Việt Nam chiến đấu và chiến thắng 1946-1954” và vai trò của chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo nhân dân tagiành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp cứu nước (1946-1954) | Bài thu hoạch Tư tưởng Hồ Chí Minh
Việt Nam chiến đấu và chiến thắng 1946-1954” và vai trò của chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo nhân dân tagiành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp cứu nước (1946-1954) | Bài thu hoạch Tư tưởng Hồ Chí Minh. Tài liệu được biên soạn giúp các bạn tham khảo, củng cố kiến thức, ôn tập và đạt kết quả cao kết thúc học phần. Mời các bạn đọc đón xem!
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Trường: Đại học Bách Khoa Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ****************
BÀI THU HOẠCH MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỀ TÀI:
“Việt Nam chiến đấu và chiến thắng 1946-1954” và vai trò của
chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo nhân dân ta
giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp cứu nước (1946-1954)
Giảng viên hướng dẫn: Thạc sĩ Nguyễn Thị Thu Hà
Nhóm sinh viên thực hiện: Họ và tên sinh viên: MSSV: Mã lớp bài tập 1 Trần An Khanh 20225447 136516 2 Phạm Minh Hiếu 20220062 136516 3 Nguyễn Như Giáp 20225441 136514 4 Nguyễn Đức Bình 20225475 136516
Hà Nội, ngày 30 tháng 12 năm 2022 1 2 Mục lục
Tên của phần, chương bài thu hoạch Trang Phần Mở đầu 4 1. Lý do chọn đề tài 4 2. Mục đích nghiên cứu 4
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài 5
5. Kết cấu của bài thu hoạch 5
Chương 1: Vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong mọi mặt của
cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện chống Pháp và can thiệp Mỹ 5
1. Bối cảnh đất nước trước và trong giai đoạn 1946-1954 5
2. Vai trò của Hồ Chí Minh trên mặt trận quân sự 8
2.1. Cuộc chiến đấu ở Hà Nội và các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 8 16
2.2. Chiến dịch Việt Bắc thu – đông năm 1947 11
2.3. Chiến dịch Biên giới thu – đông năm 1950 13
2.4. Chiến dịch Tây Bắc (1952) 19
2.5. Cuộc tiến công chiến lược Đông – Xuân 1953-1954 22
2.6. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ (1954) 23
2.7. Ý nghĩa của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân 29 Pháp (1946 – 1954)
3. Vai trò của Hồ Chí Minh trên mặt trận kinh tế 31
3.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về kinh tế 31
3.2. Hồ Chí Minh và những chính sách – thành tựu kinh tế giai 32 đoạn 1946-1954
4. Vai trò của Hồ Chí Minh trên mặt trận văn hóa 33
4.1. Quan điểm văn hóa của Hồ Chí Minh 33
4.2. Hồ Chí Minh và các chính sách văn hóa của Đảng và Nhà 34
nước trong giai đoạn 1946-1954
4.3. Những thành tựu văn hóa thời kỳ 1946-1954 35
5. Vai trò của Hồ Chí Minh trên mặt trận tư tưởng 36
6. Vai trò của Hồ Chí Minh trên mặt trận ngoại giao 39
Chương 2: Kế thừa các thành tựu trong giai đoạn kháng chiến
chống Pháp (1946-1954) của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mở rộng đề tài, 44
liên hệ thực tiễn và bản thân
1. Kế thừa và phát huy các thành tựu của cuộc kháng chiến chống 44
Pháp (1946-1954) của Hồ Chí Minh trong thời kỳ hiện nay
2. Liên hệ với trách nhiệm của bản thân 49
3. Liên hệ với chuyên ngành đang học 51 Kết luận chung 51
Danh mục tài liệu tham khảo 53
Phụ lục phân công bài thu hoạch 56 3 Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam, xuyên suốt hàng ngàn năm lịch sử oanh liệt dựng nước và giữ nước, đã
trải qua nhiều cuộc chiến tranh để giành lấy nền độc lập dân tộc. Giai đoạn 1946-
1954, sau thành công của Cách mạng tháng Tám, là một giai đoạn đầy khó khăn thử
thách cho cả dân tộc. Thế nhưng dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, đứng đầu là
Chủ tịch Hồ Chí Minh, con dân cả nước đã nhất tề đứng lên bảo vệ thành quả cách
mạng, và sau 9 năm kháng chiến thì miền Bắc đã hoàn toàn được giải phóng, tạo cơ
sở cho miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, trở thành căn cứ địa cho cả
nước, chi viện sức người, sức của cho việc giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc sau này.
Tổng kết thực tiễn cách mạng đã khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân tố quyết định thắng lợi cuộc kháng
chiến chống Pháp và can thiệp Mỹ của dân tộc. Người đã cùng với Trung ương
Đảng hoạch định, tổ chức và lãnh đạo quân dân ta thực hiện thắng lợi đường lối
kháng chiến chống Pháp, đó là “Kháng chiến, kiến quốc”, “Toàn dân, toàn diện,
trường kỳ, tự lực cánh sinh”. Người đóng vai trò cốt lõi trong việc xây dựng và phát
huy sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân; có ảnh hưởng tích cực, sâu sắc trên mọi
mặt trận: quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, tư tưởng, ngoại giao…
Người là người cầm lái bình tĩnh, sáng suốt, mưu trí, dũng cảm và dày dạn kinh
nghiệm đã đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua mọi thác ghềnh nguy
hiểm; và cho đến bây giờ thì những thành tựu, bài học, giá trị tư tưởng và đạo đức
của Người trong giai đoạn đó vẫn còn vô giá trong kho tàng lịch sử của dân tộc Việt
Nam, và có giá trị thực tiễn vô cùng to lớn trong việc thực hiện các chủ trương,
chính sách quản lý, xây dựng, phát triển, bảo vệ và hội nhập đất nước ngày nay.
Việc nghiên cứu các hoạt động, ảnh hưởng và làm sáng rõ vai trò, cống hiến của
Chủ tịch Hồ Chí Minh với cương vị lãnh tụ cách mạng trong cuộc kháng chiến
chống Pháp do đó không chỉ có ý nghĩa về mặt phương pháp luận mà còn có ý
nghĩa thực tiễn sâu sắc; đặc biệt là đối với tầng lớp trí thức, cần phải hiểu được, tiếp
thu và vận dụng những giá trị đạo đức, tinh thần, lịch sử, tư tưởng, cách mạng của
Người vào việc xây dựng phát triển Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày càng
vững mạnh về mọi mặt, tiếp tục củng cố vị thế của ta trên trường quốc tế. 2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của bài thu hoạch là làm rõ hoàn cảnh đất nước trong giai đoạn lịch sử
cuộc kháng chiến chống Pháp (1946-1954), đưa ra góc nhìn về vai trò của Chủ tịch
Hồ Chí Minh và các liên hệ đến thực tiễn quá trình phát triển đất nước ngày nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của bài thu hoạch chủ yếu là vai trò của Hồ Chí Minh trên
nhiều mặt trận khác nhau của cuộc kháng chiến chống Pháp can thiệp Mỹ trong giai
đoạn 1946-1954, và những cống hiến, đóng góp, thành tựu của Người cho thành 4
công của kháng chiến, và ứng dụng của các cống hiến, đóng góp, thành tựu đó trong
thực tiễn ngày nay, cùng với đó là liên hệ với trách nhiệm của bản thân. Phạm vi
nghiên cứu của bài thu hoạch giới hạn trong các mặt trận quân sự, kinh tế, văn hóa,
tư tưởng, ngoại giao; các mặt trận khác có được nói đến trong phần mở rộng.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Nhóm sinh viên trước hết phân tích hoàn cảnh đất nước trước và trong giai đoạn
1946-1954 để thấy rõ được những khó khăn, thử thách và tình cảnh hiểm nghèo,
“ngàn cân treo sợi tóc” của toàn dân tộc, sau đó phân tích những ảnh hưởng, vai trò
của Người trên năm mặt trận là quân sự, kinh tế, văn hóa, tư tưởng và ngoại giao
thông qua các hàng loạt dẫn chứng cụ thể là hành động của Người, nhiều hình ảnh
các hiện vật được lưu giữ ở bảo tàng Hồ Chí Minh và nêu rõ tầm quan trọng của
chúng trong cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện chống Pháp. Từ những thành tựu
đó, nhóm đã đưa ra những liên hệ đối với thực tiễn hiện nay, đối với việc giải quyết
các vấn đề lớn của đất nước như hội nhập quốc tế, xây dựng mối quan hệ đối ngoại,
phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân và sức mạnh thời đại, bảo vệ chủ quyền,…
Sau đó, các sinh viên của nhóm tự liên hệ với trách nhiệm của bản thân trong việc
vận dụng các giá trị đạo đức, lịch sử, tư tưởng, văn hóa,… của Hồ Chí Minh đã nói
đến ở trên trong việc cố gắng hoàn thiện bản thân để trở thành một công dân có ích
cho xã hội, có ích cho cộng đồng, biết tự hào về sự nghiệp cách mạng, nâng cao bản
lĩnh và ý thức chính trị, góp phần xây dựng đất nước giàu đẹp, văn minh.
5. Kết cấu của bài thu hoạch
Bài thu hoạch bao gồm chương Mở đầu, 2 chương Nội dung, phần Kết luận đi kèm
với Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục phân công bài thu hoạch.
Chương 1: Vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong mọi mặt của cuộc kháng
chiến toàn dân, toàn diện chống Pháp và can thiệp Mỹ
1. Bối cảnh đất nước trước và trong giai đoạn 1946-1954
Những ngày tưng bừng của Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 và lễ độc lập
qua đi rất nhanh. Nhà nước dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á vừa được thành lập đã
phải bước ngay vào cuộc đấu tranh quyết liệt cho sự tồn tại của mình. Để kiện toàn
và củng cố lực lượng, chúng ta đã phải đối phó với tình hình cực kỳ phức tạp và vô
vàn khó khăn: Nền kinh tế kiệt quệ, nạn đói khủng khiếp đã cướp đi sinh mạng của
hai triệu người vẫn còn đang đe dọa; ngân khố trống rỗng (chỉ còn một triệu đồng
bạc rách), trình độ văn hóa rất thấp kém, đa số nhân dân không biết chữ. Trong khi
đó, thù trong giặc ngoài: ở miền Bắc, 20 vạn quân Tưởng, dưới danh nghĩa Đồng
minh vào tước vũ khí quân đội Nhật, thực chất là muốn tiêu diệt Đảng Cộng sản,
phá tan Việt Minh , lật đổ chính quyền nhân dân, lập chính phủ phản động làm tay
sai cho Mỹ - Tưởng; ở miền Nam, núp sau bóng quân Anh, thực dân Pháp quay trở
lại đánh chiếm nước ta một lần nữa; bọn phản động tay sai cũng nổi lên khắp nơi,
tìm mọi cách cản trở cuộc kiến quốc của nhân dân ta. 5
Đứng trước vận mệnh ngàn cân treo sợi tóc nước nhà, chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nhận lấy trách nhiệm nặng nề trước nhân dân : “Phận sự tôi như một người cầm
lái, phải chèo chống thế nào để đưa chiếc thuyền Tổ quốc vượt khỏi những cơn sóng
gió, mà an toàn đi đến bờ hạnh phúc của nhân dân”
Người cùng tập thể Trung ương Đảng bình tĩnh, sáng suốt phân tích tình
hình, kịp thời đề ra đường lối đúng đắn và những biện pháp hành động khôn khéo
để giải quyết từng bước những khó khăn về đời sống kinh tế, văn hóa – xã hội và
những vấn đề cấp bách khác. Sáng ngày 3-9-1945, tại Bắc Bộ phủ, chủ tọa phiên
họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nêu sâu vấn đề cấp bách để cứu nguy dân tộc:
Một là giải quyết nạn đối;
Hai là thanh toán nạn dốt;
Ba là tổ chức sớm cuộc Tổng tuyển cử;
Bốn là xóa bỏ hủ tục, xây dựng đời sống văn hóa mới, đạo đức mới, đạo đức cách mạng;
Năm là xóa bỏ ngay những thứ thuế bóc lột vô nhân đạo;
Sáu là thực hiện tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết;
Đầu năm 2016, tình hình chính trị, kinh tế nước Pháp biến động không có lợi
cho cuộc chiến Pháp ở Đông Dương. Được sự dàn xếp, thỏa thuận của phe Đế quốc,
Chính phủ Pháp và Chính phủ Trung Hoa dân quốc đã ký kết với nhau bản hiệp ước
“Trùng Khánh” (còn gọi là Hiệp ước Hoa – Pháp, ngày 28-2-1946), trong đó có nội
dung thỏa thuận để Pháp đưa quân đội ra vĩ tuyến 16 làm nhiệm vụ giải giáp quân
đội Nhật thay thế 20 vạn quân Tưởng rút về nước hạn cuối cùng là 31-3-1946 và đổi
lại Pháp sẽ nhượng cho Tưởng nhiều quyền lợi quan trọng ở Trung Quốc và Việt
Nam. Đây thực chất là một hiệp ước bán rẻ và chà đạp lên nền độc lập của Việt
Nam, hợp pháp hóa hành động xâm lược của thực dân Pháp. Bản hiệp ước này cũng
gây ra sự mâu thuẫn, xung đột kịch liệt về quyền lợi giữa các tập đoàn lợi ích của
quân đội Tưởng ở Việt Nam và quân đội Pháp; đặt cách mạng Việt Nam, Chính phủ
và Nhân dân Việt Nam đứng trước tình thế vô cùng nguy hiểm, phải cùng lúc đối
mặt trực tiếp với 2 kẻ thù xâm lược to lớn là Pháp và Tưởng, trong khi thực lực cách
mạng vẫn còn rất non kém
Trước sự thay đổi nhanh chóng, phức tạp của tình hình, Thường vụ Trung
ương Đảng, Hồ Chí Minh đã nhanh chóng nhận định, đánh giá đúng âm mưu, ý đồ
chính trị của Pháp và Tưởng và ra bản Chỉ thị Tình hình và chủ trương, ngày 3-3-
1946. Chỉ thị phân tích sâu sắc âm mưu, ý đồ của Anh, Mỹ, Tàu và Pháp, dự kiến
những tình huống tư tưởng và nêu vấn đề “chúng ta phải quyết đánh hay hòa với
Pháp?”, trên cơ sở đó khẳng định: “Vấn đề lúc này, không phải là muốn hay không
muốn đánh. Vấn đề là biết mình, biết người, nhận một cách khách quan những điều
kiện lời lãi trong nước và ngoài nước mà chủ trương cho đúng”. Bản chị thị đã kịp 6
thời đề ra chủ trương mới: tạm thời “dàn hòa với Pháp”, nhân nhượng với Pháp về
lợi ích kinh tế, nhưng Pháp phải thừa nhận quyền dân tộc tự quyết của dân tộc ta,
“lợi dụng thời gian hòa hoãn với Pháp để diệt bọn phản động bên trong, tay sai Tàu
trắng, trừ những hành động khiêu khích ly gián ta với Pháp”, thúc đẩy nhanh quân
Tưởng về nước, bớt đi một kẻ thù nguy hiểm. Trong chỉ thị cũng phê phán khuynh
hướng cực đoan là muốn đánh Pháp đến cùng, là tự cô lập mình, tiêu hao thực lực
hoặc hòa hoãn, đàm phán với Pháp lại làm nhụt tinh thần quyết chiến của dân tộc ta.
Thực hiện chủ trương đó, ngày 6-3-1946, tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh
thay mặt Chính phủ Việt nam Dân chủ Cộng hòa đã ký với đại diện Chính phủ
Cộng hòa Pháp là ông Jean Sainteny (J.Xanhtơny) bản Hiệp định sơ bộ. Trong đó
nêu rõ: Chính phủ Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do, có chính phủ,
nghị viện, tài chính và quân đội riêng, nằm trong Liên bang Đông Dương thuộc
khối Liên hiệp Pháp; về phía Việt Nam đồng ý để 15000 quân đội Pháp ra miền Bắc
thay thế 20 vạn quân đội Tưởng rút về nước và sẽ rút dần trong thời hạn 5 năm; hai
bên sẽ tiếp tục tiến hành đàm phán chính thức để giải quyết mối quan hệ Việt – Pháp...
Ngày 20-10-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn Việt Nam về đến
cảng Hải Phòng an toàn trong không khí đón chào nồng nhiệt của nhân dân, của
đồng bào, đồng chí. Ngay sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết một văn kiện quan
trọng: Công việc khẩn cấp bây giờ, nêu rõ thêm những nhiệm vụ cụ thể và cấp thiết
phải làm về mặt quân sự, chính trị và khẳng định vai lãnh đạo của Đảng, của đảng
viên cán bộ phải “làm cho dân ta có tín tâm và quyết tâm” đối với công cuộc kháng
chiến kiến quốc và tích cực chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài, điều mà Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiên liệu là không thể tránh khỏi.
Nhằm chuẩn bị cho cuộc kháng chiến, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
chủ trương đưa cả nước từng bước chuyển sang tình trạng chiến tranh và tích cực
xây dựng các điều kiện cần thiết. Một mặt, Đảng ra sức lãnh đạo cuộc chiến đấu
giam chân địch ở Nam Bộ và trong các thành phố, thị xã ở miền Bắc, mặt khác thực
hiện cuộc tổng di chuyển các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Chính phủ, Quốc hội và
các ban, bộ, ngành, quân đội, công an và các cơ quan lãnh đạo kháng chiến địa
phương ra khỏi thành phố, thị xã; tổ chức củng cố, xây dựng căn cứ địa, các chiến
khu, các an toàn khu (ATK) để bảo toàn lực lượng, chuẩn bị kháng chiến lâu dài.
Những chủ trương, biện pháp, sách lược và đối sách đúng đắn của Đảng, tinh
thần quyết đoán, sáng tạo của Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc đấu
tranh chống phản cách mạng, chống giặc ngoài, thù trong những năm đầu chính
quyền cách mạng đã đem lại thắng lợi có ý nghĩa hết sức quan trong: ngăn chặn
bước tiến của đội quân xâm lược Pháp ở Nam Bộ, vạch trần và làm thất bại mọi âm
mưu, hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam của các kẻ thù, của phe đế quốc,
mà trực tiếp là của thực dân Pháp và đội quân Trung Hoa Dân quốc và các thế lực
tay sai; củng cố, giữ vững và bảo vệ an toàn hệ thống bộ máy chính quyền cách
mạng từ Trung ương đến cơ sở và những thành quả của cuộc cách mạng Tháng 7
Tám; tạo thêm thời gian hòa bình, hòa hoãn, tranh thủ tích cực chuẩn bị lực lượng
cho cuộc kháng chiến lâu dài.
2. Vai trò của Hồ Chí Minh trên mặt trận quân sự
2.1. Cuộc chiến đấu ở Hà Nội và các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16
Sau rất nhiều cố gắng để vãn hồi hòa bình, tình hình ngày càng xấu. Ngày 18
và 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ tọa Hội nghị Ban Thường vụ Trung
ương Đảng (mở rộng) tại làng Vạn Phúc, Hà Đông. Hội nghị phân tích sâu sắc tình
hình của ta, âm mưu của địch và quyết định: tiến hành cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp trên phạm vi cả nước. Hội nghị cũng quyết định đường lối kháng chiến là
toàn dân, toàn diện, trường kỳ. Hội nghị đã thông qua Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo.
Sáng sớm ngày 19-12-1946 quân Pháp gửi tối hậu thư thứ ba, hạn trong 24
giờ đồng hồ, tự vệ Hà Nội phải hạ vũ khí, đình chỉ ngay những hành động chuẩn bị kháng chiến
20 giờ 3 phút ngày 19-12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Mở
đầu Lời kêu gọi, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ thiện chí hòa bình của Việt Nam,
nhưng bị phía Pháp khước từ: “Hỡi đồng bào! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta
phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới,
vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!”. Người khẳng định rõ ý chí của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta là: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Khi Tổ quốc lâm nguy,
Người kêu gọi các giới đồng bào cả nước bằng vũ khí và mọi loại dụng cụ có thể
dùng làm vũ khí, nhất tề đứng lên đánh giặc: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người
già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì
phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có
gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra
sức chống thực dân Pháp cứu nước”. Với bộ đội và dân quân, Người dành riêng một
lời kêu gọi: “Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân! Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy
sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước”. Kết thúc Lời kêu gọi Toàn quốc
kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dù phải gian lao kháng chiến,
nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!”.
Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tiếng gọi
của non sông đất nước, là lời hịch cứu quốc, thể hiện ý chí và quyết tâm sắt đá bảo
vệ nền độc lập, thống nhất quốc gia; là sự tiếp nối một cách logic bản Tuyên ngôn
độc lập do chính Người đọc tại Quảng trường Ba Đình ngày 2-9-1945: “Nước Việt
Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do độc lập.
Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và
của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. 8
(“Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” – Hồ Chí Minh. Ảnh: Bảo tàng Hồ Chí Minh)
Đáp Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân, toàn quân ta nhất tề
đứng lên kháng chiến với ý chí “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, vì độc lập tự do
thiêng liêng của Tổ quốc.
