VỤ KIỆN CỦA CÔNG TY DƯỢC PHẨM C.K. COOLIDGE, INC. (A) | Đại học Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp

Vụ kiện của C.K. Coolidge, Inc. không chỉ là một bài học về pháp lý mà còn phản ánh các vấn đề trong quản lý kinh doanh và hợp tác. Nắm vững các khía cạnh pháp lý và hợp đồng là rất quan trọng để bảo vệ lợi ích của công ty trong môi trường kinh doanh cạnh tranh. Các công ty cần xây dựng và duy trì mối quan hệ hợp tác tốt với các đối tác kinh doanh để tránh xảy ra tranh chấp.

THẢO LUẬN GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG THEO NHÓM
trình bày kết quả thảo luận vào file word (ghi rõ tên thành viên), nộp theo quy định.
--------------------O0O----------------------
VỤ KIỆN CỦA CÔNG TY DƯỢC PHẨM C.K. COOLIDGE, INC. (A)
Vào một ngày chủ nhật trung tuần tháng 9 năm 1993, Christine Schilling mặt tại văn phòng của Ralph Purcell
giám đốc của tập đoàn C.K. Coolidge, Inc (CKC) vừa được thuê làm nhân viên phân tích cho Ralph Purcell.
Schilling đang trình bày chi tiết phân tích mà cô vừa thực hiện hôm qua. Ông Purcell đã hy vọng vào cuối buổi trưa, với
sự trợ giúp của cô Schilling, ông ta có thể thiết lập phương hướng hành động để thúc đẩy việc giải quyết ổn thỏa vụ kiện
về bằng sáng chế đã nhắm vào CKC từ 3 năm trước (năm 1990) bởi tập đoàn Tolimite công ty nhượng quyền công
nghiệp của nó là Barton Research and Development (BARD).
Nội dung vụ việc
CKC được thành lập bởi Milwaukee tại Wiscosin vào năm 1932 n một điểm bán lẻ các sản phẩm từ phát minh của
Tiến sĩ Charler K. Coolidge, một kĩ hóa chất hữuđầy khôn ngoan, công ty đã vượt qua Đại khủng hoảng phát
triển thịnh vượng trong chiến tranh thế giới II và những năm hậu chiến. Vào những năm 70 doanh số hàng năm khoảng
gần 3 triệu đô la.
Tiến Coolidge đã quản chèo lái công ty đến năm 1980, sau đó với mong muốn nghỉ ngơi ông bán cùng với
các sản phẩm và các bằng sáng chế cho Arrow Industri, một tập đoàn nhỏ ở Chicago. CKC tiếp tục phát triển phồn vinh
trong vai trò công ty con của Arrow và vào năm 1993 nó đạt doanh số năm vào khoảng 10,5 triệu (kết quả này dựa trên
số liệu đã có về doanh số từ tháng 1 đến tháng 8 năm 1993 và ước lượng doanh số từ tháng 9 đến tháng 12 cuả năm đó)
chiếm 14% doanh số của Arrow. Một phần quan trọng trong doanh số của CKC vào năm 1993 được sinh ra từ thành
phần hóa chất tênVaracil mà quá trình sản xuất nó là mục tiêu của vụ kiện bằng sáng chế hiện nay. Phần còn lại của
doanh số từ nhiều sản phẩm hóa chất tự nhiên đặc biệt được bán theo những số lượng tương đối nhỏ chủ yếu cho
ngành công nghiệp thực phẩm.
Cty Tolimite cũng có trụ sở tại Chicago là một nhà máy sản xuất dược phẩmhóa chất lớn với doanh số ước tính vào
năm 1993 là trên 300 triệu đô. Vào năm 1984 Tolimite được nhận một bằng phát minh liên quan đến phương pháp mới
tiết kiệm chi phí để tổng hợp Varacil. thuật được trình bày trong phát minh này được khám phá bởi đội ngũ nghiên
cứu của Tolimite vào năm 1979 từ một nhánh phụ của một dự án khác. Vì Tolimite không chỉ là người sử dụng mà còn
người sản xuất Varacil nên họ quyết định mời BARD sử dụng phát minh này dưới sự nhượng quyền công nghệ của
họ, BARD là nhà sản xuất Varacil chính ở Mỹ lâu nay.
BARD đóng tại Evanston, Illinois, đã bắt đầu như một công ty nghiên cứu nhỏ về các hóa chất công nghiệp. Tuy nhiên
vào năm 1984 dừng các nghiên cứu lại tập trung duy nhất vào sản xuất Varacil. Để duy trì vị trí dẫn đầu trong
ngành công nghiệp BARD đã chấp nhận đề nghị nhượng quyền của Tolimite và thay đổi quy trình sản xuất Varacil theo
công nghệ mới. Đổi lại họ trả cho Tolimite 4% tiền bản quyền phát minh trên tổng doanh số của Varcil mà họ sản xuất
được. Ngòai ra theo hợp đồng thì BARD được phép nhượng quyền phụ cho các nhà sản suất Varacil khác muốn đầu
vào thực hiện những thỏa thuận bản quyền riêng giữa họ với hãng. Theo những thỏa thuận nhượng quyền phụ này,
tiền bản quyền 4% vẫn sẽ là của Tolimite còn các phần nảy sinh thêm thì thuộc về BARD.
1
2
Vào 1989, 5 năm sau khi Tolimite nhận bằng sáng chế, một nhà nghiên cứu hóa chất của CKC đã nghiên cứu một cách
hoàn toàn độc lập ra một quy trình khá đơn giản để tổng hợpVaracil. Tuy nhiên nhà nghiên cứu của CKC đã không nghĩ
rằng thuật mới này thể được cấp bằng sáng chế do đó đã CKC đã để các phương tiện sản xuất được chuyển sang
quy trình mới một cách đơn giản không bắt đầu việc xin cấp bằng sáng chế. Vào thời điểm đó không ai tại CKC
nghĩ về mức độ tương đồng của quá trình sản xuất mới của họ với quy trình sản xuất được phát minh bởi Toleminte
đã được cấp bằng sáng chế. vậy thật bất ngờ khi nhà quản của CKC biết rằng họ bị kiện bởi Toleminte
BARD bởi vi phạm quyền phát minh sáng chế của họ.
