lOMoARcPSD| 61601299
“VIỆT NAM CHIẾN ĐẤU CHIẾN THẮNG 1946-1954” VAI TRÒ CỦA
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TRONG QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN
TA GIÀNH THẮNG LỢI TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC
DÂN PHÁP CỨU NƯỚC(1946-1954)
A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
Chương 1. sở luận
1. Bối cảnh đất nước trước trong giai đoạn 1946-1954
Cuộc tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 tiền đề để Nhà nước dân chủ đầu
tiên ở Đông Nam Á được thành lập – Việt Nam. Nhưng ngay sau đó nước ta đã vừa phải
bước vào cuộc đấu tranh quyết liệt vừa phải đối phó với tình hình cực phức tạp,
vàn khó khăn: nền kinh tế kiệt quệ, nạn đói tàn ác đã cướp đi hai triệu sinh mạng, ngân
khố chỉ còn một triệu đồng, trình đvăn hóa của nhân dân rất yếu kém. Tình hình thù
trong giặc ngoài rối ren: miền Bắc, hai mươi vạn quân Tưởng dưới danh nghĩa Đồng
minh vào tước vũ khí quân đội Nhật nhưng thực chất là muốn tiêu diệt Đảng Cộng sản
đánh phá Việt Minh, lật đổ chính quyền nhân dân, lập chính phủ phản động làm tay
sai cho Mỹ - Tưởng; Còn ở miền Nam, thực dân Pháp núp sau sau bóng quân Anh quay
trở lại đánh chiếm nước ta một lần nữa, bọn phản động tay sai cũng nổi lên khắp nơi, tìm
mọi cách cản trở cuộc chiến quốc của nhân dân ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận lấy trách nhiệm nặng nề trước nhân dân, Người
cùng tập thể Trung ương Đảng bình tĩnh sáng suốt phân tích tình hình, kịp thời đưa ra
đường lối đúng đắn những biện pháp hành động khôn khéo để giải quyết từng ớc
khó khăn về đời sống kinh tế, văn hóa, hội và các vấn đề khác. Tại phiên họp đầu tiên
của Chính phủ lâm thời ớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nêu sâu về vấn đề cấp bách để cứu dân tộc ngay lúc này là giải quyết nạn đói; giải quyết
nạn dốt; tổ chức sớm cuộc Tổng tuyển cử; a bỏ hủ tục, xây dựng đời sống văn hóa
mới, đạo đức mới, đạo đức cách mạng; xóa bỏ thuế bóc lột nhân đạo; thực hiện tín
ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết.
lOMoARcPSD| 61601299
Bản hiệp ước Trùng Khánh (hiệp ước Hoa Pháp) được kí giữa Chính phủ Pháp
Chính phủ Trung Hoa dân quốc ngày 28 tháng 2 năm 1946 như một sự chà đạp lên
nền độc lập của Việt Nam hợp pháp hóa sự xâm lược của thực dân Pháp. Bởi một
trong những nội dung của bản hiệp ước Trùng Khánh dùng thỏa thuận để Pháp đưa
quân đội ra tuyến 16, đổi lại Pháp sẽ nhượng cho Tưởng nhiều quyền lợi quan trọng
Trung Quốc Việt Nam. Bản hiệp ước này cũng gây ra nhiều mâu thuẫn, xung đột
kịch liệt về quyền lợi giữa các tập đoàn lợi ích của quân đội Tưởng ở Việt Nam và quân
đội Pháp, đặt cách mạng, Chính phủ và Nhân dân Việt Nam đứng trước tình thế vô cùng
nguy hiểm, phải cùng lúc đói mặt trực tiếp với 2 kẻ thù xâm lược to lớn Pháp Tưởng
trong tình hình cách mạng vẫn còn rất non kém.
Trước sự thay đổi nhanh chóng, phức tạp của tình hình, Thương vụ Trung ương
Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhanh chóng nhận định, đánh giá âm mưu, ý đồ chính
trị của Pháp Tưởng. Tới ngày 3 tháng 3 năm 1946, Đảng đã ra Chỉ thị tình hình
chủ trương, chỉ ra âm mưu, ý đồ của Anh, Mỹ, Pháp và Trung Quốc và nêu vấn đề đánh
hay hòa với Pháp. Trên cơ sở đó khẳng định rằng ta cần biết mình, biết người, nhìn nhận
một cách khách quan những điều kiện lợi hay bất lợi để chủ trương hành động cho
đúng. Chủ trương mới đã kịp thời được đề ra tạm thời dàn hòa với Pháp, nhận nhương
với Pháp về lợi ích kinh tế và ngược lại Pháp phải thừa nhận quyền dân tộc tự quyết của
dân tộc ta, “lợi dụng thời gian hòa hoãn với Pháp để diệt bọn phản động bên trong, tay
sai Tàu trắng, trừ những hành động khiêu khích ly gián ta với Pháp”, thúc đẩy nhanh
quân Tưởng về nước và sẽ bớt đi một kẻ thù nguy hiểm. Phê phán quan điểm đánh Pháp
đến cùng, như thế là tự lập mình, tiêu hao thực lực nhưng hoặc hòa hoãn, đàm phán
với Pháp lại làm yếu đi tinh thần quyết chiến của dân tộc ta.
Ngày 6 tháng 3 năm 1946, Chủ tịch thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa đã kí với đại diện Chính phủ Cộng hòa Pháp ông Jean Sainteny bản Hiệp định
bộ. Hiệp định đã nêu rõ: Chính phủ Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do, có
Chính phủ, nghị viện, tài chính quân đội riêng, nằm trong Liên bang Đông Dương
thuộc khối Liên hiệp Pháp; Còn về phía Việt Nam đã đồng ý để 15000 quân Pháp ra
lOMoARcPSD| 61601299
miền Bắc thay thế 20 vạn quan Tưởng và sẽ rủ dần trong thời hạn 5 năm, hai bên sẽ tiếp
tục đàm phán chính thức để giải quyết mối quan hệ Việt – Pháp.
Thông báo của Chính phủ Việt Nam về việc Hiệp định bộ 6-3-1946 (ảnh: Bảo tàng Hồ Chí Minh)
Ngày 20 tháng 10 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh phái đoàn Việt Nam về
Hải Phòng, Người đã viết một văn kiện rất quan trọng: Công việc khẩn cấp bây giờ, nêu
rõ thêm những nhiệm vụ cụ thể và cấp thiết phải làm về mặt quân sự, chính trị và khẳng
định vai trò lãnh đạo của Đảng, của Đảng viên, cán bộ “phải làm cho nhân dân ta có tín
tâm và quyết tâm” đối với công cuộc chiến đấu vảo vệ Tổ quốc lâu dài – điều mà Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiên liệu là không thể tránh khỏi.
Đảng Bác Hồ đã chủ trương đưa nước ta từng bước chuyển sang tình trạng
chiến tranh tích cực cây dựng các điều kiện cần thiết để phục vụ cho cuộc kháng chiến
này. Một mặt, Đảng ra sức lãnh đạo cuộc hiến đấu kìm hãm chân dịch Nam Bộ
trong các thành phố, thị xã ở miền Bắc, mặt khác, thực hiện cuộc tỏng di chuyển các cơ
quan lãnh đạo của Đảng, Chính phủ, Quốc hội và các ban ngành, quân đội, công an
các quan lãnh đạo kháng chiến địa phương ra khỏi thành phố, thị xã; tổ chức, củng
lOMoARcPSD| 61601299
cố, xây dựng căn cứ địa, các chiến khu, các an toàn khu để bảo toàn lực lượng, chuẩn bị
kháng chiến lâu dài.
Cuộc đấu tranh chống phản cách mạng, chống thù trong, giặc ngoài những năm
đầu, chính quyền cách mạng đã đem lại thắng lợi ý nghĩa hết sức quan trọng như ngăn
chặn bước tiến của quân đội xâm lược Pháp ở Nam Bộ, vạch trần và làm thất bại mọi âm
mưu, hoạt động chống phá cách mạng Việt Năm của các kẻ thù, của phe đế quốc,
trực tiếp cũng là của thực dân Pháp và quân đội Trung Hoa Dân quốc và các thế lực tay
sai, củng cố, giữ gìn bảo vệ an toàn hệ thống bộ máy chính quyền cách mạng từ Trung
ương đến cơ sở và những thành quả của cuộc cách mạng Tháng Tám, tạo thêm thời gian
hòa bình, hòa hoãn, tranh thủ tích cực chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Đó đều nhờ vào những chủ trương, biện pháp, sách ợc đối sách đúng đắn của
Đảng, tinh thân quyết đoán, sáng tạo của Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
2. Nhìn chung về “Việt Nam chiến đấu chiến thắng 1946-1954”
2.1 Âm mưu hành động chiến tranh của Pháp
Mặc đã kí Hiệp định bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946 nhưng đến ngày 14 tháng
9 năm 1946, thực dân Pháp vẫn đẩy mạng việc chuẩn bị chiến tranh xâm lược nước ta.
Ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân Pháp mở các cuộc tiến công còn ở Bắc Bộ, vào
hạ tuận tháng 11 năm 1946, thực dân Pháp tiên công Hải Phòng, Lạng Sơn, cho quân
đổ bộ lên Đà Nẵng, sau đó chiếm đóng Hải Phòng. Vào tháng 12 năm 1946, Pháp gây
hấn Nội, chiếm trụ sở Bộ Tài chính gây ra vụ thảm sát ở phố Hàng Bún (khu phố
Yên Minh). Ngày 18 tháng 12 năm 1946, quân Pháp gửi tối hậu thư đòi giải tán lực
lượng tự vệ chiến đấu, để cho Pháp làm nhiệm vụ giữ gìn trật tự Nội, nếu không
chúng sẽ giành toàn quyền hành động vào sáng ngày 20 tháng 12 năm 1946.
Trong tình huống khẩn cấp này, Đảng và Chính phủ phải có quyết định đúng đắn
kịp thời. Ngày 18 tháng 12 m 1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản
Đông Dương quyết định phát động cuộc kháng chiến toàn quốc.
lOMoARcPSD| 61601299
Ngày 19 tháng 12 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến”, phát động nhân dân cả nước kháng chiến chống Pháp, bảo vệ nền độc lập
dân tộc.
2.2 Những cuộc đấu tranh giai đoạn 1946-1954
Việt Nam giai đoạn 1946-1954 trải qua một số cột mốc quan trọng sau:
2.2.1 Giai đoạn 1946-1950
Kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ do Pháp bội ước tiến
công nước ta. Cuộc kháng chiến tại các đô thị và việc chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu
dài với thực dân Pháp. Chiến thắng Việt Bắc Thu Đông năm 1947 việc đẩy mạnh
kháng chiến toàn dân, toàn diện. Hoàn cảnh lịch sử mới chiến dịch biên giới Thu
Đông năm 1950 diễn ra.
2.2.2 Giai đoạn 1951-1953
Thực dân Pháp đẩy mạnh chiến tranh xâm ợc Đông Dương. Đại hội Đại biểu
lần thứ hai của Đảng diễn ra vào tháng 2 năm 1951. Hậu phương kháng chiến phát triển
mọi mặt, những chiến dịch tiến công giữ vững quyền chủ động trên chiến trường. Các
chiến dịch giai đoạn này bao gồm các chiến dịch trung du đồng bằng Bắc Bộ: Chiến
dịch Hòa Bình Đông – Xuân từ 1951-1952; Chiến dịch Tây Bắc Thu – Đông năm 1952;
Chiến dịch Thượng Lào Xuân – Hè năm 1953.
2.2.3 Giai đoạn 1953-1954
Âm mưu mới của Pháp Mĩ ở Đông Dương với kế hoạch Nava. Cuộc tiến công
chiến lược Đông – Xuân từ năm 1953 – 1954 với các chiến dịch tiêu biểu sau: Cuộc tiến
công chiến lược Đông – Xuân 1953 – 1954; Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954
lừng lẫy năm châu – chấn động địa cầu.
Hiệp định Giơ - ne vơ năm 1954 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình
Đông Dương.
2.3 Nội dung bản của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
lOMoARcPSD| 61601299
2.3.1 Sự hình thành đường lối kháng chiến
Ngay từ đầu cuộc kháng chiến, Đảng ta đứng đầu Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
vạch ra đường lối kháng chiến để chỉ đạo mọi mặt kháng chiến của quân dân ta.
Đường lối đó được xuất phát từ những văn kiện chính sau đây: “Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/12/1946); “Bản chỉ thị Toàn dân kháng
chiến của Ban thường vụ Trung ương Đảng (22/12/1946); Tác phẩm “Kháng chiến nhất
định thắng lợi” của Tổng Bí thư Tờng Chinh (1947).
Từ những văn kiện ấy dần dần nh thành đường lối kháng chiến của ta, đó là:
Kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì và tự lực cánh sinh. Đường lối này thể hiện
được tính chất của cuộc kháng chiến của nhân dân ta bằng những điểm sau:
Thứ nhất, cuộc kháng chiến của ta một cuộc chiến tranh cách mạng chính nghĩa,
chống lại một cuộc chiến tranh phi nghĩa của thực dân Pháp.
Thứ hai, cuộc kháng chiến của nhân dân ta nhằm mục đích giành độc lập thống
nhất Tổ quốc, bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân.
