có nhớ không' càng thêm nhấn nhá
tình cảm gắn bó thân thiết giữa nhân dân Việt Bắc và người cán bộ Cách mạng. Ta như thấy đau
đáu được nỗi lưu luyến khôn nguôi, ngóng trông chẳng biết ngày trở về của Thâm Tâm trong 'Tống Biệt Hành':
“Đưa người ta không đưa qua sông Sao
có tiếng sóng ở trong lòng
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong “
Tố hữu tiếp tục dẫn dắt người đọc men theo từng cung bậc rung cảm của ông mà bao trùm hơn
cả là nỗi nhớ da diết. Việc Tố Hữu điệp bốn lần từ 'nhớ' đã góp phần nhấn mạnh được tình yêu của
người lính nói chung và của tác giả nói riêng dành cho từng sự vật quê hương, cho người mình
mong mỏi bao tháng ngày. Nhớ là biểu hiện rõ ràng nhất của tình yêu thương, ở đây, bến đợi thuyền
hay người ở lại ắt hẳn đang mong ngóng, nhớ nhung các anh bộ đội rất nhiều nên mới bày tỏ tâm
tư của mình một cách dạt dào, sâu đậm như thế.
Nếu câu hỏi thứ nhất: “Mình về mình có nhớ ta? “làm xao xuyến lòng người khi phảng phất bóng
dáng những câu ca dao về tình yêu thì câu thứ hai “Mình về mình có nhớ không? “lại khiến người
ta trăn trở suy ngẫm vì sự tha thiết, nghiêm nghị trong giọng điệu thơ. Câu hỏi này hướng tới không gian:
“Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn “
Nỗi nhớ, niềm thương như in cả vào hình cây, dáng núi, để khi nhắc lại, người ta cảm thấy: “Nhìn
cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn “. Từ thời gian gắn bó, nhà thơ chuyển dần sang gợi nhắc về
không gian thiêng liêng của cội nguồn, gốc rễ đầy nghĩa tình. Ta liên tưởng đến những sự vật bình
dị, thân thương nơi bến nước gốc đa quê nhà:
“Chim có tổ, người có tông
Như cây có cội, như sông có nguồn 3 lOMoAR cPSD| 58886076
Tài liệu phân tích chuyên sâu ngữ văn lớp 12
Hai vế của câu thơ đan xen những hình ảnh của cả miền xuôi như “cây,sông “và miền núi như
“núi, nguồn “. Hoàn cảnh chia xa, nỗi nhớ và sự gắn bó khăng khít đã hiện ngay trong cả chia tách
và đan xen hòa quyện trong ngôn từ. “nhìn cây, nhìn sông “là những hình ảnh nhắc tới 1 thực tế
chắc chắn rằng trong tương lai khi người kháng chiến đã về xuôi, đã sống với quê hương, với đồng
bằng, vì thế cũng có thể coi là biểu tượng cho việc trở về của người kháng chiến với chốn đô hội
phồn hoa: còn “nhớ núi, nhớ nguồn “là để tâm hồn trở về quá khứ, với Việt Bắc, điều này có thể
xảy ra hay không còn tùy thuộc vào sự thủy chung của người ra đi. Câu thơ thể hiện mối tương
quan giữa thực tế và mong đợi khiến những vế câu như tiềm ẩn một chữ “có “đầy trăn trở, về xuôi
rồi có còn nhớ Việt Bắc hay chăng...?
Hình ảnh “nguồn cội “được đặt ngay đầu bài thơ 1 cách khéo léo, đó như 1 lời khẳng định của
Tố Hữu về cái nôi cách mạng của dân tộc-Việt Bắc. Và hình ảnh cội nguồn ở đây phải chăng còn
để chỉ chính nơi chôn rau cắt rốn của người về xuôi, là cố hương nơi có những người thân thương
mà họ đã từng rời xa để hướng tới lí tưởng cách mạng với chốn “nước mặn đồng chua “, với một
chiều thu “xao xác hơi may “. Quả vậy, ý vị sâu xa trong thơ Tố Hữu còn muốn độc giả suy ngẫm
về nghĩa tình, đạo lí, về cội nguồn chung thủy, về nét đẹp trong đời sống tinh thần của 1 dân tộc
luôn nhắc nhớ: “Uống nước nhớ nguồn “. Đây cũng là 1 lẽ sống cao cả, một tình cảm lớn đã bao
lần xuất hiện trong thơ Tố Hữu:
“Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay
Ra sông, ra suối, có ngày nhớ đêm. “
Ta hoàn toàn mường tượng rõ nét tình yêu quê hương mà Tố Hữu đã khéo léo lồng ghép vào,
đồng thời càng nổi bật lên tính dân tộc trong hồn thơ thi sĩ. Thơ là cuốn nhật ký bất ly thân của
người thi sĩ Tố Hữu. Nơi những đoạn nước ngầm thăng trầm xúc cảm sâu lắng nhưng cũng đầy
khí phách hào hùng ấy, ta bắt gặp hình ảnh chính nhà thơ, và của cả thời đại yêu nước.
Qua việc đan cài tài ba những từ ngữ miêu tả tâm trạng, cảm xúc trong tình yêu, tác giả còn thành
công vận dụng các thành ngữ, lối ví von dân gian trong ca dao xưa. Từ mạch cảm xúc sâu sắc
ngấm ngầm của người ở lại, Tố hữu không làm người đọc hụt hẫng khi xen vào lời đối đáp của
người cán bộ Việt Bắc:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay... “ 4 lOMoAR cPSD| 58886076
Tài liệu phân tích chuyên sâu ngữ văn lớp 12
Lời đối đáp của người lính áo xanh thật khéo léo biết mấy khi từ láy thiết tha “trong nỗi lòng của
người ở lại đã được láy lại và đảo ngược thành tiếng hát “tha thiết “còn văng vẳng trong lòng người
đi. Sự khéo léo ấy là bởi cách dùng từ tinh tế của “cánh chim đầu đàn “trong nền thơ cách mạng
nước nhà Tố Hữu, làm hiện lên những nét đồng điệu trong hồn kẻ ở người đi. Và khi nỗi nhớ ấy
đã lên đến đỉnh điểm, dù chưa rời đi nhưng trong dạ đã bâng khuâng, bước chân đã bồn chồn không
nỡ. Sự đăng đối trong vế câu đã góp phần thể hiện sự đồng điệu trong cảm xúc con người. Bâng
khuâng là từ láy gợi những trạng thái cảm xúc mơ hồ khó tả bởi sự đan xen buồn vui, luyến tiếc,
nhớ nhung, bồn chồn là tâm trạng thấp thỏm, nôn nao khiến con người không yên, tuy cũng là từ
láy miêu tả trạng thái cảm xúc nhưng bồn chồn nhiều khi không dừng lại ở những nỗi niềm trong
tâm tưởng mà còn có thể ngoại hiện trong ánh mắt, dáng vẻ, hành động..Vì thế câu thơ không chỉ
thể hiện nỗi bịn rịn, nhớ nhung trong lòng mà còn gợi những bước chân ngập ngừng, lưu luyến của
người đi . Đến đây, ta thấy được toàn khung cảnh thật nhất của thời chiến, rạng sớm ngày chia tay,
đôi vợ chồng quyến luyến, không nỡ rời xa nhau vì liệu còn có thể quay về. Nhưng
“Chí làm trai dặm nghìn da ngựa “, họ quyết xua đi tình riêng để hướng thẳng đến tình chung Tổ quốc.