Varacil
Varacil hóa chất bản được bán hầu khắp cho các nhà sản xuất dược phẩm. Mặc xuất hiện trong nhiều loại
dược phẩm nhưng nó lai chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong thành phần thuốc. Tính kinh tế trong ngành sản xuất Varacil (chi
phí cố định cao biến phí thấp tạo ra tính kinh tế theo quy mô) cho thấy nên sản xuất lâu dài với số lượng rất
nhiều mới có lời. Do đó bản thân các công ty dược phẩm lớn không muốn tham gia chế biến chất này mà để cho một vài
công ty nắm việc sản xuất và cung ứng chính.
Trước 1984 Varacil được chiết xuất từ loại hóa chất tự nhiên được tìm thấy trongđộng vật. Do chi phí của loại hóa
chất tư nhiên này cao, kết quả chi phí của Varacil khá cao. Với phát minh Varacil tổng hợp thì tình hình này đã thay
đổi triệt để. Do đó Varacil tổng hợp nhanh chóng đẩy Varacil tự nhiên ra khỏi thị trường (thực ra 1 số nhà tiêu thụ
Varacil vẫn tin sản phẩm tự nhiên có các đặc tính ưu việt hơn)
Vào năm 1993 thị trường nội địa về Varacil tổng hợp đạt 9 triệu đô doanh số. Theo đơn vị sản lượng tiêu thụ tính bằng
pound (1 pound khoảng 450g) thì thị trường này khá ổn định trong nhiều năm. Vìc loại thuốc cần Varacil thoái trào
nhưng những loại mới cần hợp chất này với liều lượng tương tự luôn xuất hiện. Hơn nữa không do gì để tin rằng
sự ổn định này sẽ mất đi trong khoảng vài năm tới. Sản lượng tiêu thụ vì thế được hoạch định ổn định trong giai đoạn 5-
10 năm tới tính từ bây giờ (năm 1993).
Về phương diện giá trị tính theo USD, thì chuyện lại hơi khác. Giá của Varacil, và do đó doanh số theo USD, lại bị suy
giảm trong vài năm. Khi chuyển sang quá trình sản xuất Varacil tổng hợp, các nhà cạnh tranh chính trong sản xuất chất
này đều có công cụ sản xuất đểthể chia sẻ thị phần. Do đó khi mục tiêu chia sẻ thị phần mâu thuẫn thì giá sẽ bcắt
bớt nhằm để giữ cho việc sản xuất hoạt động ổn định thu vào lợi nhuận nhiều nhất thđtrang trải chi phí cố
định. Tình hình này dự kiến sẽ kéo dài trong vòng 5 năm tới.
Vào năm 1993 07 nhà cạnh tranh chính trong thtrường Varacil. BARD với 6 triệu đô la doanh số chiếm 67% thị
phần. CKC với 1050 ngàn USD doanh số là nhà sản xuất lớn thứ 2 chiếm 12% thị phần. Còn lại 05 nhà cạnh tranh khác
không người nào doanh số Varacil vượt quá 570 ngàn USD và họ chiếm 21% thị phần còn lại. Vào 1990, cả 7 nhà
cạnh tranh chính đều đang sản xuất Varacil tổng hợp theo tiến trình của riêng mình trong đó c hỉ BARD trả tiền
bản quyền cho Tolimite.
Nền tảng của sự tranh chấp
Vào ngày 12/6/1990 Toleminte BARD đã cùng nhau khởi kiện tại tòa án tối cao tại quận 5 Wincousin, họ buộc tội
CKC vi phạm bản quyền của Toleminte. Tolemite BARD đòi hỏi một khoản tiền sở hữu bản quyền 20% toàn bộ
doanh số tương lai của CKC về Varacil cho đến hết thời hạn hiệu lực của bản quyền (năm 2000), cũng như họ đòi một
khoản bồi thường tài chính cụ thể trên doanh số những năm đã qua.
Khi đối diện với vụ kiện, Purcell đã lập tức thảo luận với Arron Mantriti luật sư chính của Arrow Industri. Cả hai người
đều nhận thấy có bằng chứng đáng kể chỉ ra rằng quy trình sản xuất của Toleminte lẽ ra không được cấp bằng sáng chế.
Theo lời vấn của luật Mantriti, CKC đã đi thuê dịch vụ của Evan and Blaylock, một hãng luật chuyên về bản
quyền danh tiếng tại New York. Các luật sư của hãng này đồng ý với Mantriti về yếu điểm tiềm tàng trong
2
3
vụ kiện của Toleminte (rằng quy trình sản xuất của Toleminte lẽ ra không được cấp bằng sáng chế). Vì thế từ năm 1990
Evan and Blaylock đã bắt đầu chuẩn bị hồ sơ để bảo vệ CKC.
Bằng phát minh của Toleminte có 12 tuyên bố cơ bản. Để hình thành nó thì Toleminte, như hầu hết những người đi xin
chứng nhận bản quyền công nghệ khác, đã chứng minh với người khảo sát công nghệ rằng không bằng chứng nào
thể hiện phát minh này đã được người ngoài biết/nghĩ đến trước đó, do vậy chính một phát minh. Phát minh
này cũng có thể bao gồm các phát minh đã có trước ứng dụng cho phát minh này, hoặc các quy trình đã phổ biến trong
cùng lĩnh vực– tuy không có bản quyền phát minh nhưng ai cũng biết – mà tương tự. Để thể hiện sự phát minh, cần thể
hiện rằng quy trình được áp dụngkhông hiển nhiên với bất cứ người nào hiểu biết một cách phù hợp về lĩnh vực
hóa chất.
Lâu nay, bất cứ một bằng sáng chế nào cũng luôn mục tiêu tranh chấp kiện tụng. Toàn bộ hoặc từng phần của sáng
chế thể bị phản bác về việc đã được người ngoài biết/nghĩ đến, hoặc hiển nhiên với những người thuộc
chuyên ngành đó, hoặc nó không đủ tầm để coi là phát minh. Trên thực tế, người ta có thể tranh luận về việc phát minh
đó không đủ tính sáng tạo nhiều năm sau đó. Những ý tưởng mới lạ vào thời điểm của phát minh dường như ngày
càng trở nên hiển nhiên bình thường hơn về sau đó. Người nắm giữ phát minh, để bảo vệ phát minh của mình, cố gắng
nhấn mạnh lại lần nữa sự mới lạ của ý tưởng vào thời điểm nó xuất hiện. Theo tiến trình chứng minh đó, có nhiều bằng
phát minh đã vượt qua thử thách khi xin cấp bằng sáng chế. Trong trường hợp của phát minh Varacil tổng hợp, Matriti
lập luận rằng Toleminte thực ra đã không giới thiệu được sự mới lạ nào. Thực ra họ chỉ quan sát khai thác một q
trình xảy ra tự nhiên, mà quá trình đó, chính bản thân nó không phải là một phát minh.