Thứ ba, trong cuộc kháng chiến này, dân tộc Việt Nam vừa đấu tranh để tự cứu
mình, vừa đấu tranh cho hòa bình Thế giới, do đó, cuộc kháng chiến chống Pháp của
nhân dân Việt Nam n một cuộc chiến tranh tiến bộtự do, độc lập, dân chủ
hòa bình.
2.3.2 Nội dung bản của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp 1946-1954
Kháng chiến toàn dân toàn dân kháng chiến, toàn dân đánh giặc không phân
biệt già trẻ, trai gái, mỗi người dân một chiến sĩ, mỗi làng một pháo đài. Sở
như vậy cách mạng sự nghiệp của quần chúng, lợi ích toàn dân nên phải do
toàn dân tiến hành.
Kháng chiến toàn diện là kháng chiến trên tất cả mọi mặt: quân sự, chính trị, kinh
tế, văn hóa, ngoại giao vì thực tế chỉ ra rằng thực dân Pháp không những đánh ta về quân
sự mà chúng còn phá ta cả về kinh tế, chính trị, văn hóa. Cho nên ta không những kháng
lOMoARcPSD| 61601299
chiến chống Pháp trên mặt trận quân sự phải kháng chiến toàn diện trên tất cả mọi
mặt, đồng thời kháng chiến toàn diện còn để phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân.
Kháng chiến trường kỳ (nghĩa đánh u dài). Đây một chủ trương cùng
sáng suốt của Đảng ta, vận dụng một cách ng tạo Chủ nghĩa Mác nin vào hoàn
cảnh nước ta lúc bấy giờ. Ta yếu, địch mạnh nên phải đánh lâu dài để chuyển hóa lực
lượng.
Tự lực cánh sinh chủ yếu dựa vào sức của mình (sức mạnh của nhân dân),
không trông chờ, không lại vào bên ngoài, đồng thời phải tranh thsự viện trợ của
quốc tế. Muốn đánh lâu dài thì phair dựa vào sức mình là chính.
2.3.3 Ý nghĩa của đường lối kháng chiến chống Pháp
Toàn bđường lối kháng chiến thấm nhuần tư tưởng chiến tranh nhân dân sâu
sắc, nó chứng tỏ cuộc kháng chiến của ta là chính nghĩa nên được nhân dân ủng hộ.
Đường lối kháng chiến có tác dụng động viên, dẫn dắt nhân dân ta tiến hành cuộc
kháng chiến dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch HChí Minh, phải trải qua nhiều sự hy
sinh gian khổ nhưng nhất định sẽ giành thắng lợi.
Chương 2. Một số cuộc chiến tiêu biểu của chiến dịch “Việt Nam chiến đấu
chiến thắng 1946-1954”
1. Cuộc chiến đấu Nội các đô thị phía Bắc tuyến 16
1.1 Hoàn cảnh
Ngày 18 và 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ tọa Hội nghị Ban Thường
vụ Trung ương Đảng (mở rộng) tại làng Vạn Phúc, Hà Đông. Hội nghị phân tích sâu sắc
tình hình của ta, âm u của địch quyết định: tiến hành cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp trên phạm vi cả nước. Hội nghị cũng quyết định đường lối kháng chiến là toàn
dân, toàn diện, trường kỳ. Hội nghị đã thông qua Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến do
Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo.
lOMoARcPSD| 61601299
Sáng sớm ngày 19-12-1946 quân Pháp gửi tối hậu thư thứ ba, hạn trong 24 giờ
đồng hồ, tự vệ Nội phải hạ khí, đình chỉ ngay những hành động chuẩn bị kháng
chiến
1.2 Diễn biến
20 giờ 3 phút ngày 19-12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Mở đầu Lời
kêu gọi, Chủ tịch Hồ CMinh nêu thiện chòa bình của Việt Nam, nhưng bị phía
Pháp khước từ: “Hỡi đồng bào! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng.
Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, chúng quyết tâm ớp
nước ta lần nữa!”. Người khẳng định ý chí của toàn Đảng, toàn n, toàn quân ta là:
“Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ”. Khi Tổ quốc lâm nguy, Người kêu gọi các giới đồng bào cả nước
bằng khí mọi loại dụng cụ thể dùng làm khí, nhất tề đứng lên đánh giặc:
“Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân
tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có
súng ng súng. Ai gươm ng ơm, không gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy
gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”. Với bộ đội dân quân, Người
dành riêng một lời kêu gọi: “Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân! Giờ cứu nước đã đến.
Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước”. Kết thúc Lời kêu gọi Toàn
quốc kháng chiến, Chtịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dù phải gian lao kháng chiến,
nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!”. Lời kêu gọi
Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếng gọi của non sông đất nước,
lời hịch cứu quốc, thể hiện ý chí quyết tâm sắt đá bảo vệ nền độc lập, thống nhất
quốc gia; sự tiếp nối một cách logic bản Tuyên ngôn độc lập do chính Người đọc tại
Quảng trường Ba Đình ngày 2-9-1945: “Nước Việt Nam quyền ởng tự do độc
lập, và sự thực đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem
tất cả tinh thần và lực ợng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
lOMoARcPSD| 61601299
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (ảnh: Bảo ng Hồ Chí Minh)
Đáp Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân, toàn quân ta nhất tề đứng
lên kháng chiến với ý chí “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, độc lập tự do thiêng liêng
của Tổ quốc. Tại Hà Nội, hơn 20h ngày 19-12-1946, sau tín hiệu tắt điện toàn thành phố,
cuộc chiến đấu bắt đầu. Bộ đội chủ lực và tự vệ thành đồng loạt tiến công các mục tiêu
trong trung tâm thành phố; nhân dân đã xếp bàn ghế, sập gụ, hòm xiểng, cánh cửa... ra
đường phố, hình thành những chướng ngại để cản địch; công nhân hỏa xa, công nhân
xe điện đẩy các toa tàu ra giữa đường phố, tự vệ ngả cây, hạ cột đèn chắn các ngã tư, ngã
năm... người lao động, trí thức, học sinh, tiểu thương, nhà sản, nhà sư... vừa phục vụ
chiến đấu dưới các hình thức cứu thương, tiếp tế, thông tin liên lạc, vừa động viên bộ
đội và tự vệ chiến đấu. Nhiều thanh niên nam, nữ tình nguyện nhập ngũ ngay từ những
ngày đầu kháng chiến của Thủ đô. Nhân dân nội thành tản ra các cửa ô đã sốt sắng
cùng nhân dân ngoại thành đào hàng chục ki lô mét hào giao thông, hàng trăm hố chiến
đấu và phòng tránh, phá đường sá, cầu cống, nhà cửa. Nhiều địa phương như Thanh Trì,
Thanh Oai tổ chức thêm tự vệ, sẵn sàng vào nội thành chiến đấu. Nhiều tỉnh như Sơn
Tây, Đông, Phúc Yên, Thái Nguyên... chủ động đưa lực lượng về tăng viện cho Hà
Nội khi chiến sự lan rộng...
Sau hai tháng chiến đấu trong lòng Thủ đô, được sự chi viện tiếp tế của quân
dân ngoại thành, lực lượng trang Nội đã hoàn thành nhiệm vụ tiêu hao kìm
chân quân địch trong thành phố ợt xa thời gian dự kiến của lãnh đạo. Thắng lợi của
lOMoARcPSD| 61601299
60 ngày đêm chiến đấu ở Hà Nội không chỉ là thắng lợi của tinh thần quyết chiến, quyết
thắng của lực lượng vũ trang Thủ đô, của những người tình nguyện ở lại “sống chết với
Thủ đô”, còn thắng lợi của ý chí, trí tuệ người dân Thăng Long, Nội, đại diện
cho quyết tâm, trí tucủa cả dân tộc. Phối hợp với Thủ đô Nội, quân dân các đô
thị Bắc tuyến 16 cũng giành được thắng lợi quan trọng. Quân và dân Nam Bộ, Nam
Trung Bộ Tây Nguyên tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh du kích, đánh phá kế hoạch bình
định, kiềm chế không cho địch đưa lực lượng chi viện cho Trung Bộ và Bắc Bộ.
1.3 Kết quả
Quân dân các đô thị ở Bắc vĩ tuyến 16 kiên cường chiến đấu, gây nhiều khó khăn
cho địch, vây hãm địch trong thành phố Nan Đinh từ tháng 12 năm 1946 đến tháng 3
năm 1947, buộc địch ở Vinh phải đầu hàng.
Cuộc chiến làm tiêu hao một bộ phận sinh lực địch, giam chân chúng trong thành
phố, làm thất bại một bước kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” của chúng, tạo điều kiện
cho cả nước đi vào cuộc kháng chiến trường kỳ.
2. Chiến thắng Việt Bắc Thu Đông năm 1947
2.1 Hoàn cảnh
Việt Bắc nơi địa thế hiểm trở, hạn chế cả về động tầm quan sát, khả
năng triển khai lực lượng lớn và phương tiện chiến đấu hiện đại, khi tiến công tiến hành
tác chiến lớn phải “theo mùa”. Nên từ tháng 8 năm 1945, Trung ương Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã giao cho Phạm Văn Đồng Nguyễn Lương Bằng ở lại Tân Trào một
thời gian, trực tiếp chỉ đạo củng cố khi căn cứ của Trung ương.
Cuối tháng 10 năm 1946, thực hiện chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nguyễn
Lương Bằng từ Hà Nội trở lại Việt Bắc chuẩn bị căn cứ địa kháng chiến. Các huyện
Chợ Đồn (Bắc Kạn), Chiêm Hóa, Sơn Dương (Tuyên Quang), Định Hóa, Định Từ (Thái
Nguyên) được chọn làm an toàn khu. Bắt đầu từ tháng 11 năm 1946, để bảo toàn lực
lượng, các quan Trung ương Đảng, Chính phủ, Mặt trận, Bộ Tổng chỉ huy lần ợt
rời Hà Nội lên Việt Bắc để lãnh đạo, tổ chức kháng chiến lâu dài. Các bình công xưởng,
lOMoARcPSD| 61601299
xí nghiệp, nhà máy, gần 63 nghìn nhân dân miền xuôi và hàng vạn tấn máy móc, nguyên
vật liệu được vận chuyển, sơ tán lên Việt Bắc để vừa sản xuất vừa tiếp tục chiến đấu.
Pháp quyết định thực hiện giải pháp quân sự, cho phép Valluy mở cuộc tấn công
chiến lược lên Việt Bắc vào Thu Đông năm 1947 sau khi giải pháp thành lập một chính
phủ bù nhìn tay sai gặp nhiều bế tắc.
Thực dân Pháp áp dụng truy lùng Việt Minh đến tận sào huyệt để loại trừ bộ đội
chủ lực của Việt Minh ra khỏi vòng chiến đấu, phá tan quan đầu não kháng chiến,
triệt tiêu mọi tiềm lực kháng chiến của Việt Minh. Bên cạnh đó, thực dân Pháp còn khóa
chặt biên giới Việt Trung, ngăn chặn mọi mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam
cách mạng Trng Quốc. Cuộc tiến công với mục tiêu tạo ra một chiến thắng quân sự quyết
định để làm đà cho việc thiết lập một chính phủ nhìn tay sai, nhằm nhanh chóng kết
thúc chiến tranh và đặt lại ách thống trị trên toàn cõi Việt Nam.
Ngày 7 tháng 10 năm 1947, thực dân Pháp bắt đầu cuộc tiến công chiến lược lên
vùng Việt Bắc với lực lượng bao gồm 12000 binh Âu Phi, bao gồm 5 trung đoàn,
bao gồm 5 trung đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn dù, 2 tiểu đoàn pháo binh, 2 tiểu đoàn công
binh, 40 máy bay, 40 tàu chiến, ca nô, 800 xe giớiphần lớn lực lượng thủy quân,
giới phối hợp. Về phía Việt Minh, lực lượng quân đội trên toàn nước gồm 105.990
người (Bắc Bộ có 45.802 người), biên chế thành 20 trung đoàn,2 trung đoàn 147 và
165 của Bộ và nhiều tiểu đoàn độc lập của khu và của Bộ. Trang bị của nhiều đơn vị còn
nhiều thiếu thốn và không thống nhất, hơn một nửa quân số phải dùng vũ khí thô sơ như
súng kíp tự chế và cả gươm giáo, cung tên…
Phạm vi diễn ra: trải dài trên diện rộng 12 tỉnh gồm 7 tỉnh vùng Việt Bắc và 5 tỉnh
vùng trung du.
Kế hoạch tấn công dự kiến chia làm hai bước:
Bước 1: mang mật danh Léa (Lê-a), mục tiêu đánh chiếm khu tam giác Bắc
Kạn – Chợ Đồn – Chợ Mới.
lOMoARcPSD| 61601299
Bước 2: mang mật danh Ceinture (Xanh - tuy), tức siết chặt vành đai, quân
Pháp sẽ tập trung lực lượng càn quét khu tam giác Bắc Kạn ChChu Chợ Mới, lấy
vùng Chợ Chu làm mục tiêu trọng điểm.