Tại Hà Nội, hơn 20h ngày 19-12-1946, sau tín hiệu tắt điện toàn thành phố,
cuộc chiến đấu bắt đầu. Bộ đội chủ lực và tự vệ thành đồng loạt tiến công các mục
tiêu trong trung tâm thành phố; nhân dân đã xếp bàn ghế, sập gụ, hòm xiểng, cánh
cửa... ra đường phố, hình thành những ụ chướng ngại để cản địch; công nhân hỏa
xa, công nhân xe điện đẩy các toa tàu ra giữa đường phố, tự vệ ngả cây, hạ cột đèn
chắn các ngã tư, ngã năm... người lao động, trí thức, học sinh, tiểu thương, nhà tư
sản, nhà sư... vừa phục vụ chiến đấu dưới các hình thức cứu thương, tiếp tế, thông
tin liên lạc, vừa động viên bộ đội và tự vệ chiến đấu. Nhiều thanh niên nam, nữ tình
nguyện nhập ngũ ngay từ những ngày đầu kháng chiến của Thủ đô. Nhân dân nội
thành tản cư ra các cửa ô đã sốt sắng cùng nhân dân ngoại thành đào hàng chục ki lô
mét hào giao thông, hàng trăm hố chiến đấu và phòng tránh, phá đường sá, cầu
cống, nhà cửa. Nhiều địa phương như Thanh Trì, Thanh Oai tổ chức thêm tự vệ, sẵn
sàng vào nội thành chiến đấu. Nhiều tỉnh như Sơn Tây, Hà Đông, Phúc Yên, Thái
Nguyên... chủ động đưa lực lượng về tăng viện cho Hà Nội khi chiến sự lan rộng...
Sau hai tháng chiến đấu trong lòng Thủ đô, được sự chi viện tiếp tế của quân
và dân ngoại thành, lực lượng vũ trang Hà Nội đã hoàn thành nhiệm vụ tiêu hao và
kìm chân quân địch trong thành phố vượt xa thời gian dự kiến của lãnh đạo. Thắng
lợi của 60 ngày đêm chiến đấu ở Hà Nội không chỉ là thắng lợi của tinh thần quyết
chiến, quyết thắng của lực lượng vũ trang Thủ đô, của những người tình nguyện ở 9
lại “sống chết với Thủ đô”, mà còn là thắng lợi của ý chí, trí tuệ người dân Thăng
Long, Hà Nội, đại diện cho quyết tâm, trí tuệ của cả dân tộc.
Phối hợp với Thủ đô Hà Nội, quân và dân các đô thị ở Bắc Vĩ tuyến 16 cũng
giành được thắng lợi quan trọng. Quân và dân Nam Bộ, Nam Trung Bộ và Tây
Nguyên tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh du kích, đánh phá kế hoạch bình định, kiềm
chế không cho địch đưa lực lượng chi viện cho Trung Bộ và Bắc Bộ.
Ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã cho rằng “vì cuộc kháng chiến của ta là
cuộc kháng chiến của toàn dân cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân.”
Trong bài “Toàn dân kháng chiến” viết ngày 5-11-1946, sau khi phân tích quy mô
và ảnh hưởng của cuộc đấu tranh, Người cho rằng “muốn kháng chiến lâu dài để đi
tới thắng lợi cuối cùng, cần phải động viên hết thảy mọi lực lượng…”. Trong “Lời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, ngày 19-12-1946, tư tưởng của Người về kháng
chiến toàn dân được thể hiện rất rõ ràng: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già,
người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải
đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm,
dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức
chống thực dân Pháp cứu nước”.
Căn cứ vào chiến lược kháng chiến toàn dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
ta đã tập hợp được đông đảo các tầng lớp xã hội trong Mặt trận dân tộc thống nhất,
từng bước xây dựng một lực lượng chính trị hùng hậu và lực lượng vũ trang nhân
dân lớn mạnh, gồm ba thứ quân, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Cũng căn cứ
vào chiến lược này, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta xác định “Mỗi công dân là
một chiến sĩ. Mỗi làng là một chiến hào”, quyết tâm đánh bại thực dân Pháp xâm lược.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiến hành kháng chiến toàn dân, đồng thời phải
thực hiện toàn diện kháng chiến. Vì, thực dân Pháp tiến hành cuộc chiến tranh xâm
lược nước ta một cách toàn diện, chúng ta phải kháng chiến chống lại chúng một
cách toàn diện trên các mặt trận: quân sự, kinh tế, văn hoá, tư tưởng, ngoại giao.
Người nói: “Không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó, không
thể nào thắng lợi được”.
Để phát huy sức mạnh toàn dân tộc, thực hiện nhất quán đường lối toàn diện
kháng chiến, Người yêu cầu: “Mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ già, trẻ, trai, gái, bất
kỳ giàu, nghèo, lớn, nhỏ đều phải cần trở nên một chiến sĩ đấu tranh trên mặt trận:
quân sự, kinh tế, chính trị, văn hoá. Thực hiện khẩu hiệu: Toàn dân kháng chiến,
toàn diện kháng chiến”. Người cho rằng, “trong kháng chiến, quân sự là việc chủ
chốt”. Tuy nhiên, chỉ có đánh địch trên chiến trường thôi thì chưa đủ mà còn phải
biết kết hợp với các mặt trận đấu tranh khác nữa. Ngay khi bước vào kháng chiến
toàn quốc, Người kêu gọi vừa kháng chiến vừa kiến quốc, vừa xây dựng hậu
phương, vừa chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến, vừa tiến hành đấu tranh
ngoại giao, vừa thực hiện binh vận, vừa xây dựng nền văn hoá, giáo dục kháng
chiến, bồi dưỡng nhân dân, vừa động viên, tổ chức nhân dân tham gia các đoàn thể 10
kháng chiến, xây dựng khối đoàn kết toàn dân. Để mở rộng khối đoàn kết toàn dân,
theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tháng 5-1946, Hội Liên hiệp quốc dân
Việt Nam (Liên Việt) được thành lập. Truyền thống yêu nước của toàn dân tộc được
khơi lên mạnh mẽ, nhân dân ta tỏ rõ sự đoàn kết, nhất trí chung quanh Chính phủ do
Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Đó là sức mạnh vô địch để chống thù trong, giặc
ngoài. Ngày 31-5-1946, Người lên đường thăm nước Pháp, với tư cách là thượng
khách của Chính phủ Pháp. Trong thời gian ở Pháp, Người đã tuyên truyền làm
sáng tỏ cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân ta, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ
của nhân dân Pháp, nâng cao uy tín của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trên
trường quốc tế. Chính dịp này, một số trí thức, nhà khoa học Việt kiều được Người
vận động, thuyết phục và cảm hoá đã tình nguyện theo Bác về nước cống hiến tài
năng, trí tuệ cho cách mạng, cho sự nghiệp kháng chiến, như: kỹ sư Phạm Quang
Lễ, Võ Quý Huân; bác sĩ Trần Hữu Tước...
Trên cơ sở đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện và tương quan lực
lượng địch - ta, đồng thời nắm chắc quy luật chuyển hoá của tương quan đó, Chủ
tịch Hồ Chí Minh chủ trương “kháng chiến trường kỳ”. Trong văn kiện “Công việc
khẩn cấp bây giờ” viết ngày 5-11-1946, Người nhấn mạnh: “Cuộc kháng chiến sẽ
rất gay go cực khổ. Dù địch thua đến 99%, nó cũng rán sức cắn lại. Vì nó thất bại ở
Việt Nam, thì toàn bộ cơ nghiệp đế quốc nó sẽ tan hoang. Vì vậy nó sẽ đem rất
nhiều viện binh… Nó sẽ tàn phá khủng bố rất dữ dội… Nhưng ta phải hiểu: Lực
lượng địch chỉ có từng ấy thôi. Ta kiên quyết chống chọi cho qua giai đoạn “chớp
nhoáng” đó, thì địch sẽ xẹp, ta sẽ thắng”.
Cuộc chiến đấu oanh liệt, sáng tạo của quân, dân Thủ đô Hà Nội và của cả
nước trong những ngày đầu Toàn quốc kháng chiến đã giáng một đòn mạnh vào
chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” và ý chí xâm lược của kẻ thù, làm tiền đề
vững chắc cho những thắng lợi tiếp theo của cuộc kháng chiến.
2.2. Chiến dịch Việt Bắc thu - đông năm 1947 2.2.1. Bối cảnh
Vào đầu năm 1947, sau khi giải pháp thành lập một chính phủ bù nhìn tay sai
gặp nhiều bế tắc, Pháp quyết định thực hiện giải pháp quân sự, cho phép Va-luy
(Valluy) mở cuộc tiến công chiến lược lên Việt Bắc vào Thu - Đông năm 1947.
Những mục tiêu cơ bản của cuộc tiến công này như sau:
Truy lùng Việt Minh đến tận sào huyệt để loại trừ bộ đội chủ lực của Việt
Minh ra khỏi vòng chiến đấu; phá tan cơ quan đầu não kháng chiến; triệt tiêu
mọi tiềm lực kháng chiến của Việt Minh.
Khóa chặt biên giới Việt - Trung, ngăn chặn mọi mối quan hệ giữa cách
mạng Việt Nam và cách mạng Trung Quốc.
Tạo ra một chiến thắng quân sự quyết định để làm đà cho việc thiết lập một
chính phủ bù nhìn tay sai, nằm nhanh chóng kết thúc chiến tranh và đặt lại
ách thống trị trên toàn cõi Việt Nam. 2.2.2. Diễn biến
Ngày 7/10/1947, thực dân Pháp hùng hổ mở chiến dịch tiến công chiến lược
lên vùng chiến khu Việt Bắc với khoảng 12000 binh sĩ Âu - Phi, bao gồm 5 trung 11
đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn dù, 2 tiểu đoàn pháo binh, 2 tiểu đoàn công binh, 40 máy
bay, 40 tàu chiến, ca nô, 800 xe cơ giới và phần lớn lực lượng thủy quân, cơ giới phối hợp.
Cuộc tiến công này bao trùm trên một diện rộng 12 tỉnh (7 tỉnh vùng Việt
Bắc và 5 tỉnh trung du), chia thành 2 bước: bước thứ nhất mang mật dang Lê-a
(Léa) (tên một đèo cao 1362m trên đường số 3 giữa Nguyên Bình và Bắc Kạn) được
tiến hành từ ngày 7/10 đến ngày 19/11; bước thứ hai mang mật danh Xanh-tuy
(ceinture: vành đai) được tiến hành từ ngày 20/11 và kết thúc ngày 21/12.
Trong bước một, do phía Pháp chủ động, lại dựa vào phương tiện kĩ thuật
quân sự hiện đại nên chúng hung hăng bắn phá ác liệt. Tuy phe Việt Nam chúng ta
có sự chuẩn bị từ trước nhưng vì thế địch quá mạnh, quá nhanh nên nhiều nhân dân,
dân quân du kích và thậm chí là một số đơn vị chủ lực lúng túng, bị động. Trích Việt
Bắc 30 năm chiến tranh cách mạng (1945-1975), tập 1, trang 102, “nhân dân hốt
hoảng, gồng gánh dắt díu, bồng bế đưa nhau chạy vào rừng; một số cơ quan, cán bộ,
nhân viên vội vàng sơ tán mỗi người một ngả; du kích, tự vệ lúng túng về tổ chức
và chỉ huy đánh địch, mải lo sơ tán gia đình nên đối phó yếu ớt. Có nhân viên Uỷ
ban xã tuy địch còn ở xa cũng chạy vào rừng sâu”. Điều này nguyên nhân là do
trong chúng ta tư tưởng “đại chủ quan, khinh địch”, “đại hậu phương chủ nghĩa”
còn tương đối nặng nề, hơn nữa, sự hiệp lực tác chiến giữa các đơn vị chủ lực với
dân quân du kích còn chưa chặt chẽ.
Kịp thời rút kinh nghiệm, quân dân ta khắc phục lại những thiếu sót, tổ chức
lại lực lượng và chuyển sang thế phản công. Theo Văn kiện quân sự của Đảng, tập
2, trang 248 - 258, chúng ta thực hiện phương châm “giam chân địch tại mấy căn cứ
chúng vừa chiếm, bao vây những căn cứ đó, thu nhỏ nó lại như những hòn đảo giữa
bể; chặt đứt đường giao thông liên lạc giữa các cứ điểm của địch, không cho chúng
tiếp ứng và tiếp tế; giữ gìn chủ lực nhưng cũng phải nhè những chỗ yếu của địch mà
đánh những trận vang dội, những trận tiêu diệt…” Quân dân ta giành được nhiều
thắng lợi; các trận đánh tiêu biểu bao gồm: trận mai phục ở Đoan Hùng (24/10), trận
đánh tại đường số 4 (30/10). Con đường số 4 trở thành “con đường tử thần” của thực dân Pháp.
Ngày 20/11, Pháp mở ra đợt tấn công thứ hai Xanh-tuy. Chúng càn quét
những nơi trú ẩn của chính phủ Việt Minh, bắt giữ hơn 1000 người Việt và giải
thoát nhiều con tin người Pháp. Có một giai thoại nói rằng: “Hồ Chí Minh và Võ
Nguyên Giáp nấp sau một bụi cây khi quân Pháp đi tới, Giáp tưởng sẽ bị bắt, nhưng
rồi quân Pháp đi qua không trông thấy nên hai người thoát được".
Qua cơn bất ngờ, chúng ta tổ chức các ổ phục kích và đánh phản công; nhiều
chiến trường khác cũng phối hợp với chiến trường Việt Bắc. Chúng ta giành được
rất nhiều chiến thắng vang dội, tiêu biểu là trận đánh tại đèo Giàng (15/12), phá hủy
17 xe, diệt 60 tên (có hai trung úy), thu hai triệu bạc Đông Dương và nhiều vũ khí,
quân trang, quân dụng. Quân Pháp bị tấn công ở khắp nơi: trên không, đường thủy,
đường bộ; không ở đâu là an toàn đối với chúng. Quan năm Các-bôn-ne
(Carbonnet) phải thừa nhận: “Mặc dù nói ra thì ngại ngùng nhưng ta phải thừa nhận
rằng: suốt cả tháng 12 địch đã giữ quyền chủ động, họ luôn luôn tấn công ta trên
đường giao thông cũng như ở các cứ điểm… Chúng ta bị thua thiệt rất đau đớn…”.
Viên Đội Bi-cát (Bicard) viết thư về cho gia đình: “Ngày tháng càng kéo dài, bộ đội
ta càng nhiều người chết… Mong rằng giấc mộng kinh tởm này sẽ chấm dứt mau”.
Còn tiểu đội trưởng Pau-rô (Paurcau) thì viết: “Cuộc chiến tranh phi nghĩa này bao 12
giờ sẽ chấm dứt, để chúng ta được sống một đời hòa bình trong gia đình ấm áp của
chúng ta” (theo Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, trang 356-361). 2.2.3. Kết quả
Sau hơn 2 tháng tấn công lên chiến khu Việt Bắc, trước sức mạnh kiên cường
của quân dân ta, 3300 binh sĩ Pháp đã bỏ mạng; 3900 binh sĩ khác bị thương. Chúng
ta bắn rơi 18 máy bay, bắn chìm 54 ca nô; phá hủy hoàn toàn 255 xe cơ giới, 13
máy vô tuyến, 85 súng cối, 90 súng badôca, 762 súng liên thanh, 4100 súng trường
cùng nhiều quân trang, quân dụng. Về phía quân dân chúng ta, 200 dân quân, tự vệ
và bộ đội hi sinh; 168 bị thương mất tích, tự phá một khẩu pháo 45 ly, 4 trung liên,
48 súng trường bị hỏng. Pháp giết hơn 2500 trâu bò, đốt hơn 3760 nóc nhà. Tuy
nhiên, quân dân Việt Nam đã thu được của địch 2 khẩu pháo 105 ly, 3 khẩu 75 ly, 16
khẩu 20 ly, 42 súng cối, 357 liên thanh các cỡ, 45 badôca, 1160 súng trường và hàng
chục tấn đạn dược cùng đồ quân trang, quân dụng (theo Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập
5, trang 357-358 và những sự kiện lịch sử Đảng, tập 2 (1945-1954), trang 138-139).
Qua chiến dịch Việt Bắc, các cơ quan đầu não kháng chiến đã dạn dày thêm
kinh nghiệm và nhân dân thấy rõ hơn dã tâm xâm lược của Pháp, do đó càng quyết
tâm gắn bó với Đảng và Nhà nước, tạo nên khối đại đoàn kết vững chắc, sẵn sàng
chiến đấu để bảo vệ độc lập, tự do.
Có thể nói, Pháp đã không đạt được bất kì mục tiêu cơ bản nào trong âm
mưu tấn công lên Việt Bắc.
Chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947 là chiến thắng lớn đầu tiên của quân
dân Việt Nam ta. Chiến thắng này đã đập tan chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh”
của thực dân Pháp, buộc chúng phải chuyển sang “đánh lâu dài”.
2.3. Chiến dịch Biên giới thu – đông năm 1950
Đầu năm 1950, tình hình thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến có lợi
cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc Việt Nam. Trung Quốc
(18/01/1950), Liên Xô (30/01/1950) và các nước dân chủ Nhân dân công nhận nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cục diện trên chiến trường giữa ta và địch chuyển
sang thế cầm cự giằng co. Đặc biệt sau chuyến công tác bí mật ra nước ngoài của
Chủ tịch Hồ Chí Minh đầu năm 1950, Liên Xô, Trung Quốc đã thỏa thuận với Chủ
tịch Hồ Chí Minh một số giải pháp hỗ trợ cho cuộc kháng chiến của ta. Trước
những điều kiện thuận lợi và sự hỗ trợ của các nước Dân chủ nhân dân nhằm nhanh
chóng kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tháng 6/1950, Thường vụ
Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở chiến dịch Biên giới lấy
tên là chiến dịch Lê Hồng Phong II. Chiến dịch được mở ra với mục đích “Tiêu diệt
một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng vùng biên giới phía bắc nước ta,
thu hẹp phạm vi chiếm đóng của địch, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc, tiến
tới giành quyền chủ động trên chiến trường chính”.
Ngày 12/8/1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị cho các cấp
Đảng bộ lãnh đạo quân dân địa phương đánh địch mạnh để tiêu hao lực lượng địch,
kiềm chế địch, phối hợp với “một chiến dịch lớn” do Trung ương và Bộ Tổng Tư
lệnh trực tiếp chỉ đạo; do Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lệnh phát động, đồng thời phát
động trong toàn quốc tuần lễ “thi đua giết giặc lập công”. Trong bức thư gửi các
chiến sĩ ở biên giới Bác đã nhắc nhở "Trong cuộc chiến đấu này ta chỉ được đánh
thắng, không cho đánh bại". 13
Đến cuối tháng 8/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra mặt trận cùng Bộ Chỉ huy
Chiến dịch trực tiếp chỉ đạo chiến dịch. Người kiểm tra kế hoạch tác chiến, xem xét
công tác chuẩn bị hậu phương, theo dõi kịp thời diễn biến của chiến dịch, góp
những ý kiến chỉ đạo và động viên cán bộ, bộ đội, dân công.
Năm 1947, khi ta quyết định mở chiến dịch Việt Bắc trong Thư gửi đồng bào
các tỉnh Việt Bắc, Hồ Chí Minh xúc động ghi nhớ tấm lòng, nghĩa cử cao đẹp của
đồng bào dân tộc giúp đỡ cán bộ làm cách mạng: “Tôi không bao giờ quên được,
trong những ngày gian nan cực khổ đó, đồng bào trong tỉnh ta, các cụ già, các chị
em phụ nữ, anh em nông dân, các em thanh niên, các cháu nhi đồng ai cũng hăng
hái giúp đỡ… Đồng bào Thổ, đồng bào Nùng, đồng bào Mán, đồng bào Mèo, cho
đến anh em Hoa kiều, người thì giúp chúng tôi ăn, kẻ thì cho chúng tôi áo. Có
những đồng bào nhịn ăn nhịn mặc, bán trâu bán ruộng để giúp chúng tôi làm cách
mệnh”. Với tầm nhìn xa trông rộng của mình, Bác đã thấy được trước trong chiến
dịch Biên giới này công tác hậu cần phải dựa vào sức dân ba tỉnh Cao Bằng - Bắc Kạn - Lạng Sơn.
Do quy mô của Chiến dịch tương đối lớn, có nhiều lực lượng tham gia, trên
địa bàn rộng, rừng núi hiểm trở, lại xa căn cứ hậu cần của ta, nên việc chuẩn bị, bảo
đảm cho Chiến dịch rất khó khăn. Thấy trước được điều đó, trong Hội nghị Quốc
phòng (ngày 2/9/1950), Bác Hồ đã đề nghị Chính phủ tập trung chỉ đạo tiếp tế cho
Chiến dịch Biên giới và chỉ thị cho các lực lượng tham gia Chiến dịch: “Chiến dịch
Cao - Bắc - Lạng rất quan trọng. Chúng ta quyết đánh thắng trận này”. Ngày
9/9/1950, Người ra Lời kêu gọi đồng bào ba tỉnh Cao - Bắc - Lạng:
“ Hỡi đồng bào yêu quý, quân ta đã mở chiến dịch trên mặt trận Cao - Bắc -
Lạng chiến dịch này rất quan trọng cho Cao - Bắc - Lạng và cả toàn quốc. Đồng bào
ta đã chuẩn bị rất nhiều trong việc chuẩn bị chiến dịch như: Góp quân lương, sửa
đường sá, vận tải, chuyên chở giúp đỡ bộ đội. Tôi trân trọng thay mặt chính phủ, và
quân đội cảm tạ đồng bào. Tôi kêu gọi toàn thể đồng bào ba tỉnh, các ủy ban kháng
chiến và hành chính, các đoàn thể nhân dân cố gắng thêm nữa, tiếp tục giúp đỡ cho
bộ đội ta trước mặt trận để quân ta giết nhiều địch, đánh thắng to. Đồng bào hãy tiến
lên làm gương kiểu mẫu cho nhân dân toàn quốc, giúp cho Chiến dịch được thắng lợi".