Người nắm giữ công nghệ mà đang bị xâm phạm có quyền kiện người xâm phạm về sự thất thoát doanh số và lợi nhuận.
Trong việc xác định số tiền được đòi trong vụ kiện bản quyền, nguyên đơn thường tính toán thiệt hại này theo hướng có
lợi cho mình. Tuy nhiên nếu nguyên đơn thắng tại tòa, thì thiệt hại thực tế thường được đánh giá ít hơn đáng kể so
với mức họ đòi. Trong tình huống vụ kiện Varacil thì cả Martinti luật của Evan and Blaylock đánh giá rằng tổng
giá trị phải trả bản quyền, nếu không may CKC thua, khoảng 10% doanh số tương lai, hoặc chỉ một nửa tổng số tiền
bị Toleminte và BARD yêu sách tính trên doanh số đã qua.
Từ năm 1990 đến 1993, một luật sư hợp tác từ hãng Evan đã (thỉnh thoảng) làm việc với Martinti để tìm kiếm và chuẩn
bị hồ sơ cho vụ kiện. CKC xem vụ kiện này là không quá phiền toái và sẵn lòng kéo dàivới hy vọng rằng hồ sơ của
Toleminte sẽ bị thất bại do sự trì trệ từ công tác quản bên Toleminte. Tuy niên cuối năm 1992, CKC nhận thông tin
ngày xét xử dự kiến đã được định vào khoảng tháng 1 năm 1993, Trước khi ngày cụ thể được ấn định, Purcell
Mantriti đã quyết định, với sự hợp lực của các luật sư chuyên về bản quyền đã thực hiện một nỗ lực thương thuyết cuối
cùng trước khi xét xử. Họ đề nghị với bên kia khoản trả cho tất cả các nghĩa vụ về pháp liên quan đến tỷ lệ tiền bản
quyền là 2,5% của doanh số. Nhưng phía Tolemite và BARD đã khước từ đề nghị này. Cuối cùng hồ sơ được tòa thụ
và ngày xét xử được ấn định là vào tháng 10 năm 1993.
Vào tháng 9 năm 1993, Purcell trnên lo lắng về mức phí luật cao ngày càng tăng. Con số này hiện đã đạt đến
mức tổng cộng300 ngàn USD, nếu phiên tòa diễn ra như dự kiến thì chi phí luật sư sẽ được tính thêm và có lẽ rất lớn
so với khoản lợi thu được nếu thắng kiện. Ngoài ra, chi phí luật sư 300 ngàn USD này là không thể lấy lại được, ngay cả
khi CKC thắng vụ kiện, nên giờ đây khoản này sẽ không được xem xét tới trong các cân nhắc tương lai về vụ việc nữa
mà hoạch toán như một khoản chi phí quản lý của CKC trong quá khứ.
Để giải quyết mối lo lắng về tiến trình của phiên tòa cũng như sự tích tụ gia tăng của chi phí luật sư, Purcell quyết định
phải hành động ngay tức khắc. Đầu tiên anh ta sắp xếp thông qua Mantriti, một cuộc gặp tại New York để tổng quát lại
toàn bộ hồvụ việc một cách thông suốt với các luật sư chuyên về bản quyền. Việc kế tiếp là anh ta hỏi chuyên viên
phân tích mới của mình, cô Schilling, để tổng quát lại hồ sơ, và anh ta hy vọng nảy sinh ra một ý tưởng mới từ quá trình
đó.
Phân tích của Schilling và cuộc gặp với các luật sư chuyên về bản quyền.
3
4
Schilling vừa tốt nghiệp đại học Harvard, khi còn đi học ấy khá hứng thú với môn Phân tích định lượng để ra quyết
định. thế cách tiếp cận vấn đề này của ấy được thực hiên dưới dạng cây quyết định. nhận ra hai lựa chọn
mở ra cho CKC là:
1. Tham gia phiên tòa và tranh luận về bản quyền, điều này sẽ tốn chi phí thêm 150 ngàn USD cho luật sư và kết
quả là có thể chiến thắng vụ kiện với Xác suất X% hoặc thua với xác suất 1-X %.
2. Giải quyết ngoài phiên tòa với nguyên đơn với thỏa thuận khoản trả cho bản quyền là Y% của doanh số quá
khứ và hiện tại cho họ.
Cô tổng hợp 2 tình huống này theo cây quyết định như hình 1
Hình 1
Chi phí thắng
Thắng X
Ra tòa
Chi phí thua
Thua (1- X)
Thỏa thuận
Thỏa thuận bản quyền Y%
Chú ý là: nếu CKC thắng vụ kiện này thì sau đó BARD cũng không còn phải trả 4% tiền bản quyền cho Tolimite nữa. vì bản chất cạnh tranh
cao trong ngành công nghiệp sx Varacil, Schilling tin rằng BARD sẽ đưa khoản chi pđược giảm này vào ngay giá thành, bắt buộc CKC
phải làm theo, vì thế doanh số của CKC cũng sẽ giảm một lượng tạm ước tính 4% dù cho họ có thắng phiên tòa.
Phân tích của cô này muốn tính toán định lượng mức đề xuất Y% để đưa ra thương lượng dàn xếp ngoài tòa với nguyên
đơn nên bao nhiêu ? Dựa trên cây quyết định cách phân tích điểm hòa vốn Schilling lập phương trình về xác
suất để chiến thắng X, với giá trị biến đổi cho trước của Y, như sau:
[chi phí thắng]*(X) + [chi phí thua]*(1-X) = Chi phí nếu đặt dàn xếp tại mức Y% doanh số
Kết luận bản của Schilling từ phân tích này cần định lượng được xác suất chiến thắng phiên toà này (X%), từ đó
tính ra mức Y% thỏa thuận hợp lý để trả chi phí bản quyền và bỏ qua việc kiện tụng khiến CKC tổn thất sức lực và chi
phí cơ hội. Purcell mộtsư hóa chất khá rành rẽ về phân tích định lượng thực ra cũng rất thích dùng số liệu để
hỗ trợ cho lập luận của mình bất cứ khi nào có thể. Anh ta bị thuyết phục bởi phân tích của Shcilling và mời cô tham gia
chuyến công tác tới New York cùng mình và Mantriti để gặp các luật sư chuyên về bản quyền.