Trong giờ phút chia li, nếu “tiếng ai “là những âm thanh mơ hồ vì thực ra nó là tiếng lòng người
ở lại, là tiếng vọng từ tâm tưởng thì hình ảnh chiếc “áo chàm “lại cụ thể đến nao lòng.
“Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay “
Tố Hữu đã sử dụng hình ảnh hoán dụ 'áo chàm' để chỉ người Việt Bắc, một phần gợi ra trang
phục đặc trưng của người Việt Bắc, tôn vinh nét đẹp văn hóa quê hương, một phần dùng biểu trưng
đặc biệt ấy bộc lộ lối sống gần gũi gắn bó với núi rừng Tây Bắc, khắc họa tính cách mộc mạc, tấm
lòng son sắt của họ với cách mạng, muốn đem những gì mộc mạc, những nét đẹp văn hóa giá, trị
tinh thần giới thiệu cho độc giả bốn phương. Sắc áo chàm đơn sơ, giản dị ấy có thể nhòa mờ trong
khói sương rừng núi nhưng sẽ vĩnh viễn in đậm trong nỗi nhớ thương của người về xuôi. Một lần
nữa tính dân tộc trong thơ ca Tố hữu được nhấn mạnh rõ ràng. Lời đối đáp của người lính kết lại
bằng câu ca đầy xúc động 'Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay' thể hiện cái bồi hồi đắng cay đến
nghẹn lòng trong những phút cuối cùng chia ly. Hẳn người cán bộ đã phải kìm chặt xúc cảm trong
lòng, không thể để nhớ thương lấn át đi quyết tâm, nhiệm vụ đất nước. “Không biết nói gì “không
phải là không có gì để nói mà là trong lòng quá nhiều tâm tư, quá nhiều điều cần giãi bày nhưng
vì quá xúc động nghẹn ngào mà không biết phải bắt đầu từ đâu. Bởi vậy cái cầm tay dường như đã
nói thay tất cả những lời muốn nói cho “mười lăm năm “chia ngọt sẻ bùi bởi cái cầm tay ấy đã tạo
nên hơi ấm, trao gửi tình thương, gắn kết bền chặt đôi tâm hồn. Để rồi, nếu như ngôn ngữ chẳng
thể cất lên nổi trong phút bồi hồi này thì hãy để hơi ấm bàn tay nói hộ. Ôi những lời từ biệt vội vã 5 lOMoAR cPSD| 58886076
Tài liệu phân tích chuyên sâu ngữ văn lớp 12
nơi ranh giới, những câu hứa đầu môi ngày mạnh khỏe trở về, những giai điệu nhẹ nhàng mà lắng
đọng ấy như nhắc nhớ ta về một lời thề sinh thử, của bao người dân vô danh đất rừng, của Tản Đà
trong “Thề non nước “:
“Nước non nặng một lời thề
Nước đi đi mãi không về cùng non
Nhớ lời nguyện ước thề non
Nước đi chưa lại non còn đứng trông Non cao có biết hay không
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày “
Câu thơ như lời tiếc nuối đến đau lòng của người xa nơi tiền tuyến, như những châm chích
trong lòng độc giả bao buồn thương, sầu não, cảm động, biết ơn sự hi sinh cao đẹp này. Dấu ba
chấm đầy sức nặng cuối đoạn trích như tiếng thở dài lặng lẽ, nuốt ngược lòng riêng mà dứt áo ra đi:
“- Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ
Chí nhớn chưa về bàn tay không, Thì
không bao giờ nói trở lại!
Ba năm mẹ già cũng đừng mong!”
Đọc qua bốn cặp lục bát, nếu ai không biết trước hoàn cảnh sáng tác của 'Việt Bắc', chắc
hẳn sẽ nhầm tưởng đây là tác phẩm thi ca lãng mạn; thế nhưng, Tố Hữu đã rực rỡ thành công khi
đem tính trữ tình - chính trị, đem tình yêu đôi lửa hòa với Cách mạng. Chính ông đã từng bộc bạch
đôi lời: “Tôi đã phải lòng đất nước và nhân dân. Khi nói về nhân dân, đất nước tôi như đang nói
với người đàn bà mình yêu “. Và quả thật, chúng ta đã thừa hưởng tinh hoa nghệ thuật văn học
cách mạng trữ tình của ông - thi nhân tài hoa bao đời đất Việt.
PHÂN TÍCH ĐOẠN 2: 12 câu tiếp
“Mình đi, có nhớ những ngày
...Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa? “ Những kỉ niệm cứ tràn về
trong miên man nỗi nhớ, thổn thức mãi trong lòng người ở lại, để rồi họ tiếp tục với hàng loạt câu 6 lOMoAR cPSD| 58886076
Tài liệu phân tích chuyên sâu ngữ văn lớp 12
hỏi, với những điệp ngữ dồn dập, liên tiếp nhau, như để càng tô đậm trong lòng người ra đi 1 không
gian núi rừng hùng vĩ cùng những hồi ức không thể nào quên qua những câu thơ: (trích thơ)
Đoạn thơ gồm 6 câu hỏi của người ở lại với người ra đi, những câu hỏi dồn dập, gấp gáp bởi nỗi
nhớ trào dâng khi giờ phút chia tay đang đến gần. sự đắp đổi nhịp nhàng trong điệp ngữ ở các câu
6: “mình đi có nhớ “, “mình về có nhớ “; sự đăng đối trong hai vế của các câu 8 với nhịp 4/4, đó
là những yếu tố tạo nên nhạc điệu ngân nga, dìu dặt ngọt ngào cho đoạn thơ. Nhịp điệu trữ tình ấy
đã góp phần thể hiện tinh tế nỗi vấn vương xao xuyến giăng mắc trong lòng kẻ ở, người đi, để từ
đó, quá khứ đầy ắp kỉ niệm ào ạt trở về. Nếu bốn câu thơ đầu, “người áo nâu “gợi ra trong lòng
“người áo xanh “nhiều kỉ niệm nên thơ với “tiếng hát bên cồn “tha thiết thì tới đây, “người áo nâu
“muốn gợi lại trong tiềm thức người ra đi cả hồi ức về những điều dữ dội, khắc nghiệt nhất của
quãng đường hành quân dài đã qua:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai. “
Cuộc hành quân của các anh không chỉ có những tiếng hoan ca và sự lạc quan đời lính mà còn
phải trải qua cảnh “miếng cơm chấm muối “thiếu thốn trăm bề. Hình ảnh thơ chân thực ấy khiến
ta nhớ tới những câu thơ mà chính tác giả đã từng viết “
“Năm mươi sáu ngày đêm
Khoét núi ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt Máu trộn bùn non
Gan không núng chí không mòn”.