2.2 Diễn biến
Chiến dịch bắt đầu từ ngày 7 tháng 10 năm 1947 với 800 lính đổ bộ xuống Bắc
Kạn dưới quyền chỉ huy của đại Henri Sauvaganc chiếm đóng các ng sở, nhà thương,
kho bạc, nhà máy đèn,
Ngày 7 tháng 10 năm 1947, Raoul Salan muốn cuộc hành binh hôm đó một đòn
quyết định đánh thẳng vào tim kẻ thù, ông ta ngồi trên máy bay trực tiếp thị sát cuộc
nhảy dù xuống thị xã Bắc Kạn. Ngày 8 tháng 10 năm 1947, 200 lính dù Pháp khác đổ bộ
xuosng chiếm Chợ Đồn, cùng lúc đó các lực lượng khác theo hai đường thủy bộ, đạo
thủy quân dưới quyền chỉ huy của Pierre còn đạo bộ binh có khoảng 8000 quân do Đại
tá Andre Beaufre chỉ huy. Từ ngày 8 tháng 10, các đại đội độc lập cùng quân du kích
Việt Minh lên tiếp tập kích, quấy rối các vị trí như Chợ Đồn, Ngân Sơn, Chợ Rã, diệt hai
trung đội Pháp.
Ngày 9 tháng 10 năm 1947, máy bay vận tải chở sĩ quan tham mưu chiến dịch
Pháp bị bắn rơi, ptham mưu trưởng quân Pháp Bắc Đông ơng thiệt mạng. Việt
Minh thu được bản kế hoạch tiến công Việt Bắc. Ngày 13 tháng 10 năm 1947, Bổ Tổng
chỉ huy khẩn trương tổ chức lại lực lượng đánh Pháp. Trên khắp các mặt trận, quân Việt
Minh ngăn chặn đẩy lùi bước tiến của quân Pháp, đặc biệt thủy binh. Ngày 20 tháng
11, Pháp mở ra đợt tấn công thứ hai Xanh tuy. Chúng càn quét những nơi trú ẩn của
Chính phủ Việt Nam, bắt giữ hơn 1000 người Việt giải thoát nhiều con tin người Pháp.
một giai thoại nói rằng: “Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp nấp sau một bụi cây khi
quân Pháp đi tới, Giáp tưởng sẽ bị bắt, nhưng ròi quân Pháp đi qua không trông thấy nên
hai người thoát được”. Qua cơn bất ngờ, chúng ta tổ chức các ổ phục kích và đánh phản
công, nhiều chiến trường khác cũng phối hợp với chiến trường Việt Bắc. Chúng ta giành
được rất nhiều chiến thắng vang dội, tiêu biểu trận đánh tại đèo giàng (15/12), phá hủy
17 xe, diệt 60 tên địch trong đó có 2 trung úy, thu 2 triệu bạc Đông Dương và nhiều vũ
khí, quân trang, quân dụng. Quân Pháp bị tấn công ở khắp nơi: trên không, đường thủy,
lOMoARcPSD| 61601299
đường bộ, không đâu là an toàn đối với chúng. Carbonnet phải thừa nhận: “Mặc nói
ra thì ngại ngùng nhưng ta phải thừa nhận rằng: suốt cả 12 tháng địch đã giữ quyền chủ
động, họ luôn luoon tấn công ta trên đường giao thông cũng như ở các cứ điểm... Chúng
ta bị thua thiệt rất đau đớn...” Viên Đội Bi-cát viết thư về cho gia đình rằng: “Ngày tháng
càng kéo dài, bộ đội ta càng nhiều người chết... Mong rằng giấc mộng kinh tởm này sẽ
chấm dứt mau.” Còn tiểu đội trưởng Pau-rô tviết: “Cuộc chiến tranh phi nghĩa y
bao giờ sẽ chấm dứt, để chúng ta được sống một đời hòa bình trong gia đình ấm áp của
chúng ta”.
2.3 Kết quả
Toàn hể chiến dịch, Việt Minh tuyên bố đã loại khỏi vòng chiến đấu trên 6000
lính Pháp và lính Việt phục vụ Pháp, bắt giữ hơn 270 lính. 18 máy bay bị bắn hạ, 16 tàu
chiến, 38 ca nô bị đánh chìm, 255 xe các loại bị phá hủy. Việt Minh thu 2 pháo 105 mm,
7 pháp 75 mm, 16 khẩu pháo 20 mm, 337 súng các cỡ, 45 Bazooka, 1600 súng trường
hàng chục tấn quân trang, quân dụng. Quân đội Việt Minh hy sinh 260 người, b
thương 168 người,... nhưng đã hoàn thành nhiệm vụ đề ra, là phá tan cuộc tấn công mùa
đông của Pháp, bảo vệ được cơ quan đầu não chỉ huy kháng chiến, bảo toàn và nâng cao
sức chiến đấu của bộ đội chủ lực, bảo vệ căn cứ địa Việt Bắc.
Sau thất bại này, người Pháp không thể tiêu diệt được đầu não kháng chiến của
Việt Minh để kết thúc sớm cuộc chiến Đông Dương. Các đơn vị tinh nhucủa Việt
Minh vẫn được giữ vững. Họ phải chuyển từ chính sách đánh nhanh thắng nhanh sang
đánh lâu dài với chiến lược Da vàng hóa chiến tranh – thành lập một chính phủ bù nhìn
để “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”. Trong khi một
só lượng lớn trang bị của Pháp.
Qua chiến dịch y, các quan đầu não kháng chiến đã dạn y thêm kinh
nghiệm nhân dân đã thấy hơn m xâm lược của Pháp, do đó càng quyết tâm
gắn bó với Đảng và Nhà nước, tạo nên khối đại đoàn kết vững chắc, sẵn sàng chiến đấu
bảo vệ Tquốc. Có thể nói, Pháp đã không đạt được bất mục tiêu bản nào trong
âm mưu tấn công lên Việt Bắc.
lOMoARcPSD| 61601299
Chiến dịch Việt Bắc được xem là thắng lợi lớn đầu tiên của Việt Minh trong cuộc
chiến, đánh đổ kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” của Pháp, buộc Pháp phải rơi vào
thế bị động, kéo căng lực lượng do Việt Minh đã giăng sẵn. Chiến thắng này cũng khẳng
định sức mạnh vật chất và tham vọng quân sự của thực dân Pháp không thể chiến thắng
được bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam.
3. Chiến dịch Biên giới Thu đông năm 1950
3.1 Hoàn cảnh
3.1.1 Thuận lợi
Ngày 1 tháng 10 m 1948, cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa ra đời. Đầu năm 1950, Trung Quốc, Liên Xô, các nước xã hội chủ
nghĩa khác lần ợt công nhận đặt quan hệ ngoại giao với ớc Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, viện trợ vật chất cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam.
3.1.2 Khó khăn
Mỹ can thiệp sâu hơn vào Đông Dương. Vào tháng 5 năm 1949, Pháp đề ra kế
hoạch Rơve, tăng cường hệ thống phòng thủ trên đường số 4, lập hành lang Đông – Tây:
Hải Phòng – Hòa Bình – Sơn La, chuẩn bị tiến công Việt Bắc lần thứ hai.
3.2 Diễn biến
Đầu năm 1950, tình hình thế giới trong nước nhiều chuyển biến lợi cho
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc Việt Nam. Lần lượt Trung Quốc
Liên các nước dân chủ Nhân dân công nhận nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa.
Cục diện trên chiến trường giữa ta địch chuyển sang thế cầm cự, giằng co. Đặc biệt
sau chuyến công tác bí mật ra nước ngoài của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào đầu năm 1950,
Trung Quốc, Liên đã thỏa thuận với Chủ tịch Hồ Chí Minh một số giải pháp hỗ trợ
cho cuộc kháng chiến của nước ta. Trước những điều kiện thuận lợi và sự hỗ trợ của các
nước Dân chủ nhân dân nhằm nhanh chóng kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp. Tháng 6 năm 1950, Thường vụ Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết
định mở chiến dịch Biên giới lấy tên là chiến dịch Lê Hồng Phong II.
lOMoARcPSD| 61601299
Chiến dịch được mở ra với mục đích “Tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch,
giải phóng vùng biên giới phía bắc nước ta, thu hẹp phạm vi chiếm đóng của địch, mở
rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc, tiến tới giành quyền chủ động trên chiến trường
chính”.
Ngày 12/8/1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị cho các cấp Đảng
bộ lãnh đạo quân dân địa phương đánh địch mạnh để tiêu hao lực lượng địch, kiềm chế
địch, phối hợp với “một chiến dịch lớn” do Trung ương Bộ Tổng lệnh trực tiếp chỉ
đạo; do Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lệnh phát động, đồng thời phát động trong toàn quốc
tuần lễ “thi đua giết giặc lập công”. Trong bức thư gửi các chiến biên giới Bác đã
nhắc nhở "Trong cuộc chiến đấu này ta chỉ được đánh thắng, không cho đánh bại".
Đến cuối tháng 8/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra mặt trận cùng Bộ Chỉ huy Chiến
dịch trực tiếp chỉ đạo chiến dịch. Người kiểm tra kế hoạch tác chiến, xem xét công tác
chuẩn bị hậu phương, theo dõi kịp thời diễn biến của chiến dịch, góp những ý kiến chỉ
đạo và động viên cán bộ, bộ đội, dân công.
Năm 1947, khi ta quyết định mở chiến dịch Việt Bắc trong Thư gửi đồng bào các
tỉnh Việt Bắc, Hồ Chí Minh xúc động ghi nhớ tấm lòng, nghĩa cử cao đẹp của đồng bào
dân tộc giúp đỡ cán blàm cách mạng: “Tôi không bao giờ quên được, trong những
ngày gian nan cực khổ đó, đồng bào trong tỉnh ta, các cụ già, các chị em phụ nữ, anh em
nông dân, các em thanh niên, các cháu nhi đồng ai cũng hăng hái giúp đỡ… Đồng bào
Thổ, đồng bào Nùng, đồng bào Mán, đồng bào Mèo, cho đến anh em Hoa kiều, người
thì giúp chúng tôi ăn, kẻ thì cho chúng tôi áo. Có những đồng bào nhịn ăn nhịn mặc, bán
trâu bán ruộng để giúp chúng tôi làm cách mệnh”. Với tầm nhìn xa trông rộng của mình,
Bác đã thấy được trước trong chiến dịch Biên giới này công tác hậu cần phải dựa vào
sức dân ba tỉnh Cao Bằng - Bắc Kạn - Lạng Sơn. Do quy của Chiến dịch tương đối
lớn, có nhiều lực lượng tham gia, trên địa bàn rộng, rừng núi hiểm trở, lại xa căn cứ hậu
cần của ta, nên việc chuẩn bị, bảo đảm cho Chiến dịch rất khó khăn. Thấy trước được
điều đó, trong Hội nghị Quốc phòng (ngày 2/9/1950), Bác Hồ đã đề nghị Chính phủ tập
trung chỉ đạo tiếp tế cho Chiến dịch Biên giới chỉ thị cho các lực lượng tham gia
Chiến dịch: Chiến dịch Cao - Bắc - Lạng rất quan trọng. Chúng ta quyết đánh thắng
lOMoARcPSD| 61601299
trận này”. Ngày 9/9/1950, Người ra Lời kêu gọi đồng bào ba tỉnh Cao - Bắc - Lạng:
Hỡi đồng bào yêu quý, quân ta đã mở chiến dịch trên mặt trận Cao - Bắc - Lạng chiến
dịch này rất quan trọng cho Cao - Bắc - Lạng và cả toàn quốc. Đồng bào ta đã chuẩn bị
rất nhiều trong việc chuẩn bị chiến dịch như: Góp quân ơng, sửa đường sá, vận tải,
chuyên chở giúp đỡ bộ đội. Tôi trân trọng thay mặt chính phủ, và quân đội cảm tạ đồng
bào. Tôi kêu gọi toàn thể đồng bào ba tỉnh, c ủy ban kháng chiến hành chính, các
đoàn thể nhân dân cố gắng thêm nữa, tiếp tục giúp đỡ cho bộ đội ta trước mặt trận đ
quân ta giết nhiều địch, đánh thắng to. Đồng bào hãy tiến lên làm gương kiểu mẫu cho
nhân dân toàn quốc, giúp cho Chiến dịch được thắng lợi".