Qua những lời kêu gọi, động viên của Người làm cho toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân ta, đặc biệt là đồng bào Cao - Bắc - Lạng cũng cảm nhận sâu sắc ý nghĩa
và tầm quan trọng của chiến dịch Biên giới phải giành thắng lợi, sự kiện chủ tịch
Hồ Chí Minh trực tiếp ra mặt trận là nguồn sức mạnh tinh thần, động viên quân dân
ta quyết tâm thắng lợi trong chiến dịch. Quân và dân háo hức, khẩn trương ra mặt
trận thi đua giết giặc lập công.
Thực hiện Lời kêu gọi của Bác, hàng vạn đồng bào các dân tộc Cao Bằng rời
nhà lên đường đi chiến dịch, làm dân công hỏa tuyến bạt núi, mở đường, bắc cầu,
vận chuyển lương thực, đạn dược phục vụ chiến dịch. Với khẩu hiệu “Tất cả cho
chiến dịch được toàn thắng” Đảng bộ đã lãnh đạo huy động hơn 78.000 người trong
đó 2/3 là phụ nữ với 1.340.748 ngày công phục vụ cho chiến dịch. Ngoài sức người,
Cao Bằng còn huy động 2.346 tấn gạo trên 120 tấn thực phẩm phục vụ chiến dịch. 14
Đây là một cuộc động viên lớn nhất cả về sức người và sức của từ khi Quân đội ta
bước vào cuộc kháng chiến đến nay.
Ban đầu, ý định tác chiến của Bộ chỉ huy Chiến dịch là đánh Cao Bằng trước,
sau đó chuyển xuống đánh Đông Khê, Thất Khê. Nhưng sau khi phân tích tình hình,
Trung ương Đảng và Bác quyết định đánh Đông Khê để mở màn Chiến dịch. Phân
tích chủ trương đánh Đông Khê, Người chỉ rõ: "Ta đánh vào Đông Khê là đánh vào
nơi quân địch tương đối yếu, nhưng lại là vị trí rất quan trọng của địch trên tuyến
Cao Bằng - Lạng Sơn. Mất Đông Khê, địch buộc phải cho quân đi ứng cứu, ta có cơ
hội thuận lợi tiêu diệt chúng trong vận động". Theo kế hoạch tác chiến ban đầu, ta
định tập trung lực lượng tiêu diệt địch ở Cao Bằng, đồng thời đánh địch lên ứng
cứu, chi viện. Nhưng sau đó cân nhắc lại, Bộ Chỉ huy chiến dịch chủ trương đánh
Đông Khê trước, mở màn cho chiến dịch, vừa bảo đảm chắc thắng, vừa tạo điều
kiện cho chiến dịch phát triển thuận lợi. Chủ trương này được Chủ tịch Hồ Chí
Minh phê chuẩn. Sự thay đổi này đã cho thấy tầm nhìn chiến lược vô cùng tinh tế
của Bác và là một yếu tố rất quan trọng làm nên thắng lợi của Chiến dịch Biên giới thu – đông năm 1950.
Trước ngày lên đường đi chiến dịch Người đã từng căn dặn đoàn công tác đi
lên Cao Bằng "Chúng ta sẽ đi một chuyến công tác dài ngày, thời gian không thể
định trước nhưng mất chừng 1 tháng, chuyến đi này rất quan trọng. Đường đi vất
vả, vì vậy các chú đều phải cố gắng làm tròn nhiệm vụ của mình, tuyệt đối giữ bí
mật, nếu để lộ ra sẽ làm tổn hại đến việc lớn. Muốn vậy từ việc chọn đường đi đến
nơi ăn chốn ở giao tiếp với nhân dân phải biết cách giữ mình". Lời căn dặn này đã
thể hiện được tầm nhìn của Bác về thời gian của chiến dịch lần này, và phải dựa trên
đường lối kháng chiến mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn từ ban đầu là “toàn dân,
toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính”. Ngay từ đầu cuộc kháng chiến tư
tưởng của Người coi đây là cuộc chiến tranh nhân dân, và phải phát huy tối đa sức
mạnh toàn dân tộc, có lực lượng toàn dân tham gia mới thực hiện được kháng chiến
toàn diện và tự lực cánh sinh. Mặc dù rất coi trọng sự giúp đỡ từ bên ngoài nhưng
vận mệnh của dân tộc ta là phải do nhân dân ta quyết định phải dựa vào sức mạnh
của ta, sự giúp đỡ của bên ngoài chỉ là điều kiện hỗ trợ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
vận dụng đúng đắn bài học mà chính mình rút ra khi Bản yêu sách 8 điểm của nhân
dân An Nam của Bác không được đón nhận vào năm 1919.
Cuối tháng 8, đầu tháng 9 năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường đi
Chiến dịch Biên giới, trực tiếp chỉ đạo chiến dịch. Trên đường đi, ghé thăm một đơn
vị thanh niên xung phong làm đường phục vụ chiến dịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
tặng thanh niên bốn câu thơ: “Không có việc gì khó,
Chỉ sợ lòng không bền, Đào núi và lấp biển,
Quyết chí ắt làm nên”.
Những câu thơ của Bác đã thắp lên niềm tin của đồng bào vào sức mạnh của
con người khi đối diện với khó khăn và nghịch cảnh. Qua 4 câu thơ trên, Bác đã 15
khẳng định chỉ cần có niềm tin vào bản thân và vào đường lối của Đảng, ý chí quyết
tâm và lòng kiên trì, ắt dân tộc ta sẽ giành được thắng lợi.
Ngày 13/9, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Sở Chỉ huy chiến dịch để đến Mặt trận
Đông Khê, trực tiếp theo dõi bộ đội đánh trận mở màn chiến dịch. Người chỉ thị cho
bộ đội: "Dù khó khăn đến đâu cũng kiên quyết khắc phục đánh cho kỳ thắng trận đầu".
Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đài quan sát chỉ đạo trận đánh cứ điểm Đông Khê ngày 16/9/1950 (Ảnh tư liệu)
Đúng 6h sáng ngày 16/9/1950, quân ta bất ngờ nổ súng tấn công cụm cứ điểm
Đông Khê. Sau 3 ngày chiến đấu ác liệt, quân ta đã tiêu diệt và làm chủ hoàn toàn
cụm cứ điểm Đông Khê. Sau khi tiêu diệt cứ điểm Đông Khê, Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Bộ chỉ huy chiến dịch Biên giới nhận định: Địch có thể tái chiếm Đông
Khê đánh lên đón binh đoàn Sác Tông (CharTon) rút từ Cao Bằng. Bộ chỉ huy chiến
dịch quyết định thực hiện phương án “nhử thú giữ vào tròng để khép vòng lưới
thép”. Tiếp đó ta cho quân tiêu diệt gọn quân địch rút chạy từ Cao Bằng, thị xã Cao
Bằng được giải phóng vào ngày 3/10/1950. Ngày 8/10/1950, quân ta tiếp tục tiêu
diệt hai binh đoàn ứng cứu của Pháp. Trong những ngày truy kích địch, Bác Hồ trực
tiếp theo dõi diễn biến và chỉ đạo trận mở màn Chiến dịch tiêu diệt cụm cứ điểm
Đông Khê tại đài quan sát Chiến dịch, liên tục gửi nhiều thư, điện động viên bộ đội. 16
Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi các chiến sĩ bị thương ở mặt trận Đông
Khê. 20/9/1950. (Ảnh: Bảo tàng Hồ Chí Minh)
Như được tiếp thêm sức mạnh, bộ đội ta đồng loạt xông lên tiêu diệt địch. Sau
29 ngày chiến đấu liên tục ở vùng biên giới (từ 16/9/1950 - 14/10/1950), ta đã tiêu
diệt và bắt sống được 8.296 tên địch, tiêu diệt 10 tiểu đoàn địch, bằng 41% lực
lượng cơ động chiến lược Pháp trên toàn cõi Đông Dương, thu trên 3.000 tấn vũ khí
và phương tiện chiến tranh, giải phóng hoàn toàn khu vực biên giới từ Cao Bằng
đến Đình Lập (Lạng Sơn). Chiến dịch kết thúc với chiến thắng vang dội thuộc về quân ta. 17
Sáng sớm 16/9/1950, từ vị trí quan sát đặt trên núi Báo Đông (cách Đông Khê 11
km đường chim bay), Chủ tịch Hồ Chí Minh chăm chú quan sát, theo dõi chặt chẽ
diễn biến trận Đông Khê, mở màn Chiến dịch Biên giới. (Ảnh tư liệu)
Chiến thắng chiến dịch đã đưa cuộc kháng chiến của ta sang giai đoạn mới -
giai đoạn giành giữ và phát huy quyền chủ động trên chiến trường Bắc Bộ. Chiến
thắng Biên Giới Thu Đông 1950 là kết tinh của những nỗ lực phi thường của quân
và dân ta như Bác đã từng nói “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân
liệu cũng xong", và luôn nhắc nhở trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, tất cả
phải dựa vào dân, và coi cuộc chiến tranh là cuộc chiến tranh toàn dân Nhờ có tầm
nhìn chiến lược và sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, nhạy bén, Đảng ta đã đánh giá
đúng thực lực kẻ thù, đề ra chủ trương, phương châm tác chiến chiến lược kịp thời,
chính xác, động viên cao độ tinh thần quyết chiến, quyết thắng của toàn Đảng, toàn
quân, toàn dân ta tập trung mọi nguồn lực cho tiến công địch trên một hướng xác
định, trong thời điểm quyết định, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh theo hướng có lợi cho ta.
Thắng lợi của chiến dịch biên giới 1950 chứng minh tính đúng đắn của đường
lối chiến tranh toàn dân, toàn diện, trường kỳ dựa vào sức mình là chính mà Đảng ta
và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến. Bài
học về phát huy nội lực trong nhân dân, bài học về sự lãnh đạo của Đảng, về nghệ
thuật chỉ đạo điều hành chiến tranh và phát huy sức mạnh chiến tranh nhân dân, về
huy động tiềm lực và khối đại đoàn kết dân tộc để tạo thành sức mạnh tổng hợp.
Trong đó, bài học về nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo chiến lược tài tình, sắc bén
của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là bài học lớn, sâu sắc nhất, bao trùm và chủ
đạo nhất. Nhờ có tầm nhìn chiến lược và sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, nhạy bén,
Đảng ta đã đánh giá đúng thực lực kẻ thù, đề ra chủ trương, phương châm tác chiến
chiến lược kịp thời, chính xác, động viên cao độ tinh thần quyết chiến, quyết thắng
của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta; tập trung mọi nguồn lực cho tiến công địch
trên một hướng xác định, trong thời điểm quyết định, làm xoay chuyển cục diện 18
chiến tranh theo hướng có lợi cho ta. Bài học kinh nghiệm quý báu về phát huy
nguồn lực địa phương được rút ra từ chiến dịch 1950 để sau này tiếp tục vận dụng
cho chiến dịch Điện Biên Phủ sau này giành thắng lợi kết thúc cuộc kháng chiến
chống Pháp giành thắng lợi.
2.4. Chiến dịch Tây Bắc (1952)
Với đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện và lâu dài”, từ năm 1946 đến
năm 1952, quân dân ta đã dần giành thế chủ động trên khắp các chiến trường còn
quân Pháp bị đẩy vào thế phòng ngự bị động và sa lầy ở Đông Dương. Trong khi
đó, tình hình chính trị, xã hội tại nước Pháp ngày càng rối ren, phức tạp.
Về phía ta, những ưu thế ngày càng phát huy mạnh mẽ. Thắng lợi của Đại hội
Đảng lần thứ II, tiếp đến là thắng lợi của chiến dịch Hòa Bình (từ ngày 10/12/1951
đến 25/2/1952), đã đem lại cho toàn quân, toàn dân ta một niềm cổ vũ mới. Trong
bối cảnh lịch sử đó, bước vào mùa khô năm 1952, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã quyết định chuyển hướng tiến công chủ yếu của bộ đội chủ lực lên Tây
Bắc, nhằm thúc đẩy cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp phát triển lên một bước
mới mang tính quyết định. Tây Bắc là địa bàn chiến lược quan trọng của miền Bắc
Việt Nam nói riêng, của Bắc Đông Dương nói chung. Tiến công làm chủ được Tây
Bắc, ta không những bảo vệ vững chắc khu đầu não kháng chiến Việt Bắc, tạo thành
thế liên hoàn nối liền một dải với hậu phương kháng chiến rộng lớn, mà còn có điều
kiện thuận lợi mở rộng giao lưu quốc tế, đặc biệt là tăng cường thêm tình đoàn kết
chiến đấu Việt - Lào cùng chống kẻ thù chung. Tại đây, quân Pháp dàn trải về lực
lượng nên không mạnh và bộc lộ nhiều sơ hở.
Tháng 4/1952, Bộ Chính trị hạ quyết tâm giải phóng Tây Bắc, mọi công tác
chuẩn bị cho chiến dịch được xúc tiến khẩn trương, trước hết là chuẩn bị đường sá,
lực lượng, lương thực, thực phẩm. Tháng 6/1952, để chuẩn bị chiến dịch Tây Bắc,
Liên khu ủy Việt Bắc (lúc này Tây Bắc vẫn thuộc Việt Bắc) ra nghị quyết về phát
triển du kích chiến tranh tại Tây Bắc. Cuối tháng 8, Chủ tịch Hồ Chí Minh nghe Đại
tướng Võ Nguyên Giáp trình bày kế hoạch tác chiến chiến dịch Tây Bắc. Nghe
xong phương án tác chiến, Người căn dặn: Đây là lần đầu tiên ta mở chiến dịch lớn,
địa hình hiểm trở, cần nắm chắc địa hình và chú trọng thực hiện đúng chính sách
dân tộc, giúp đỡ đồng bào dân tộc, bộ đội phải giữ kỷ luật dân vận. Lời căn dặn của
Bác thể hiện sự tinh tế, nhạy bén đối với bối cảnh cuộc chiến, đồng thời sự quan
tâm, tình cảm sâu sắc của Bác đối với đồng bào dân tộc.
Do tính chất quan trọng của chiến dịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành nhiều
thời gian trực tiếp chỉ đạo, theo dõi, động viên quân và dân ta từ lúc khởi đầu cho
đến khi kết thúc chiến dịch. Từ ngày 6/9/1952, Hội nghị cán bộ chuẩn bị chiến dịch
Tây Bắc diễn ra trong thời tiết xấu, mưa kéo dài, tiếng suối chảy, tiếng lá rừng rít
từng đợt tạo nên âm thanh dữ dội không khác gì bão. Đến ngày mùng 9, cuộc họp
sắp kết thúc thì bỗng thấy Bác một tay cầm ô, tay kia chống gậy, hai ống quần xắn
cao từ ngoài tươi cười đi vào. Tiếng hò reo hân hoan vang dậy vì không ai ngờ Bác
đến trong mưa lũ thế này. Thấy Bác Hồ tới, các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Nguyễn
Chí Thanh vội ra đón. Bác kể chuyện: Hôm nay trời mưa to, nước lũ đổ về, khi đi 19
đến một cái suối nước chảy mạnh, thấy bên kia có một nhóm đồng bào đang ngồi
đợi nước xuống để sang, Bác nghĩ: nếu không đi ngay, e các chú đợi mất thì giờ.
Nên Bác cùng mấy chú nữa quyết tâm cởi áo quần ngoài, tay sào, tay gậy, lần sang
được. Thấy Bác sang được, nhóm đồng bào kia cũng quyết tâm sang. Đó là kinh
nghiệm cho các chú. Bất kỳ việc gì, to hay nhỏ, mình có quyết tâm thì làm được, mà
còn lôi cuốn người khác cùng quyết tâm như mình. Qua hành động đó, Bác đã trở
thành động lực, tấm gương sáng cho những cán bộ không chỉ của thời đại bấy giờ,
mà còn các thế hệ tương lai về đức tính giản dị, khiêm nhường.
Nói chuyện với Hội nghị cán bộ chuẩn bị cho Chiến dịch Tây Bắc, Người chỉ
rõ mục đích, ý nghĩa của chiến dịch là tiêu diệt sinh lực địch là chính, tranh thủ
nhân dân, giải phóng đất đai, trong đó nhiệm vụ chính là tiêu diệt sinh lực. Trung
ương Đảng và Tổng Quân ủy đã cân nhắc kỹ chỗ dễ và chỗ khó của chiến trường
sắp đến, và quyết tâm là chiến dịch này phải đánh cho thắng lợi. Bác phân tích một
cách sâu sắc rằng: “Quyết tâm của Trung ương chưa đủ, còn phải để cho các chú
cân nhắc kỹ thấy rõ cái dễ và cái khó để truyền cái quyết tâm đó cho các chú. Trung
ương và các chú quyết tâm cũng chưa đủ, mà phải làm cho quyết tâm đó xuống đến
mọi người chiến sỹ... Quyết tâm đó phải thành một khối thống nhất từ trên xuống
dưới và từ dưới lên trên.” Phân tích trên đã thể hiện quan điểm lãnh đạo đúng đắn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cùng ngày 09/9/1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố 8
điều mệnh lệnh của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho cán bộ, chiến sĩ và
đồng bào Tây Bắc, trong đó nói rõ: “Thực dân Pháp và vua quan Việt Nam đã áp
bức, bóc lột đồng bào miền núi thậm tệ. Nay Chính phủ ta phái quân đội đến tiêu
diệt giặc Pháp và bè lũ bù nhìn phản quốc để giải phóng đồng bào khỏi ách nô lệ.. ."
Căn cứ vào thế và lực giữa địch, ta trên chiến trường, ngày 28/9/1952, Ban
Chấp hành Trung ương ra chỉ thị mở Chiến dịch Tây Bắc: chủ trương của Trung
ương Đảng là “Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, tìm nơi sơ hở của địch mà đánh và
hướng tiến công là Chiến dịch Tây Bắc. Mục đích của chiến dịch là: - Tiêu diệt sinh
lực địch - Tranh thủ nhân dân. - Giải phóng một bộ phận đất đai có tính chất quan
trọng về chiến lược. Để thực hiện mục đích của chiến dịch, Trung ương quyết định
tập trung binh lực, tập trung cán bộ và phương tiện, tập trung nhân lực và vật lực,
giành cho toàn thắng”. Lực lượng của quân đội ta tham gia chiến dịch gồm có: Các
Đại đoàn 308, 312, 316, 351 và Trung đoàn 148. Đại đoàn 320 và 304 hoạt động ở
vùng sau lưng thuộc Liên khu 3. Bộ Chính trị cử đồng chí Võ Nguyên Giáp làm Tư
lệnh chiến dịch, đồng chí Hoàng Văn Thái là tham mưu trưởng, đồng chí Nguyễn
Chí Thanh làm Chủ nhiệm Chính trị và đồng chí Trần Đăng Ninh làm Chủ nhiệm Cung cấp.
Chiến dịch Tây Bắc được chuẩn bị chu đáo. Các đơn vị sẵn sàng xuất quân với
một quyết tâm chiến đấu cao. Ngày 01/10/1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư
cho cán bộ và chiến sĩ chiến dịch Tây Bắc. Với lời lẽ ngắn gọn súc tích, Bác đã
động viên kịp thời cán bộ, chiến sĩ và dân công tham gia chiến dịch: “Chiến dịch
này là một chiến dịch có vai trò rất quan trọng, các chú phải đánh cho thắng. Tất cả
các chú, cán bộ cũng như chiến sĩ đều phải: Quyết tâm chiến đấu, chấp hành triệt để
mệnh lệnh. Bền bỉ dẻo dai, vượt qua mọi gian khổ, khắc phục tất cả khó khăn.
Thương dân, trọng dân và tốt với dân. Tiêu diệt thật nhiều địch, giành cho được
toàn thắng. Bác chờ tin thắng lợi của các chú để khen thưởng các chú”. Cùng ngày,
Bác gửi thư cho các chiến sỹ dân công ở mặt trận Tây Bắc, nhấn mạnh: “Chiến dịch 20
này rất quan trọng. Các cô, các chú cũng là chiến sỹ, cũng có công như các chiến
sỹ, phải cùng anh em bộ đội giành cho được thắng lớn”. Lá thư của Bác là sự khích
lệ to lớn nhằm củng cố tinh thần chiến đấu chô lực lượng dân quân của ta, góp phần
không nhỏ làm nên thành công của chiến dịch
Có thể nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn theo sát quân và dân Tây Bắc trong
những năm tháng kháng chiến gian khổ. Người luôn dành tình cảm yêu thương đặc
biệt cho đồng bào chiến sĩ đang sống và chiến đấu ở miền Tây Bắc xa xôi đầy thiếu
thốn. Sự chỉ đạo sát sao cùng sự quan tâm, động viên, cổ vũ kịp thời của Người là
nguồn động lực lớn giúp quân và dân Tây Bắc nỗ lực khắc phục khó khăn, liên tục
giành những thắng lợi quan trọng. Sau gần 2 tháng mở chiến dịch với 3 đợt chiến
đấu quyết liệt (từ ngày 14/10 đến ngày 10/12/1952), quân ta đã tiêu diệt và loại khỏi
vòng chiến đấu 6.029 tên địch, diệt gọn 4 tiểu đoàn và 28 đại đội, đánh thiệt hại
nhiều tiểu đoàn tinh nhuệ, phá hủy và tịch thu toàn bộ vũ khí, đồ dùng quân sự, các
kho lương thực và thực phẩm của địch; giải phóng khoảng 28.500 km2 đất đai ở
vùng chiến lược vô cùng quan trọng và 25 vạn đồng bào Tây Bắc khỏi ách áp bức
của Pháp. Chiến thắng Tây Bắc còn làm phá sản âm mưu thâm độc lập “xứ Thái tự
trị” của Pháp hòng chia rẽ người Thái với người Kinh cũng như người Thái với
đồng bào các dân tộc thiểu số khác để dễ bề cai trị ở khu vực này.