Họ đã cùng sát cánh bên nhau trong những năm tháng ác liệt hào hùng từ thời mặt trận Việt
Minh tới 9 năm trường kì chống Pháp...Sự sẻ chia trong quá khứ tạo nên sự gắn bó trong hiện tại
và nghĩa tình thủy chung trong tương lai. Gian truân vất vả chỉ càng làm ngời lên vẻ đẹp trong tâm
hồn của những người dân Việt Bắc nghèo khổ mà sắt son, trung hậu, nghĩa tình, một lòng với cách
mạng và kháng chiến. Đó là lời nhắc nhở về những ngày tháng gian nan vất vả nhưng lòng người
luôn đầy hào khí và tinh thần chiến đấu của các anh cũng là tinh thần chiến đấu của toàn thể nhân
dân nước ta lúc bấy giờ. Và trong dòng gợi kỉ niệm, người Việt Bắc đã cất lên đôi câu thơ nhuốm
màu buồn hiu hắt của cảnh vật: 7 lOMoAR cPSD| 58886076
Tài liệu phân tích chuyên sâu ngữ văn lớp 12
“Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son. “
Bốn câu thơ là lời nhắc nhở người ra đi: Xin đừng bao giờ quên những con người nghèo khổ mà
son sắt kiên trung, một lòng đi theo cách mạng vá kháng chiến. Phép tương phản trong hai tiểu đối
ở câu 8 đã trở thành những nét khắc họa đặc trưng nhất cho cuộc sống và con người Việt Bắc. Hình
ảnh “trám bùi để rụng “, “măng mai để già “như muốn khẳng định rằng không chỉ người dân Việt
Bắc mà cảnh vật cũng nhớ thương các anh vô ngần khi các anh rời đi. Hình ảnh nhân hóa đã khiến
cho rừng núi cũng như đang mang linh hồn và cảm xúc, níu chân người áo xanh ở lại. Và rằng, tuy
thiên nhiên có khắc nghiệt đến đâu, hoàn cảnh chiến đấu có thiếu thốn cỡ nào, thì giữa những màu
xám tro “hiu hắt “của cảnh vật, vẫn luôn còn đó những tấm “lòng son “mà đồng bào dành cho các
anh trong suốt “mười lăm năm “trường kỳ kháng chiến - thứ khiến cho cuộc chia ly hiện tại thêm
phần quyến luyến, khó có thể buông dứt. “Hắt hiu lau xám “vừa là hình ảnh thực gợi tả không gian
hoang vắng, tiêu sơ, buồn bã của núi rừng, vừa mang ý nghĩa ẩn dụ cho cuộc sống nghèo khổ của
người dân nơi đây. Nhà là hoán dụ cho con người, “đậm đà lòng son “là hình ảnh ẩn dụ ca ngợi
tấm lòng trung hậu, nghĩa tình của những người dân việt Bắc nghèo khổ. Và có lẽ, chính cái màu
lau xám hiu hắt của núi rừng càng làm đậm thêm những tấm lòng son sắt, thủy chung.
Lội ngược dòng quá khứ, những kỉ niệm từ thuở “kháng nhật “, từ khi còn “Việt Minh “vẫn được
người ở lại nhớ như in để nhắc nhở người về xuôi.
“Mình về, có nhớ núi non
Nhớ khi kháng nhật, thuở còn việt minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
Đến đây, cặp đại từ “mình-ta “không còn đồng hiện, là “mình “hay ấy là “ta “đều căn cứ
vào nét nghĩa khác nhau ở cuối câu thơ. Có thể hiểu, mình ấy là “ta “- người ở lại, khi ấy câu hỏi
sẽ xao xuyến 1 nỗi nhớ nhung, day dứt 1 niềm trăn trở, đây cũng là nỗi niềm da diết trong suốt bài
thơ. Cách hiểu này cho thấy sự hòa nhập gắn kết thật đằm thắm giữa ta và mình, tuy 2 mà 1, không
thể chia xa, không thể tách rời. Lại cũng có thể hiểu mình là người ra đi. Và khi ấy, câu thơ sẽ là
lời nhắc nhở sâu xa và nghiêm nghị: “Mình “có nhớ “mình “, nhớ “ta “trong những năm kháng
chiến ấy, có nhớ những nghĩa tình thủy chung đã sát cánh bên ta cùng kháng chiến, cùng ta chia 8 lOMoAR cPSD| 58886076
Tài liệu phân tích chuyên sâu ngữ văn lớp 12
ngọt sẻ bùi trong suốt “mười lăm năm “. Câu hỏi vì thế cũng trở thành lời nhắc: Đừng đánh mất
chính con người mình trong cuộc sống phồn hoa đô hội, đừng bao giờ quên mảnh trăng giữa rừng
khi đã trở về với ánh đèn thành phố, đừng bao giờ quên những năm tháng kháng chiến gian khổ,
hào hùng khi trở về cuộc sống hòa bình.