Ban đầu, ý định tác chiến của Bộ chỉ huy Chiến dịch là đánh Cao Bằng trước, sau
đó chuyển xuống đánh Đông Khê, Thất Khê. Nhưng sau khi phân tích tình hình, Trung
ương Đảng Bác quyết định đánh Đông Khê để mở n Chiến dịch. Phân tích chủ
trương đánh Đông Khê, Người chỉ rõ: "Ta đánh vào Đông Khê đánh vào nơi quân địch
tương đối yếu, nhưng lại vị trí rất quan trọng của địch trên tuyến Cao Bằng - Lạng
Sơn. Mất Đông Khê, địch buộc phải cho quân đi ứng cứu, ta có cơ hội thuận lợi tiêu diệt
chúng trong vận động". Theo kế hoạch tác chiến ban đầu, ta định tập trung lực lượng
tiêu diệt địch ở Cao Bằng, đồng thời đánh địch lên ứng cứu, chi viện. Nhưng sau đó cân
nhắc lại, Bộ Chỉ huy chiến dịch chủ trương đánh Đông Khê trước, mở màn cho chiến
dịch, vừa bảo đảm chắc thắng, vừa tạo điều kiện cho chiến dịch phát triển thuận lợi. Chủ
trương này được Chủ tịch Hồ Chí Minh phê chuẩn. Sự thay đổi này đã cho thấy tầm nhìn
chiến lược vô cùng tinh tế của Bác và là một yếu tố rất quan trọng làm nên thắng lợi của
Chiến dịch Biên giới thu đông năm 1950. Trước ngày lên đường đi chiến dịch Người
đã từng căn dặn đoàn công tác đi lên Cao Bằng "Chúng ta sẽ đi một chuyến công tác dài
ngày, thời gian không thể định trước nhưng mất chừng 1 tháng, chuyến đi này rất quan
trọng. Đường đi vất vả, vậy các chú đều phải cố gắng làm tròn nhiệm vụ của mình,
tuyệt đối giữ mật, nếu để lộ ra sẽ làm tổn hại đến việc lớn. Muốn vậy từ việc chọn
đường đi đến nơi ăn chốn ở giao tiếp với nhân dân phải biết cách giữ mình". Lời căn dặn
này đã thể hiện được tầm nhìn của Bác về thời gian của chiến dịch lần này, phải dựa
trên đường lối kháng chiến Đảng Bác Hồ đã lựa chọn từ ban đầu “toàn dân,
toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình chính”. Ngay từ đầu cuộc kháng chiến
lOMoARcPSD| 61601299
tưởng của Người coi đây là cuộc chiến tranh nhân dân, và phải phát huy tối đa sức mạnh
toàn dân tộc, có lực lượng toàn dân tham gia mới thực hiện được kháng chiến toàn diện
tự lực cánh sinh. Mặc dù rất coi trọng sự giúp đỡ từ bên ngoài nhưng vận mệnh của
dân tộc ta phải do nhân dân ta quyết định phải dựa vào sức mạnh của ta, sự giúp đỡ
của bên ngoài chỉ điều kiện hỗ trợ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng đúng đắn bài
học mà chính mình rút ra khi Bản yêu sách 8 điểm của nhân dân An Nam của Bác không
được đón nhận vào năm 1919.
Cuối tháng 8, đầu tháng 9 năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường đi Chiến
dịch Biên giới, trực tiếp chỉ đạo chiến dịch. Trên đường đi, ghé thăm một đơn vị thanh
niên xung phong làm đường phục vụ chiến dịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tặng thanh
niên bốn câu thơ:
“Không có việc gì khó. Chỉ sợ lòng không bền. Đào núi và lấp biển. Quyết chí ắt
làm nên”. Những câu thơ của Bác đã thắp lên niềm tin của đồng bào vào sức mạnh của
con người khi đối diện với khó khăn nghịch cảnh. Qua 4 câu thơ trên, Bác đã khẳng
định chỉ cần niềm tin vào bản thân vào đường lối của Đảng, ý chí quyết m
lòng kiên trì, ắt dân tộc ta sẽ giành được thắng lợi. Ngày 13/9, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời
Sở Chỉ huy chiến dịch để đến Mặt trận Đông Khê, trực tiếp theo dõi bộ đội đánh trận mở
màn chiến dịch. Người chỉ thị cho bộ đội: "Dù khó khăn đến đâu cũng kiên quyết khắc
phục đánh cho kỳ thắng trận đầu".
Đúng 6h sáng ngày 16/9/1950, quân ta bất ngờ nổ súng tấn công cụm cứ điểm
Đông Khê. Sau 3 ngày chiến đấu ác liệt, quân ta đã tiêu diệt làm chủ hoàn toàn cụm
cứ điểm Đông Khê. Sau khi tiêu diệt cứ điểm Đông Khê, Chủ tịch Hồ Chí Minh Bộ
chỉ huy chiến dịch Biên giới nhận định: Địch thể tái chiếm Đông Khê đánh lên đón
binh đoàn Sác Tông (CharTon) rút từ Cao Bằng. Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định thực
hiện phương án “nhử thú giữ vào tròng để khép vòng lưới thép”. Tiếp đó ta cho quân
tiêu diệt gọn quân địch rút chạy từ Cao Bằng, thị Cao Bằng được giải phóng vào ngày
3/10/1950. Ngày 8/10/1950, quân ta tiếp tục tiêu diệt hai binh đoàn ứng cứu của Pháp.
Trong những ngày truy kích địch, Bác Hồ trực tiếp theo dõi diễn biến và chỉ đạo trận mở
lOMoARcPSD| 61601299
màn Chiến dịch tiêu diệt cụm cứ điểm Đông Khê tại đài quan sát Chiến dịch, liên tục
gửi nhiều thư, điện động viên bộ đội.
Như được tiếp thêm sức mạnh, bộ đội ta đồng loạt xông lên tiêu diệt địch. Sau 29
ngày chiến đấu liên tục vùng biên giới (từ 16/9/1950 - 14/10/1950), ta đã tiêu diệt
bắt sống được 8.296 tên địch, tiêu diệt 10 tiểu đoàn địch, bằng 41% lực lượng cơ động
chiến lược Pháp trên toàn cõi Đông Dương, thu trên 3.000 tấn khí phương tiện
chiến tranh, giải phóng hoàn toàn khu vực biên giới từ Cao Bằng đến Đình Lập (Lạng
Sơn). Chiến dịch kết thúc với chiến thắng vang dội thuộc về quân ta.
3.3 Kết quả
Loại khỏi vòng chiến đấu hơn 8.000 quân địch. Giải phóng đường biên giới từ
Cao Bằng đến Đình Lập với 35 vạn dân, chọc thủng hành lang Đông – Tây. Thế bao vây
của địch đối với căn cứ Việt Bắc bị phá vỡ, kế hoạch Rơve bị phá sản.
Đây là chiến dịch tiến công lớn đầu tiên của bộ đội chủ lực Việt Nam trong cuộc
kháng chiến, mở đường liên lạc quốc tế, làm cho cuộc kháng chiến thoát khỏi tình thế bị
bao vây lập. Cuộc chiến đã mở rộng củng cố căn cứ địa Việt Bắc, độ đội thêm
trưởng thành tích lũy được nhiều kinh nghiệm, giành được thế chđộng trên chiến
trường chính Bắc Bộ, mở ra bước phát triển mới của cuộc kháng chiến.
4. Chiến dịch Tây Bắc (1952)
4.1 Hoàn cảnh
Với đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện lâu dài”, từ năm 1946 đến năm
1952, quân dân ta đã dần giành thế chủ động trên khắp các chiến trường còn quân Pháp
bị đẩy vào thế phòng ngự bị động sa lầy Đông Dương. Trong khi đó, tình hình chính
trị, xã hội tại nước Pháp ngày càng rối ren, phức tạp. Vphía ta, những ưu thế ngày càng
phát huy mạnh mẽ. Thắng lợi của Đại hội Đảng lần thứ II, tiếp đến thắng lợi của chiến
dịch Hòa Bình (từ ngày 10/12/1951 đến 25/2/1952), đã đem lại cho toàn quân, toàn dân
ta một niềm cổ vũ mới. Trong bối cảnh lịch sử đó, bước vào mùa khô năm 1952, Trung
ương Đảng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định chuyển hướng tiến công chủ yếu của
lOMoARcPSD| 61601299
bộ đội chủ lực lên Tây Bắc, nhằm thúc đẩy cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp phát
triển lên một bước mới mang tính quyết định. Tây Bắc là địa bàn chiến lược quan trọng
của miền Bắc Việt Nam nói riêng, của Bắc Đông Dương i chung. Tiến công làm chủ
được Tây Bắc, ta không những bảo vệ vững chắc khu đầu não kháng chiến Việt Bắc, tạo
thành thế liên hoàn nối liền một dải với hậu phương kháng chiến rộng lớn, còn
điều kiện thuận lợi mở rộng giao lưu quốc tế, đặc biệt là tăng cường thêm tình đoàn kết
chiến đấu Việt - Lào cùng chống kẻ thù chung. Tại đây, quân Pháp dàn trải về lực lượng
nên không mạnh và bộc lộ nhiều sơ hở.
4.2 Diễn biến
Tháng 4/1952, Bộ Chính trị hạ quyết tâm giải phóng Tây Bắc, mọi công tác chuẩn
bị cho chiến dịch được xúc tiến khẩn trương, trước hết là chuẩn bị đường sá, lực lượng,
lương thực, thực phẩm. Tháng 6/1952, để chuẩn bị chiến dịch Tây Bắc, Liên khu ủy Việt
Bắc (lúc này Tây Bắc vẫn thuộc Việt Bắc) ra nghị quyết vphát triển du kích chiến tranh
tại Tây Bắc. Cuối tháng 8, Chủ tịch Hồ Chí Minh nghe Đại tướng Nguyên Giáp trình
bày kế hoạch tác chiến chiến dịch Tây Bắc. Nghe xong phương án tác chiến, Người căn
dặn: Đây lần đầu tiên ta mở chiến dịch lớn, địa hình hiểm trở, cần nắm chắc địa hình
chú trọng thực hiện đúng chính sách dân tộc, giúp đỡ đồng bào n tộc, bộ đội phải
giữ kỷ luật dân vận. Lời căn dặn của Bác thể hiện sự tinh tế, nhạy bén đối với bối cảnh
cuộc chiến, đồng thời squan tâm, tình cảm sâu sắc của Bác đối với đồng bào n tộc.
Nói chuyện với Hội nghị cán bộ chuẩn bị cho Chiến dịch y Bắc, Người chỉ mục
đích, ý nghĩa của chiến dịch tiêu diệt sinh lực địch là chính, tranh thủ nhân dân, giải
phóng đất đai, trong đó nhiệm vụ chínhtiêu diệt sinh lực. Trung ương Đảng và Tổng
Quân ủy đã cân nhắc kchỗ dễ chỗ khó của chiến trường sắp đến, quyết tâm
chiến dịch này phải đánh cho thắng lợi. Bác phân tích một cách sâu sắc rằng: “Quyết
tâm của Trung ương chưa đủ, còn phải để cho các chú cân nhắc kỹ thấy rõ cái dễ và cái
khó để truyền cái quyết tâm đó cho các chú. Trung ương các chú quyết tâm cũng chưa
đủ, phải làm cho quyết tâm đó xuống đến mọi người chiến sỹ... Quyết tâm đó phải
thành một khối thống nhất từ trên xuống dưới và từ dưới lên trên”. Phân tích trên đã thể
hiện quan điểm lãnh đạo đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cùng ngày 09/9/1952,
lOMoARcPSD| 61601299
Chủ tịch Hồ CMinh công b8 điều mệnh lệnh của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa cho cán bộ, chiến sĩ và đồng bào Tây Bắc, trong đó nói rõ: Thực dân Pháp vua
quan Việt Nam đã áp bức, bóc lột đồng bào miền núi thậm tệ. Nay Chính phta phái
quân đội đến tiêu diệt giặc Pháp và bè nhìn phản quốc để giải phóng đồng bào khỏi
ách nô lệ.. ."
Căn cứ vào thế và lực giữa địch, ta trên chiến trường, ngày 28/9/1952, Ban
Chấp hành Trung ương ra chỉ thị mChiến dịch Tây Bắc: chủ trương của Trung ương
Đảng là “Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, tìm nơi sơ hở của địch mà đánh và hướng tiến
công Chiến dịch Tây Bắc. Mục đích của chiến dịch là: Tiêu diệt sinh lực địch, tranh
thủ nhân dân. giải phóng một bộ phận đất đaitính chất quan trọng về chiến lược. Để
thực hiện mục đích của chiến dịch, Trung ương quyết định tập trung binh lực, tập trung
cán bộ và phương tiện, tập trung nhân lực và vật lực, giành cho toàn thắng”. Lực lượng
của quân đội ta tham gia chiến dịch gồm có: Các Đại đoàn 308, 312, 316, 351 và Trung
đoàn 148. Đại đoàn 320 và 304 hoạt động ở vùng sau lưng thuộc Liên khu 3. Bộ Chính
trị cử đồng chí Nguyên Giáp làm lệnh chiến dịch, đồng chí Hoàng Văn Thái
tham mưu trưởng, đồng chí Nguyễn Chí Thanh làm Chủ nhiệm Chính trị đồng chí
Trần Đăng Ninh làm Chủ nhiệm Cung cấp.
Sau gần 2 tháng mở chiến dịch với 3 đợt chiến đấu quyết liệt (từ ngày 14/10 đến
ngày 10/12/1952), quân ta đã tiêu diệt loại khỏi vòng chiến đấu 6.029 tên địch, diệt
gọn 4 tiểu đoàn 28 đại đội, đánh thiệt hại nhiều tiểu đoàn tinh nhuệ, phá hủy tịch
thu toàn bộ vũ khí, đồ dùng quân sự, các kho lương thực thực phẩm của địch; giải
phóng khoảng 28.500 km2 đất đai ở vùng chiến lược vô cùng quan trọng 25 vạn đồng
bào Tây Bắc khỏi ách áp bức của Pháp. Chiến thắng Tây Bắc còn m phá sản âm mưu
thâm độc lập “xứ Thái tự trị” của Pháp hòng chia rẽ người Thái với người Kinh cũng
như người Thái với đồng bào các dân tộc thiểu số khác để dễ bề cai trị ở khu vực này.