Ngày 25/12/1952, Bác gửi thư cho bộ đội, dân công ở mặt trận Tây Bắc, khen
ngợi bộ đội, dân công đã thắng trận, giải phóng đồng bào và một phần đất đai Tây
Bắc, rồi Bác dặn dò các cô, các chú dân công “thắng không kiêu, bại không nản”.
Chủ trương của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đưa bộ đội chủ
lực lên tác chiến ở chiến trường Tây Bắc là hoàn toàn chính xác. Có hướng tiến
công chiến lược đúng đắn mới có chiến dịch thắng lợi. Ngày 29/01/1953, tại Hội
nghị tổng kết Chiến dịch Tây Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương
Đảng, Chính phủ biểu dương cán bộ, chiến sĩ dân công đã thấm nhuần quyết tâm
của Trung ương Đảng, ra sức tiêu diệt nhiều sinh lực địch, chịu đựng gian khổ, khắc
phục khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ, làm đúng chính sách của Đảng đối với
đồng bào thiểu số. Người nói: “Trung ương, Chính phủ khen ngợi toàn thể cán bộ,
chiến sĩ. Trung ương, Chính phủ, Bác bằng lòng các chú, lần này chưa phải hoàn
toàn, nhưng hơn mọi lần trước”. Bên cạnh đó Người cũng chỉ ra những khuyết điểm
để bộ đội ta khắc phục: cán bộ thương yêu binh sĩ chưa đúng mức; nhiều đơn vị còn
thực hiện chưa đúng chính sách chiến lợi phẩm, còn nhiều tính chất quan liêu đại
khái... Thực hiện lời đã hứa trong thư, Người trao thưởng cho Đại đoàn 308 là đại
đoàn có nhiều thành tích nhất và tặng cho mỗi trung đoàn 25 huy hiệu về thưởng
cho anh em cán bộ, chiến sĩ đã lập công. Người căn dặn: phải nhớ cất nhắc các đội
viên và cán bộ lâu năm. Có chiến sĩ 5, 6 năm không được cất nhắc.
Thắng lợi của Chiến dịch Tây Bắc đã đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta
lên một bước tiến mới trên con đường tiếp tục giữ vững và phát huy thế chủ động
chiến lược trên toàn chiến trường Việt Nam. Để có được chiến công đó, chính là
nhờ sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Bác không chỉ theo dõi sát sao tình hình ngoài trận địa để đưa ra những
phương châm, chiến lược chỉ đạo đúng đắn mà còn quan tâm, săn sóc và cổ vũ,
động viên kịp thời các cán bộ, chiến sĩ, đồng bào đang chiến đấu vì độc lập tự do
của nước nhà. Người đã truyền cho các chiến sĩ ta một ý chí quyết chiến quyết
thắng, một nghị lực, một sức mạnh phi thường, một niềm tin sắt đá để quân và dân
ta vượt qua khó khăn hiểm nguy giành thắng lợi hoàn toàn. 21
2.5. Cuộc tiến công chiến lược Đông – Xuân 1953 – 1954
Trong giai đoạn 1946-1954, tình trạng kéo dài cuộc chiến tranh xâm lược
Đông Dương đã đẩy nền kinh tế của nước Pháp lâm vào khủng hoảng trầm trọng,
các phong trào đấu tranh đòi chấm dứt chiến tranh Đông Dương của nhân dân Pháp
ngày càng lan rộng, mâu thuẫn trong giới cầm quyền Pháp ngày càng gay gắt. Chỉ
trong vòng 8 năm tiến hành chiến tranh Đông Dương, nội các Chính phủ Pháp đã
phải thay đổi tới 18 lần. Trước tình hình trên, giới cầm quyền hiếu chiến Pháp chủ
trương dựa vào sự viện trợ của Mỹ nhiều hơn để tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh xâm
lược, nhằm tìm cho nước Pháp “một lối thoát danh dự” ra khỏi cuộc chiến tại Việt Nam.
Với sự hậu thuẫn của Mỹ, tháng 5-1953, Hăngri Nava (Henri Navarre), Tham
mưu trưởng lục quân khối NATO, được cử làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh
Pháp ở Đông Dương. Nava vạch ra một kế hoạch có quy mô rộng lớn, nhằm
trong vòng 18 tháng sẽ tiêu diệt phần lớn chủ lực của ta, giành thắng lợi quyết
định, làm cơ sở cho một giải pháp chính trị có lợi cho chúng. Theo kế hoạch
Nava, phần tác chiến gồm hai bước và hoàn thành trong 18 tháng: Bước 1, từ thu -
đông 1953 đến xuân 1954, giữ thế phòng ngự chiến lược ở Bắc Bộ, thực hiện tiến
công chiến lược ở miền Nam, tập trung binh lực xây dựng lực lượng cơ động chiến
lược mạnh. Bước 2, từ thu - đông 1954, dồn toàn bộ lực lượng ra Bắc, chuyển sang
tiến công chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ, giành thắng lợi quân sự quyết
định, buộc ta phải đàm phán theo những điều kiện có lợi cho chúng nhằm kết thúc chiến tranh.
Trước tình hình trên, tháng 9-1953, tại Tỉn Keo, huyện Định Hoá, tỉnh Thái
Nguyên, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị Bộ Chính trị bàn và phê chuẩn
phương án tác chiến đông xuân 1953-1954 là hướng Tây Bắc, Tây Nguyên và Trung
- Hạ Lào của Bộ Tổng tham mưu. Tổng Quân uỷ quyết tâm chọn phương án trên
với chủ trương: chưa nên đánh vào đồng bằng ngay mà phải phá tan âm mưu tập
trung binh lực của địch để tạo điều kiện tác chiến tương đối lớn.
Sau khi nghe Đại tướng Võ Nguyên Giáp báo cáo, Người nhấn mạnh phương
châm: “Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt” và nhắc: “Địch tập trung quân cơ
động để tạo nên sức mạnh... Không sợ! Ta buộc chúng phải phân tán binh lực thì
sức mạnh đó không còn... Phương hướng chiến lược không thay đổi. Về hướng hoạt
động, lấy Tây Bắc làm hướng chính, các hướng khác phối hợp. Hướng chính hiện
nay không thay đổi, nhưng trong hành động có thể thay đổi. Phép dùng binh là thiên
biến vạn hóa”. Đây là sự vận dụng nhuần nhuyễn triết lý "Dĩ bất biến, ứng vạn
biến" của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là câu nói nổi tiếng của Hồ Chí Minh vào thời
điểm tháng 5 năm 1946 trước khi Người đi sang Pháp để “tìm kiếm một giải pháp
hòa bình” để xây dựng, bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ và đưa đất nước vượt
qua hoàn cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”. "Dĩ bất biến" tượng trưng cho sự trường tồn
của tư tưởng, phong cách, phương pháp Hồ Chí Minh và là lời nhắc nhở quân dân ta
trong công tác chiến đấu luôn phải giữ vững mục đích độc lập dân tộc. "Ứng vạn
biến" mang ý nghĩa đường lối cách mạng và sách lược cách mạng phải uyển
chuyển, linh hoạt để thích ứng kịp thời với sự thay đổi liên tục của bối cảnh cuộc 22
chiến. Sự kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa hai yếu tố trên đã tạo nên nét tinh tế, tính
đúng đắn vượt thời đại trong qaun điểm cách mạng của Bác.
Thực hiện cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân, quân và dân ta đã làm đảo
lộn kế hoạch chiến tranh của Pháp - Mỹ, làm xoay chuyển cục diện chiến trường có
lợi cho ta. Trong khi Nava tập trung quân xây dựng lực lượng cơ động chiến lược để
có “quả đấm” mạnh, thì những chiến dịch của quân ta trên các chiến trường, đặc
biệt là hướng Lai Châu, Trung Lào, Hạ Lào, Bắc Tây Nguyên và Thượng Lào làm
cho quân địch hết sức bị động, lúng túng, phải căng mỏng lực lượng ra đối phó.
2.6. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ (1954)
Giữa tháng 11-1953, bộ đội chủ lực của ta tiến lên Tây Bắc, giải phóng Lai
Châu; phối hợp với quân đội Pathét Lào tiến công địch ở Trung - Hạ Lào. Nava
buộc phải cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ và xây dựng thành một tập đoàn
cứ điểm gồm ba phân khu yểm hộ lẫn nhau, có cơ cấu phòng ngự vững chắc, với
hơn 16 ngàn quân tinh nhuệ. Mục đích của chúng là biến thế trận này thành bàn đạp
chiếm lại Tây Bắc, khống chế chiến trường Lào, đồng thời giữ quân chủ lực ta ở
Việt Bắc để quân Pháp rảnh tay hoạt động ở đồng bằng Bắc Bộ và đánh chiếm Liên
khu 5. Mặc dù có tới 50 vạn quân, bao gồm cả quân ngụy, nhưng Nava không thể
đối phó với cuộc tiến công của quân ta trên khắp các chiến trường. Hy vọng duy
nhất của Nava là ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, một cứ điểm quân sự mà cùng
với các Bộ trưởng, tướng lĩnh Pháp và nhiều tướng lĩnh Mỹ đã nhiều lần tới kiểm
tra cứ điểm Điện Biên Phủ, kể cả Phó Tổng thống Mỹ Níchxơn, đều hết lời ca ngợi
và tuyên truyền đây là “một cứ điểm đáng sợ”, “một pháo đài bất khả xâm phạm, không thể công phá”.
Ngày 6-12-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bộ Chính trị Trung ương Đảng
quyết định tập trung đại bộ phận chủ lực tinh nhuệ của ta, mở cuộc đại tiến công
vào tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của địch ở Điện Biên Phủ, và coi đây là điểm
quyết chiến chiến lược. Người chỉ thị:
“Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng, không những về quân sự mà
cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy,
toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được”
Cũng trong cuộc họp quan trọng này, Người cùng Bộ Chính trị quyết định
thành lập Bộ Chỉ huy và Đảng ủy Mặt trận do Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp
làm Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy Mặt trận. 23
Năm 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết
định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Các chiến trường trong cả nước được lệnh cùng phối hợp với chiến trường
Điện Biên Phủ, đẩy mạnh tiến công, chiến tranh du kích phát triển, làm phá sản kế
hoạch tập trung binh lực của Nava. Hậu phương chi viện cao nhất cho chiến dịch lịch sử.
Để động viên các đơn vị bộ đội thi đua giết giặc lập công, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã trao lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” cho quân đội, và ân cần căn dặn Đại
tướng Võ Nguyên Giáp trước khi ra mặt trận: Cần nắm chắc Nghị quyết của Trung
ương và chủ trương “đánh chắc thắng” của Bộ Chính trị.
Trước khi lên đường ra chiến dịch, Đại tướng Võ Nguyên Giáp có tới chào
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người đã căn dặn: "Tổng tư lệnh ra mặt trận, Tướng quân
tại ngoại, Trao cho chú toàn quyền. Có vấn đề gì khó khăn, bàn thống nhất trong
Đảng ủy, thống nhất với cố vấn thì cứ quyết định rồi báo cáo sau", và người nhắc:
"Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng. Chắc thắng mới đánh, không chắc
thắng không đánh"[3]. Chính nhờ sự tin tưởng cao độ của Người mà Đại tướng đã
có một "quyết định khó khăn nhất" trong cuộc đời cầm quân, đó là quyết định
chuyển từ phương án "đánh nhanh, giải quyết nhanh" sang "đánh chắc, tiến chắc" và
thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ đã chứng minh tính đúng đắn của quyết định này.
Do tính chất tối quan trọng của chiến dịch Điện Biên Phủ nên Bác dành nhiều
thời gian trực tiếp chỉ đạo, theo dõi, động viên quân và dân ta từ lúc khởi đầu cho
đến khi kết thúc chiến dịch. Ngay khi các đơn vị ta tiến lên Tây Bắc, Người đã gửi
thư cho cán bộ và chiến sĩ mặt trận Điện Biên Phủ: “Thu – Đông năm nay, các chú
lại có nhiệm vụ tiến quân vào Điện Biên Phủ để tiêu diệt thêm sinh lực địch, mở
rộng thêm căn cứ kháng chiến, giải phóng thêm đồng bào bị giặc đè nén. Năm
ngoái, các chú đã anh dũng chiến đấu, tiêu diệt nhiều địch, đã thắng lợi to. Bác rất
vui lòng... các chú phải chiến đấu anh dũng hơn, chịu đựng gian khổ hơn, phải giữ
vững quyết tâm trong mọi hoàn cảnh... Bác và Chính phủ chờ tin thắng lợi để khen thưởng các chú”. 24
Ngày 22/2/1954, Tổng Tư lệnh ra lời kêu gọi toàn thể cán bộ và chiến sĩ, toàn
thể các đơn vị, các binh chủng kiên quyết tiêu diệt toàn bộ quân địch. Lời kêu gọi
phát ra, bộ đội ta hăng hái khoét núi, đào hầm, kéo pháo vào trận địa, đánh chiếm
các cứ điểm Hồng Cúm, sân bay Mường Thanh. Giữa lúc đó có thư của Bác Hồ:
“Các chú ra trận, nhiệm vụ các chú lần này rất to lớn, khó khăn nhưng rất vinh
quang. Các chú vừa được chỉnh quân chính trị và chỉnh huấn quân sự đã thu được
nhiều thắng lợi. Bác tin chắc rằng, các chú sẽ phát huy thắng lợi vừa qua, quyết tâm
vượt mọi khó khăn, gian khổ để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang. Bác chờ các chú báo
cáo thành tích để thưởng những đơn vị và cá nhân xuất sắc nhất. Chúc các chú
thắng to - Bác hôn các chú”. Lời động viên kịp thời của Người đã biến thành hành
động thực tế của cán bộ, chiến sĩ trên toàn mặt trận Điện Biên Phủ.
Bộ đội ta kéo những khẩu pháo nặng hàng chục tấn vượt núi, xuyên rừng vào chiến
trường (Ảnh: Tư liệu TTXVN) 25
Đội hình vận tải bằng xe thồ phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ (Ảnh: Tư liệu TTXVN).
Sự động viên đó không chỉ dành cho các lực lượng tham gia chiến dịch, mà
còn thể hiện sâu sắc đối với từng cán bộ, chiến sỹ, từ những vấn đề rộng lớn tới
những tình huống cụ thể trong chiến đấu và sinh hoạt. Với mặt trận đảm bảo cung
cấp cho chiến dịch, một công việc nặng nề có tính quyết định tới sự thành bại của
chiến dịch, Bác cũng đã có thư riêng “Gửi cán bộ cung cấp và đồng bào dân công”.
Bác đã tặng cờ “Quyết chiến quyết thắng” làm giải thưởng luân lưu để khích lệ mọi
người lập công trong chiến dịch. Tết Giáp Ngọ (1954), Người đã gửi tặng mỗi cán
bộ, chiến sỹ ở mặt trận một chiếc ca uống nước có in đậm hàng chữ đỏ tươi “Kiên
quyết làm tròn nhiệm vụ”. Tới gần ngày nổ súng mở màn chiến dịch, tháng 3/1953,
Người lại có thư gửi cán bộ và chiến sỹ ở mặt trận Điện Biên.
Ngày 13-3-1954, quân ta mở cuộc tấn công vào tập đoàn cứ điểm Điện
Biên Phủ. Đây là một cuộc đọ trí, đọ sức hết sức gay go, quyết liệt giữa ta và
địch, để giành giật từng thước đất. Để động viên kịp thời, ngày 15/3, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã gửi điện khen ngợi cán bộ, chiến sĩ đã chiến thắng hai trận mở màn
chiến dịch ở Him Lam, Độc Lập. Đồng thời, Người nêu rõ ý nghĩa lịch sử quan
trọng của chiến dịch cả về quân sự, chính trị và nhắc nhở quân đội ta phải cố gắng,
chiến đấu dẻo dai, bền bỉ, chớ chủ quan, khinh địch để giành toàn thắng cho chiến dịch này. 26
Trận pháo kích vào cứ điểm Him Lam, mở đầu chiến dịch Điện Biên Phủ. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Suốt quá trình diễn ra chiến dịch, Bác còn dành sự quan tâm đặc biệt tới tình
hình chiến trường. Để khắc phục những khó khăn, trở ngại, bảo đảm cung cấp cho
tiền tuyến, Bộ Chính trị và Bác đã kịp thời ra Nghị quyết, chỉ rõ “Toàn dân, toàn
Đảng và Chính phủ nhất định đem toàn lực chi viện cho Điện Biên Phủ và nhất định
làm mọi việc cần thiết để giành toàn thắng cho chiến dịch này”. Chỉ trong một thời
gian ngắn, ta đã huy động được một khối lượng lớn sức người, sức của từ nhiều
vùng miền, từ nhiều giai cấp, tầng lớp trong cả nước. Theo số liệu tổng kết chiến
dịch Điện Biên Phủ, nhân dân đã đóng góp 25.560 tấn gạo, 266 tấn muối, 1.909 tấn
thực phẩm, 26.453 lượt dân công với 18.301.507 ngày công, 20.991 xe đạp thồ,
1.800 mảng nứa, 756 xe thô sơ, 914 con ngựa thồ và 3.130 chiếc thuyền. Trong khi
đó chiến trường Điện Biên Phủ ở cách xa hậu phương có nơi tới 500-600 km, địa thế hiểm trở.
Trải qua 55 ngày đêm “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt” chiến đấu cực
kỳ ngoan cường và anh dũng, vượt qua bao gian khổ và hy sinh, ngày 7-5-1954,
lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phất phới tung
bay trên nóc hầm Sở chỉ huy của địch. Quân và dân ta đã làm nên Chiến thắng
Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Chiến thắng Điện Biên Phủ
đã giáng đòn quyết định, đập tan dã tâm xâm lược của các thế lực đế quốc, thực dân
hiếu chiến, buộc Chính phủ Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ, chấm dứt chiến tranh
ở Đông Dương, mở ra bước ngoặt mới cho cách mạng Việt Nam. 27
(“Chiến thắng Điện Biên Phủ - 1954”. Ảnh: Bảo tàng Hồ Chí Minh)
Lá cờ “Quyết chiến Quyết thắng” và chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh tại lễ diễu
hành mừng chiến thắng tại Điện Biên Phủ giữa tiếng reo hò vang dậy của bộ đội,
dân công và nhân dân các dân tộc Điện Biên. (Ảnh: Tư liệu TTXVN) 28
Tướng Đờ Caxtơri (De Castries) cùng toàn bộ Ban Tham mưu bị bắt sống.
Hơn một vạn quân Pháp tại Điện Biên Phủ ra hàng.
Ngay sau ngày giành chiến thắng, tức là ngày 08/5/1954, Bác đã viết thư
“Quân ta đã giải phóng Điện Biên Phủ, Bác và Chính phủ thân ái gửi lời khen cán
bộ, chiến sĩ dân công, thanh niên xung phong và đồng bào địa phương đã làm tròn
nhiệm vụ một cách vẻ vang.Thắng lợi tuy lớn nhưng mới là bước đầu. Chúng ta
không nên chủ quan khinh địch. Chúng ta kiên quyết kháng chiến để đấu tranh độc
lập thống nhất, dân chủ, hòa bình. Bất kỳ đấu tranh về quân sự, ngoại giao đều phải
trường kỳ gian khổ mới đi đến thắng lợi hoàn toàn” .
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ mãi mãi là biểu tượng sáng ngời của dân
tộc Việt Nam quật cường, bất khuất, thông minh, sáng tạo, là niềm tin của các dân
tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do. Để có được chiến công lẫy lừng
đó, chính là nhờ sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, mà đứng đầu là Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Bác không chỉ theo dõi sát sao tình hình ngoài trận địa để đưa ra
những phương châm, chiến lược chỉ đạo đúng đắn mà còn quan tâm, săn sóc và cổ
vũ, động viên kịp thời các cán bộ, chiến sĩ, đồng bào đang chiến đấu vì độc lập tự
do của nước nhà. Người đã truyền cho các chiến sĩ ta một ý chí quyết chiến quyết
thắng, một nghị lực, một sức mạnh phi thường, một niềm tin sắt đá để quân và dân
ta vượt qua khó khăn hiểm nguy giành thắng lợi hoàn toàn. Chính vì vậy, khi trả lời
một chính khách nước ngoài, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói: “Chiến thắng Điện
Biên Phủ là công đầu thuộc Chủ tịch Hồ Chí Minh - Hồ Chí Minh là một nhà chiến
lược thiên tài, là người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt
Nam". Bởi dựa trên nền tảng chỉ đạo chiến thuật "chắc thắng mới đánh" của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã kiên quyết thay đổi phương án tác
chiến, góp phần quyết định vào thắng lợi của chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Còn
Đại tướng Henri Nava, người đối đầu với Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong trận
Điện Biên phủ cũng thừa nhận: “Phía Việt Nam chiến thắng là đúng. Vì trong suốt 9
năm chiến tranh, họ chỉ có 1 người chỉ huy quân sự duy nhất là Đại tướng Võ
Nguyên Giáp, và 1 người chỉ huy chính trị cao nhất là Hồ Chí Minh”. Trong khi đó,
phía Pháp có tới 20 Chính phủ, 7 Tổng tư lệnh, 8 Cao ủy thay nhau liên tiếp chỉ huy
ở Đông Dương mà vẫn thất bại”.