Tại buổi gặp Purcell dự định trình bày trước các luật sư phân tích của Schilling và lấy ý kiến của họ về lợi ích của việc
theo đuổi phiên tòa và mức X%.
Tại New York các luật sư bắt đầu buổi gặp bằng việc trình bày tóm tắt hồ sơ của họ. Mọi người đều thống nhất là hồ
khá kĩ và xác suất chiến thắng là khá cao tại phiên toà. Tuy nhiên các luật sư ngần ngại khi được đề nghị đưa ra một con
số chính xác về xác suất thắng tại tòa. Về điểm này, Purcell đã phác họa phân tích của Schilling sau đó anh ta hỏi các
luật sư liệu họ vẫn còn cảm thấy xác suất thành công là đủ cao để tiến hành phiên tòa. Các luật sư rõ ràng
4
5
thấy khá xa lạ với cách tiếp cận của Schilling. Mặc họ vẫn thấy hồ rất thuyết phục thì họ cũng đồng ý rằng việc
xem xét lại là hoàn toàn cần thiết trước khi đi tới phiên tòa.
Trong chuyến bay trở lại Milwaukee, Purcell thảo luận với luật trưởng nhà phân tích của mình vnhững việc đã
xảy ra tại buổi họp. Kết quả của cuộc thảo luận cho thấy rằng Schilling nên tiếp tục phân tích sâu hơn theo phương
pháp cây quyết định để đánh giá tiềm năng bên kia kháng cáo đánh giá độ nhạy của phân tích ẩn dưới những giả
định. Cả 3 cũng đi đến thống nhất là có lẽ xem lại đề nghị thỏa thuận ngoài tòa ở mọi mức xác suất trên con số 2,5% mà
họ đã từng đưa ra ở lần thương lượng trước, sẽ tốt hơn việc đưa nhau ra tòa.
Phân tích cuối cùng
Ngày thứ 7 kế tiếp Schilling mở rộng phân tích cây quyết định của mình như Purcell đã yêu cầu, phần mở rộng có xem
xét xác suất của việc Toleminte hoặc CKC kháng cáo các chi phí pháp luật phát sinh thêm theo từng tình huống
nguyên đơn hay bị đơn kháng cáo. Kết quả được tả trên đường hòa vốn củng cố kết luận rằng, bất cứ do thì
thỏa thuận vẫn tốt hơn đưa ra tòa.. Vào chiều chủ nhật Schilling đã trình bày riêng tòan bphân tích của mình cho
Purcell và họ bắt đầu vẽ bản đồ chiến thuật để đối phó với vụ kiện.
Nội dung Phân tích của Schilling
Mục tiêu phân tích xác định phạm vi của khoảng Y% Arrow (tức CKC) thể đề nghị trả trong giai đoạn
thương lượng trước phiên tòa dựa trên xác suất thành công tại tòa X% (đây chính là yêu cầu của đề tài thảo luận
nhóm)
Các giả định đặt ra:
I.Các bước tố tụng dự kiến
A. Nếu Arrow thắng phiên tòa có 90% khả năng Tolemine sẽ kháng cáo
B. Nếu Tolemin thắng, có 10% khả năng Arow sẽ kháng cáo
C. Nếu Arow thắng phiên tòa, thì có 75% khả năng họ sẽ thắng tiếp phiên tòa xử kháng cáo
D. Nếu Toleminte thắng phiên tòa, thì có 75% khả năng họ sẽ thắng tiếp phiên tòa xử kháng cáo
II.Phí luật sư tương lai và chi phí phiên tòa sẽ là
A. Cho phiên tòa này - 150 ngàn USD
B. Cho phiên tòa kháng cáo
1. Nếu Arow thắng phiên tòa sơ thẩm – là 75 ngàn USD
2. Nếu Tolemite thắng phiên tòa sơ thẩm – là 150 ngàn USD
III. Tính toán nghĩa vụ pháp lý
A. Nghĩa vụ pháp lý quá khứ.
Nếu Tolemine thắng phiên sơ thẩm họ sẽ được10% doanh số của CKC trong giai đoạn 1990 – 1993.
Tolemite cũng sẽ đòi nghĩa vụ pháp lý quá khứ này với cùng tỷ lệ % họ đòi về bản quyền trên doanh số tương lai nếu
CKC tiến hành thỏa thuận với họ trước phiên tòa để không ra tòa.
5
6
B. Giá trị bản quyền tương lai.
Nếu Tolemite thắng phiên tòa họ sẽ nhận 10% doanh số tương lai.
Nếu Tolemite thỏa thuận trước phiên tòa, yêu cầu về % tiền bản quyền của họ CKC không biết trước, nhưng hiện sẽ
được Schilling tiếp cận trong phân tích dưới dạng tỷ lệ % mà tại mức tỷ lệ đó Arow sẽ hòa vốn thay vì phải đối mặt với
chi phí và rủi ro của phiên xử (tức là phân tích mà đặt số tiền ở hai đầu nhánh cây quyết định sẽ cân bằng).
IV Chi phí bản quyền thực tế có liên quan.
A. CKC sẽ tiếp tục sản xuất 17000 pound Varacil mỗi năm trong 7 năm kế tiếp tính từ 1993 (trong vòng đời của bản
quyền đến 2000). Giá theo pound của Varacil sẽ giảm như dự kiến tổng doanh số dự kiến của CKC thể hiện trong
bảng A.1
B. Trong ngành công nghiệp chi phí cố định cao chi phí biến đổi thấp dẫn đến nhiều áp lực lên giá, CKC thắng,
giả định là BARD sẽ hạ giá thay vì chỉ hấp thu lợi nhuận phụ trội. Do đó doanh số của CKC sẽ suy giảm tương ứng 4%
dù họ thắng.