Sau câu hỏi “mình đi, mình có nhớ mình “, câu 8 khẳng định lại 1 lần nữa tấm lòng gắn bó sắt
son của Việt Bắc với cách mạng và kháng chiến, lí do của tình yêu, nỗi nhớ và đạo lí thủy chung trong lòng người đi:
“Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa “
Câu thơ đã được nhà thơ gửi gắm những tầng nghĩa sâu sắc khi “Mái đình Hồng Thái “,
“cây đa Tân Trào “được tách ra trong 2 vế với những tập hợp ngôn từ mới mẻ. Vế thứ nhất là 2
danh từ riêng: Tân Trào, Hồng Thái, đó là những địa danh gắn liền với những sự kiện lịch sử quan
trọng của dân tộc và kháng chiến: đình Hồng Thái là nơi họp Quốc dân Đại hội 8/1945, thành lập
ủy ban dân tộc giải phóng và phát lệnh tổng khởi nghĩa; bên gốc đa Tân Trào, đội Việt Nam tuyên
truyền giải phóng quân đã làm lễ xuất phát chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa. Vế sau là hai danh từ
chung trong đó “mái đình cây đa' chính là những hình ảnh bình dị , quen thuộc của làng quê Việt
Nam, là “nơi ta hò hẹn “, là không gian gần gũi, thân yêu với cả cộng đồng và tình yêu đôi lứa.
Hai tiểu đối trong câu thơ đã thể hiện sự gắn bó sâu sắc của người dân với cách mạng và kháng
chiến: Khi Việt Bắc trở thành quê hương cách mạng, khi người dân Việt Bắc một lòng đi theo cách
mạng thì những sự kiện lớn lao của cách mạng sẽ trở thành sự quan tâm sâu sắc, thiêng liêng, thành
những tâm tư sâu nặng trong lòng người; những địa danh gắn với những sự kiện quan trọng của
cách mạng cũng trở nên gần gũi như cây đa, bến nước, con đò; tình cảm của người dân Việt Bắc
dành cho những người kháng chiến cũng trở nên thân yêu như tình làng nghĩa xóm, tình yêu lứa đôi...
Đoạn thơ lục bát với những điệp từ: “mình đi “, “mình về “đan xen nhau cùng với những hình
ảnh thơ được liệt kê liên tiếp với những câu hỏi tu từ đã kết tinh thành 1 làn sóng nhớ dội vào tâm
thức của không chỉ người ra đi, của chính người đặt ra câu hỏi, mà còn của chính độc giả chúng
ta. Lắng nghe, đón đọc những lời thơ như vậy, ta mới mường tượng được rõ ràng về 1 thời đại lịch
sử đầy hào khí của cha ông đi trước, mới thấy hiểu những gan góc can trường và những tháng ngày
phải “nằm gai nếm mật “đầy gian khổ của họ, để từ đó ta biết trân quý hơn những gì mà mình có trong ngày độc lập.
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh 9 lOMoAR cPSD| 58886076
Tài liệu phân tích chuyên sâu ngữ văn lớp 12
Mình đi, mình lại nhớ mình
nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu “
Câu thơ đầu gồm 2 tiểu đối trong đó nhà thơ sử dụng phép lặp đan xen giữa ta-mình cùng
từ “với “như 1 thứ keo gắn kết “ta với mình, mình với ta “. Kết cấu ngôn ngữ đặc sắc ấy đã gợi tả
sự quấn quýt, giao hòa giữa người đi, kẻ ở khăng khít không thể tách rời. Sau câu thơ thể hiện sự
gắn bó thân thiết giữa mình và ta là 1 lời khẳng định sắt son của người ra đi:
“lòng ta sau trước mặt mà đinh ninh “
Đáp lại câu hỏi của người ở lại vẫn là tấm chân thành của người về xuôi. Nhà thơ Tố Hữu đã sử
dụng những từ láy mang tính quả quyết, khẳng định cao hơn như “đinh ninh “, “mặn mà “để 1 lần
nữa khẳng định tấm lòng son sắt mà người cán bộ luôn dành cho đồng bào Việt Bắc. Nghĩa tiếng
hán của cụm từ “sau trước “chính là thủy chung, sống có trước có sau là đạo lí truyền thống của
người Việt Nam từ bao đời nay. Nhưng ý thơ Tố Hữu không chỉ định khẳng định sự thủy chung
mà còn lí giải nó 1 cách sâu xa, thuyết phục bởi “sau trước “gợi 1 khoảng thời gian dài từ quá khứ
đến hiện tại và tương lai, “thức đêm mới biết đêm dài “, thời gian khiến con người thêm hiểu lòng
nhau. Khi đã cùng nhau đi qua biết bao giông tố cuộc đời, cùng chia sẻ những tâm tình, ưu tư thì
tình cảm giữa họ ngày càng “mặn mà “, “đinh ninh “là chắc chắn, là không quên, tình cảm mặn
mà ấy sẽ mãi bền chặt dù thiên lý tuần hoàn, thời gian nghiệt ngã. Hai câu thơ cuối như 1 lời thề thủy chung:
“mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu. “
Nếu người ở lại băn khoăn, trăn trở trong 1 câu hỏi hàm chứa bao ý nghĩa sâu xa: “mình
đi, mình có nhớ mình “thì người đi cũng trả lời trong sự hô ứng, đồng vọng, đồng cảm: “Mình đi,
mình lại nhớ mình “. Vẫn là cách sử dụng tinh tế đại từ “mình “ở cuối câu thơ với nhiều nét nghĩa:
nếu hiểu “mình “là người ở lại, câu trả lời của người đi thể hiện nỗi nhớ nhung tha thiết của những
con người có sự gắn bó, hòa nhập sâu sắc bởi “ta với mình “tuy 1 mà 2; nếu hiểu “mình “là người
đi, câu thơ sẽ là lời khẳng định: Ánh đèn hoa lệ của thành phố và cuộc sống hòa bình sẽ không bao
giờ có thể khiến người trở về quên “vầng trăng tình nghĩa “, không bao giờ quên quá khứ đẹp đẽ,
nghĩa tình, càng không bao giờ đánh mất chính mình, không bao giờ phụ tình yêu thương của Việt Bắc.