“Điện Biên Phủ như là một cái mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử. Nó ghi rõ
nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống đất và tan rã, đồng thời phong trào giải phóng dân
tộc khắp thế giới đang lên cao đến thắng lợi hoàn toàn”
Thắng lợi quân sự của ta trong chiến cuộc đông xuân 1953-1954, nhất là
chiến thắng Điện Biên Phủ đã giáng đòn quyết định đập tan ý chí xâm lược của thực dân Pháp.
2.7. Ý nghĩa của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946 – 1954)
Chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơnevơ năm 1954 chấm dứt cuộc
chiến tranh xâm lược của Pháp ở Đông Dương là một thắng lợi vẻ vang của các
lực lượng cách mạng ở Đông Dương, đồng thời là một đóng góp quan trọng mở 29
đầu sự tan rã hoàn toàn của hệ thống thuộc địa của đế quốc Pháp và báo hiệu quá
trình sụp đổ không thể đảo ngược được của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi thế giới.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp xâm lược và
bọn can thiệp Mỹ chứng tỏ sự chỉ đạo chiến lược đúng đắn của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cố gắng phi thường của toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta, những tiến bộ vượt bậc của quân đội ta về nghệ
thuật quân sự, về tổ chức chỉ huy, về chiến đấu và bảo đảm chiến đấu.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến:
“Chứng minh thiên tài lãnh đạo của Hồ Chủ tịch và trí thông minh, trình độ
già dặn của dân Việt Nam, khéo tiến, khéo thoái, lúc mềm, lúc cứng, lấy sức
nhỏ đánh sức to, lấy sức yếu địch sức mạnh,… quyết tâm và tin tưởng tiến đến thắng lợi cuối cùng”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là linh hồn của cuộc kháng chiến, là biểu tượng sáng
ngời nhất của tinh thần quyết chiến quyết thắng của dân tộc ta. Người đề ra
đường lối kháng chiến lâu dài, toàn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh. Đồng thời,
Người lãnh đạo, tổ chức, chỉ đạo kháng chiến chống thực dân Pháp. Tác phẩm
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh, ngày 19/12/1946 vừa thể
hiện khái quát đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp, vừa là lời thề thiêng
liêng bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, với ý chí, quyết tâm thà hy sinh tất
cả chứ không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Người đã quy tụ
được sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại để chĩa thẳng vào kẻ thù,
khiến cho chúng luôn luôn bị động bất ngờ và thất bại. Còn sức chiến đấu của
nhân dân ta thì như được nhân lên gấp bội, càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng. 30
Hình tượng cuộc chiến đấu toàn dân - toàn diện với trích dẫn từ Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh (Ảnh: Bảo tàng Hồ Chí Minh)
Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói:
“Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng
một nước thực dân hùng mạnh. Đó là thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt
Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hoà bình, dân chủ và
chủ nghĩa xã hội trên thế giới”.
Thắng lợi của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược đã làm sáng tỏ một chân lý của thời đại ngày nay là một dân tộc dù nhỏ
nhưng đoàn kết chặt chẽ, kiên quyết chiến đấu theo đường lối cách mạng đúng
đắn thì có khả năng đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, dù chúng có quân đội nhà
nghề, thiện chiến được trang bị hiện đại.
Lịch sử cách mạng Việt Nam ghi thêm một trang vô cùng vẻ vang, “Việt
Nam - Điện Biên Phủ - Hồ Chí Minh” trở thành khẩu hiệu chiến đấu và chiến
thắng của các dân tộc bị áp bức, được nhân dân thế giới nhắc đến với niềm tự hào và cảm phục.
3. Vai trò của Hồ Chí Minh trên mặt trận kinh tế
3.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về kinh tế
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thuật ngữ “kinh tế” được Người chỉ ra với hai
nghĩa. Theo nghĩa rộng, kinh tế là hệ thống các quan hệ sản xuất xã hội, hệ thống 31
này gắn với trình độ phát triển của sức sản xuất xã hội (theo Thường thức chính trị,
Hồ Chí Minh, 1953). Theo nghĩa hẹp, nền kinh tế Việt Nam vừa mới thoát ra khỏi
chế độ thuộc địa nửa phong kiến với đặc điểm, cơ cấu, cách thức quản lý và nội
dung, biện pháp cần phải thực hiện để xây dựng nền kinh tế nhằm chiến thắng
nghèo nàn và lạc hậu, đem lại cho nhân dân cuộc sống ngày càng no đủ hơn.
Một điều đáng lưu ý trong quan điểm về kinh tế của chủ tịch Hồ Chí Minh là
tính nhân đạo, nhân văn. Theo Người, kinh tế trước hết là để nâng cao đời sống của
nhân dân. Kinh tế của chủ tịch Hồ Chí Minh không đơn thuần chỉ là lợi nhuận mà
còn là kinh tế đạo lí, hướng trực tiếp tới đời sống của nhân dân.
3.2. Hồ Chí Minh và những chính sách - thành tựu kinh tế giai đoạn 1946 - 1954
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, chính quyền ta gặp vô vàn khó khăn
mà tưởng chừng như không thể nào vượt qua được. Thật vậy, nạn đói xảy ra ở khắp
nơi, cho đến tháng 8/1945, nước ta đã có hơn 2 triệu người chết đói. Về tài chính,
sau khi thực hiện cách mạng thành công, kho bạc nhà nước hoàn toàn trống rỗng.
Theo Bộ trưởng Bộ Tài chính Lê Văn Hiến nhận định: “Chính phủ cách mạng lúc
đó là một chính phủ ‘không tiền’”. Trong khi đó, bản thân đồng tiền Đông Dương
cũng mất giá nghiêm trọng do tình trạng lạm phát trong suốt 5 năm trước đó của Ngân hàng Đông Dương.
Mặc dù quá trình giữ gìn chính quyền cách mạng vấp phải vô vàn khó khăn,
Hồ Chí Minh vẫn hết sức quan tâm đến kinh tế, đến đời sống của nhân dân. Những
chính sách, biện pháp mà Người đưa ra đã góp phần quan trọng giải quyết được
nhiều vấn đề cơ bản và cấp thiết trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế, cải
thiện đời sống nhân dân.
Ngay từ sau ngày Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động
tăng gia sản xuất ở khắp nơi với khẩu hiệu: “Tăng gia sản xuất, Tăng gia sản xuất ngay,
Tăng gia sản xuất nữa!”
Ngoài ra, vấn đề đê điều cũng được ưu tiên trên hết. Vì những chính quyền
cũ bỏ bê việc củng cố hệ thống đê nên đê điều sạt lở liên tiếp trong 4-5 năm; hậu
quả là tình trạng ngập lụt xảy ra, nạn đói càng trở nên nghiêm trọng hơn. Nay, chính
quyền cách mạng tổ chức đắp lại, củng cố tất cả những đoạn đê bị vỡ, sạt lở. Cho
đến tháng 10-1945, hầu hết các đoạn đê vỡ đã được tu bổ và những đoạn đê xung
yếu đã được bồi đắp. Nhờ những cố gắng của chính quyền và của toàn dân mà đến
năm 1946, nạn đói đã bị đẩy lùi. Năm 1946, sản lượng lương thực đạt 1155000 tấn, gấp đôi năm 1945.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã đưa ra sáng kiến thành lập ra Quỹ độc lập để
giúp đỡ chính quyền về mặt tài chính. Tất cả, bao gồm già, trẻ, trai, gái, giàu nghèo,
người Việt Nam hay cả người nước ngoài, đều có thể đóng góp để Chính phủ có
phương tiện tài chính để giữ gìn nền độc lập của nước Việt Nam. Sau đó không lâu,
Chủ tịch Hồ Chí Minh lại phát động quỹ Tuần lễ vàng. Ai có vàng bạc châu báu
muốn đóng góp cho sự nghiệp giải phóng dân tộc đều có thể đóng góp vào quỹ này.
Chính Quỹ độc lập và Tuần lễ vàng đã giúp cho Chính phủ từ “không tiền” trở
thành “có tiền”. Dù không nhiều, nhưng tiền đóng góp của toàn dân ít nhất đã giúp
Chính phủ có thể lo ở mức tối thiểu những việc cấp thiết, như cứu đói, giáo dục, đắp đê, y tế… 32
Không những vậy, tiếp sau Chiến thắng biên giới (tháng 10/1950), Việt Nam
đã thiết lập và mở rộng, phát triển quan hệ kinh tế thương mại với các nước xã hội
chủ nghĩa bao gồm Trung Quốc và Liên Xô, góp phần thúc đẩy sản xuất và cải thiện
đời sống nhân dân. Năm 1952, số thu ngân sách Nhà nước (NSNN) đảm bảo được
78% số chi. Năm 1953, số thu NSNN đã vượt chi được 16%.
4. Vai trò của Hồ Chí Minh trên mặt trận văn hóa
4.1. Quan điểm văn hóa của Hồ Chí Minh
Năm 1943, trong trang cuối của tập “Nhật kí trong tù”, Hồ Chí Minh đã ghi
lại cách hiểu của mình về văn hóa: “Vi lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc
sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp
luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng
ngày về ăn, mặc, ở và phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh
đó là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với
những biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu
đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Đây là một khái niệm văn hóa tương đối rộng:
ở đây, Hồ Chí Minh quan niệm rằng, văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo ra, mang dấu ấn trình độ văn minh và bản sắc dân tộc.
(“Nhật ký trong tù” – Hồ Chí Minh. Ảnh: Bảo tàng Hồ Chí Minh)
Trong một số trường hợp khác, văn hóa được hiểu là tri thức, trình độ học
vấn. Trong Toàn tập, tập 5, trang 271, Hồ Chí Minh có viết: “Với những cán bộ
còn kém văn hoá, thì việc huấn luyện này rất trọng yếu. Trước hết phải dạy cho họ
những thường thức: lịch sử, địa dư, làm tính, khoa học tự nhiên, xã hội, chính trị,
cách viết báo cáo, nghĩa vụ và quyền lợi người công dân”. 33
Trong quan điểm của Hồ Chí Minh về mặt trận văn hóa thời kì 1946 - 1954,
khái niệm văn hóa thường được hiểu theo nghĩa: là một lĩnh vực của đời sống xã
hội, một kiến trúc thượng tầng. Một khi đã đi sâu vào đại chúng, văn hóa cũng có
tác động như một sức mạnh vật chất.
Ngoài ra, Người cũng nhận định rằng: “Văn hóa là một mặt trận, người làm
văn hóa là những chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Thật vậy, từng lĩnh vực cụ thể của văn
hóa như báo chí, giáo dục, nghệ thuật,... đều được Hồ Chí Minh nhấn mạnh với tư
cách là những mặt trận.
Năm 1949, trong Thư gửi Lớp học viết báo Huỳnh Thúc Kháng, Chủ tịch Hồ
Chí Minh viết: “Lớp này là lớp học viết báo đầu tiên, tôi mong các chú và các cô,
thi đua nhau học và hành cho xứng đáng là những người tiên phong trên mặt trận báo chí”.
Trong Thư gửi các cán bộ giáo dục học sinh, sinh viên các trường và các lớp
bổ túc văn hóa, Người cũng nhấn mạnh: “Văn hóa giáo dục là một mặt trận quan
trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện
thống nhất nước nhà”.
Ngoài ra, trong Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa 1951, Người
chỉ rõ: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”.
Việc sử dụng văn hóa như một mặt trận của chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai
đoạn 1946 - 1954 chính là sự tiếp nối truyền thống của những người đi trước - các
nhà văn hóa đã biết dùng văn đánh giặc, ví dụ như Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình
Chiểu, Phan Bội Châu. Nguyễn Đình Chiểu đã từng nêu mục đích văn chương của mình:
“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng kế thừa những gì cha ông đã để lại. Nước mất,
vấn đề quan trọng nhất đối với Người là cứu nước, không phải là văn chương. Tuy
nhiên đối với Người, văn chương (nói riêng) và văn hóa (nói chung) là để góp phần cứu nước.
4.2. Hồ Chí Minh và các chính sách văn hóa của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn 1946 - 1954
Trong Thư gửi Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ hai, Hồ Chí Minh đã
nhận định: “Trong sự nghiệp vĩ đại kháng chiến kiến quốc của dân tộc ta, văn hóa
gánh một phần rất quan trọng (...) chúng ta cần phải xây đắp một nền văn hóa kháng
chiến kiến quốc của toàn dân”. Nhận định này cho thấy rằng cuộc đấu tranh trên
mặt trận văn hóa có vai trò trọng yếu trong đời sống tinh thần của xã hội; cuộc đấu
tranh này cũng quy mô và quyết liệt không kém gì những cuộc chiến đấu về mặt
chính trị, quân sự, thậm chí còn gian khổ hơn. So với cách mạng chính trị và quân
sự, tính chất của cuộc cách mạng văn hóa rất khác: nếu như vấn đề cơ bản của cuộc
cách mạng chính trị, quân sự là giành chính quyền thì cách mạng văn hóa là cuộc
đấu tranh dài hạn, phức tạp trong suốt tiến trình cách mạng, từ lúc chưa có chính
quyền đến khi giành được chính quyền, kháng chiến và xây dựng đất nước.
Vì vậy, tuy gặp nhiều khó khăn nhưng Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm
đến việc xây dựng và đề ra những chính sách để phát triển nền văn hóa nước nhà và
bảo vệ những thành quả cách mạng đã đạt được. 34
Trong giai đoạn 1946 - 1954, những đường lối, chính sách về văn hóa, nghệ
thuật được thể hiện trong các cương lĩnh, chỉ thị của Đảng và các sắc lệnh của
Chính phủ. Những chính sách của Đảng và Nhà nước về văn hóa đều in đậm dấu ấn
quan điểm Hồ Chí Minh về mặt trận văn hóa.
Khẩu hiệu chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra trong giai đoạn này là “Tất cả cho
tiền tuyến, tất cả để chiến thắng” và “Kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng
chiến”. Đây như là một lời thúc giục hàng triệu người dân Việt Nam tham gia vào
mặt trận văn hóa (nói riêng) và tham gia vào cuộc đấu tranh chung của toàn dân tộc
(nói chung). Ngoài ra, với khẩu hiệu này, Hồ Chí Minh đã có những đóng góp quan
trọng trong việc nhấn mạnh hệ tư tưởng của một nền văn hóa, một hệ tư tưởng cách
mạng, tiên tiến, tiếp thu truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân
loại. Đối với Hồ Chí Minh, văn hóa phải gắn với kháng chiến, phải phục vụ kháng
chiến, phục vụ nhiệm vụ chính trị. Đồng thời, kháng chiến giành độc lập, tự do cũng
là một sự nghiệp văn hóa - văn hóa chính trị, văn hóa kháng chiến.
Công cuộc bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh
thực hiện bằng việc ban hành Sắc lệnh số 65/SL ngày 23/11/1945, hơn 2 tháng sau
khi giành độc lập. Sắc lệnh này khẳng định việc bảo tồn cổ tích “là việc rất cần
trong công cuộc kiến thiết nước Việt Nam” (khái niệm “cổ tích” trong Sắc lệnh
ngày nay được gọi là di sản văn hóa, gồm di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa
phi vật thể). Sắc lệnh đã đánh giá cao vai trò của di sản văn hóa, đặc biệt trong công
cuộc kiến thiết nước nhà.
Một số chỉ thị tiếp theo của Đảng có thể kể đến như Kháng chiến, kiến quốc
(25/11/1945), bài phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Hội nghị Văn hóa toàn
quốc lần thứ nhất (24/11/1946), Kháng chiến nhất định thắng lợi (Trường Chinh,
9/1947), Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam (Trường Chinh, 7/1948), Báo cáo
chính trị đọc tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng,... Trong Hội nghị
Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất, Người đã khẳng định: “Số phận dân ta là ở trong
tay dân ta. Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi. Tôi mong chúng ta đem văn
hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường và tự chủ”. Có thể thấy, khẩu
hiệu văn hóa phục vụ kháng chiến, chính trị được Đảng nhấn mạnh và thể hiện
xuyên suốt quá trình xây dựng và phát triển văn hóa của nước ta giai đoạn 1946 - 1954.
4.3. Những thành tựu văn hóa thời kì 1946 - 1954
Việc thực hiện những đường lối, chính sách văn hóa của Đảng đã đem lại
những thành tựu nhất định.
Thứ nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, một nền giáo dục mới
đã được mở ra trong lịch sử nước nhà. Theo Toàn tập, Văn hoá và giáo dục Việt
Nam, tập 3, Nguyễn Văn Huyên, Từ chỗ hơn 95% dân số không biết chữ, chỉ sau
một năm số người biết chữ đã hơn 2 triệu người, 6 triệu người năm 1948 và 14 triệu
năm 1952. Đến năm 1952, đã có 9 tỉnh (Thái Bình, Hưng Yên, Hà Nam, Ninh Bình,
Phúc Yên, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên), 80 huyện, 1424 xã xóa
được nạn mù chữ. Ngoài ra, một nền giáo dục căn bản cho các cấp đại học, cao
đẳng và trung học phục vụ kháng chiến đã được xây dựng. Nổi bật nhất trong thời
kì này chính là phong trào Bình dân học vụ; các khẩu hiệu “Tham gia Bình dân học
vụ là yêu nước”, “Giúp đỡ Bình dân học vụ là yêu nước”,... được hưởng ứng trên
khắp cả nước. Chị Nguyễn Thị Điều, chiến sĩ thi đua toàn quốc, học viên Trường 35
Phổ thông Lao động, đã bày tỏ cảm xúc của mình: “Tôi nghĩ đến đời tôi và của chị
em phụ nữ trước năm 1945, không được học, có mắt như mù, có tai như điếc. Bị
bọn thực dân Pháp và bọn tư bản địa chủ áp bức bóc lột nên đời phụ nữ không bao
giờ được đến nhà trường mà cứ đầu tắt mặt tối từ lúc gà gáy đến lúc tối lửa. Nếu
không có Hồ Chủ tịch và Đảng thì không bao giờ tôi được mở mắt”. Đây chính là
sự hạnh phúc của một người thất học, của một nạn nhân của chế độ thực dân.
Thứ hai, phong trào nghệ thuật trong thời kì này đã phát triển mạnh mẽ dưới
ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh. “Đến ngọn lúa cũng gợi hình ảnh Hồ Chí Minh”,
và con người đó “ở đâu cũng có mặt". Tư tưởng Hồ Chí Minh đã đem đến cho các
nghệ sĩ một niềm tin khiến cho họ yên tâm, đem hết tài năng và sức lực, tâm huyết
của mình cống hiến cho nghệ thuật và phục vụ cách mạng. Nhà thơ Thế Lữ từng
tâm sự: “Mẹ cha dưỡng dục ra mình. Bác tái sinh và dưỡng dục cho tôi làm người
biết đường cách mạng, biết đặt vinh quang sự nghiệp và hạnh phúc bản thân trong
công cuộc góp phần vào sự nghiệp cách mạng”. Ngoài ra, hưởng ứng lời kêu gọi
của Hồ Chí Minh “văn hóa nghệ thuật là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên
mặt trận ấy”, các nhà văn, nhà thơ đã tham gia vào cuộc đấu tranh chung của toàn
dân tộc. Họ không chỉ là những “chiến sĩ văn hóa” mà còn tham gia vào các đoàn
quân kháng chiến, trực tiếp cầm súng để chiến đấu và có những người đã hi sinh
trên chiến trường như Nam Cao, Thâm Tâm, Nguyễn Đình Lạp… Những quan
niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa nghệ thuật đã soi sáng con đường đi và tạo ra
nguồn cảm xúc lớn cho các văn nghệ sĩ những năm kháng chiến.
Thứ ba, một đời sống mới đã được hình thành và phát triển. Chủ tịch Hồ Chí
Minh chính là người thắp lên ngọn lửa xây dựng Đời sống mới ở Việt Nam, trong
đó gồm đạo đức mới, lối sống mới và nếp sống mới. Đạo đức mới là đạo đức cách
mạng, với các phẩm chất đạo đức cơ bản như “Trung với nước, hiếu với dân”, “Yêu
thương, quý trọng con người”... Lối sống mới là lối sống có lí tưởng, văn minh, tiên
tiến, kế thừa những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu những tiến bộ của
thế giới. Nếp sống mới là kế thừa và phát triển những thuần phong mỹ tục, đồng
thời phải biết cải thiện những phong tục cũ, lạc hậu và học tập những cái mới, tiến
bộ, Phong trào vận động xây dựng Đời sống mới đã hỗ trợ cho việc xây dựng chế
độ dân chủ cộng hòa, góp phần vào thắng lợi cuối cùng cho cuộc kháng chiến chống
Pháp 1945 - 1954. Ngoài ra, rất nhiều phong trào đã được phát động trong thời kì
này, điển hình là “Hũ gạo cứu đói”, “Lá lành đùm lá rách”, “Tuần lễ vàng”... Quả
thực, tư tưởng Hồ Chí Minh đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống toàn dân, giúp
phát huy tinh thần yêu nước, trí tuệ và năng lực sáng tạo vốn có của nhân dân Việt Nam.