Chủ trương của Chtịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đưa bộ đội chủ lực
lên tác chiến ở chiến trường Tây Bắc là hoàn toàn chính xác. Có hướng tiến công chiến
lược đúng đắn mới chiến dịch thắng lợi. Ngày 29/01/1953, tại Hội nghị tổng kết Chiến
dịch Tây Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng, Chính phủ biểu dương

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61601299
“VIỆT NAM CHIẾN ĐẤU CHIẾN THẮNG 1946-1954” VAI TRÒ CỦA
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TRONG QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN
TA GIÀNH THẮNG LỢI TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC
DÂN PHÁP CỨU NƯỚC(1946-1954) A. MỞ ĐẦU B. NỘI DUNG
Chương 1. sở luận
1. Bối cảnh đất nước trước trong giai đoạn 1946-1954
Cuộc tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 là tiền đề để Nhà nước dân chủ đầu
tiên ở Đông Nam Á được thành lập – Việt Nam. Nhưng ngay sau đó nước ta đã vừa phải
bước vào cuộc đấu tranh quyết liệt vừa phải đối phó với tình hình cực kì phức tạp, vô
vàn khó khăn: nền kinh tế kiệt quệ, nạn đói tàn ác đã cướp đi hai triệu sinh mạng, ngân
khố chỉ còn một triệu đồng, trình đồ văn hóa của nhân dân rất yếu kém. Tình hình thù
trong giặc ngoài rối ren: miền Bắc, hai mươi vạn quân Tưởng dưới danh nghĩa Đồng
minh vào tước vũ khí quân đội Nhật nhưng thực chất là muốn tiêu diệt Đảng Cộng sản
và đánh phá Việt Minh, lật đổ chính quyền nhân dân, lập chính phủ phản động làm tay
sai cho Mỹ - Tưởng; Còn ở miền Nam, thực dân Pháp núp sau sau bóng quân Anh quay
trở lại đánh chiếm nước ta một lần nữa, bọn phản động tay sai cũng nổi lên khắp nơi, tìm
mọi cách cản trở cuộc chiến quốc của nhân dân ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận lấy trách nhiệm nặng nề trước nhân dân, Người
cùng tập thể Trung ương Đảng bình tĩnh sáng suốt phân tích tình hình, kịp thời đưa ra
đường lối đúng đắn và những biện pháp hành động khôn khéo để giải quyết từng bước
khó khăn về đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội và các vấn đề khác. Tại phiên họp đầu tiên
của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nêu sâu về vấn đề cấp bách để cứu dân tộc ngay lúc này là giải quyết nạn đói; giải quyết
nạn dốt; tổ chức sớm cuộc Tổng tuyển cử; xóa bỏ hủ tục, xây dựng đời sống văn hóa
mới, đạo đức mới, đạo đức cách mạng; xóa bỏ thuế bóc lột vô nhân đạo; thực hiện tín
ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết. lOMoAR cPSD| 61601299
Bản hiệp ước Trùng Khánh (hiệp ước Hoa – Pháp) được kí giữa Chính phủ Pháp
và Chính phủ Trung Hoa dân quốc ngày 28 tháng 2 năm 1946 như một sự chà đạp lên
nền độc lập của Việt Nam và hợp pháp hóa sự xâm lược của thực dân Pháp. Bởi một
trong những nội dung của bản hiệp ước Trùng Khánh là dùng thỏa thuận để Pháp đưa
quân đội ra vĩ tuyến 16, đổi lại Pháp sẽ nhượng cho Tưởng nhiều quyền lợi quan trọng
ở Trung Quốc và Việt Nam. Bản hiệp ước này cũng gây ra nhiều mâu thuẫn, xung đột
kịch liệt về quyền lợi giữa các tập đoàn lợi ích của quân đội Tưởng ở Việt Nam và quân
đội Pháp, đặt cách mạng, Chính phủ và Nhân dân Việt Nam đứng trước tình thế vô cùng
nguy hiểm, phải cùng lúc đói mặt trực tiếp với 2 kẻ thù xâm lược to lớn là Pháp và Tưởng
trong tình hình cách mạng vẫn còn rất non kém.
Trước sự thay đổi nhanh chóng, phức tạp của tình hình, Thương vụ Trung ương
Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhanh chóng nhận định, đánh giá âm mưu, ý đồ chính
trị của Pháp và Tưởng. Tới ngày 3 tháng 3 năm 1946, Đảng đã ra Chỉ thị tình hình và
chủ trương, chỉ ra âm mưu, ý đồ của Anh, Mỹ, Pháp và Trung Quốc và nêu vấn đề đánh
hay hòa với Pháp. Trên cơ sở đó khẳng định rằng ta cần biết mình, biết người, nhìn nhận
một cách khách quan những điều kiện có lợi hay bất lợi để chủ trương hành động cho
đúng. Chủ trương mới đã kịp thời được đề ra là tạm thời dàn hòa với Pháp, nhận nhương
với Pháp về lợi ích kinh tế và ngược lại Pháp phải thừa nhận quyền dân tộc tự quyết của
dân tộc ta, “lợi dụng thời gian hòa hoãn với Pháp để diệt bọn phản động bên trong, tay
sai Tàu trắng, trừ những hành động khiêu khích ly gián ta với Pháp”, thúc đẩy nhanh
quân Tưởng về nước và sẽ bớt đi một kẻ thù nguy hiểm. Phê phán quan điểm đánh Pháp
đến cùng, như thế là tự cô lập mình, tiêu hao thực lực nhưng hoặc hòa hoãn, đàm phán
với Pháp lại làm yếu đi tinh thần quyết chiến của dân tộc ta.
Ngày 6 tháng 3 năm 1946, Chủ tịch thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa đã kí với đại diện Chính phủ Cộng hòa Pháp – ông Jean Sainteny bản Hiệp định sơ
bộ. Hiệp định đã nêu rõ: Chính phủ Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do, có
Chính phủ, nghị viện, tài chính và quân đội riêng, nằm trong Liên bang Đông Dương
thuộc khối Liên hiệp Pháp; Còn về phía Việt Nam đã đồng ý để 15000 quân Pháp ra lOMoAR cPSD| 61601299
miền Bắc thay thế 20 vạn quan Tưởng và sẽ rủ dần trong thời hạn 5 năm, hai bên sẽ tiếp
tục đàm phán chính thức để giải quyết mối quan hệ Việt – Pháp.
Thông báo của Chính phủ Việt Nam về việc Hiệp định bộ 6-3-1946 (ảnh: Bảo tàng Hồ Chí Minh)
Ngày 20 tháng 10 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn Việt Nam về
Hải Phòng, Người đã viết một văn kiện rất quan trọng: Công việc khẩn cấp bây giờ, nêu
rõ thêm những nhiệm vụ cụ thể và cấp thiết phải làm về mặt quân sự, chính trị và khẳng
định vai trò lãnh đạo của Đảng, của Đảng viên, cán bộ “phải làm cho nhân dân ta có tín
tâm và quyết tâm” đối với công cuộc chiến đấu vảo vệ Tổ quốc lâu dài – điều mà Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiên liệu là không thể tránh khỏi.
Đảng và Bác Hồ đã chủ trương đưa nước ta từng bước chuyển sang tình trạng
chiến tranh và tích cực cây dựng các điều kiện cần thiết để phục vụ cho cuộc kháng chiến
này. Một mặt, Đảng ra sức lãnh đạo cuộc hiến đấu kìm hãm chân dịch ở Nam Bộ và
trong các thành phố, thị xã ở miền Bắc, mặt khác, thực hiện cuộc tỏng di chuyển các cơ
quan lãnh đạo của Đảng, Chính phủ, Quốc hội và các ban ngành, quân đội, công an và
các cơ quan lãnh đạo kháng chiến địa phương ra khỏi thành phố, thị xã; tổ chức, củng lOMoAR cPSD| 61601299
cố, xây dựng căn cứ địa, các chiến khu, các an toàn khu để bảo toàn lực lượng, chuẩn bị kháng chiến lâu dài.
Cuộc đấu tranh chống phản cách mạng, chống thù trong, giặc ngoài những năm
đầu, chính quyền cách mạng đã đem lại thắng lợi có ý nghĩa hết sức quan trọng như ngăn
chặn bước tiến của quân đội xâm lược Pháp ở Nam Bộ, vạch trần và làm thất bại mọi âm
mưu, hoạt động chống phá cách mạng Việt Năm của các kẻ thù, của phe đế quốc, mà
trực tiếp cũng là của thực dân Pháp và quân đội Trung Hoa Dân quốc và các thế lực tay
sai, củng cố, giữ gìn và bảo vệ an toàn hệ thống bộ máy chính quyền cách mạng từ Trung
ương đến cơ sở và những thành quả của cuộc cách mạng Tháng Tám, tạo thêm thời gian
hòa bình, hòa hoãn, tranh thủ tích cực chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Đó đều là nhờ vào những chủ trương, biện pháp, sách lược và đối sách đúng đắn của
Đảng, tinh thân quyết đoán, sáng tạo của Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
2. Nhìn chung về “Việt Nam chiến đấu chiến thắng 1946-1954”
2.1 Âm mưu hành động chiến tranh của Pháp
Mặc dù đã kí Hiệp định Sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946 nhưng đến ngày 14 tháng
9 năm 1946, thực dân Pháp vẫn đẩy mạng việc chuẩn bị chiến tranh xâm lược nước ta.
Ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân Pháp mở các cuộc tiến công còn ở Bắc Bộ, vào
hạ tuận tháng 11 năm 1946, thực dân Pháp tiên công ở Hải Phòng, Lạng Sơn, cho quân
đổ bộ lên Đà Nẵng, sau đó chiếm đóng Hải Phòng. Vào tháng 12 năm 1946, Pháp gây
hấn ở Hà Nội, chiếm trụ sở Bộ Tài chính gây ra vụ thảm sát ở phố Hàng Bún (khu phố
Yên Minh). Ngày 18 tháng 12 năm 1946, quân Pháp gửi tối hậu thư đòi giải tán lực
lượng tự vệ chiến đấu, để cho Pháp làm nhiệm vụ giữ gìn trật tự ở Hà Nội, nếu không
chúng sẽ giành toàn quyền hành động vào sáng ngày 20 tháng 12 năm 1946.
Trong tình huống khẩn cấp này, Đảng và Chính phủ phải có quyết định đúng đắn
và kịp thời. Ngày 18 tháng 12 năm 1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản
Đông Dương quyết định phát động cuộc kháng chiến toàn quốc. lOMoAR cPSD| 61601299
Ngày 19 tháng 12 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến”, phát động nhân dân cả nước kháng chiến chống Pháp, bảo vệ nền độc lập dân tộc.
2.2 Những cuộc đấu tranh giai đoạn 1946-1954
Việt Nam giai đoạn 1946-1954 trải qua một số cột mốc quan trọng sau:
2.2.1 Giai đoạn 1946-1950
Kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ do Pháp bội ước và tiến
công nước ta. Cuộc kháng chiến tại các đô thị và việc chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu
dài với thực dân Pháp. Chiến thắng Việt Bắc Thu – Đông năm 1947 và việc đẩy mạnh
kháng chiến toàn dân, toàn diện. Hoàn cảnh lịch sử mới và chiến dịch biên giới Thu – Đông năm 1950 diễn ra.
2.2.2 Giai đoạn 1951-1953
Thực dân Pháp đẩy mạnh chiến tranh xâm lược Đông Dương. Đại hội Đại biểu
lần thứ hai của Đảng diễn ra vào tháng 2 năm 1951. Hậu phương kháng chiến phát triển
mọi mặt, những chiến dịch tiến công giữ vững quyền chủ động trên chiến trường. Các
chiến dịch giai đoạn này bao gồm các chiến dịch ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ: Chiến
dịch Hòa Bình Đông – Xuân từ 1951-1952; Chiến dịch Tây Bắc Thu – Đông năm 1952;
Chiến dịch Thượng Lào Xuân – Hè năm 1953.
2.2.3 Giai đoạn 1953-1954
Âm mưu mới của Pháp – Mĩ ở Đông Dương với kế hoạch Nava. Cuộc tiến công
chiến lược Đông – Xuân từ năm 1953 – 1954 với các chiến dịch tiêu biểu sau: Cuộc tiến
công chiến lược Đông – Xuân 1953 – 1954; Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954
lừng lẫy năm châu – chấn động địa cầu.
Hiệp định Giơ - ne – vơ năm 1954 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
2.3 Nội dung bản của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lOMoAR cPSD| 61601299
2.3.1 Sự hình thành đường lối kháng chiến
Ngay từ đầu cuộc kháng chiến, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
vạch ra đường lối kháng chiến để chỉ đạo mọi mặt kháng chiến của quân và dân ta.
Đường lối đó được xuất phát từ những văn kiện chính sau đây: “Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/12/1946); “Bản chỉ thị Toàn dân kháng
chiến của Ban thường vụ Trung ương Đảng (22/12/1946); Tác phẩm “Kháng chiến nhất
định thắng lợi” của Tổng Bí thư Trường Chinh (1947).
Từ những văn kiện ấy dần dần hình thành đường lối kháng chiến của ta, đó là:
Kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì và tự lực cánh sinh. Đường lối này thể hiện
được tính chất của cuộc kháng chiến của nhân dân ta bằng những điểm sau:
Thứ nhất, cuộc kháng chiến của ta là một cuộc chiến tranh cách mạng chính nghĩa,
chống lại một cuộc chiến tranh phi nghĩa của thực dân Pháp.
Thứ hai, cuộc kháng chiến của nhân dân ta nhằm mục đích giành độc lập và thống
nhất Tổ quốc, bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân.