C. “Giá trị hiện tại” của tiền (NPV) trong các phân tích được chọn là 10%.
Bảng A-1 Doanh số dự kiến (ngàn USD) của CKC
Năm
1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999
2000
Thứ tự năm
0 1 2 3 4 5 6 7
Doanh số
2673* 1020 969 918 816 765 765 765
*con số này gộp tính chung ds từ 1990 đến 1993
6
| 1/6

Preview text:

THẢO LUẬN GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG THEO NHÓM
trình bày kết quả thảo luận vào file word (ghi rõ tên thành viên), nộp theo quy định.
--------------------O0O----------------------
VỤ KIỆN CỦA CÔNG TY DƯỢC PHẨM C.K. COOLIDGE, INC. (A)
Vào một ngày chủ nhật trung tuần tháng 9 năm 1993, cô Christine Schilling có mặt tại văn phòng của Ralph Purcell
giám đốc của tập đoàn C.K. Coolidge, Inc (CKC) vì cô vừa được thuê làm nhân viên phân tích cho Ralph Purcell. Cô
Schilling đang trình bày chi tiết phân tích mà cô vừa thực hiện hôm qua. Ông Purcell đã hy vọng vào cuối buổi trưa, với
sự trợ giúp của cô Schilling, ông ta có thể thiết lập phương hướng hành động để thúc đẩy việc giải quyết ổn thỏa vụ kiện
về bằng sáng chế đã nhắm vào CKC từ 3 năm trước (năm 1990) bởi tập đoàn Tolimite và công ty nhượng quyền công
nghiệp của nó là Barton Research and Development (BARD). Nội dung vụ việc
CKC được thành lập bởi Milwaukee tại Wiscosin vào năm 1932 như một điểm bán lẻ các sản phẩm từ phát minh của
Tiến sĩ Charler K. Coolidge, một kĩ sư hóa chất hữu cơ đầy khôn ngoan, công ty đã vượt qua Đại khủng hoảng và phát
triển thịnh vượng trong chiến tranh thế giới II và những năm hậu chiến. Vào những năm 70 doanh số hàng năm khoảng gần 3 triệu đô la.
Tiến sĩ Coolidge đã quản lý và chèo lái công ty đến năm 1980, sau đó với mong muốn nghỉ ngơi ông bán nó cùng với
các sản phẩm và các bằng sáng chế cho Arrow Industri, một tập đoàn nhỏ ở Chicago. CKC tiếp tục phát triển phồn vinh
trong vai trò công ty con của Arrow và vào năm 1993 nó đạt doanh số năm vào khoảng 10,5 triệu (kết quả này dựa trên
số liệu đã có về doanh số từ tháng 1 đến tháng 8 năm 1993 và ước lượng doanh số từ tháng 9 đến tháng 12 cuả năm đó)
chiếm 14% doanh số của Arrow. Một phần quan trọng trong doanh số của CKC vào năm 1993 được sinh ra từ thành
phần hóa chất tên là Varacil mà quá trình sản xuất nó là mục tiêu của vụ kiện bằng sáng chế hiện nay. Phần còn lại của
doanh số là từ nhiều sản phẩm hóa chất tự nhiên đặc biệt được bán theo những số lượng tương đối nhỏ chủ yếu cho
ngành công nghiệp thực phẩm.
Cty Tolimite cũng có trụ sở tại Chicago là một nhà máy sản xuất dược phẩm và hóa chất lớn với doanh số ước tính vào
năm 1993 là trên 300 triệu đô. Vào năm 1984 Tolimite được nhận một bằng phát minh liên quan đến phương pháp mới
tiết kiệm chi phí để tổng hợp Varacil. Kĩ thuật được trình bày trong phát minh này được khám phá bởi đội ngũ nghiên
cứu của Tolimite vào năm 1979 từ một nhánh phụ của một dự án khác. Vì Tolimite không chỉ là người sử dụng mà còn
là người sản xuất Varacil nên họ quyết định mời BARD sử dụng phát minh này dưới sự nhượng quyền công nghệ của
họ, BARD là nhà sản xuất Varacil chính ở Mỹ lâu nay.
BARD đóng tại Evanston, Illinois, đã bắt đầu như một công ty nghiên cứu nhỏ về các hóa chất công nghiệp. Tuy nhiên
vào năm 1984 nó dừng các nghiên cứu lại và tập trung duy nhất vào sản xuất Varacil. Để duy trì vị trí dẫn đầu trong
ngành công nghiệp BARD đã chấp nhận đề nghị nhượng quyền của Tolimite và thay đổi quy trình sản xuất Varacil theo
công nghệ mới. Đổi lại họ trả cho Tolimite 4% tiền bản quyền phát minh trên tổng doanh số của Varcil mà họ sản xuất
được. Ngòai ra theo hợp đồng thì BARD được phép nhượng quyền phụ cho các nhà sản suất Varacil khác muốn đầu tư
vào và thực hiện những thỏa thuận bản quyền riêng giữa họ với hãng. Theo những thỏa thuận nhượng quyền phụ này,
tiền bản quyền 4% vẫn sẽ là của Tolimite còn các phần nảy sinh thêm thì thuộc về BARD. 1 2
Vào 1989, 5 năm sau khi Tolimite nhận bằng sáng chế, một nhà nghiên cứu hóa chất của CKC đã nghiên cứu một cách
hoàn toàn độc lập ra một quy trình khá đơn giản để tổng hợpVaracil. Tuy nhiên nhà nghiên cứu của CKC đã không nghĩ
rằng kĩ thuật mới này có thể được cấp bằng sáng chế do đó đã CKC đã để các phương tiện sản xuất được chuyển sang
quy trình mới một cách đơn giản mà không bắt đầu việc xin cấp bằng sáng chế. Vào thời điểm đó không ai tại CKC
nghĩ gì về mức độ tương đồng của quá trình sản xuất mới của họ với quy trình sản xuất được phát minh bởi Toleminte
mà đã được cấp bằng sáng chế. Vì vậy thật bất ngờ khi nhà quản lý của CKC biết rằng họ bị kiện bởi Toleminte và
BARD bởi vi phạm quyền phát minh sáng chế của họ. Varacil
Varacil là hóa chất cơ bản được bán hầu khắp cho các nhà sản xuất dược phẩm. Mặc dù nó xuất hiện trong nhiều loại
dược phẩm nhưng nó lai chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong thành phần thuốc. Tính kinh tế trong ngành sản xuất Varacil (chi
phí cố định cao và biến phí thấp tạo ra tính kinh tế theo quy mô) cho thấy là nên sản xuất nó lâu dài với số lượng rất
nhiều mới có lời. Do đó bản thân các công ty dược phẩm lớn không muốn tham gia chế biến chất này mà để cho một vài
công ty nắm việc sản xuất và cung ứng chính.