Câu bát xuất hiện 1 hình ảnh phảng phất phong vị ca dao: “Đình bao nhiêu ngói thương mình
bấy nhiêu “. Hình ảnh “nguồn “cứ lặp đi lặp lại trong Việt bắc không chỉ với: “Nguồn bao nhiêu
nước nghĩa tình bấy nhiêu “mà còn là: 10 lOMoAR cPSD| 58886076
Tài liệu phân tích chuyên sâu ngữ văn lớp 12
“nước trôi nước có về nguồn mây
đi mây có cùng non trở về. “
Hình ảnh “nguồn....nhiêu “đã nhấn mạnh vào sắc thái và mức độ của nỗi nhớ. Nỗi nhớ vốn là 1
khái niệm trừu tượng, nay được cụ thể hóa, được định lượng, hiện hữu như nước trong nguồn, đầy
ắp, lặng thầm và vô tận; sau nữa, hình ảnh nước trong nguồn còn gợi những suy ngẫm sâu xa về
nguồn cội, về đạo lí thủy chung, uống nước nhớ nguồn. Hình ảnh mang đậm tính truyền thống ấy
nay lại trở nên đắt giá hơn khi được trở thành 1 biểu tượng xuyên suốt tác phẩm việt bắc nhắc
người ta nhớ về nơi sinh dưỡng của chính mình. Hình ảnh so sánh trong câu thơ còn như thầm đáp
lại sự trăn trở của Việt bắc:
“mình về, mình có nhớ không Nhìn cây
nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn “. PHÂN TÍCH ĐOẠN 3: 1. 8 câu đầu
“Nhớ gì như nhớ người yêu
...Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi... “ Đi từ lời thề hẹn tình cảm
son sắt 'đinh ninh', 'mặn mà', Tố Hữu mở ra trước mắt độc giả những thước phim hoài cổ mang màu “kỷ niệm “:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng núi bờ tre
Ngòi thia sông Đáy suối Lê vơi đầy “
Đoạn thơ vốn là lời của anh cán bộ, không đơn thuần là câu trả lời cho người Việt Bắc mà còn là
bức tranh tâm trạng, nỗi niềm của người sắp phải đi xa. Mười lăm năm kỷ niệm, mười lăm năm
thanh xuân đời người, giờ đây đã trở thành kí ức phủ đầy vết bụi, tác giả chỉ có thể nhớ trong nỗi
thiết tha, da diết đến nhường nào. Tố Hữu đã một lần nữa điệp tận chín từ 'nhớ' gói gọn những 11 lOMoAR cPSD| 58886076
Tài liệu phân tích chuyên sâu ngữ văn lớp 12
tháng năm êm đềm, tươi đẹp ấy vào mấy dòng lục bát để những hồi ức vô giá ấy được sống lại mỗi
khi ai đó ngân nga lên. “Nhớ người yêu “là nỗi nhớ ám ảnh, thường trực, không thể nguôi ngoai,
vơi cạn, 1 nỗi nhớ nhiều khi mãnh liệt đến phi lí như cảm nhận của Xuân Diệu: “Uống xong lại
khát là tình - Gặp rồi lại nhớ là mình với ta “. Đoạn thơ bỗng hóa thành khúc tình ca ngọt ngào,
đong đầy nỗi nhớ của những người yêu nhau. Đến đây, độc giả cảm nhận được một một tình cảm
sâu nặng, thủy chung mà người lính dành cho thiên nhiên, con người Việt Bắc. Tình nghĩa sâu
nặng, thuỷ chung đồng vợ đồng chồng, tiếng yêu chất chứa bao tâm tình của chàng trai bẽn lẽn thổ
lộ, tất cả đều được thể hiện vô cùng chân chất, bình dị bởi thể lục bát nhịp nhàng. Và đi đánh trận,
còn nỗi nhớ nào mãnh liệt trào dâng hơn 'nhớ người yêu', nhớ hương vị đầm ấm nơi gian nhà nhỏ:
“Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao (Ca dao)
Nhưng dẫu lời nhớ tình riêng bập bùng lửa cháy tiên quyết, người chiến sĩ vẫn chẳng quên nhiệm
vụ lớn lao của mình, trọng trách gánh lên vai nặng trĩu mang tên “giữ gìn bờ cõi “. Việc điểm xuyết
chi tiết lãng mạn, tình tứ ấy ngược lại khiến dòng thơ thêm phần mềm mại, dập dìu xoa dịu lòng
người đọc, vuốt ve đi những vất vả, khó khăn cận kề mà những anh hùng hứng chịu. Tố Hữu không
nhớ đến những gian lao, khổ ải, hi sinh chẳng phải vì quên, mà ông muốn rung lên tiếng lòng đang
nhớ thương những kỷ niệm đẹp đẽ nên mảnh đất một thời gắn bó:
“Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch Bữa
xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương “ (Tiếng
hát con tàu - Chế Lan Viên) Và từ đó, bên
cạnh tiếng gọi thâm tình mang đầy hương
vị trữ tình - chính trị ấy, hình ảnh đất nước
cùng lòng yêu nước nồng nàn, sâu nặng 12 lOMoAR cPSD| 58886076
Tài liệu phân tích chuyên sâu ngữ văn lớp 12
bỗng nổi trội lạ kì. Tố Hữu như ngầm vận
dụng nghệ thuật đòn bẩy, gợi lên tình yêu
chung cho cả Tổ quốc hùng vĩ, thiêng
liêng. Những hình ảnh đầy chất thơ 'nắng
chiều lưng nương' ấy, 'bản khói cùng
sương' ấy biểu trưng cho tính nhạc - hoạ
trong thơ ca, được tác giả khai thác vô
cùng tinh tế và hiệu quả. Vọng lại bên tai
ta bỗng ngân lên đôi lời chắc nịch của Nguyễn Trãi:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có “ (Bình Ngô Đại Cáo)
Không chỉ dừng ở nỗi nhớ trong thâm tâm, người cán bộ còn gọi nhân dân Việt Bắc bằng những
danh xưng thân mật: 'người thương', 'người yêu' cho thấy rõ chất trữ tình hồn thơ lãng mạn, bay
bổng của Tố Hữu. Đồng thời, ông dõng dạc khẳng định tình yêu thương người chiến sĩ gửi đến
nhân dân. Đó là tiếng gọi quen thuộc, thân thương của đôi lứa yêu nhau nhưng Tố Hữu lại dùng
để nói với những con người Việt Bắc. Chắc chắn rằng, ông phải yêu nơi này lắm, tình cảm giữa
Tố Hữu và Việt Bắc phải thắm thiết, sâu sắc lắm thì mới có thể cất lên những tiếng lòng thân 13 lOMoAR cPSD| 58886076
Tài liệu phân tích chuyên sâu ngữ văn lớp 12
thương đến vậy. “Việt Bắc “là đỉnh thơ cao nhất mà Tố Hữu là bước lên và đúng như nhà phê bình
Hoài Thanh ca ngợi: “Thời đại ta đã may mắn có được nhà thơ Tố Hữu “. Sức mạnh của thơ ông
trong những giai đoạn đen tối cùng cực ấy chính là vì nó nói với trái tim, cất lên tình yêu thương
sâu thẳm ngọt ngào giữa người với người nơi chiến hào giá lạnh, và cũng chính bởi Tố Hữu là một
thi sĩ chính cống, thật sự.