Thứ ba, trong cuộc kháng chiến này, dân tộc Việt Nam vừa đấu tranh để tự cứu
mình, vừa đấu tranh cho hòa bình Thế giới, do đó, cuộc kháng chiến chống Pháp của
nhân dân Việt Nam còn là một cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc lập, vì dân chủ và hòa bình.
2.3.2 Nội dung bản của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp 1946-1954
Kháng chiến toàn dân là toàn dân kháng chiến, toàn dân đánh giặc không phân
biệt già trẻ, trai gái, mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài. Sở dĩ
như vậy là vì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, vì lợi ích toàn dân nên phải do toàn dân tiến hành.
Kháng chiến toàn diện là kháng chiến trên tất cả mọi mặt: quân sự, chính trị, kinh
tế, văn hóa, ngoại giao vì thực tế chỉ ra rằng thực dân Pháp không những đánh ta về quân
sự mà chúng còn phá ta cả về kinh tế, chính trị, văn hóa. Cho nên ta không những kháng lOMoAR cPSD| 61601299
chiến chống Pháp trên mặt trận quân sự mà phải kháng chiến toàn diện trên tất cả mọi
mặt, đồng thời kháng chiến toàn diện còn để phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân.
Kháng chiến trường kỳ (nghĩa là đánh lâu dài). Đây là một chủ trương vô cùng
sáng suốt của Đảng ta, vận dụng một cách sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lê nin vào hoàn
cảnh nước ta lúc bấy giờ. Ta yếu, địch mạnh nên phải đánh lâu dài để chuyển hóa lực lượng.
Tự lực cánh sinh là chủ yếu dựa vào sức của mình (sức mạnh của nhân dân),
không trông chờ, không ỷ lại vào bên ngoài, đồng thời phải tranh thủ sự viện trợ của
quốc tế. Muốn đánh lâu dài thì phair dựa vào sức mình là chính.
2.3.3 Ý nghĩa của đường lối kháng chiến chống Pháp
Toàn bộ đường lối kháng chiến thấm nhuần tư tưởng chiến tranh nhân dân sâu
sắc, nó chứng tỏ cuộc kháng chiến của ta là chính nghĩa nên được nhân dân ủng hộ.
Đường lối kháng chiến có tác dụng động viên, dẫn dắt nhân dân ta tiến hành cuộc
kháng chiến dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dù phải trải qua nhiều sự hy
sinh gian khổ nhưng nhất định sẽ giành thắng lợi.
Chương 2. Một số cuộc chiến tiêu biểu của chiến dịch “Việt Nam chiến đấu
chiến thắng 1946-1954”
1. Cuộc chiến đấu Nội các đô thị phía Bắc tuyến 16
1.1 Hoàn cảnh
Ngày 18 và 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ tọa Hội nghị Ban Thường
vụ Trung ương Đảng (mở rộng) tại làng Vạn Phúc, Hà Đông. Hội nghị phân tích sâu sắc
tình hình của ta, âm mưu của địch và quyết định: tiến hành cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp trên phạm vi cả nước. Hội nghị cũng quyết định đường lối kháng chiến là toàn
dân, toàn diện, trường kỳ. Hội nghị đã thông qua Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến do
Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo. lOMoAR cPSD| 61601299
Sáng sớm ngày 19-12-1946 quân Pháp gửi tối hậu thư thứ ba, hạn trong 24 giờ
đồng hồ, tự vệ Hà Nội phải hạ vũ khí, đình chỉ ngay những hành động chuẩn bị kháng chiến
1.2 Diễn biến
20 giờ 3 phút ngày 19-12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Mở đầu Lời
kêu gọi, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ thiện chí hòa bình của Việt Nam, nhưng bị phía
Pháp khước từ: “Hỡi đồng bào! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng.
Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp
nước ta lần nữa!”. Người khẳng định rõ ý chí của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta là:
“Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ”. Khi Tổ quốc lâm nguy, Người kêu gọi các giới đồng bào cả nước
bằng vũ khí và mọi loại dụng cụ có thể dùng làm vũ khí, nhất tề đứng lên đánh giặc:
“Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân
tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có
súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy
gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”. Với bộ đội và dân quân, Người
dành riêng một lời kêu gọi: “Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân! Giờ cứu nước đã đến.
Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước”. Kết thúc Lời kêu gọi Toàn
quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dù phải gian lao kháng chiến,
nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!”. Lời kêu gọi
Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tiếng gọi của non sông đất nước,
là lời hịch cứu quốc, thể hiện ý chí và quyết tâm sắt đá bảo vệ nền độc lập, thống nhất
quốc gia; là sự tiếp nối một cách logic bản Tuyên ngôn độc lập do chính Người đọc tại
Quảng trường Ba Đình ngày 2-9-1945: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc
lập, và sự thực đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem
tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. lOMoAR cPSD| 61601299
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (ảnh: Bảo tàng Hồ Chí Minh)
Đáp Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân, toàn quân ta nhất tề đứng
lên kháng chiến với ý chí “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, vì độc lập tự do thiêng liêng
của Tổ quốc. Tại Hà Nội, hơn 20h ngày 19-12-1946, sau tín hiệu tắt điện toàn thành phố,
cuộc chiến đấu bắt đầu. Bộ đội chủ lực và tự vệ thành đồng loạt tiến công các mục tiêu
trong trung tâm thành phố; nhân dân đã xếp bàn ghế, sập gụ, hòm xiểng, cánh cửa... ra
đường phố, hình thành những ụ chướng ngại để cản địch; công nhân hỏa xa, công nhân
xe điện đẩy các toa tàu ra giữa đường phố, tự vệ ngả cây, hạ cột đèn chắn các ngã tư, ngã
năm... người lao động, trí thức, học sinh, tiểu thương, nhà tư sản, nhà sư... vừa phục vụ
chiến đấu dưới các hình thức cứu thương, tiếp tế, thông tin liên lạc, vừa động viên bộ
đội và tự vệ chiến đấu. Nhiều thanh niên nam, nữ tình nguyện nhập ngũ ngay từ những
ngày đầu kháng chiến của Thủ đô. Nhân dân nội thành tản cư ra các cửa ô đã sốt sắng
cùng nhân dân ngoại thành đào hàng chục ki lô mét hào giao thông, hàng trăm hố chiến
đấu và phòng tránh, phá đường sá, cầu cống, nhà cửa. Nhiều địa phương như Thanh Trì,
Thanh Oai tổ chức thêm tự vệ, sẵn sàng vào nội thành chiến đấu. Nhiều tỉnh như Sơn
Tây, Hà Đông, Phúc Yên, Thái Nguyên... chủ động đưa lực lượng về tăng viện cho Hà
Nội khi chiến sự lan rộng...
Sau hai tháng chiến đấu trong lòng Thủ đô, được sự chi viện tiếp tế của quân và
dân ngoại thành, lực lượng vũ trang Hà Nội đã hoàn thành nhiệm vụ tiêu hao và kìm
chân quân địch trong thành phố vượt xa thời gian dự kiến của lãnh đạo. Thắng lợi của lOMoAR cPSD| 61601299
60 ngày đêm chiến đấu ở Hà Nội không chỉ là thắng lợi của tinh thần quyết chiến, quyết
thắng của lực lượng vũ trang Thủ đô, của những người tình nguyện ở lại “sống chết với
Thủ đô”, mà còn là thắng lợi của ý chí, trí tuệ người dân Thăng Long, Hà Nội, đại diện
cho quyết tâm, trí tuệ của cả dân tộc. Phối hợp với Thủ đô Hà Nội, quân và dân các đô
thị ở Bắc Vĩ tuyến 16 cũng giành được thắng lợi quan trọng. Quân và dân Nam Bộ, Nam
Trung Bộ và Tây Nguyên tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh du kích, đánh phá kế hoạch bình
định, kiềm chế không cho địch đưa lực lượng chi viện cho Trung Bộ và Bắc Bộ.
1.3 Kết quả
Quân dân các đô thị ở Bắc vĩ tuyến 16 kiên cường chiến đấu, gây nhiều khó khăn
cho địch, vây hãm địch trong thành phố Nan Đinh từ tháng 12 năm 1946 đến tháng 3
năm 1947, buộc địch ở Vinh phải đầu hàng.
Cuộc chiến làm tiêu hao một bộ phận sinh lực địch, giam chân chúng trong thành
phố, làm thất bại một bước kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” của chúng, tạo điều kiện
cho cả nước đi vào cuộc kháng chiến trường kỳ.
2. Chiến thắng Việt Bắc Thu Đông năm 1947
2.1 Hoàn cảnh
Việt Bắc là nơi có địa thế hiểm trở, hạn chế cả về cơ động và tầm quan sát, khả
năng triển khai lực lượng lớn và phương tiện chiến đấu hiện đại, khi tiến công tiến hành
tác chiến lớn phải “theo mùa”. Nên từ tháng 8 năm 1945, Trung ương Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã giao cho Phạm Văn Đồng và Nguyễn Lương Bằng ở lại Tân Trào một
thời gian, trực tiếp chỉ đạo củng cố khi căn cứ của Trung ương.
Cuối tháng 10 năm 1946, thực hiện chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nguyễn
Lương Bằng từ Hà Nội trở lại Việt Bắc chuẩn bị căn cứ địa kháng chiến. Các huyện
Chợ Đồn (Bắc Kạn), Chiêm Hóa, Sơn Dương (Tuyên Quang), Định Hóa, Định Từ (Thái
Nguyên) được chọn làm an toàn khu. Bắt đầu từ tháng 11 năm 1946, để bảo toàn lực
lượng, các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ, Mặt trận, Bộ Tổng chỉ huy lần lượt
rời Hà Nội lên Việt Bắc để lãnh đạo, tổ chức kháng chiến lâu dài. Các bình công xưởng, lOMoAR cPSD| 61601299
xí nghiệp, nhà máy, gần 63 nghìn nhân dân miền xuôi và hàng vạn tấn máy móc, nguyên
vật liệu được vận chuyển, sơ tán lên Việt Bắc để vừa sản xuất vừa tiếp tục chiến đấu.
Pháp quyết định thực hiện giải pháp quân sự, cho phép Valluy mở cuộc tấn công
chiến lược lên Việt Bắc vào Thu – Đông năm 1947 sau khi giải pháp thành lập một chính
phủ bù nhìn tay sai gặp nhiều bế tắc.
Thực dân Pháp áp dụng truy lùng Việt Minh đến tận sào huyệt để loại trừ bộ đội
chủ lực của Việt Minh ra khỏi vòng chiến đấu, phá tan cơ quan đầu não kháng chiến,
triệt tiêu mọi tiềm lực kháng chiến của Việt Minh. Bên cạnh đó, thực dân Pháp còn khóa
chặt biên giới Việt – Trung, ngăn chặn mọi mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và
cách mạng Trng Quốc. Cuộc tiến công với mục tiêu tạo ra một chiến thắng quân sự quyết
định để làm đà cho việc thiết lập một chính phủ bù nhìn tay sai, nhằm nhanh chóng kết
thúc chiến tranh và đặt lại ách thống trị trên toàn cõi Việt Nam.
Ngày 7 tháng 10 năm 1947, thực dân Pháp bắt đầu cuộc tiến công chiến lược lên
vùng Việt Bắc với lực lượng bao gồm 12000 binh sĩ Âu – Phi, bao gồm 5 trung đoàn,
bao gồm 5 trung đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn dù, 2 tiểu đoàn pháo binh, 2 tiểu đoàn công
binh, 40 máy bay, 40 tàu chiến, ca nô, 800 xe cơ giới và phần lớn lực lượng thủy quân,
cơ giới phối hợp. Về phía Việt Minh, lực lượng quân đội trên toàn nước gồm 105.990
người (Bắc Bộ có 45.802 người), biên chế thành 20 trung đoàn, có 2 trung đoàn 147 và
165 của Bộ và nhiều tiểu đoàn độc lập của khu và của Bộ. Trang bị của nhiều đơn vị còn
nhiều thiếu thốn và không thống nhất, hơn một nửa quân số phải dùng vũ khí thô sơ như
súng kíp tự chế và cả gươm giáo, cung tên…
Phạm vi diễn ra: trải dài trên diện rộng 12 tỉnh gồm 7 tỉnh vùng Việt Bắc và 5 tỉnh vùng trung du.
Kế hoạch tấn công dự kiến chia làm hai bước:
Bước 1: mang mật danh Léa (Lê-a), mục tiêu đánh chiếm là khu tam giác Bắc
Kạn – Chợ Đồn – Chợ Mới. lOMoAR cPSD| 61601299
Bước 2: mang mật danh Ceinture (Xanh - tuy), tức là siết chặt vành đai, quân
Pháp sẽ tập trung lực lượng càn quét khu tam giác Bắc Kạn – Chợ Chu – Chợ Mới, lấy
vùng Chợ Chu làm mục tiêu trọng điểm.