Trước 1984 Varacil được chiết xuất từ loại hóa chất tự nhiên được tìm thấy trong mô động vật. Do chi phí của loại hóa
chất tư nhiên này cao, kết quả là chi phí của Varacil khá cao. Với phát minh Varacil tổng hợp thì tình hình này đã thay
đổi triệt để. Do đó Varacil tổng hợp nhanh chóng đẩy Varacil tự nhiên ra khỏi thị trường (thực ra có 1 số nhà tiêu thụ
Varacil vẫn tin sản phẩm tự nhiên có các đặc tính ưu việt hơn)
Vào năm 1993 thị trường nội địa về Varacil tổng hợp đạt 9 triệu đô doanh số. Theo đơn vị sản lượng tiêu thụ tính bằng
pound (1 pound khoảng 450g) thì thị trường này khá ổn định trong nhiều năm. Vì các loại thuốc cần Varacil thoái trào
nhưng những loại mới cần hợp chất này với liều lượng tương tự luôn xuất hiện. Hơn nữa không có lý do gì để tin rằng
sự ổn định này sẽ mất đi trong khoảng vài năm tới. Sản lượng tiêu thụ vì thế được hoạch định ổn định trong giai đoạn 5-
10 năm tới tính từ bây giờ (năm 1993).
Về phương diện giá trị tính theo USD, thì chuyện lại hơi khác. Giá của Varacil, và do đó doanh số theo USD, lại bị suy
giảm trong vài năm. Khi chuyển sang quá trình sản xuất Varacil tổng hợp, các nhà cạnh tranh chính trong sản xuất chất
này đều có công cụ sản xuất để có thể chia sẻ thị phần. Do đó khi mục tiêu chia sẻ thị phần mâu thuẫn thì giá sẽ bị cắt
bớt nhằm để giữ cho việc sản xuất hoạt động ổn định và thu vào lợi nhuận nhiều nhất có thể để trang trải chi phí cố
định. Tình hình này dự kiến sẽ kéo dài trong vòng 5 năm tới.
Vào năm 1993 có 07 nhà cạnh tranh chính trong thị trường Varacil. BARD với 6 triệu đô la doanh số chiếm 67% thị
phần. CKC với 1050 ngàn USD doanh số là nhà sản xuất lớn thứ 2 chiếm 12% thị phần. Còn lại 05 nhà cạnh tranh khác
không người nào có doanh số Varacil vượt quá 570 ngàn USD và họ chiếm 21% thị phần còn lại. Vào 1990, cả 7 nhà
cạnh tranh chính đều đang sản xuất Varacil tổng hợp theo tiến trình của riêng mình trong đó c hỉ có BARD là trả tiền bản quyền cho Tolimite.
Nền tảng của sự tranh chấp
Vào ngày 12/6/1990 Toleminte và BARD đã cùng nhau khởi kiện tại tòa án tối cao tại quận 5 Wincousin, họ buộc tội
CKC vi phạm bản quyền của Toleminte. Tolemite và BARD đòi hỏi một khoản tiền sở hữu bản quyền là 20% toàn bộ
doanh số tương lai của CKC về Varacil cho đến hết thời hạn hiệu lực của bản quyền (năm 2000), cũng như họ đòi một
khoản bồi thường tài chính cụ thể trên doanh số những năm đã qua.
Khi đối diện với vụ kiện, Purcell đã lập tức thảo luận với Arron Mantriti luật sư chính của Arrow Industri. Cả hai người
đều nhận thấy có bằng chứng đáng kể chỉ ra rằng quy trình sản xuất của Toleminte lẽ ra không được cấp bằng sáng chế.
Theo lời tư vấn của luật sư Mantriti, CKC đã đi thuê dịch vụ của Evan and Blaylock, một hãng luật chuyên về bản
quyền danh tiếng tại New York. Các luật sư của hãng này đồng ý với Mantriti về yếu điểm tiềm tàng trong 2 3
vụ kiện của Toleminte (rằng quy trình sản xuất của Toleminte lẽ ra không được cấp bằng sáng chế). Vì thế từ năm 1990
Evan and Blaylock đã bắt đầu chuẩn bị hồ sơ để bảo vệ CKC.
Bằng phát minh của Toleminte có 12 tuyên bố cơ bản. Để hình thành nó thì Toleminte, như hầu hết những người đi xin
chứng nhận bản quyền công nghệ khác, đã chứng minh với người khảo sát công nghệ rằng không có bằng chứng nào
thể hiện phát minh này đã được người ngoài biết/nghĩ đến trước đó, và do vậy nó chính là một phát minh. Phát minh
này cũng có thể bao gồm các phát minh đã có trước ứng dụng cho phát minh này, hoặc các quy trình đã phổ biến trong
cùng lĩnh vực– tuy không có bản quyền phát minh nhưng ai cũng biết – mà tương tự. Để thể hiện sự phát minh, cần thể
hiện rằng quy trình được áp dụng là không hiển nhiên với bất cứ người nào có hiểu biết một cách phù hợp về lĩnh vực hóa chất.
Lâu nay, bất cứ một bằng sáng chế nào cũng luôn là mục tiêu tranh chấp kiện tụng. Toàn bộ hoặc từng phần của sáng
chế có thể bị phản bác về việc nó đã được người ngoài biết/nghĩ đến, hoặc nó là hiển nhiên với những người thuộc
chuyên ngành đó, hoặc nó không đủ tầm để coi là phát minh. Trên thực tế, người ta có thể tranh luận về việc phát minh
đó không đủ tính sáng tạo nhiều năm sau đó. Những ý tưởng là mới lạ vào thời điểm của phát minh dường như ngày
càng trở nên hiển nhiên bình thường hơn về sau đó. Người nắm giữ phát minh, để bảo vệ phát minh của mình, cố gắng
nhấn mạnh lại lần nữa sự mới lạ của ý tưởng vào thời điểm nó xuất hiện. Theo tiến trình chứng minh đó, có nhiều bằng
phát minh đã vượt qua thử thách khi xin cấp bằng sáng chế. Trong trường hợp của phát minh Varacil tổng hợp, Matriti
lập luận rằng Toleminte thực ra đã không giới thiệu được sự mới lạ nào. Thực ra họ chỉ quan sát và khai thác một quá
trình xảy ra tự nhiên, mà quá trình đó, chính bản thân nó không phải là một phát minh.