Thật vậy, mỗi vần thơ của Tố Hữu luôn tràn trề cảm xúc yêu thương về quê hương đất Việt. Tố
Hữu đã sử dụng những hình ảnh cụ thể 'trăng lên', 'sớm chiều', 'đầu núi', 'sớm khuya' để diễn tả nỗi
nhớ bao trùm khắp không gian và thời gian. Việc liệt kê những địa danh, căn cứ khắp núi rừng đất
nước cũng bộc lộ tình cảm nhớ thương, gắn bó mặn mà 'trước sau như một' của người chiến sĩ về
đồng bào miền xuôi. Độc giả thấy rõ được những khoảnh khắc, những ký ức ngọt ngào, vui tươi
dù trong chiến tranh gian khổ, loạn lạc vẫn ánh lên tình yêu chói sáng giữa người với người. Kinh
qua những thước phim hồi ức, Tố Hữu một lần nữa nhấn mạnh tình yêu người ra đi dành cho người
ở lại mang nhịp đập nóng hổi của lòng yêu thương:
“Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi “
Việt Bắc là quê hương của cách mạng, là cái nôi khổng lồ cho những chiến sĩ hóa thi nhân.
Do đó, Tố Hữu càng không thể quên được những năm tháng gian khổ nhưng chan hòa tình quân
dân. Bốn tính từ được liệt kê 'đắng, cay, ngọt, bùi' biểu hiện những hương vị cuộc sống, ẩn dụ cho
những giai đoạn khác nhau của cuộc đời con người. Ta bỗng chợt nhớ đến mấy dòng thơ của Chế Lan Viên:
“Nhớ bản sương giăng nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn “
Những kỷ niệm, hạnh phúc, khổ đau, những nụ cười, giọt nước mắt đều ở lại nơi Việt Bắc.
Bởi thế nên khi rời đi Tố Hữu mới dạt dào tiếc nuối, nhớ nhung những thi vị vô giá ấy. Một nửa
tâm hồn ông đã đặt nơi chiến khu Việt Bắc thân yêu này và đối với Tố Hữu: “Cảnh vật tinh thần
Việt Bắc đã nhập vào hồn tôi, máu thịt tôi, Việt Bắc ở trong tôi “. Phải chăng vì lẽ đó mà ta
cảm nhận được tình cảm chân thật, sâu nặng, thiết tha ông dành cho thiên nhiên cảnh vật và con người nơi đây? 14 lOMoAR cPSD| 58886076
Tài liệu phân tích chuyên sâu ngữ văn lớp 12
Đoạn trích cho ta thấy nét đặc sắc trong bút pháp nghệ thuật của bài thơ Việt Bắc. Trước
hết đó là cấu tứ: mượn tình cảm mười lăm năm - gần quãng tư cuộc đời - để gắn bó sâu đậm, dùng
sự lãng mạn, nỗi nhớ nhung của tình yêu đôi lứa để diễn tả tình quân dân khăng khít, sắt son. Đặc
biệt là cách dùng từ xưng hô 'mình - ta' theo kiểu đồng vọng càng tăng tính độc đáo cho đoạn thơ.
Tố Hữu đã dùng những từ bình dị nhưng tràn đầy xúc cảm: 'nhớ', 'người yêu', 'người thương' giúp
bài thơ chính trị không hề khôn khan, khó hiểu mà tràn đầy cảm xúc như chính Xuân Diệu từng
nhận định: “Tố Hữu đã đưa bài thơ chính trị đạt đến trình độ rất đỗi trữ tình “. Đồng thời, giọng
điệu cùng thể thơ lục bát đã giúp cho tình cảm dễ đi vào lòng người, gợi nỗi nhớ từ cá nhân Tố
Hữu lan tỏa đến những ai đọc qua đoạn trích. Tất cả những nghệ thuật này khiến chúng ta thấy
được tình cảm sâu đậm nơi Tố Hữu và bút pháp tài hoa của ông.
“Xuân hãy xem! Cuộc diễu binh hùng vĩ
Ba mươi mốt triệu nhân dân Tất cả hành quân
Tất cả thành chiến sĩ “ Lời chào xuân của chính nhà thơ tài ba Tố
Hữu ấy như câu kết trọn vẹn cho cả khung hình kỉ niệm tươi đẹp, ánh lên những trang thơ bao tình
yêu cao cả với đất nước, nhân dân, kết nối con tim bao thế hệ. Đoạn trích tuy ngắn ngủi nhưng với
ý tại ngôn ngoại, nó đã trải dài bao ý vị thơ mộng, lãng mạn, tình tứ nơi chiến trường khốc liệt và
bến bờ hậu phương vững chắc. Việt Bắc của Tố Hữu sẽ mãi là khúc ca Cách mạng vượt trội với
thời gian, làm “rung hàng triệu trái tim trong hàng triệu năm dài “. B. 10 CÂU THƠ TIẾP:
“Thương nhau, chia củ sắn lùi
....Chày đêm nệm cối đều đều suối xa. “
Mở đàu cả đoạn thơ nói về nỗi nhớ là 1 chữ thương xót lòng, sau đó, quá khứ đã hiện ra với cả gian truân và tình nghĩa:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng “
Hình ảnh tượng trưng: “sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui “là những hình ảnh cụ thể và chân thực
cho thấy cuộc sống kháng chiến gian khổ và thiếu thốn vô cùng. Đối diện với người kháng chiến
không chỉ có kẻ thù mà còn cả cái đói, cái rét, họ đã cùng đồng bào việt bắc vượt qua những mưa
bom bão đạn không chỉ bằng sức mạnh của lòng dũng cảm mà còn bằng sức mạnh của tình thương. 15 lOMoAR cPSD| 58886076
Tài liệu phân tích chuyên sâu ngữ văn lớp 12
Những động từ: “chia, sẻ, đắp cùng “đã thể hiện nghĩa tình cảm động giữa những người dân Việt
Bắc và bộ đội, cán bộ, ho đã sẻ chia từ miếng ăn ngày đói đến hơi ấm trong đêm lạnh. Tình thương
đã đem đến cho họ sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng, tình thương cũng là cội nguồn sâu xa
nhất của nỗi nhớ nhung và tình nghĩa thủy chung. Đây là 1 hình ảnh thơ đậm đà tình giai cấp. Tất
cả những khoảnh khắc “chia ngọt sẻ bùi “ấy cứ sáng mãi trong lòng người ra đi, sống trong tâm trí