2.2 Diễn biến
Chiến dịch bắt đầu từ ngày 7 tháng 10 năm 1947 với 800 lính đổ bộ xuống Bắc
Kạn dưới quyền chỉ huy của đại tá Henri Sauvaganc chiếm đóng các công sở, nhà thương,
kho bạc, nhà máy đèn,…
Ngày 7 tháng 10 năm 1947, Raoul Salan muốn cuộc hành binh hôm đó là một đòn
quyết định đánh thẳng vào tim kẻ thù, ông ta ngồi trên máy bay trực tiếp thị sát cuộc
nhảy dù xuống thị xã Bắc Kạn. Ngày 8 tháng 10 năm 1947, 200 lính dù Pháp khác đổ bộ
xuosng chiếm Chợ Đồn, cùng lúc đó các lực lượng khác theo hai đường thủy bộ, đạo
thủy quân dưới quyền chỉ huy của Pierre còn đạo bộ binh có khoảng 8000 quân do Đại
tá Andre Beaufre chỉ huy. Từ ngày 8 tháng 10, các đại đội độc lập cùng quân du kích
Việt Minh lên tiếp tập kích, quấy rối các vị trí như Chợ Đồn, Ngân Sơn, Chợ Rã, diệt hai trung đội Pháp.
Ngày 9 tháng 10 năm 1947, máy bay vận tải chở sĩ quan tham mưu chiến dịch
Pháp bị bắn rơi, phó tham mưu trưởng quân Pháp ở Bắc Đông Dương thiệt mạng. Việt
Minh thu được bản kế hoạch tiến công Việt Bắc. Ngày 13 tháng 10 năm 1947, Bổ Tổng
chỉ huy khẩn trương tổ chức lại lực lượng đánh Pháp. Trên khắp các mặt trận, quân Việt
Minh ngăn chặn và đẩy lùi bước tiến của quân Pháp, đặc biệt là thủy binh. Ngày 20 tháng
11, Pháp mở ra đợt tấn công thứ hai Xanh – tuy. Chúng càn quét những nơi trú ẩn của
Chính phủ Việt Nam, bắt giữ hơn 1000 người Việt và giải thoát nhiều con tin người Pháp.
Có một giai thoại nói rằng: “Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp nấp sau một bụi cây khi
quân Pháp đi tới, Giáp tưởng sẽ bị bắt, nhưng ròi quân Pháp đi qua không trông thấy nên
hai người thoát được”. Qua cơn bất ngờ, chúng ta tổ chức các ổ phục kích và đánh phản
công, nhiều chiến trường khác cũng phối hợp với chiến trường Việt Bắc. Chúng ta giành
được rất nhiều chiến thắng vang dội, tiêu biểu là trận đánh tại đèo giàng (15/12), phá hủy
17 xe, diệt 60 tên địch trong đó có 2 trung úy, thu 2 triệu bạc Đông Dương và nhiều vũ
khí, quân trang, quân dụng. Quân Pháp bị tấn công ở khắp nơi: trên không, đường thủy, lOMoAR cPSD| 61601299
đường bộ, không ở đâu là an toàn đối với chúng. Carbonnet phải thừa nhận: “Mặc dù nói
ra thì ngại ngùng nhưng ta phải thừa nhận rằng: suốt cả 12 tháng địch đã giữ quyền chủ
động, họ luôn luoon tấn công ta trên đường giao thông cũng như ở các cứ điểm... Chúng
ta bị thua thiệt rất đau đớn...” Viên Đội Bi-cát viết thư về cho gia đình rằng: “Ngày tháng
càng kéo dài, bộ đội ta càng nhiều người chết... Mong rằng giấc mộng kinh tởm này sẽ
chấm dứt mau.” Còn tiểu đội trưởng Pau-rô thì viết: “Cuộc chiến tranh phi nghĩa này
bao giờ sẽ chấm dứt, để chúng ta được sống một đời hòa bình trong gia đình ấm áp của chúng ta”.
2.3 Kết quả
Toàn hể chiến dịch, Việt Minh tuyên bố đã loại khỏi vòng chiến đấu trên 6000
lính Pháp và lính Việt phục vụ Pháp, bắt giữ hơn 270 lính. 18 máy bay bị bắn hạ, 16 tàu
chiến, 38 ca nô bị đánh chìm, 255 xe các loại bị phá hủy. Việt Minh thu 2 pháo 105 mm,
7 pháp 75 mm, 16 khẩu pháo 20 mm, 337 súng các cỡ, 45 Bazooka, 1600 súng trường
và hàng chục tấn quân trang, quân dụng. Quân đội Việt Minh hy sinh 260 người, bị
thương 168 người,... nhưng đã hoàn thành nhiệm vụ đề ra, là phá tan cuộc tấn công mùa
đông của Pháp, bảo vệ được cơ quan đầu não chỉ huy kháng chiến, bảo toàn và nâng cao
sức chiến đấu của bộ đội chủ lực, bảo vệ căn cứ địa Việt Bắc.
Sau thất bại này, người Pháp không thể tiêu diệt được đầu não kháng chiến của
Việt Minh để kết thúc sớm cuộc chiến ở Đông Dương. Các đơn vị tinh nhuệ của Việt
Minh vẫn được giữ vững. Họ phải chuyển từ chính sách đánh nhanh thắng nhanh sang
đánh lâu dài với chiến lược Da vàng hóa chiến tranh – thành lập một chính phủ bù nhìn
để “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”. Trong khi một
só lượng lớn trang bị của Pháp.
Qua chiến dịch này, các cơ quan đầu não kháng chiến đã dạn dày thêm kinh
nghiệm và nhân dân đã thấy rõ hơn dã tâm xâm lược của Pháp, do đó càng quyết tâm
gắn bó với Đảng và Nhà nước, tạo nên khối đại đoàn kết vững chắc, sẵn sàng chiến đấu
bảo vệ Tổ quốc. Có thể nói, Pháp đã không đạt được bất kì mục tiêu cơ bản nào trong
âm mưu tấn công lên Việt Bắc. lOMoAR cPSD| 61601299
Chiến dịch Việt Bắc được xem là thắng lợi lớn đầu tiên của Việt Minh trong cuộc
chiến, đánh đổ kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” của Pháp, buộc Pháp phải rơi vào
thế bị động, kéo căng lực lượng do Việt Minh đã giăng sẵn. Chiến thắng này cũng khẳng
định sức mạnh vật chất và tham vọng quân sự của thực dân Pháp không thể chiến thắng
được bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam.
3. Chiến dịch Biên giới Thu đông năm 1950
3.1 Hoàn cảnh 3.1.1 Thuận lợi
Ngày 1 tháng 10 năm 1948, cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa ra đời. Đầu năm 1950, Trung Quốc, Liên Xô, các nước xã hội chủ
nghĩa khác lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, viện trợ vật chất cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. 3.1.2 Khó khăn
Mỹ can thiệp sâu hơn vào Đông Dương. Vào tháng 5 năm 1949, Pháp đề ra kế
hoạch Rơve, tăng cường hệ thống phòng thủ trên đường số 4, lập hành lang Đông – Tây:
Hải Phòng – Hòa Bình – Sơn La, chuẩn bị tiến công Việt Bắc lần thứ hai.
3.2 Diễn biến
Đầu năm 1950, tình hình thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến có lợi cho
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc Việt Nam. Lần lượt Trung Quốc và
Liên Xô và các nước dân chủ Nhân dân công nhận nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa.
Cục diện trên chiến trường giữa ta và địch chuyển sang thế cầm cự, giằng co. Đặc biệt
sau chuyến công tác bí mật ra nước ngoài của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào đầu năm 1950,
Trung Quốc, Liên Xô đã thỏa thuận với Chủ tịch Hồ Chí Minh một số giải pháp hỗ trợ
cho cuộc kháng chiến của nước ta. Trước những điều kiện thuận lợi và sự hỗ trợ của các
nước Dân chủ nhân dân nhằm nhanh chóng kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp. Tháng 6 năm 1950, Thường vụ Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết
định mở chiến dịch Biên giới lấy tên là chiến dịch Lê Hồng Phong II. lOMoAR cPSD| 61601299
Chiến dịch được mở ra với mục đích “Tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch,
giải phóng vùng biên giới phía bắc nước ta, thu hẹp phạm vi chiếm đóng của địch, mở
rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc, tiến tới giành quyền chủ động trên chiến trường chính”.
Ngày 12/8/1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị cho các cấp Đảng
bộ lãnh đạo quân dân địa phương đánh địch mạnh để tiêu hao lực lượng địch, kiềm chế
địch, phối hợp với “một chiến dịch lớn” do Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh trực tiếp chỉ
đạo; do Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lệnh phát động, đồng thời phát động trong toàn quốc
tuần lễ “thi đua giết giặc lập công”. Trong bức thư gửi các chiến sĩ ở biên giới Bác đã
nhắc nhở "Trong cuộc chiến đấu này ta chỉ được đánh thắng, không cho đánh bại".
Đến cuối tháng 8/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra mặt trận cùng Bộ Chỉ huy Chiến
dịch trực tiếp chỉ đạo chiến dịch. Người kiểm tra kế hoạch tác chiến, xem xét công tác
chuẩn bị hậu phương, theo dõi kịp thời diễn biến của chiến dịch, góp những ý kiến chỉ
đạo và động viên cán bộ, bộ đội, dân công.
Năm 1947, khi ta quyết định mở chiến dịch Việt Bắc trong Thư gửi đồng bào các
tỉnh Việt Bắc, Hồ Chí Minh xúc động ghi nhớ tấm lòng, nghĩa cử cao đẹp của đồng bào
dân tộc giúp đỡ cán bộ làm cách mạng: “Tôi không bao giờ quên được, trong những
ngày gian nan cực khổ đó, đồng bào trong tỉnh ta, các cụ già, các chị em phụ nữ, anh em
nông dân, các em thanh niên, các cháu nhi đồng ai cũng hăng hái giúp đỡ… Đồng bào
Thổ, đồng bào Nùng, đồng bào Mán, đồng bào Mèo, cho đến anh em Hoa kiều, người
thì giúp chúng tôi ăn, kẻ thì cho chúng tôi áo. Có những đồng bào nhịn ăn nhịn mặc, bán
trâu bán ruộng để giúp chúng tôi làm cách mệnh”. Với tầm nhìn xa trông rộng của mình,
Bác đã thấy được trước trong chiến dịch Biên giới này công tác hậu cần phải dựa vào
sức dân ba tỉnh Cao Bằng - Bắc Kạn - Lạng Sơn. Do quy mô của Chiến dịch tương đối
lớn, có nhiều lực lượng tham gia, trên địa bàn rộng, rừng núi hiểm trở, lại xa căn cứ hậu
cần của ta, nên việc chuẩn bị, bảo đảm cho Chiến dịch rất khó khăn. Thấy trước được
điều đó, trong Hội nghị Quốc phòng (ngày 2/9/1950), Bác Hồ đã đề nghị Chính phủ tập
trung chỉ đạo tiếp tế cho Chiến dịch Biên giới và chỉ thị cho các lực lượng tham gia
Chiến dịch: “Chiến dịch Cao - Bắc - Lạng rất quan trọng. Chúng ta quyết đánh thắng lOMoAR cPSD| 61601299
trận này”. Ngày 9/9/1950, Người ra Lời kêu gọi đồng bào ba tỉnh Cao - Bắc - Lạng: “
Hỡi đồng bào yêu quý, quân ta đã mở chiến dịch trên mặt trận Cao - Bắc - Lạng chiến
dịch này rất quan trọng cho Cao - Bắc - Lạng và cả toàn quốc. Đồng bào ta đã chuẩn bị
rất nhiều trong việc chuẩn bị chiến dịch như: Góp quân lương, sửa đường sá, vận tải,
chuyên chở giúp đỡ bộ đội. Tôi trân trọng thay mặt chính phủ, và quân đội cảm tạ đồng
bào. Tôi kêu gọi toàn thể đồng bào ba tỉnh, các ủy ban kháng chiến và hành chính, các
đoàn thể nhân dân cố gắng thêm nữa, tiếp tục giúp đỡ cho bộ đội ta trước mặt trận để
quân ta giết nhiều địch, đánh thắng to. Đồng bào hãy tiến lên làm gương kiểu mẫu cho
nhân dân toàn quốc, giúp cho Chiến dịch được thắng lợi".