Người nắm giữ công nghệ mà đang bị xâm phạm có quyền kiện người xâm phạm về sự thất thoát doanh số và lợi nhuận.
Trong việc xác định số tiền được đòi trong vụ kiện bản quyền, nguyên đơn thường tính toán thiệt hại này theo hướng có
lợi cho mình. Tuy nhiên nếu nguyên đơn có thắng tại tòa, thì thiệt hại thực tế thường được đánh giá ít hơn đáng kể so
với mức họ đòi. Trong tình huống vụ kiện Varacil thì cả Martinti và luật sư của Evan and Blaylock đánh giá rằng tổng
giá trị phải trả bản quyền, nếu không may CKC thua, là khoảng 10% doanh số tương lai, hoặc chỉ một nửa tổng số tiền
bị Toleminte và BARD yêu sách tính trên doanh số đã qua.
Từ năm 1990 đến 1993, một luật sư hợp tác từ hãng Evan đã (thỉnh thoảng) làm việc với Martinti để tìm kiếm và chuẩn
bị hồ sơ cho vụ kiện. CKC xem vụ kiện này là không quá phiền toái và sẵn lòng kéo dài nó với hy vọng rằng hồ sơ của
Toleminte sẽ bị thất bại do sự trì trệ từ công tác quản lý bên Toleminte. Tuy niên cuối năm 1992, CKC nhận thông tin
ngày xét xử dự kiến đã được định vào khoảng tháng 1 năm 1993, Trước khi ngày cụ thể được ấn định, Purcell và
Mantriti đã quyết định, với sự hợp lực của các luật sư chuyên về bản quyền đã thực hiện một nỗ lực thương thuyết cuối
cùng trước khi xét xử. Họ đề nghị với bên kia khoản trả cho tất cả các nghĩa vụ về pháp lý liên quan đến tỷ lệ tiền bản
quyền là 2,5% của doanh số. Nhưng phía Tolemite và BARD đã khước từ đề nghị này. Cuối cùng hồ sơ được tòa thụ lý
và ngày xét xử được ấn định là vào tháng 10 năm 1993.
Vào tháng 9 năm 1993, Purcell trở nên lo lắng về mức phí luật sư cao và ngày càng tăng. Con số này hiện đã đạt đến
mức tổng cộng là 300 ngàn USD, nếu phiên tòa diễn ra như dự kiến thì chi phí luật sư sẽ được tính thêm và có lẽ rất lớn
so với khoản lợi thu được nếu thắng kiện. Ngoài ra, chi phí luật sư 300 ngàn USD này là không thể lấy lại được, ngay cả
khi CKC thắng vụ kiện, nên giờ đây khoản này sẽ không được xem xét tới trong các cân nhắc tương lai về vụ việc nữa
mà hoạch toán như một khoản chi phí quản lý của CKC trong quá khứ.
Để giải quyết mối lo lắng về tiến trình của phiên tòa cũng như sự tích tụ gia tăng của chi phí luật sư, Purcell quyết định
phải hành động ngay tức khắc. Đầu tiên anh ta sắp xếp thông qua Mantriti, một cuộc gặp tại New York để tổng quát lại
toàn bộ hồ sơ vụ việc một cách thông suốt với các luật sư chuyên về bản quyền. Việc kế tiếp là anh ta hỏi chuyên viên
phân tích mới của mình, cô Schilling, để tổng quát lại hồ sơ, và anh ta hy vọng nảy sinh ra một ý tưởng mới từ quá trình đó.
Phân tích của Schilling và cuộc gặp với các luật sư chuyên về bản quyền. 3 4
Schilling vừa tốt nghiệp đại học Harvard, khi còn đi học cô ấy khá hứng thú với môn Phân tích định lượng để ra quyết
định. Vì thế cách tiếp cận vấn đề này của cô ấy được thực hiên dưới dạng cây quyết định. Cô nhận ra có hai lựa chọn mở ra cho CKC là:
1. Tham gia phiên tòa và tranh luận về bản quyền, điều này sẽ tốn chi phí thêm 150 ngàn USD cho luật sư và kết
quả là có thể chiến thắng vụ kiện với Xác suất X% hoặc thua với xác suất 1-X %.
2. Giải quyết ngoài phiên tòa với nguyên đơn với thỏa thuận khoản trả cho bản quyền là Y% của doanh số quá
khứ và hiện tại cho họ.
Cô tổng hợp 2 tình huống này theo cây quyết định như hình 1 Hình 1 Chi phí thắng Thắng X Ra tòa Chi phí thua Thua (1- X) Thỏa thuận
Thỏa thuận bản quyền Y%
Chú ý là: nếu CKC thắng vụ kiện này thì sau đó BARD cũng không còn phải trả 4% tiền bản quyền cho Tolimite nữa. vì bản chất cạnh tranh
cao trong ngành công nghiệp sx Varacil, Schilling tin rằng BARD sẽ đưa khoản chi phí được giảm này vào ngay giá thành, bắt buộc CKC
phải làm theo, vì thế doanh số của CKC cũng sẽ giảm một lượng tạm ước tính 4% dù cho họ có thắng phiên tòa.

Phân tích của cô này muốn tính toán định lượng mức đề xuất Y% để đưa ra thương lượng dàn xếp ngoài tòa với nguyên
đơn nên là bao nhiêu ? Dựa trên cây quyết định và cách phân tích điểm hòa vốn cô Schilling lập phương trình về xác
suất để chiến thắng X, với giá trị biến đổi cho trước của Y, như sau:
[chi phí thắng]*(X) + [chi phí thua]*(1-X) = Chi phí nếu đặt dàn xếp tại mức Y% doanh số
Kết luận cơ bản của Schilling từ phân tích này là cần định lượng được xác suất chiến thắng phiên toà này (X%), từ đó
tính ra mức Y% thỏa thuận hợp lý để trả chi phí bản quyền và bỏ qua việc kiện tụng khiến CKC tổn thất sức lực và chi
phí cơ hội. Purcell một kĩ sư hóa chất mà khá rành rẽ về phân tích định lượng và thực ra cũng rất thích dùng số liệu để
hỗ trợ cho lập luận của mình bất cứ khi nào có thể. Anh ta bị thuyết phục bởi phân tích của Shcilling và mời cô tham gia
chuyến công tác tới New York cùng mình và Mantriti để gặp các luật sư chuyên về bản quyền.