5. Vai trò của Hồ Chí Minh trên mặt trận tư tưởng
Để kháng chiến thắng lợi, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo của Đảng
là nhân tố quyết định, do đó phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ kháng chiến.
Người chỉ rõ: Đảng phải thường xuyên tiến hành phê bình và tự phê bình, phải tăng
cường kiểm tra, kiểm soát, phải giữ gìn kỷ luật Đảng thật nghiêm minh và đặc biệt
phải tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Tháng 10- 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh (với bút danh X.Y.Z) viết tác phẩm “Sửa
đổi lối làm việc” nhằm tiếp tục giáo dục cán bộ, đảng viên, nâng cao hiệu quả lãnh 36
đạo của Đảng đối với sự nghiệp kháng chiến. Đây là một văn kiện có tính lý luận và
thực tiễn về quan điểm tư tưởng, đạo đức, tác phong của người cán bộ cách mạng
trong điều kiện Đảng cầm quyền, cho đến nay vẫn có giá trị thực tiễn lớn. Về công
tác huấn luyện cán bộ, Người viết: Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì vậy,
huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng. Người nêu một số khuyết điểm của
các cấp trong công tác huấn luyện cán bộ: không coi trọng huấn luyện nghề nghiệp;
chưa tìm cách nâng cao trình độ văn hoá; dạy chính trị thì mênh mông, không thiết
thực; dạy lý luận thì lý luận và thực tế không ăn khớp với nhau, dạy theo cách học
thuộc lòng. Những khuyết điểm đó Đảng nên sửa chữa ngay theo cách:
1. Huấn luyện nghề nghiệp: “làm việc gì học việc ấy”
2. Huấn luyện chính trị: "có hai thứ: thời sự và chính sách.
Cách huấn luyện thời sự là khuyên gắng và đốc thúc các cán bộ xem báo,
thảo luận và giải thích những vấn đề quan trọng và định kỳ khai hội cán bộ, báo cáo thời sự…
Cách huấn luyện chính sách là đốc thúc các cán bộ nghiên cứu và thảo luận
những Nghị quyết, những chương trình, những tuyên ngôn của Đảng và Chính phủ”.
3. Huấn luyện văn hoá: Với những cán bộ còn kém văn hoá, “trước hết phải
dạy cho họ những thường thức lịch sử, địa dư, làm tính, khoa học tự nhiên, xã hội,
chính trị, cách viết báo cáo, nghĩa vụ và quyền lợi người công dân”.
4. Huấn luyện lý luận: “trong bài học lý luận phải nghiên cứu công việc thực
tế, kinh nghiệm thực tế”, “kinh nghiệm và thực tế phải đi cùng với nhau”.
Bên cạnh đó, để kháng chiến sớm thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh chú
trọng thực hiện chiến lược đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế. Người chỉ rõ, trong
cuộc chiến tranh yêu nước, "cái sức mạnh vô địch mà ta có thể thắng quân địch
giành độc lập thống nhất là sự đoàn kết".
Ngày 15-01-1948, sau chiến thắng Việt Bắc, Trung ương Đảng họp hội nghị
mở rộng để nhận định tình hình và bổ sung thêm các biện pháp đẩy mạnh cuộc
kháng chiến, chống lại chính sách “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến
tranh nuôi chiến tranh”, lập chính phủ bù nhìn toàn quốc của thực dân Pháp. Theo
sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 27-3- 1948, Ban Thường vụ Trung ương
Đảng ra chỉ thị phát động phong trào thi đua ái quốc trong toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân với mục đích: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm. Trong bài
“Thơ chúc Tết” Xuân Kỷ Sửu (1949), Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: “Người người thi đua Ngành ngành thi đua Ngày ngày thi đua Ta nhất định thắng 37 Địch nhất định thua”
Công tác tuyên truyền cổ động trong thời gian này tập trung nêu cao ý nghĩa
chiến thắng Việt Bắc, phổ biến lời kêu gọi ngày 19- 12 của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
chống tư tưởng chủ quan, khinh địch, vạch âm mưu lập chính quyền bù nhìn Bảo
Đại của thực dân pháp, cổ vũ cho phong trào thi đua yêu nước trên mọi lĩnh vực kháng chiến kiến quốc.
Tháng 7- 1948, nhân Hội nghị văn hoá toàn quốc lần thứ hai, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã gửi thư chúc mừng các đại biểu. Trong thư, Người viết: "Trong sự
nghiệp vĩ đại kháng chiến kiến quốc của dân tộc ta, văn hoá gánh một phần rất quan
trọng… Chúng ta cần phải xây đắp một nền văn hoá kháng chiến kiến quốc của toàn
dân. Muốn đi đến kết quả đó, tôi thiết tưởng, các nhà văn hoá ta cần tổ chức chặt
chẽ và đi sâu vào quần chúng… Các nhà văn hoá ta phải có những tác phẩm xứng
đáng, chẳng những để biểu dương sự nghiệp kháng chiến kiến quốc bây giờ, mà còn
để lưu truyền cái lịch sử oanh liệt kháng chiến kiến quốc cho hậu thế”
Sau một thời gian tích cực chuẩn bị, từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951, Đại học
đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương chính tại họp tại Bản
Khay, xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Tại đại hội, Người
khẳng định : Đường lối trường kỳ kháng chiến là hoàn toàn đúng đắn, với phương
châm: đoàn kết, đại đoàn kết toàn dân và thực hiện biện pháp: thi đua yêu nước,
cuộc kháng chiến đã thực sự là cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, là chiến tranh
nhân dân. Người chỉ ra những khuyết điểm, sai lầm của Đảng như bệnh chủ quan,
mệnh lệnh, hẹp hòi, công thần,..., đồng thời nêu lên trách nhiệm chính của đảng
viên là phải phát triển lối làm việc tập thể, củng cố mối quan hệ giữa Đảng và quần
chúng, nêu cao tinh thần kỷ luật, tính nguyên tắc, mở rộng phê bình và tự phê bình.
Người nhấn mạnh: Để đưa kháng chiến đến thắng lợi cần phải có một đảng hoạt
động mạnh mẽ, chắc chắn, trong sạch, cách mạng triệt để. Đảng Lao động Việt Nam
là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động cho nên nó phải là đảng của dân tộc Việt Nam.
Tư tưởng kháng chiến truờng kỳ được Người nhiều lần phân tích, giải thích
lý do và luôn chứa đựng sự lạc quan, niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi cuối cùng.
Người nói đại ý rằng: trường là dài, tức là đánh bao giờ địch bại, địch “cút”, thế mới
là trường. Vì địch âm mưu đánh chớp nhoáng. Chúng muốn đánh mau, thắng mau,
giải quyết mau, thì ta nêu lên khẩu hiệu: Trường kỳ kháng chiến… Thế là ngay từ
lúc đầu chiến lược ta đã thắng chiến lược địch. Một lý do nữa Người nêu ra là:
“Kháng chiến phải trường kỳ, vì đất ta hẹp, dân ta ít, nước ta nghèo, ta phải chuẩn
bị lâu dài và phải có sự chuẩn bị toàn diện của toàn dân”.Trên cơ sở phân tích lợi
hại của ta và địch khi thực hiện chiến lược trường kỳ kháng chiến, Người cho rằng:
“Nếu chiến tranh kéo dài, hao binh tổn tướng, chúng sẽ thất bại. Vậy ta dùng chiến
lược trường kỳ kháng chiến, để phát triển lực lượng, tăng thêm kinh nghiệm. Ta
dùng chiến thuật du kích, để làm cho địch hao mòn, cho đến ngày ta sẽ tổng phản
công để quét sạch lũ chúng”. Tuy nhiên, kháng chiến trường kỳ không có nghĩa là
kéo dài vô thời hạn mà phải nỗ lực vượt bậc, vừa tiêu diệt địch, vừa bồi dưỡng phát 38
triển lực lượng của ta, càng đánh ta càng mạnh, địch càng yếu, đánh bại từng âm
mưu chiến lược của địch, giành thắng lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Cùng với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng nhấn mạnh phải “tự lực cánh sinh”. Người cho rằng “Kháng chiến
trường kỳ gian khổ đồng thời lại phải tự lực cánh sinh… Cố nhiên sự giúp đỡ của
các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ
người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp
đỡ thì không xứng đáng được độc lập”.Theo Người, tự lực cánh sinh là chính, kết
hợp với sự giúp đỡ quốc tế là hết sức quan trọng. Vì vậy, trong kháng chiến chống
Pháp, Người đã nêu cao ý chí tự lực tự cường, đồng thời khi có điều kiện, làm mọi
việc để tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của chính phủ và nhân dân các nước anh em,
của nhân loại tiến bộ, kể cả nhân dân Pháp. Tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế nhưng
không ỷ lại, không để ảnh hưởng đến tinh thần độc lập tự chủ của đất nước. Trong
cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh, Chủ tịch Hồ
Chí Minh như một người cầm lái bình tĩnh, sáng suốt, mưu trí, dũng cảm và dày dạn
kinh nghiệm, đã đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua mọi thác ghềnh
nguy hiểm. Với đường lối chính trị đúng đắn, biết phát huy sức mạnh khối đại đoàn
kết toàn dân, cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược đối với kẻ thù, Hồ Chí
Minh chính là “linh hồn” của cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc. Không
những thế, Người còn là vị tư lệnh tối cao của lực lượng vũ trang, và vai trò của
Người được thể hiện nổi bật trong các chiến dịch lớn. Những quan điểm, tư tưởng
chiến lược quân sự của Người được quán triệt, thực hiện sáng tạo trong những điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể để lại dấu ấn sâu sắc, đậm nét trong lịch sử chiến đấu và
chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.
6. Vai trò của Hồ Chí Minh trên mặt trận ngoại giao
Trên mặt trận ngoại giao, đàm phán, thương lượng là đấu tranh trực diện,
đồng thời là quá trình chuyển hóa sức mạnh chính trị, quân sự thành thế có lợi trên
bàn đàm phán, nhằm mục tiêu giành thắng lợi cuối cùng. Theo Hồ Chí Minh, đấu
tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường,
mà phải căn cứ vào tình hình quốc tế và tính chất cuộc chiến tranh giữa ta và địch.
Đấu tranh ngoại giao luôn giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động, và cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) cũng không phải là ngoại lệ, thực sự
là một cuộc chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh. Và nhắc đến giai
đoạn này, ta không thể không nhắc tới những thắng lợi trên mặt trận ngoại giao, lẫy
lừng nhất là tại Hội nghị Giơnevơ (21/7/1954). Có được những chiến thắng đó, là cả
toàn quân ta đã cùng đồng lòng góp sức dưới sự lãnh đạo kỳ tài xuất chúng của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thời kỳ đầu ta hòa với quân Trung Hoa dân quốc để kháng chiến chống Pháp
ở Nam Bộ. Khi chính phủ Pháp và chính quyền Tưởng Giới Thạch cấu kết với nhau
qua hiệp ước Hoa-Pháp (28/2/1946)… Đảng, Chính phủ và Hồ chủ tịch đã thực hiện
sách lược khôn khéo, mềm dẻo, hòa hoãn với thực dân Pháp, kí với Pháp hiệp định 39
Sơ bộ (6/3/1946). Với Hiệp định Sơ bộ, mặc dù ta không buộc được Pháp công
nhận Việt Nam độc lập, thống nhất… nhưng đã buộc được Pháp công nhận Việt
Nam là quốc gia tự do nằm trong khối liên hiệp Pháp, để ta có cơ sở pháp lý tiếp tục
đấu tranh với Pháp tránh được cuộc chiến đấu bất lợi vì phải chống lại nhiều kẻ thù
cùng một lúc, loại bớt được một kẻ thù nguy hiểm, có thêm thời gian hòa bình để
củng cố chính quyền, chuẩn bị lực lượng mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp.
Tiếp đó, ngày 31/5, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm nước Pháp cùng với Phái
đoàn đàm phán chính phủ. Trong gần 100 ngày, Người đã có hàng chục cuộc hội
đàm, gặp gỡ với các nhân vật trong Chính phủ, Quốc hội và các tổ chức, đoàn thể
chính trị, xã hội, các nhà hoạt động văn hóa, khoa học, nghệ thuật nổi tiếng; tổ chức
nhiều cuộc họp báo, trả lời phỏng vấn báo chí nhằm nêu rõ thiện chí hòa bình của
Việt Nam, đồng thời theo dõi sát sao, chỉ đạo tích cực tại cuộc đàm phán chính thức
với Đoàn đại biểu Pháp tại Fontainebleau (tuy nhiên không có kết quả do phía Pháp
không thực tâm đàm phán).
(“Cuộc đàm phán tại Hội nghị Fontainebleau bị đứt quãng” – Báo cứu quốc
3-8-1946. Ảnh: Bảo tàng Hồ Chí Minh)
Cùng lúc đó, tình hình tại Việt Nam có nguy cơ xảy ra xung đột bất cứ lúc
nào, và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định ở lại Pháp để trực tiếp gặp và đàm
phán với Marius Moutet (Bộ trưởng Bộ thuộc địa Pháp). Sau đó Người thay mặt
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kí với Pháp bản Tạm ước (14/9/1946). Bản
Tạm ước có 11 điều khoản, thể hiện sự thỏa thuận tạm thời giữa ta và Pháp về một
số vấn đề bức thiết có tính chất bộ phận có lợi đôi bên. Việt Nam tiếp tục nhân
nhượng, đảm bảo cho Pháp một số quyền lợi về kinh tế, văn hóa, còn Pháp sẽ thả
chính trị phạm và tù binh, cho nhân dân Nam Bộ quyền tự do hội họp, tự do báo chí, 40
tự do đi lại. Trước đó Người đã gửi thư tới cả các nguyên thủ Anh, Mỹ, Liên Xô và
các thành viên Liên hiệp quốc, nêu rõ thiện chí hòa bình và mong mỏi Liên hiệp
quốc chấp nhận những yêu cầu chính đáng của Việt Nam để duy trì hòa bình, không
chỉ vậy còn cử cả phái viên đến gặp đại diện Chính phủ Pháp ở Đông Dương tìm
cách cứu vãn hòa bình nhưng những nỗ lực này đã bị khước từ. Có thể nói, việc ký
Tạm ước có thể xem là bước nhân nhượng cần thiết nhưng cũng là cuối cùng của
Việt Nam, nhưng đã cùng với việc ký Hiệp định Sơ bộ đã trở thành hai nước cờ
ngoại giao xuất sắc của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Dù cả hai không ngăn chặn
được chiến tranh nổ ra nhưng khi đất nước “ngàn cân treo sợi tóc”, gặp khó khăn về
mọi mặt, ta đã tránh được tình thế đối đầu với nhiều kẻ thù cùng lúc, khi hòa Tưởng
đánh Pháp, khi hòa Pháp đuổi Tưởng mà không cần đến biện pháp chiến tranh,
tranh thủ thêm thời gian quý giá để củng cố lực lượng trên mọi mặt trận cho cuộc kháng chiến toàn quốc.
Sau Chiến tranh Thế giới thứ II, quan hệ giữa Liên Xô và Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa còn non trẻ chưa được thiết lập. Liên Xô còn bận khôi phục nền kinh tế
đổ nát và cuộc sống bình thường. Điện Kremlin không có thông tin về tình hình tại
Đông Dương cũng như Đảng Cộng sản Đông Dương, và các chính sách đối ngoại
lúc bấy giờ tập trung vào châu Âu. Lãnh tụ Việt Nam Hồ Chí Minh đã quyết định
tới Trung Quốc và Liên Xô gặp gỡ các nhà lãnh đạo 2 nước này, cốt để khôi phục
mối quan hệ liên đảng, liên chính phủ, hội nhập Việt Nam vào phong trào cộng sản
thế giới và phe chủ nghĩa xã hội. Sau thắng lợi của cách mạng Trung Quốc (1949),
cơ hội đã mở ra đối với Việt Nam trong không chỉ khôi phục quan hệ liên đảng với
Đảng Cộng sản Trung Quốc, mà cả các đảng khác. Ngày 29/12, người đứng đầu
Cục dịch thuật tiếng Nga trực thuộc Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc Zhang
Xizhou (còn gọi là Guysky) đã cho Đại sứ Shibaev biết về cuộc họp của Bộ chính
trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc để xem xét đề xuất của Mao Trạch
Đông công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về ngoại giao, và đến ngày 31, Ngoại
trưởng Trung Quốc Chu Ân Lai cũng cho biết là Hồ Chí Minh chuẩn bị bố cáo với
tất cả thế giới về việc công nhận chính phủ mình, và lập tức sau đó sẽ được chính
phủ Trung Quốc công nhận. Sang tháng 1/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh chuẩn bị
sang thăm Liên Xô, Trung Quốc nhằm phát triển quan hệ ngoại giao, tranh thủ sự
đồng tình ủng hộ của bạn bè quốc tế, giúp ta đẩy nhanh cuộc kháng chiến đến thắng
lợi. Chuyến đi hết sức vất vả và nguy hiểm vì quân Pháp, Tưởng và các lực lượng ô
hợp đóng dày đặc hai bên đường biên Từ Tuyên Quang, và phải tới Long Châu thì
mới có một trung đội vũ trang tới hộ tống.
Ngày 25/1, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận điện cảm ơn của Thống chế Stalin về
bức điện chúc mừng ngài tròn 70 tuổi, đồng thời mời Người sang thăm không chính
thức Liên Xô. Ngày 16/2/1950, 30 tết Kỷ Sửu cổ truyền của cả Trung Quốc và Việt
Nam, Nguyên soái Stalin tổ chức đại tiệc tại Điện Kremlin để mừng Hiệp ước Hữu
nghị Xô - Trung và cũng là mừng năm mới, cùng dự còn có Thủ tướng Châu Ân Lai
và Chủ tịch Mao Trạch Đông. Trong bữa tiệc, Bác đã trình bày tình hình cách mạng
Việt Nam, nhận được sự đồng ý của Stalin về đường lối chiến lược, sách lược của
Đảng ta cùng nhiều góp ý (về việc lấy chỗ dựa là toàn bộ vùng rừng núi phía Tây,
hay đẩy nhanh cách mạng nông nghiệp), giúp cho Liên Xô hiểu thêm về tình hình
cách mạng nước ta, đồng thời cũng khẳng định “Việt Nam nỗ lực bằng mọi giá đánh
đuổi thực dân Pháp ra khỏi bờ cõi. Stalin và Liên Xô bằng mọi khả năng của mình
sẽ ủng hộ Việt Nam chiến thắng thực dân Pháp”. Ngoài ra Bác còn cùng bông đùa 41
về việc ký nhận một Hiệp ước Xô - Việt với Stalin, và tranh thủ cuộc gặp mặt này
chứng tỏ cho lãnh đạo các nước thấy quyết tâm và niềm tin chiến thắng không thể
lay chuyển của dân tộc.
Trong thời gian ở Liên Xô, Bác cũng gặp gỡ đại diện Đảng Cộng sản Pháp
và nhiều tổ chức quốc tế để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các lực lượng tiến bộ
trên thế giới đối với cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Chính nhờ
tài ngoại giao xuất chúng đó của Người, ta đã thiết lập được mối quan hệ tay ba Việt
- Xô - Trung, một mối quan hệ chiến lược có ảnh hưởng to lớn và thường xuyên đến
cách mạng Việt Nam trong nhiều thập niên sau đó.
Năm 1950 này cũng là một năm đánh dấu những thắng lợi ngoại giao cực kỳ
to lớn của ta. Ngày 14/1, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra tuyên bố về
đường lối ngoại giao. Ngày 15/1, Chính phủ ta đã công nhận Chính phủ nước Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa, và chỉ 3 ngày sau, ngày 18/1, họ đã trở thành Chính phủ
đầu tiên công nhận Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau đó là Chính
phủ Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết (30/1), Chính phủ Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Triều Tiên (31/1), Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Tiệp Khắc và
Chính phủ Cộng hòa Dân chủ Đức (2/2), Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Rumani
(3/2), Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Ba Lan và Chính phủ Cộng hòa Nhân dân
Hungary (5/2), Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Bulgaria (8/2), Chính phủ Albania
(18/2), và chính phủ Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ (17/11). Bắt đầu từ đây cuộc
kháng chiến của chúng ta đã nhận được sự giúp đỡ quốc tế, thoát khỏi thế bị bao
vây và có thêm hậu phương là các nước XHCN. Có được những thành tựu này, phải
kể đến công lao của Hồ chủ tịch với tầm nhìn xa trông rộng về chiến lược, phong
cách ứng xử tài tình, khôn khéo mà quyết đoán, khả năng đối ngoại xuất chúng,
không quản đi lại khó khăn hiểm trở để gặp gỡ lãnh đạo các nước, bạn bè thế giới,
cả kẻ thù trong nhiều hoàn cảnh và trên nhiều vị thế khác nhau.