Ban đầu, ý định tác chiến của Bộ chỉ huy Chiến dịch là đánh Cao Bằng trước, sau
đó chuyển xuống đánh Đông Khê, Thất Khê. Nhưng sau khi phân tích tình hình, Trung
ương Đảng và Bác quyết định đánh Đông Khê để mở màn Chiến dịch. Phân tích chủ
trương đánh Đông Khê, Người chỉ rõ: "Ta đánh vào Đông Khê là đánh vào nơi quân địch
tương đối yếu, nhưng lại là vị trí rất quan trọng của địch trên tuyến Cao Bằng - Lạng
Sơn. Mất Đông Khê, địch buộc phải cho quân đi ứng cứu, ta có cơ hội thuận lợi tiêu diệt
chúng trong vận động". Theo kế hoạch tác chiến ban đầu, ta định tập trung lực lượng
tiêu diệt địch ở Cao Bằng, đồng thời đánh địch lên ứng cứu, chi viện. Nhưng sau đó cân
nhắc lại, Bộ Chỉ huy chiến dịch chủ trương đánh Đông Khê trước, mở màn cho chiến
dịch, vừa bảo đảm chắc thắng, vừa tạo điều kiện cho chiến dịch phát triển thuận lợi. Chủ
trương này được Chủ tịch Hồ Chí Minh phê chuẩn. Sự thay đổi này đã cho thấy tầm nhìn
chiến lược vô cùng tinh tế của Bác và là một yếu tố rất quan trọng làm nên thắng lợi của
Chiến dịch Biên giới thu – đông năm 1950. Trước ngày lên đường đi chiến dịch Người
đã từng căn dặn đoàn công tác đi lên Cao Bằng "Chúng ta sẽ đi một chuyến công tác dài
ngày, thời gian không thể định trước nhưng mất chừng 1 tháng, chuyến đi này rất quan
trọng. Đường đi vất vả, vì vậy các chú đều phải cố gắng làm tròn nhiệm vụ của mình,
tuyệt đối giữ bí mật, nếu để lộ ra sẽ làm tổn hại đến việc lớn. Muốn vậy từ việc chọn
đường đi đến nơi ăn chốn ở giao tiếp với nhân dân phải biết cách giữ mình". Lời căn dặn
này đã thể hiện được tầm nhìn của Bác về thời gian của chiến dịch lần này, và phải dựa
trên đường lối kháng chiến mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn từ ban đầu là “toàn dân,
toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính”. Ngay từ đầu cuộc kháng chiến tư lOMoAR cPSD| 61601299
tưởng của Người coi đây là cuộc chiến tranh nhân dân, và phải phát huy tối đa sức mạnh
toàn dân tộc, có lực lượng toàn dân tham gia mới thực hiện được kháng chiến toàn diện
và tự lực cánh sinh. Mặc dù rất coi trọng sự giúp đỡ từ bên ngoài nhưng vận mệnh của
dân tộc ta là phải do nhân dân ta quyết định phải dựa vào sức mạnh của ta, sự giúp đỡ
của bên ngoài chỉ là điều kiện hỗ trợ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng đúng đắn bài
học mà chính mình rút ra khi Bản yêu sách 8 điểm của nhân dân An Nam của Bác không
được đón nhận vào năm 1919.
Cuối tháng 8, đầu tháng 9 năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường đi Chiến
dịch Biên giới, trực tiếp chỉ đạo chiến dịch. Trên đường đi, ghé thăm một đơn vị thanh
niên xung phong làm đường phục vụ chiến dịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tặng thanh niên bốn câu thơ:
“Không có việc gì khó. Chỉ sợ lòng không bền. Đào núi và lấp biển. Quyết chí ắt
làm nên”. Những câu thơ của Bác đã thắp lên niềm tin của đồng bào vào sức mạnh của
con người khi đối diện với khó khăn và nghịch cảnh. Qua 4 câu thơ trên, Bác đã khẳng
định chỉ cần có niềm tin vào bản thân và vào đường lối của Đảng, ý chí quyết tâm và
lòng kiên trì, ắt dân tộc ta sẽ giành được thắng lợi. Ngày 13/9, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời
Sở Chỉ huy chiến dịch để đến Mặt trận Đông Khê, trực tiếp theo dõi bộ đội đánh trận mở
màn chiến dịch. Người chỉ thị cho bộ đội: "Dù khó khăn đến đâu cũng kiên quyết khắc
phục đánh cho kỳ thắng trận đầu".
Đúng 6h sáng ngày 16/9/1950, quân ta bất ngờ nổ súng tấn công cụm cứ điểm
Đông Khê. Sau 3 ngày chiến đấu ác liệt, quân ta đã tiêu diệt và làm chủ hoàn toàn cụm
cứ điểm Đông Khê. Sau khi tiêu diệt cứ điểm Đông Khê, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ
chỉ huy chiến dịch Biên giới nhận định: Địch có thể tái chiếm Đông Khê đánh lên đón
binh đoàn Sác Tông (CharTon) rút từ Cao Bằng. Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định thực
hiện phương án “nhử thú giữ vào tròng để khép vòng lưới thép”. Tiếp đó ta cho quân
tiêu diệt gọn quân địch rút chạy từ Cao Bằng, thị xã Cao Bằng được giải phóng vào ngày
3/10/1950. Ngày 8/10/1950, quân ta tiếp tục tiêu diệt hai binh đoàn ứng cứu của Pháp.
Trong những ngày truy kích địch, Bác Hồ trực tiếp theo dõi diễn biến và chỉ đạo trận mở lOMoAR cPSD| 61601299
màn Chiến dịch tiêu diệt cụm cứ điểm Đông Khê tại đài quan sát Chiến dịch, liên tục
gửi nhiều thư, điện động viên bộ đội.
Như được tiếp thêm sức mạnh, bộ đội ta đồng loạt xông lên tiêu diệt địch. Sau 29
ngày chiến đấu liên tục ở vùng biên giới (từ 16/9/1950 - 14/10/1950), ta đã tiêu diệt và
bắt sống được 8.296 tên địch, tiêu diệt 10 tiểu đoàn địch, bằng 41% lực lượng cơ động
chiến lược Pháp trên toàn cõi Đông Dương, thu trên 3.000 tấn vũ khí và phương tiện
chiến tranh, giải phóng hoàn toàn khu vực biên giới từ Cao Bằng đến Đình Lập (Lạng
Sơn). Chiến dịch kết thúc với chiến thắng vang dội thuộc về quân ta.
3.3 Kết quả
Loại khỏi vòng chiến đấu hơn 8.000 quân địch. Giải phóng đường biên giới từ
Cao Bằng đến Đình Lập với 35 vạn dân, chọc thủng hành lang Đông – Tây. Thế bao vây
của địch đối với căn cứ Việt Bắc bị phá vỡ, kế hoạch Rơve bị phá sản.
Đây là chiến dịch tiến công lớn đầu tiên của bộ đội chủ lực Việt Nam trong cuộc
kháng chiến, mở đường liên lạc quốc tế, làm cho cuộc kháng chiến thoát khỏi tình thế bị
bao vây cô lập. Cuộc chiến đã mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc, độ đội thêm
trưởng thành và tích lũy được nhiều kinh nghiệm, giành được thế chủ động trên chiến
trường chính Bắc Bộ, mở ra bước phát triển mới của cuộc kháng chiến.
4. Chiến dịch Tây Bắc (1952)
4.1 Hoàn cảnh
Với đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện và lâu dài”, từ năm 1946 đến năm
1952, quân dân ta đã dần giành thế chủ động trên khắp các chiến trường còn quân Pháp
bị đẩy vào thế phòng ngự bị động và sa lầy ở Đông Dương. Trong khi đó, tình hình chính
trị, xã hội tại nước Pháp ngày càng rối ren, phức tạp. Về phía ta, những ưu thế ngày càng
phát huy mạnh mẽ. Thắng lợi của Đại hội Đảng lần thứ II, tiếp đến là thắng lợi của chiến
dịch Hòa Bình (từ ngày 10/12/1951 đến 25/2/1952), đã đem lại cho toàn quân, toàn dân
ta một niềm cổ vũ mới. Trong bối cảnh lịch sử đó, bước vào mùa khô năm 1952, Trung
ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định chuyển hướng tiến công chủ yếu của lOMoAR cPSD| 61601299
bộ đội chủ lực lên Tây Bắc, nhằm thúc đẩy cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp phát
triển lên một bước mới mang tính quyết định. Tây Bắc là địa bàn chiến lược quan trọng
của miền Bắc Việt Nam nói riêng, của Bắc Đông Dương nói chung. Tiến công làm chủ
được Tây Bắc, ta không những bảo vệ vững chắc khu đầu não kháng chiến Việt Bắc, tạo
thành thế liên hoàn nối liền một dải với hậu phương kháng chiến rộng lớn, mà còn có
điều kiện thuận lợi mở rộng giao lưu quốc tế, đặc biệt là tăng cường thêm tình đoàn kết
chiến đấu Việt - Lào cùng chống kẻ thù chung. Tại đây, quân Pháp dàn trải về lực lượng
nên không mạnh và bộc lộ nhiều sơ hở.
4.2 Diễn biến
Tháng 4/1952, Bộ Chính trị hạ quyết tâm giải phóng Tây Bắc, mọi công tác chuẩn
bị cho chiến dịch được xúc tiến khẩn trương, trước hết là chuẩn bị đường sá, lực lượng,
lương thực, thực phẩm. Tháng 6/1952, để chuẩn bị chiến dịch Tây Bắc, Liên khu ủy Việt
Bắc (lúc này Tây Bắc vẫn thuộc Việt Bắc) ra nghị quyết về phát triển du kích chiến tranh
tại Tây Bắc. Cuối tháng 8, Chủ tịch Hồ Chí Minh nghe Đại tướng Võ Nguyên Giáp trình
bày kế hoạch tác chiến chiến dịch Tây Bắc. Nghe xong phương án tác chiến, Người căn
dặn: Đây là lần đầu tiên ta mở chiến dịch lớn, địa hình hiểm trở, cần nắm chắc địa hình
và chú trọng thực hiện đúng chính sách dân tộc, giúp đỡ đồng bào dân tộc, bộ đội phải
giữ kỷ luật dân vận. Lời căn dặn của Bác thể hiện sự tinh tế, nhạy bén đối với bối cảnh
cuộc chiến, đồng thời sự quan tâm, tình cảm sâu sắc của Bác đối với đồng bào dân tộc.
Nói chuyện với Hội nghị cán bộ chuẩn bị cho Chiến dịch Tây Bắc, Người chỉ rõ mục
đích, ý nghĩa của chiến dịch là tiêu diệt sinh lực địch là chính, tranh thủ nhân dân, giải
phóng đất đai, trong đó nhiệm vụ chính là tiêu diệt sinh lực. Trung ương Đảng và Tổng
Quân ủy đã cân nhắc kỹ chỗ dễ và chỗ khó của chiến trường sắp đến, và quyết tâm là
chiến dịch này phải đánh cho thắng lợi. Bác phân tích một cách sâu sắc rằng: “Quyết
tâm của Trung ương chưa đủ, còn phải để cho các chú cân nhắc kỹ thấy rõ cái dễ và cái
khó để truyền cái quyết tâm đó cho các chú. Trung ương và các chú quyết tâm cũng chưa
đủ, mà phải làm cho quyết tâm đó xuống đến mọi người chiến sỹ... Quyết tâm đó phải
thành một khối thống nhất từ trên xuống dưới và từ dưới lên trên”. Phân tích trên đã thể
hiện quan điểm lãnh đạo đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cùng ngày 09/9/1952, lOMoAR cPSD| 61601299
Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố 8 điều mệnh lệnh của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa cho cán bộ, chiến sĩ và đồng bào Tây Bắc, trong đó nói rõ: “Thực dân Pháp và vua
quan Việt Nam đã áp bức, bóc lột đồng bào miền núi thậm tệ. Nay Chính phủ ta phái
quân đội đến tiêu diệt giặc Pháp và bè lũ bù nhìn phản quốc để giải phóng đồng bào khỏi ách nô lệ.. ."
Căn cứ vào thế và lực giữa địch, ta trên chiến trường, ngày 28/9/1952, Ban
Chấp hành Trung ương ra chỉ thị mở Chiến dịch Tây Bắc: chủ trương của Trung ương
Đảng là “Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, tìm nơi sơ hở của địch mà đánh và hướng tiến
công là Chiến dịch Tây Bắc. Mục đích của chiến dịch là: Tiêu diệt sinh lực địch, tranh
thủ nhân dân. giải phóng một bộ phận đất đai có tính chất quan trọng về chiến lược. Để
thực hiện mục đích của chiến dịch, Trung ương quyết định tập trung binh lực, tập trung
cán bộ và phương tiện, tập trung nhân lực và vật lực, giành cho toàn thắng”. Lực lượng
của quân đội ta tham gia chiến dịch gồm có: Các Đại đoàn 308, 312, 316, 351 và Trung
đoàn 148. Đại đoàn 320 và 304 hoạt động ở vùng sau lưng thuộc Liên khu 3. Bộ Chính
trị cử đồng chí Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh chiến dịch, đồng chí Hoàng Văn Thái là
tham mưu trưởng, đồng chí Nguyễn Chí Thanh làm Chủ nhiệm Chính trị và đồng chí
Trần Đăng Ninh làm Chủ nhiệm Cung cấp.
Sau gần 2 tháng mở chiến dịch với 3 đợt chiến đấu quyết liệt (từ ngày 14/10 đến
ngày 10/12/1952), quân ta đã tiêu diệt và loại khỏi vòng chiến đấu 6.029 tên địch, diệt
gọn 4 tiểu đoàn và 28 đại đội, đánh thiệt hại nhiều tiểu đoàn tinh nhuệ, phá hủy và tịch
thu toàn bộ vũ khí, đồ dùng quân sự, các kho lương thực và thực phẩm của địch; giải
phóng khoảng 28.500 km2 đất đai ở vùng chiến lược vô cùng quan trọng và 25 vạn đồng
bào Tây Bắc khỏi ách áp bức của Pháp. Chiến thắng Tây Bắc còn làm phá sản âm mưu
thâm độc lập “xứ Thái tự trị” của Pháp hòng chia rẽ người Thái với người Kinh cũng
như người Thái với đồng bào các dân tộc thiểu số khác để dễ bề cai trị ở khu vực này.
Chủ trương của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đưa bộ đội chủ lực
lên tác chiến ở chiến trường Tây Bắc là hoàn toàn chính xác. Có hướng tiến công chiến
lược đúng đắn mới có chiến dịch thắng lợi. Ngày 29/01/1953, tại Hội nghị tổng kết Chiến
dịch Tây Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng, Chính phủ biểu dương