người ở lại, ghi dấu về 1 thời không thể xóa nhòa. Hình ảnh thơ thân thuộc nhưng có sức gợi và
sức lay động lòng người mạnh mẽ, nó không chỉ thể hiện cho sự gắn bó, tình đoàn kết giữa nhân
dân Việt Bắc và người chiến sĩ cách mạng mà còn khiến lòng các anh bật lên cảm xúc bùi ngùi khi
nhớ về ngày khói lửa gian nan mà hào hùng:
Những đồng chí thân chôn làm giá súng Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi thép gai Ào ào như vũ bão.. “
Không chỉ vậy, hình ảnh người dân Việt Bắc trong những công việc thầm lặng hàng ngày góp
phần phục vụ cách mạng và kháng chiến cũng trở thành nỗi xót xa trong lòng người đi:
“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô. “
Câu thơ miêu tả 1 hình ảnh cụ thể, quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày của người dân
Việt Bắc: những người mẹ địu con cùng đi làm rẫy, làm nương. Hai thanh sắc liên tiếp trong cụm
từ “nắng cháy “cùng hàm nghĩa ẩn dụ không chỉ gợi ra cả 1 vạt nương ngập nắng, gợi ra những tia
nắng gay gắt chói chang làm cháy rát lưng người mà còn khiến câu thơ như nhói lên niềm thương
xót. Câu thơ sau có tới 3 động từ “địu, lên, bẻ “như muốn thể hiện công việc vất vả, cơ cực của
người mẹ Việt Bắc, nhưng đổi lại thành quả lao động lại chỉ là từng bắp ngô nhỏ nhoi, ít ỏi. Không
gian làm việc khắc nghiệt cùng sự tương phản giữa công việc và thành quả cho thấy sự cực nhọc
của con người trong cuộc sống lao động phục vụ kháng chiến, làm tăng thêm cả niềm xót thương
lẫn niềm cảm phục trong trái tim người đi. Hình ảnh người mẹ Việt bắc chịu thương chịu khónhững
người đã thương các anh như con của mẹ luôn nằm trong tâm trí các anh. Hình ảnh này gợi ta nhớ
tới những dòng thơ của nguyễn khoa điềm:
“Em cu-tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ 16 lOMoAR cPSD| 58886076
Tài liệu phân tích chuyên sâu ngữ văn lớp 12
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội
Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng. “
Và hơn thế, lời thơ tố hữu khiến ta xúc động khi nhớ tới sự hy sinh thầm lặng của các mẹ
khi góp 1 phần vào cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ mà như thạc sĩ Trịnh Công Sơn từng viết trong Huyền thoại mẹ: “Mẹ lội qua con suối
Dưới mưa bom không ngại Mẹ nhẹ nhàng đưa lối Tiễn con qua núi đồi Mẹ chìm trong đêm tối Tóc che lối con đi. “
Nếu như nhân dân Việt Bắc xem các anh như người thân ruột thịt, những người mẹ anh
hùng xem các anh như con thì các anh cũng xem các em nhỏ nơi đây như những người em xa nhớ
nơi quê nhà. Ở miền núi xa xôi ấy, các em thiếu điều kiện học hành, các anh tới không chỉ với dũng
khí và tình yêu tự do, các anh tới mang cho các em con chữ và sự ân cần chở che.
“Nhớ sao lớp học i tờ “
Nỗi nhớ hướng đến “lớp học i tờ “- hình ảnh cảm động của phong trào bình dân học vụ, xóa nạn
mù chữ ngày đầu kháng chiến, hình ảnh gợi nhớ tới những tiếng đánh vần ngọng nghịu, những nét
chữ viết vụng về, những say mê, háo hức của người dân miền núi khi được học con chữ của cách
mạng, của bác hồ trong những lớp học tranh thủ ngoài thời gian lao động và chiến đấu.
Bốn câu thơ cuối của đoạn thơ sáng lên một niềm tin đầy lạc quan và sự lí tưởng. Nỗi nhớ hướng
tới những đêm liên hoan đầm ấm giữa người dân Việt Bắc với cán bộ kháng chiến, nhớ từ âm thanh
tha thiết của tiếng “ca vang núi đèo “tới những lung linh, náo nước của “đồng khuya đuốc sáng “:
“Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nệm cối đều đều suối xa... “ 17 lOMoAR cPSD| 58886076
Tài liệu phân tích chuyên sâu ngữ văn lớp 12
Những cảnh tượng bình dị, thân thuộc của cuộc sống núi rừng còn hiện ra trong những âm
thanh rất gợi cảm của “tiếng mõ rừng chiều “, tiếng “chày đêm nệm cối “, tiếng suối thoảng xa vời
vợi... những âm thanh vừa gợi cảm giác êm đềm yên ả, vừa phảng phất chút hoang vắng tiêu sơ,
cho thấy tình cảm thắm thiết, nỗi nhớ thương sâu đậm, nỗi xao xuyến bùi ngùi của người ra đi với
cuộc sống và con người nơi Việt Bắc. Dù rằng cuộc hành quân vẫn phải tiếp tục qua đêm trường
nhưng các anh vẫn cất cao tiếng hát giữa núi đèo. Bởi trong các anh luôn rực sáng niềm tin dành
cho cách mạng và vị lãnh tụ Hồ Chí Minh kính yêu. Các anh luôn tin vào 1 ngày mai độc lập mở
ra trước mắt. Hình ảnh thơ ở hai câu cuối vừa mang đến trước mắt ta hình khối của sự vật, vừa
mang lại âm thanh vọng về từ đại ngàn. Đó là khung cảnh thanh bình có suối nước reo vui và tiếng
chày đêm từ xa dội tới, thanh bình đến lạ. Dấu chấm lửng lại 1 lần nữa xuất hiện, được đặt 1 cách
tinh tế ở dòng thơ cuối cùng của đoạn thơ, như 1 nốt ngân xao xuyến trong bản hòa ca, để lại những
dư âm vang vọng trong lòng.