Tại buổi gặp Purcell dự định trình bày trước các luật sư phân tích của Schilling và lấy ý kiến của họ về lợi ích của việc
theo đuổi phiên tòa và mức X%.
Tại New York các luật sư bắt đầu buổi gặp bằng việc trình bày tóm tắt hồ sơ của họ. Mọi người đều thống nhất là hồ sơ
khá kĩ và xác suất chiến thắng là khá cao tại phiên toà. Tuy nhiên các luật sư ngần ngại khi được đề nghị đưa ra một con
số chính xác về xác suất thắng tại tòa. Về điểm này, Purcell đã phác họa phân tích của Schilling sau đó anh ta hỏi các
luật sư liệu họ vẫn còn cảm thấy xác suất thành công là đủ cao để tiến hành phiên tòa. Các luật sư rõ ràng 4 5
thấy khá xa lạ với cách tiếp cận của Schilling. Mặc dù họ vẫn thấy hồ sơ rất thuyết phục thì họ cũng đồng ý rằng việc
xem xét lại là hoàn toàn cần thiết trước khi đi tới phiên tòa.
Trong chuyến bay trở lại Milwaukee, Purcell thảo luận với luật sư trưởng và nhà phân tích của mình về những việc đã
xảy ra tại buổi họp. Kết quả của cuộc thảo luận cho thấy rằng cô Schilling nên tiếp tục phân tích sâu hơn theo phương
pháp cây quyết định để đánh giá tiềm năng bên kia kháng cáo và đánh giá độ nhạy của phân tích ẩn dưới những giả
định. Cả 3 cũng đi đến thống nhất là có lẽ xem lại đề nghị thỏa thuận ngoài tòa ở mọi mức xác suất trên con số 2,5% mà
họ đã từng đưa ra ở lần thương lượng trước, sẽ tốt hơn việc đưa nhau ra tòa.
Phân tích cuối cùng
Ngày thứ 7 kế tiếp Schilling mở rộng phân tích cây quyết định của mình như Purcell đã yêu cầu, phần mở rộng có xem
xét xác suất của việc Toleminte hoặc CKC kháng cáo và các chi phí pháp luật phát sinh thêm theo từng tình huống
nguyên đơn hay bị đơn kháng cáo. Kết quả được mô tả trên đường hòa vốn củng cố kết luận rằng, bất cứ lý do gì thì
thỏa thuận vẫn tốt hơn là đưa ra tòa.. Vào chiều chủ nhật Schilling đã trình bày riêng tòan bộ phân tích của mình cho
Purcell và họ bắt đầu vẽ bản đồ chiến thuật để đối phó với vụ kiện.
Nội dung Phân tích của Schilling
Mục tiêu phân tích xác định phạm vi của khoảng Y% mà Arrow (tức CKC) có thể đề nghị trả trong giai đoạn
thương lượng trước phiên tòa dựa trên xác suất thành công tại tòa X% (đây chính là yêu cầu của đề tài thảo luận nhóm)

Các giả định đặt ra:
I.Các bước tố tụng dự kiến
A. Nếu Arrow thắng phiên tòa có 90% khả năng Tolemine sẽ kháng cáo
B. Nếu Tolemin thắng, có 10% khả năng Arow sẽ kháng cáo
C. Nếu Arow thắng phiên tòa, thì có 75% khả năng họ sẽ thắng tiếp phiên tòa xử kháng cáo
D. Nếu Toleminte thắng phiên tòa, thì có 75% khả năng họ sẽ thắng tiếp phiên tòa xử kháng cáo
II.Phí luật sư tương lai và chi phí phiên tòa sẽ là
A. Cho phiên tòa này - 150 ngàn USD B. Cho phiên tòa kháng cáo
1. Nếu Arow thắng phiên tòa sơ thẩm – là 75 ngàn USD
2. Nếu Tolemite thắng phiên tòa sơ thẩm – là 150 ngàn USD
III. Tính toán nghĩa vụ pháp lý
A. Nghĩa vụ pháp lý quá khứ.
Nếu Tolemine thắng phiên sơ thẩm họ sẽ được10% doanh số của CKC trong giai đoạn 1990 – 1993.
Tolemite cũng sẽ đòi nghĩa vụ pháp lý quá khứ này với cùng tỷ lệ % họ đòi về bản quyền trên doanh số tương lai nếu
CKC tiến hành thỏa thuận với họ trước phiên tòa để không ra tòa. 5 6
B. Giá trị bản quyền tương lai.
Nếu Tolemite thắng phiên tòa họ sẽ nhận 10% doanh số tương lai.
Nếu Tolemite thỏa thuận trước phiên tòa, yêu cầu về % tiền bản quyền của họ CKC không biết trước, nhưng hiện sẽ
được Schilling tiếp cận trong phân tích dưới dạng tỷ lệ % mà tại mức tỷ lệ đó Arow sẽ hòa vốn thay vì phải đối mặt với
chi phí và rủi ro của phiên xử (tức là phân tích mà đặt số tiền ở hai đầu nhánh cây quyết định sẽ cân bằng).
IV Chi phí bản quyền thực tế có liên quan.
A. CKC sẽ tiếp tục sản xuất 17000 pound Varacil mỗi năm trong 7 năm kế tiếp tính từ 1993 (trong vòng đời của bản
quyền đến 2000). Giá theo pound của Varacil sẽ giảm như dự kiến và tổng doanh số dự kiến của CKC thể hiện trong bảng A.1
B. Trong ngành công nghiệp chi phí cố định cao và chi phí biến đổi thấp dẫn đến nhiều áp lực lên giá, CKC mà thắng,
giả định là BARD sẽ hạ giá thay vì chỉ hấp thu lợi nhuận phụ trội. Do đó doanh số của CKC sẽ suy giảm tương ứng 4% dù họ thắng.
C. “Giá trị hiện tại” của tiền (NPV) trong các phân tích được chọn là 10%.
Bảng A-1 Doanh số dự kiến (ngàn USD) của CKC Năm 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Thứ tự năm 0 1 2 3 4 5 6 7 Doanh số 2673* 1020 969 918 816 765 765 765
*con số này gộp tính chung ds từ 1990 đến 1993 6