Bước vào chiến cuộc Đông-Xuân 1953-1954 và Chiến dịch Điện Biên Phủ,
đồng thời với cuộc tiến công trên mặt trận quân sự, là mặt trận nóng bỏng nhất lúc
bấy giờ, quyết định thắng lợi của chiến tranh, ta cũng đẩy mạnh đấu tranh ngoại
giao. Cho đến gần cuối năm 1953, Chính phủ Pháp vẫn không cho thấy thiện chí
giải quyết vấn đề Việt Nam bằng con đường thương lượng. Thủ tướng Pháp Laniel
tuyên bố vào ngày 12/11/1953: “Chúng ta buộc đối phương đầu hàng không điều
kiện, lúc đó mới điều đình với họ.” Tuy nhiên, một số lượng lớn chính trị gia Pháp
cũng muốn dàn xếp hòa bình vấn đề xung đột ở Việt Nam bằng cách thương lượng
trực tiếp với Chính phủ Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Cuộc chiến tranh
ở Việt nam là do Chính phủ Pháp gây ra, nhân dân Việt Nam phải cầm vũ khí anh
dũng chiến đấu bảy, tám năm nay chống kẻ xâm lược chính để bảo vệ nền độc lập
và quyền tự do được sống hòa bình… Nếu Pháp tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược
thì nhân dân Việt Nam quyết tâm tiếp tục cuộc chiến tranh ái quốc đến thắng lợi
cuối cùng. Nhưng nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh
mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải
quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa sẵn sàng tiếp ý muốn đó…”. Người cũng khẳng định “Miễn là Chính
phủ Pháp đình chỉ cuộc chiến tranh xâm lược thì cuộc đình chiến ở Việt Nam là
Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nước Việt Nam”. Đó
không chỉ là lời đáp mang tính chính trị hay ngoại giao, mà Hồ Chủ tịch luôn mong
muốn hòa bình. Lúc này địch kỳ vọng vào kế hoạch Navarre, và Navarre cũng yêu 42
cầu chính phủ Pháp chỉ thương lượng khi đã giành được một thắng lợi quyết định
trong chiến tranh Đông Dương, trên thế mạnh có lợi cho Pháp. Tuy nhiên, ý chí xâm
lược của thực dân Pháp đã lung lay, nội bộ giới cầm quyền phân hóa, lúng túng
trước những thất bại về quân sự trên chiến trường Đông Dương và phong trào phản
đối chiến tranh của nhân dân Pháp.
Ngày 27/2/1954, Trung ương Đảng nhận định: “Việc đấu tranh để khôi phục
hòa bình ở Việt Nam là ý nguyện của nhân dân ta, nhưng chúng ta phải biết rằng chỉ
có chiến thắng địch mới có thể thực hiện được hòa bình chân chính”. Cục diện vừa
đánh vừa đàm kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao diễn ra trong
Đông Xuân 1953-1954 hết sức nhạy cảm, gay gắt, thậm chí các tướng Mỹ còn dự
định nhiều phương án, nhưng Chiến thắng Điện Biên Phủ, lừng lẫy năm châu. chấn
động địa cầu (đã được trình bày ở các phần trên) đã tạo tiền đề cho thắng lợi của ta
ở Hội nghị Giơnevơ, là thắng lợi trong cuộc đấu tranh ngoại giao bằng việc quán
triệt sâu sắc các nghị quyết của Đảng, bằng đường lối đối thoại độc lập, tự chủ,
bằng nội lực của dân tộc và sự khôn khéo tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của dư luận
tiến bộ trên thế giới để tạo cục diện quốc tế có lợi cho nước ta trong một bối cảnh
phức tạp ở Hội nghị Giơnevơ (ta có hai đồng minh lớn là Liên Xô và Trung Quốc
nhưng lại phải đấu tranh với 6 bên còn lại, chưa kể lập trường giữa các đoàn có
khoảng cách lớn). Và hiệp định này đã ghi nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân
dân các nước Đông Dương và được các cường quốc cùng các nước tham dự hội
nghị cam kết tôn trọng, đánh dấu thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, buộc
Pháp rút hết quân về nước và chấm dứt ách thống trị gần 1 thế kỷ trên đất nước ta,
làm cho đế quốc Mỹ thất bại trong việc quốc tế hóa, mở rộng chiến tranh xâm lược
Đông Dương. Thành quả này cũng nhờ Bác đã dành nhiều thời gian trực tiếp chỉ
đạo, theo dõi, động viên quân và dân ta, đồng thời liên tục nhấn mạnh ý nghĩa lịch
sử quan trọng của chiến dịch Điện Biên Phủ cả về quân sự, chính trị và nhắc nhở
anh em đồng chí chớ chủ quan, khinh địch để giành toàn thắng. Về mặt đối ngoại,
nhờ công đầu của Bác mà ta có 2 đồng minh lớn và hậu phương khá vững chắc trên
bàn đàm phán, sự kiên quyết về lập trường, niềm tin của Bác cũng như sự đồng tình
và ủng hộ rộng rãi trong và ngoài Hội nghị tất cả đều đã soi đường để ta có được
thắng lợi trọn vẹn, vẻ vang. 43
(Bản hiệp định Giơnevơ (21/7/1954) và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí
Minh (22/7/1954). Ảnh: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III)
Chương 2: Kế thừa các thành tựu trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp
(1946-1954) của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mở rộng đề tài, liên hệ thực tiễn và bản thân
1. Kế thừa và phát huy các thành tựu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1946-
1954) của Hồ Chí Minh trong thời kỳ hiện nay
Kế thừa và phát huy tinh thần toàn quốc kháng chiến, trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta đã phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết
hợp với sức mạnh của thời đại trong hoạch định đường lối chiến tranh nhân dân,
thực hiện tốt việc chuẩn bị về lực lượng, về thế trận, cách đánh,… đặc biệt là phát
huy cao độ sức mạnh chính trị - tinh thần, tư tưởng chiến lược cách mạng tiến công,
tạo sức mạnh tổng hợp, lập nên những chiến công oanh liệt, giải phóng hoàn toàn
miền Nam, thống nhất đất nước. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
Đảng ta luôn chú trọng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động, động
viên toàn dân và cả hệ thống chính trị trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền
an ninh nhân dân vững mạnh, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh
nhân dân ngày càng vững chắc; kết hợp đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội với
tăng cường quốc phòng, an ninh, … tạo thế và lực to lớn bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, hoàn thành vẻ vang sứ mệnh 44
quốc tế, xây dựng đất nước phát triển. Bảy mươi lắm năm đã trôi qua, nhưng tinh
thần quật khởi của những ngày toàn quốc kháng chiến vẫn còn nguyên giá trị, đã để
lại nhiều bài học quý tiếp tục được kế thừa, phát huy trong xây dựng Quân đội, tăng
cường quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc và vận dụng trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
Ngày nay, chúng ta đang ra sức thực hiện nhiệm vụ xây dựng đất nước và
bảo vệ Tổ quốc Việt nam Xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới. Thực thi đường lối
đối ngoại đúng đắn và thực hiện theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nước ta
đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tăng cường hợp tác,
hội nhập toàn cầu, nâng cao uy tín và vị thế của Việt nam trên trường quốc tế. Đến
nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia thành viên Liên hợp
quốc, là thành viên tích cực của hơn 70 tổ chức quốc tế và khu vực, thiết lập quan
hệ đối tác chiến lược với 17 nước, đối tác toàn diện với 13 nước … Việt Nam cũng
là thành viên của 63 tổ chức quốc tế và có quan hệ với hơn 500 tổ chức phi chính
phủ trên thế giới. Việt Nam là thành viên tích cực của các tổ chức quốc tế và khu
vực, như: Liên hợp quốc, WTO, APEC, ASEM, ASEAN,… Năm 2020 Việt Nam
cũng là Chủ tịch tổ chức ASEAN. Ngay trong thời điểm chống đại dịch COVID-19
này, Việt Nam đang phát huy trách nhiệm cao được Liên hợp quốc, các tổ chức
quốc tế và nhiều nước trên thế giới ca ngợi.
Tuy nhiên đất nước ta có cả thời cơ, vận hội và khó khăn, thách thức đan
xen. Trong thời gian tới, dự báo tình hình thế giới, khu vực sẽ tiếp tục có những
diễn biến phức tạp, biến chuyển nhanh chóng, khó đoán trước như cạnh tranh chiến
lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, nhất là
tranh chấp chủ quyền biển, đảo… diễn ra với nhiều hình thức, quy mô, tính chất
căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn. Các yếu tố an ninh truyền thống, phi truyền
thống, nhất là an ninh, an toàn không gian mạng, khủng bố, tội phạm, thiên tai, dịch
bệnh, … diễn biến phức tạp. Đại dịch Covid-19 tiếp tục hoành hành với nhiều biến
thể mới, tác động tới nhiều quốc gia, trên nhiều mặt đời sống xã hội. Đối với nước
ta, qua hơn 35 năm đổi mới, thế và lực ngày càng được tăng cường, vị thế, uy tín
trên trường quốc tế được nâng cao, tạo tiền đề quan trọng để phát triển mạnh mẽ và
bền vững hơn trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, nước ta vẫn đang đứng trước nhiều
thách thức lớn, đan xen và diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch, phản động, cơ
hội chính trị tăng cường hoạt động chống phá bằng “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” Quân đội, … với những âm
mưu, thủ đoạn ngày càng công khai, trực diện hơn.
Tình hình đó đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải tập trung xây
dựng Quân đội, tăng cường quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình
huống; đồng thời, phải giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát
triển đất nước. Do đó, những bài học trong công cuộc dựng nước và giữ nước của
dân tộc, nhất là bài học phát huy tinh thần toàn quốc kháng chiến còn nguyên giá trị 45
lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp xây dựng Quân đội, tăng cường quốc
phòng, bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
Một trong số những thành tựu nổi bật quan trọng nhất, được hoàn thiện liên
tục trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) đó là chiến lược
đại đoàn kết Hồ Chí Minh. Nó giữ một vai trò vô cùng quan trọng, thể hiện sáng rõ
trong kháng chiến chống Pháp, Mỹ và trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Người đã rất thành công trong việc xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất để phát
huy cao độ sức mạnh của toàn dân, đưa cách mạng Việt Nam đi tới thắng lợi cuối
cùng trong công cuộc kháng chiến và kiến quốc. Cho đến tận ngày nay, các cặp
phạm trù “Cá nhân – tập thể, gia đình – xã hội, bộ phận – toàn thể, giai cấp – dân
tộc, quốc gia – quốc tế” đã luôn thể hiện mối quan hệ phức tạp, đặt ra cho các lãnh
tụ và tổ chức chính trị tiên phong những vấn đề cần giải quyết thỏa đáng, trong đó
mối quan hệ của dân tộc và giai cấp là cốt lõi. Trong giai đoạn đã có chính quyền,
Hồ Chí Minh tiếp tục đánh giá đúng vai trò, vị trí của các giai cấp, tầng lớp, dân tộc,
tôn giáo trong xã hội để tổ chức đưa họ vào công cuộc kháng chiến và kiến quốc.
Theo Người, quyền lợi của dân tộc là trên hết nhưng không bao giờ có một dân tộc
siêu hình phi giai cấp cũng như không có một giai cấp siêu hình đứng ngoài dân tộc.
Dù quyền lợi kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau nhưng tất cả các giai cấp đều tồn
tại trong lòng dân tộc. Từ nhận thức khoa học đó, Hồ Chí Minh đánh giá đúng vai
trò, vị trí của các giai cấp, tầng lớp xã hội, tôn giáo, dân tộc và đưa họ vào công việc
cứu nước rất thành công ở thời kỳ đấu tranh giành chính quyền. Lý tưởng đó không
chỉ dừng lại ở độc lập dân tộc. Tự do hạnh phúc cho mọi người mới là mục tiêu cao
nhất của Người. Chính vì vậy, trong quá trình lãnh đạo nhân dân thực hiện những
nghĩa vụ thiêng liêng nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cố gắng tìm mọi giải pháp
nhằm thực hiện những vấn đề lợi ích dân chủ cho mọi giai tầng mà điều kiện của
cuộc kháng chiến cho phép. Trong khi giải quyết vấn đề dân tộc – giai cấp, dù ở bất
kỳ tình huống nào, sự lãnh đạo của Đảng vẫn phải được đảm bảo ở mức cao nhất,
đây là nguyên tắc cốt tử trong quá trình hoạch định đường lối. Khi giải quyết những
vấn đề quyền lợi hoặc khi phải phân nhượng, quyền lợi của giai cấp công nhân –
nông dân không bao giờ bị bán rẻ hay bỏ quên. Hơn 90 năm thực hiện xuyên suốt
và nhất quán chiến lược đại đoàn kết dân tộc, nhất là trong hơn 35 năm đổi mới,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đoàn kết dân tộc phù hợp với tình hình, yêu cầu và nhiệm vụ của sự
nghiệp cách mạng, kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì một nước Việt
Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Thực tế, các cuộc vận
động xã hội, các phong trào thi đua yêu nước sâu rộng do Mặt trận và các tổ chức
thành viên phát động và triển khai thực hiện ngày càng đi vào cuộc sống, được các
tầng lớp nhân dân tích cực hưởng ứng. Trong đó, đoàn kết giúp nhau phát triển kinh
tế, xóa đói, giảm nghèo, lá lành đùm lá rách, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, thực
hiện vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ chăm sóc sức khỏe của nhân dân, bảo vệ
môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống tội phạm, ma túy, mại
dâm, HIV/AIDS và các tệ nạn xã hội khác cùng với cuộc vận động xã hội, các
phong trào “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Ngày vì người nghèo”, 46
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng
nông thôn mới, đô thị văn minh”, “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”… không chỉ
có tác dụng thiết thực, tạo nên sự gắn kết cộng đồng mà còn góp phần làm cho tư
tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc thấm sâu vào các tầng lớp nhân dân, tạo động lực
thúc đẩy phát triển đất nước nhanh và bền vững, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Như ta đã trình bày ở phần trước, quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa đó
là: Văn hóa là một mặt trận, người hoạt động văn hóa là chiến sĩ trên mặt trận đó,
văn hóa phục vụ chính trị, phục vụ kháng chiến và cách mạng. Người cũng nêu rõ
văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi; đem văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực
hiện độc lập, tự cường, tự chủ, … Văn hóa tạo sức mạnh vật chất, tinh thần thắng
ngoại xâm theo tinh thần văn minh thắng bạo tàn. Nếu kinh tế nâng cao đời sống vật
chất, thì văn hóa có tác dụng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân. Đồng thời,
tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là cơ sở cho đường lối cách mạng văn hóa của Đảng
Cộng sản Việt nam và văn hóa Việt Nam phục vụ kháng chiến dưới ánh sáng tư
tưởng của Người. Quan điểm này đã ảnh hưởng đậm nét đến việc xây dựng nền văn
hóa mới Việt Nam 1945-1954. Hồ Chí Minh đã luôn nhấn mạnh tầm quan trọng,
động viên và chỉ ra đường lối đúng đắn cho những anh chị em hoạt động trên mặt
trận văn hóa: những người tiên phong trên mặt trận báo chí, văn hóa nghệ thuật, các
cán bộ giáo dục,… Về giáo dục, ta vẫn đang tiếp thu tư tưởng của Người, đó là việc
xây dựng nền giáo dục mới phải được coi là nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa chiến
lược, cơ bản, lâu dài, có tác dụng “làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc
dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc
lập”, và giáo dục phải được định hướng đúng đắng trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội và góp phần quan trọng vào quá trình đấu tranh thống nhất nước nhà.
Các thành tựu văn hóa – văn nghệ thời kỳ này góp phần thể hiện tinh thần phụng sự
kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân một cách chân thành và tự
nguyện…, dám hy sinh vì lợi ích của kháng chiến, của Tổ quốc, của nhân dân lên
trên hết, trước hết. Các tác phẩm đó có giá trị vô cùng to lớn trong việc tái hiện lại
lịch sử một cách chân thực, sống động, một số thậm chí còn được đưa vào chương
trình giảng dạy cho các thế hệ học sinh, như là tác phẩm Làng (Kim Lân), Lời kêu
gọi toàn quốc kháng chiến (Hồ Chí Minh), Việt Bắc (Tố Hữu), Tây tiến (Quang
Dũng), Đồng chí (Chính Hữu)… và có vai trò không thể thiếu trong nền văn hóa
nước nhà, xây dựng đời sống mới, đạo đức mới, lối sống văn minh, nếp sống mới.
Ta cũng học theo tư tưởng của Người về việc giữ gìn, phát huy những thuần phong
mỹ tục, bản sắc văn hóa của dân tộc, đồng thời cải tạo những phong tục, tập quán
cũ, lạc hậu và bổ sung những cái mới, tiến bộ, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại…
Hiện nay, khi nạn tham nhũng, lười biếng, lãng phí, quan liêu lan rộng khắp
mọi lĩnh vực của nền kinh tế, và các thế lực thù địch cũng sử dụng những luận điệu
xuyên tạc và chống phá trên mặt trận văn hóa tư tưởng, thì sức ảnh hưởng của nền
văn hóa mà ta được kế thừa từ thời kháng chiến đối với đời sống quốc dân, tâm lý
và tình cảm của họ vẫn còn vô cùng mạnh mẽ, và là vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính trừ tà. 47
Những quan điểm của Người về văn hóa, phát triển, nâng tầm văn hóa dân
tộc không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, mà
còn có giá trị sâu sắc trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay; là nền
tảng cho Đảng xây dựng đường lối phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc với các định hướng cơ bản, như xây dựng hệ giá trị văn hóa và
chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam; xây
dựng con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền
thống và giá trị hiện đại; xây dựng môi trường văn hóa thật sự trong sạch, lành
mạnh, cải thiện điều kiện thụ hưởng văn hóa của nhân dân; bảo vệ và phát huy các
giá trị tốt đẹp, bền vững trong truyền thống văn hóa Việt Nam; gắn việc giữ gìn và
phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam với việc chủ động, tích cực hội
nhập quốc tế về văn hóa, xây dựng Việt Nam thành địa chỉ hấp dẫn về giao lưu văn
hóa quốc tế; tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại phù hợp với thực tiễn
Việt Nam, từng bước đưa văn hóa Việt Nam đến với thế giới.
Về mặt đối ngoại, nhân dân ta kế thừa tư tưởng ngoại giao hòa bình, hữu
nghị, mang đậm dấu ấn truyền thống ngoại giao của dân tộc của Người. Người đã
đúc kết, chắt lọc từ những bài học đấu tranh ngoại giao trong lịch sử dân tộc, góp
phần tích cực vào việc tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi và tranh thủ sự ủng hộ
của dư luận tiến bộ trên thế giưới đối với việc công nhận độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ quốc gia và ủng hộ Việt Nam trong cuộc kháng chiến xâm lược. Sự chỉ
đạo xây dựng, hoạch định đường lối, chính sách đối ngoại và những hoạt động
ngoại giao trực tiếp của Hồ Chí Minh đã trở thành một trong những nhân tố quyết
định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, dù gặp nhiều khó khăn, Hồ Chí Minh vẫn chỉ đạo nhân dân ta kiên trì đường
lối đối ngoại hòa bình, vận động nhân dân tiến bộ trên thế giới ủng hộ cuộc kháng
chiến chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, xây dựng mặt trận đại đoàn kết chặt chẽ
với nhân dân ba nước Đông Dương chống kẻ thù chung; tăng cường quan hệ với
Liên Xô, Trung Quốc và vận động các lực lượng dân chủ, tiến bộ trên thế giới tham
gia vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội. Theo tư tưởng Hồ Chí
Minh: phải gắn liền độc lập dân tộc với đoàn kết quốc tế; lấy tinh thần thiện chí, hòa
bình để giải quyết những bất đồng, trên cơ sở gắn lợi ích dân tộc với lợi ích các
nước trong khu vực và lợi ích chung của nhân loại tiến bộ. Thành quả của sự kế
thừa và phát triển tư tưởng đó trong công tác đối ngoại ngày nay đó là từ phá thế bị
bao vây, cấm vận, chúng ta đã tạo dựng và củng cố ngày càng vững chắc cục diện
đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, thuận lợi cho công cuộc đổi mới.
Cho đến nay, chúng ta đã mở rộng và nâng tầm quan hệ ngoại giao với tất cả các
nước láng giềng, các nước lớn, các đối tác quan trọng và bạn bè truyền thống, tranh
thủ được sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của quốc tế đối với công cuộc đổi mới của
nhân dân ta. Đến nay ta đã có quan hệ kinh tế - thương mại với 230 nước và vùng
lãnh thổ, thu hút được hơn 400 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong đó đã
giải ngân được khoảng 250 tỷ USD. Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn biến
phức tạp, hiện nay, chúng ta đã chủ động đóng góp có trách nhiệm vào sự nỗ lực
chung của quốc tế trong phòng, chống dịch Covid-19, đồng thời tranh thủ được sự 48
hỗ trợ của quốc tế về vaccine, thiết bị y tế và thuốc điều trị, đóng góp cho công tác
phòng chống dịch và phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội.