PHÂN TÍCH ĐOẠN 4: BỨC TRANH TỨ BÌNH; 10 câu tiếp
“Ta về, mình có nhớ ta
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Nỗi nhớ thương về Việt Bắc trong lòng người chiến sĩ cứ đan cài, xoắn xuýt vào nhau, từng sợi
nhớ, sợi thương cứ len lỏi vào từng tế bào các anh để khi chạm vào, hình ảnh nối tiếp hình ảnh, cứ
thế hiện ra trong cõi nhớ vô tận vô cùng. Đoạn thơ tiếp theo tựa hồ như 1 đóa hoa đặc biệt trong
bức tranh toàn cảnh “Việt Bắc “- đó là đoạn thơ về bức tranh tứ bình đầy thơ mộng, thiên nhiên và
con người việt bắc ẩn hiện với những sắc màu, dáng vẻ quen thuộc, đẹp đẽ, bình dịu, thấm đượm
tình thương, nỗi nhớ người đi. Đoạn thơ nằm trong lời người ra đi nhắn nhủ người ở lại: Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình 18 lOMoAR cPSD| 58886076
Tài liệu phân tích chuyên sâu ngữ văn lớp 12
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Câu hỏi đầu tiên xuất phát từ phía người đi, một câu hỏi ngọt ngào, phảng phất hương vị của tình yêu:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người. “
Có thể thấy người ra đi hỏi mà không chờ lời giải đáp, không có sự băn khoăn, trăn trở, hỏi
chỉ để bộc lộ nỗi bồi hồi xao xuyến phút chia xa. Và có lẽ vì thế nên ngay sau câu hỏi đã là lời
khẳng định: Ta về, ta nhớ những hoa cùng người “. Hai câu thơ đầy ắp những “ta “và “mình “,
những “mình nhớ', “ta nhớ “... Yếu tố điệp của ngôn từ cho thấy hình ảnh họ đầy ắp trong lòng
nhau và nỗi lưu luyến nhớ thương cứ giăng mắc như tơ vương quấn quít. Hình ảnh “những hoa
cùng người “mang ý vị sâu xa khi hai từ “hoa “, “người “được đặt cạnh nhau và nối với nhau bởi
chữ “cùng “. Phải chăng, ở đây nhà thơ muốn ý nhị nói rằng vẻ đẹp của người Việt Bắc tựa như
hoa, hoa và người đứng cạnh nhau lẫn lộn, không thể phân biệt, khi nói về hoa cũng là nỗi nhớ về
người, nỗi nhớ người hòa quyện cùng nỗi nhớ hoa. Ý thơ gợi ta nhớ tới câu “người ta là hoa đất
“vẫn thường được nhắc tới trong văn học. Để làm rõ hơn điều đó, trong 8 câu thơ sau, cứ 1 câu nói
về nỗi nhớ với thiên nhiên lại tiếp đến 1 câu bộc lộ nỗi nhớ với con người. Kết cấu này khiến đoạn
thơ mang bóng dáng thể hứng trong ca dao: “Trên trời có đám mây xanh... “, nhưng nếu trong ca
dao, cảnh chủ yếu để tạo cảm hứng cho tình - tức cảnh sinh tình, thì trong Việt Bắc, cảnh vừa là
nền cho con người xuất hiện, vừa là 1 phần trong nỗi nhớ của người ra đi bên cạnh nỗi nhớ sâu đậm với con người.
Khác với những bộ tứ bình truyền thống tả cảnh theo trình tự: Xuân , hạ, thu, đông; bốn mùa của
Việt Bắc hiện ra trong 2 thời điểm quá khứ với hiện tại. Mùa đông, mùa xuân, mùa hạ là những
cảnh sắc hiện lên trong hoài niệm về quá khứ khi thời gian đã sàng lọc để kí ức người ra đi chỉ lưu
giữ lại những ấn tượng sâu sắc, đẹp đẽ nhất về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Mùa thu là bức
tranh cuối cùng của bộ tứ bình, cảnh thu không chỉ là cảnh sắc thơ mộng của thiên nhiên mà còn
là mùa thu hòa bình trong hiện tại, là mùa thu chia li với bao vấn vương, lưu luyến.
Bức tranh tứ bình được bắt đầu với mùa đông việt bắc. Nhưng nơi đó không phải là một mùa
đông màu xám tro lạnh với cây cỏ trụi trơ mà là mùa đông với sự phác họa tinh tế cả về hình khối, màu sắc, ánh sáng:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi 19 lOMoAR cPSD| 58886076
Tài liệu phân tích chuyên sâu ngữ văn lớp 12
Đèo cao nắng ánh dao gài thắng lưng “
Hai câu thơ vừa mở rộng không gian nghệ thuật với chiều rộng mênh mông của “rừng xanh “, vừa
đưa không gian ấy lên chiều cao ngút ngàn của đèo núi, chiều cao vời vợi của bầu trời. Bức tranh
thiên nhiên ấm áp với những gam màu đậm-màu xanh của lá chuối, điểm xuyết màu đỏ của hoa
chuối. Màu đỏ tươi nổi bật trên nền xanh vừa tạo cảm giác chói chang, ấm áp, mỗi bông hoa như
một ngọn lửa thắp sáng và xua đi cái lạnh lẽo của mùa đông, vừa cồn cào như những ánh mắt dõi
theo, như những bàn tay vẫy gọi đầy lưu luyến níu bước người ra đi. Ánh nắng trên đèo cao càng
làm khu rừng sáng và ấm hơn, bức tranh thiên nhiên vì thế mà cũng được mở rộng, phóng khoáng
hơn. Sự phối hợp khéo léo giữa những màu sắc, ánh sáng tươi mới: màu xanh thăm thẳm của rừng
sâu, màu đỏ tươi tắn của hoa chuối, màu vàng ấm áp của nắng mùa đông và đặc biệt là ánh phản
quang của nắng trên nước thép sáng loáng của con dao người đi rừng, tất cả đã đem lại cảm giác
khỏe khoắn, rạo rực của 1 bức tranh đông, thay thế cho cái tịch liêu, hiu hắt vốn dĩ của thiên nhiên
chống rừng núi hoang vu. Câu thơ làm ta liên tưởng tới màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi:
“Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Hình ảnh thơ: “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng “xuất hiện song song giữa 1 bức tranh căng
tràn sức sống thiên nhiên, như để lột tả được tầm vóc sánh ngang với thiên nhiên kì vĩ của con
người. Người dân Việt Bắc hiện ra qua 1 nét phác đơn sơ mà đầy ấn tượng của bút pháp chấm phá
trong hội họa, đó là hình ảnh “dao gài thắt lưng “. Đặt sau cụm từ “nắng ánh “ở trạng thái động,
câu thơ như 1 góc bất ngờ của nghệ thuật nhiếp ảnh kì thú, Tạo hình của con người với vóc dáng
lồng lộn trên đèo cao đầy nắng, với con dao đi rừng lấp lóa gài ngang lưng, họ làm chủ thiên nhiên,
chiếm lĩnh đỉnh cao, chiếm lĩnh núi rừng, vươn tới những ngày mai tươi sáng phía trước bằng sự
cần cù và hăng say lao động, làm tăng thêm sự cảm phục, ngưỡng mộ và yêu mến vô cùng trong
lòng người đi. Đó là hình ảnh thơ đầy tự do, khoáng đạt ta từng bắt gặp trong những vần thơ khác của Tố Hữu:
“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo. “(Lên Tây Bắc-Tố Hữu)
Tư thế ấy đã khiến cho con người trở thành linh hồn của bức tranh Việt bắc. 20