Đối ngoại đóng vai trò tiên phong trong việc giữ vững môi trường hòa bình,
ổn định, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của đất nước. Hiện nay, hòa bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải,
hàng không trên Biển Đông đứng trước thách thức to lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột,
nhiều nước cải tạo đảo/đá trái phép và quân sự hóa ồ ạt các đảo nhân tạo, vi phạm
chủ quyền, nhưng ta đã khéo léo, kiên trì, kiên quyết đấu tranh bằng nhiều hình
thức, biện pháp phù hợp, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, vừa bảo vệ được
độc lập, chủ quyền, vừa giữ được môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất
nước, là nhờ vận dụng tư tưởng ngoại giao hòa bình, hữu nghị của Hồ Chí Minh. Tư
tưởng đó của Người cũng nêu rõ: Phải không ngừng nâng cao thực lực của cách
mạng để nâng cao sức mạnh và hiệu quả của hoạt động đối ngoại và đoàn kết quốc
tế, chủ động tiến công ngoại giao, định hướng mọi hoạt động đối ngoại và đoàn kết
quốc tế là kiên định vững chắc về mục tiêu chiến lược đồng thời linh hoạt mềm dẻo
về sách lược, phải xử lý tốt mối quan hệ giữa độc lập tự chủ, tự lực tự cường gắn
liền với hợp tác quốc tế để kết hợp tối ưu sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của
thời đại. Dựa trên đó, Hội nghị Đối ngoại toàn quốc năm 2021 cũng đã đề ra chủ
trương, đường lối đối ngoại trong thời kỳ mới về tư tưởng chỉ đạo, nguyên tắc đối
ngoại, phương hướng đối ngoại và các nhiệm vụ cơ bản; trong đó có xác định là cần
phải tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện đúng đắn đường lối đối ngoại độc lập,
tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, phát huy tối đa mọi yếu tố thuận lợi của đất
nước, coi trọng và nâng cao hơn nữa công tác nghiên cứu và dự báo chiến lược, chú
trọng công tác xây dựng tổ chức, bộ máy và đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ
cán bộ,… Cùng với việc tiếp tục vận dụng, phát triển, bổ sung và xây dựng dựa trên
cơ sở là các thành quả của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta sẽ đối đầu
với nhiều thách thức hơn trong thời gian tới, như yêu cầu xử lý hiệu quả, hài hòa
quan hệ với các nước lớn, xử lý mối quan hệ sâu rộng với bảo đảm an ninh quốc
gia, độc lập tự chủ, bảo vệ chế độ, và bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc, xử lý tốt mối
quan hệ giữa nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và đảm bảo môi trường
hòa binh, ổn định và nguồn lực cho phát triển…
2. Liên hệ với trách nhiệm của bản thân
Tầng lớp sinh viên bọn em, được tự hào là những công dân của đất nước Việt
Nam XHCN và tự hào về lịch sử cách mạng, kháng chiến, đấu tranh oanh liệt của
dân tộc, kế thừa những thành tựu của bậc cha anh đi trước, đặc biệt là Chủ tịch Hồ
Chí Minh vĩ đại, chịu trách nhiệm cho việc kế tục các thế hệ trước, phát huy những
thành quả đó để cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc, cho nhân dân. Trước hết,
thế hệ trẻ như chúng em cần phải học theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách
mạng: biết trung với nước, hiếu với dân, yêu thương con người; cần, kiệm, liêm
chính, chí công vô tư; phải có tinh thần quốc tế trong sáng. Tiếp đó, sẽ cố gắng ra
sức học tập để tự nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật và quân sự
để cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc, cho nhân dân, góp phần làm cho kinh tế 49
phát triển, chiến đấu thắng lợi; đồng thời cũng không cho phép bản thân quên lãng
quá khứ, đánh mất bản sắc dân tộc. Để có được tinh thần đó, thì chúng em gắn việc
học tập với tình yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu đạo
đức, sẵn sàng làm cho dân giàu, nước mạnh. Đặc biệt, chúng em sinh ra và trưởng
thành trong thời kỳ đất nước “đổi mới tư duy”, nền kinh tế chuyển dần sang cơ chế
thị trường, đất nước mở cửa hội nhập với thế giới, các giá trị và sinh hoạt văn hóa
truyền thống được giữ gìn song hành với quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa từ
bên ngoài vào… Tình hình của đất nước và thế giới có thay đổi, song những giá trị
đạo đức, văn hóa, lịch sử, tư tưởng…, những bài học của Bác trong công tác đối nội
và đối ngoại, đặc biệt là những quan điểm của Bác về vai trò của việc giáo dục thế
hệ trẻ từ giai đoạn kháng chiến chống Pháp, vẫn còn vô cùng quan trọng trong việc
định hướng tư tưởng, nhận thức chính trị, xu hướng lối sống và ứng xử cá nhân
không chỉ của riêng bất cứ ai, mà là của toàn xã hội, của mọi con dân của Tổ quốc
thân yêu. Chúng em đọc và học từng hành động của Người, hiểu được mình phải
hướng tới những giá trị tốt đẹp, có khát vọng về tương lai, có ý chí vươn lên, không
ngả theo xu hướng lối sống tiêu cực, không lành mạnh, cố gắng để đáp ứng những
yêu cầu ngày càng cao của cách mạng.
Tuy vậy, hiện nay cũng có một số bộ phận thanh niên chịu ảnh hưởng tiêu
cực, dẫn đến hành xử hung bạo, bất chấp pháp luật, ích kỷ, thờ ơ, vô cảm, thiếu
trách nhiệm và nhiệt tình của tuổi trẻ, chỉ biết a dua theo các trào lưu nhất thời, tiếp
thu xô bồ ảnh hưởng văn hóa từ bên ngoài. Thậm chí tình hình tội phạm trong lứa
tuổi thanh niên hiện nay diễn ra khá nghiêm trọng, có xu hướng gia tăng về số vụ,
số loại tội phạm và cả về tính chất, mức độ phạm tội. Đó là chưa kể, các thế lực thù
địch luôn xem thanh niên là đối tượng đặc biệt để thực hiện thủ đoạn “diễn biến hòa
bình”, do đó đối với những người không có đủ nhận thức về vai trò của mình,
không được trang bị lý luận, nhận thức đúng thì sẽ dẫn đến nhiều hậu quả khó
lường. Đảng và Nhà nước do đó cũng cần phải tăng cường giáo dục nâng cao nhận
thức về nền tảng tư tưởng, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật,
phát huy tối đa vai trò của nhà trường, gia đình và xã hội trong công tác tuyên
truyền, giáo dục; thường xuyên tập hợp thanh niên vào các tổ chức đoàn, đảng và
các tổ chức chính trị xã hội; đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước.
Nhóm sinh viên chúng em, là những sinh viên năm nhất của Đại học Bách
khoa Hà Nội, được hưởng chế độ giáo dục đạt kiểm định quốc tế, tiếp thu đầy đủ
các lĩnh vực từ khoa học, lý luận chính trị, được giáo dục thể chất và giáo dục quốc
phòng an ninh, đào tạo ngoại ngữ, sẵn sàng đóng góp sức mình cho sự phát triển
của nền kinh tế tri thức và góp phần gìn giữ an ninh, hòa bình đất nước. Trong đó,
quan trọng trước hết là tự rèn luyện và tu dưỡng để bản thân có phẩm chất cách
mạng theo tư tưởng của Hồ Chí Minh, ý thức chính trị đúng đắn, nhận thức rõ được
những thuận lợi và khó khăn của đất nước, âm mưu của các thế lực thù địch và tích
cực vận dụng những bài học, giá trị mà Người để lại trong công tác học tập, sinh
hoạt và làm việc, không để bản thân bị ảnh hưởng bởi các xu hướng xấu, thay vào
đó tích cực tham gia các hoạt động của đoàn, đảng, các tổ chức chính trị xã hội. 50
3. Liên hệ với chuyên ngành đang học
Đặc biệt đối với riêng ngành học mà chúng em đang theo học tại Đại học
Bách khoa Hà Nội (Khoa học dữ liệu và Trí tuệ nhân tạo) mà nói, những ứng dụng
mà người trong ngành làm ra có khả năng vô hạn trong việc phục vụ cho mọi lĩnh
vực của kinh tế và đời sống dân sinh như nông nghiệp, y tế, giáo dục, giao thông,
thương mại điện tử… , thúc đẩy phát triển khoa học – công nghệ và đổi mới sáng
tạo, mang lại lợi thế cạnh tranh gia tăng trong thương mại quốc tế, nâng cao được
sức mạnh quốc gia, năng lực kinh tế, quốc phòng, từ đó làm thay đổi sự cân bằng
lực lượng trong môi trường chính trị - kinh tế toàn cầu. Xu hướng trí tuệ nhân tạo
(gọi tắt là AI) của thế giới hiện nay đã và đang tạo ra những vấn đề chưa từng có
tiền lệ đối với chính trị, an ninh, kinh tế và xã hội của mọi quốc gia trên thế giới
(những lo ngại về công nghệ quân sự tích hợp AI, việc không tuân thủ các “nguyên
tắc đạo đức” và “kiểm soát chéo” và phát triển và tích hợp AI ở các nước, việc AI sẽ
dẫn đến tình trạng bất ổn định chính trị ở các nước đang phát triển, hay AI xây dựng
và triển khai các chiến dịch thông tin, tin giả nhằm gây ảnh hưởng, chia rẽ nội bộ,
ảnh hưởng tới các cuộc bầu cử…). Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình nhận
định AI là chiến lược dẫn đầu cuộc cách mạng khoa học – công nghệ và chuyển đổi
công nghiệp, có thể tạo ra những ảnh hưởng sâu rộng với sức lan tỏa mạnh mẽ.
Trong bối cảnh phát triển và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, ta có nhiều cơ
hội trong việc áp dụng AI trong hoạch định chính sách đối ngoại, tham gia quan hệ
quốc tế, xử lý quan hệ đối ngoại,… tuy nhiên cũng có không ít thách thức đặt ra khi
nhiều thế lực thù địch sử dụng công nghệ này để tự động hóa các mô hình xuất bản
thông tin giả mạo chống phá, phát triển các vũ khí công nghệ cao để ăn cắp hay tận
dụng những nguồn dữ liệu quan trọng, đe dọa tới an ninh quốc gia. Do đó nhóm
chúng em với chuyên ngành của mình sẽ đóng vai trò trong lực lượng giải quyết và
ứng phó với những biến động, thách thức và hiểm nguy mà xu thế công nghệ hóa,
hiện đại hóa, toàn cầu hóa đặt ra cho đất nước, và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh sẽ là cốt lõi trong việc hình thành cho chúng em những phẩm chất đạo đức
cần thiết, trang bị cho chúng em với những lý luận chính trị phù hợp, giúp chúng em
thấu hiểu những giá trị văn hóa, lịch sử, cách mạng của dân tộc, nhờ đó mà có thể
thực hiện công tác học tập và làm việc của mình một cách thật sự đúng đắn. Kết luận chung
Giai đoạn 1946-1954, đất nước ta gặp phải vô vàn khó khăn về mọi lĩnh vực
của kinh tế và đời sống xã hội, từ nạn đói, nền kinh tế kiệt quệ đến sự tụt hậu về văn
hóa, phải chiến đấu quyết liệt vì sự tồn tại của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đứng
ra để làm người dẫn đường chỉ lối cho toàn dân ta, đồng thời tham gia trực tiếp và
mang sức ảnh hưởng của mình đến mọi mặt trận như quân sự, kinh tế, văn hóa, tư
tưởng, ngoại giao,… và dẫn dắt đất nước ta đến chiến thắng cuối cùng. Trong quá
trình đấu tranh khắc nghiệt, con người thiên tài ấy đã để lại cho các thế hệ con cháu
sau này biết bao nhiêu những bài học, những thành quả vô giá trong kho tàng lịch 51
sử, văn hóa, tư tưởng của dân tộc. Càng tìm hiểu, ta lại càng khâm phục cái xuất
chúng và vĩ đại của Người, tự hỏi sao một con người lại có thể tạo dựng được một
hệ tư tưởng làm kim chỉ nam cho cả một đất nước suốt hàng bao năm qua, ảnh
hưởng một cách sâu sắc tới nhiều lĩnh vực đến thế. Từ đó ta thấy được trách nhiệm
của mình là học tập theo tấm gương của Hồ Chí Minh, tiếp tục bảo tồn, vận dụng,
phát huy những giá trị và thành quả đó, để làm giàu đẹp thêm cho đất nước mình,
tiếp nối truyền thống kháng chiến hào hùng của cả dân tộc.
Bài thu hoạch này của nhóm sinh viên chúng em là thành quả sau chuyến
tham quan thực tế Bảo tàng Hồ Chí Minh. Sau khi được quan sát, tìm hiểu các hiện
vật, tư liệu của bảo tàng và lắng nghe câu chuyện về cuộc đời và con người của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, chúng em đã được thúc đẩy đam mê tự khám phá, tìm hiểu
những di sản văn hóa, tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người, đồng thời có thêm
niềm yêu thích đối với môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng em cũng mong rằng
bài thu hoạch này của nhóm cũng sẽ đóng góp cho việc tuyên truyền lòng yêu nước,
ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, những phẩm chất đạo đức cách mạng, và hi
vọng trong tương lai sẽ có thêm nhiều cơ hội để trải nghiệm, tương tác thực tế để
chứng minh cho tinh thần ham học hỏi và nghiên cứu của mình, cũng như trau dồi
thêm kiến thức, rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm cũng như năng lực tự chủ và trách
nhiệm để xứng đáng với hình ảnh đẹp của sinh viên Đại học Bách Khoa Hà Nội.
Danh mục tài liệu tham khảo 52 1.
Tuổi trẻ Phú Yên. (2017). Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo cuộc đấu tranh
giữ vững chính quyền cách mạng và kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946-1954)
Truy cập 28/12/2022, từ https://www.tuoitrephuyen.vn/chu-tich-ho-chi-minh/chu-
tich-ho-chi-minh-lanh-dao-cuoc-dau-tranh-giu-vung-chinh-quyen-cach-mang-va-
khang-chien-chong-thuc-dan-phap-xam-luoc-1946-1954-49.html 2.
Khanh, V.H. (2020). Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân dân.
Truy cập 28/12/2022, từ https://www.qdnd.vn/ky-niem-130-nam-ngay-sinh-chu-
tich-ho-chi-minh/dang-cam-quyen-theo-tu-tuong-ho-chi-minh/tu-tuong-ho-chi-
minh-ve-chien-tranh-nhan-dan-618249 3.
Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam. (2020). Công tác tư tưởng trong thời
kỳ kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954).
Truy cập 28/12/2022, từ https://dangcongsan.vn/huong-toi-ky-niem-90-nam-ngay-
truyen-thong-nganh-tuyen-giao/thong-tin-tu-lieu/cong-tac-tu-tuong-trong-thoi-ky-
khang-chien-chong-phap-1945-1954-550737.html 4.
Trang Thông tin điện tử “Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa
XII”. (2020). Tư tưởng Hồ Chí Minh lãnh đạo cách mạng Việt Nam thống nhất đất nước.
Truy cập 28/12/2022, từ https://moha.gov.vn/nghi-quyet-tw4/gioi-thieu-nqtw4/tu-
tuong-ho-chi-minh-lanh-dao-cach-mang-viet-nam-thong-nhat-dat-nuoc-44277.html 5.
Tính, Nhị, Lai, … & Hà. (2008). Hồ Chí Minh – Tiểu sử. Nơi xuất bản: NXB Chính trị Quốc gia. 6.
Lâm, Hương & Huy. (1995). Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5. Nơi xuất bản: NXB. Chính trị quốc gia 7.
Những sự kiện lịch sử Đảng, tập 2 (1945 – 1954). (1979). Nơi xuất bản: NXB. Sự thật. 8.
Văn kiện quân sự của Đảng, tập 2. (1976). Nơi xuất bản: NXB. Quân đội Nhân dân 9.
Wikipedia. (2022). Chiến dịch Việt Bắc.
Truy cập ngày 28/12/2022, từ https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_d
%E1%BB%8Bch_Vi%E1%BB%87t_B%E1%BA%AFc 10.
Hĩnh, N.T. (2004). Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế và quản lý kinh tế. Nơi xuất bản: NXB Thống kê. 11.
Phong, Đ. (2013). Kinh tế Việt Nam 1945 – 1954: Chủ trương và thành tựu.
Truy cập ngày 28/12/2022, từ http://lichsu.tnus.edu.vn/chi-tiet/461-KINH-TE-
VIET-NAM-1945-1954-CHU-TRUONG-VA-THANH-TUU 53 12.
Chinh, T. (1985). Về văn hóa và nghệ thuật, tập 1. Nơi xuất bản: NXB Văn học. 13.
Huyên, N.V. (2004). Toàn tập, Văn hóa và giáo dục Việt Nam, tập 3. Nơi xuất bản: NXB. GD, 2004 14.
Quyên, N.T.A. (2022). Chính sách văn hóa Việt Nam thời kỳ 1945 -1954 và những thành tựu.
Truy cập ngày 28/12/2022 từ http://vanhoanghethuat.vn/chinh-sach-van-hoa-viet-
nam-thoi-k-1945-1954-va-nhung-thanh-tuu.htm 15.
Liễu, N.T. (2021). Tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc
phát huy nguồn lực địa phương để phục vụ cho Chiến dịch biên giới 1950.
Truy cập ngày 28/12/2022, từ http://pacbo.vn/vi/news/thong-tin/tam-nhin-chien-
luoc-cua-chu-tich-ho-chi-minh-trong-viec-phat-huy-nguon-luc-dia-phuong-de-
phuc-vu-cho-chien-dich-bien-gioi-1950-199.html#:~:text=%C4%90%E1%BA
%BFn%20cu%E1%BB%91i%20th%C3%A1ng%208%2F1950,%2C%20b
%E1%BB%99%20%C4%91%E1%BB%99i%2C%20d%C3%A2n%20c %C3%B4ng. 16.
Hoài, P.T. (2022). Chủ tịch Hồ Chí Minh với Chiến dịch Tây Bắc 1952.
Truy cập ngày 28/12/2022, từ http://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn/chu-tich-ho-
chi-minh-voi-chien-dich-tay-bac-1952-3371#:~:text=B%C3%A1c%20kh
%C3%B4ng%20ch%E1%BB%89%20theo%20d%C3%B5i,t%E1%BB%B1%20do
%20c%E1%BB%A7a%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20nh%C3%A0. 17.
Xuân, N.T. (2021). Vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh với chiến thắng lịch
sử Điện Biên Phủ năm 1954.
Truy cập ngày 28/12/2022, từ http://truongchinhtrils.vn/node/1332 18.
Thắng, M.Q. (2019). Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh. Nơi xuất bản:
NXB. Chính trị quốc gia sự thật. 19.
Tạp chí quốc phòng toàn dân. (2011). Vai trò to lớn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong kháng chiến chống Pháp
Truy cập 28/12/2022, từ http://tapchiqptd.vn/vi/an-pham-tap-chi-in/vai-tro-to-
lon-cua-chu-tich-ho-chi-minh-trong-khang-chien-chong-phap/2366.html 20.
Báo Quân đội nhân dân. (2020). Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh trong
đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta
Truy cập 28/12/2022, từ https://www.qdnd.vn/ky-niem-130-nam-ngay-sinh-chu-
tich-ho-chi-minh/dang-cam-quyen-theo-tu-tuong-ho-chi-minh/tu-tuong-ngoai-
giao-ho-chi-minh-trong-duong-loi-doi-ngoai-cua-dang-va-nha-nuoc-ta-618146 54 21.
Cổng thông tin – giao tiếp điện tử Sở lao động – thương binh và xã hội
tỉnh Vĩnh Phúc. (2020). Thành tựu nổi bật của đất nước sau 75 năm xây dựng và phát triển (1945-2020) Truy cập 28/12/2022, từ
https://soldtbxh.vinhphuc.gov.vn/noidung/tintuc/Lists/TinTucSuKien/View_Detai l.aspx?ItemID=237 22.
Trang Thông tin điện tử “Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4
khóa XII”. (2021). Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Đối ngoại và Đoàn kết
quốc tế trong thời kỳ mới.
Truy cập 28/12/2022, từ https://moha.gov.vn/nghi-quyet-tw4/bao-ve-nen-tang-tu-
tuong-cua-dang/van-dung-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-doi-ngoai-46961.html 23.
Báo điện tử Công an nhân dân. (2010). Chuyến công du ngoại giao bí mật
của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Truy cập 28/12/2022, từ https://cand.com.vn/Phong-su-tu-lieu/Chuyen-cong-du-
ngoai-giao-bi-mat-cua-Chu-tich-Ho-Chi-Minh-i157209/
Phụ lục phân công bài thu hoạch Họ tên sinh viên MSSV
Nhiệm vụ được phân công Trần An Khanh
20225447 - Chương 1 phần 2.3 (Chiến dịch Biên giới thu – đông năm 1950)
- Chương 1 phần 2.4 (Chiến dịch Tây Bắc (1952))
- Chương 1 phần 2.5 (Cuộc tiến công chiến lược
Đông – Xuân 1953 – 1954) 55
- Chương 1 phần 2.6 (Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ (1954))
- Chương 1 phần 2.7 (Ý nghĩa của cuộc kháng
chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946 – 1954))
- Chương 1 phần 2.2 (Chiến dịch Việt Bắc thu – đông)
- Chương 1 phần 3 (Vai trò của Hồ Chí Minh trên Phạm Minh Hiếu
20220062 mặt trận kinh tế)
- Chương 1 phần 4 (Vai trò của Hồ Chí Minh trên mặt trận văn hóa)
- Chương 1 phần 1 (Hoàn cảnh đất nước giai đoạn 1946-1954) Nguyễn Như
- Chương 1 phần 2.1 (Cuộc chiến đấu ở Hà Nội 20225441 Giáp
và các thành phố phía Bắc vĩ tuyến 16)
- Chương 1 phần 5 (Vai trò của Hồ Chí Minh trên mặt trận tư tưởng)
- Phần mở đầu, kết luận chung Nguyễn Đức
- Chương 1 phần 6 (Vai trò của Hồ Chí Minh trên
20225475 mặt trận ngoại giao) Bình
- Chương 2 (Kế thừa các thành tựu của Hồ Chí
Minh, liên hệ thực tiễn và bản thân, mở rộng) 56