




Preview text:
PHÁT TRIỂN CÁC SẢN PHẨM TÀI CHÍNH XANH TẠI VIỆT NAM
Ths. Nguyễn Thị Thanh Hiền – Đại học công nghệ GTVT
Tài chính xanh được hiểu là các hình thức tài trợ cho công nghệ, dự án, ngành
công nghiệp hay doanh nghiệp thân thiện với môi trường, hoặc thể hiện bằng một
nhóm sản phẩm và dịch vụ tài chính thân thiện với môi trường. Đặc điểm chung
trong hoạt động tài chính xanh là chú trọng tới các giá trị của môi trường thiên nhiên
và những nguồn lực tự nhiên; qua đó cải thiện phúc lợi và công. Tăng trưởng xanh
gắn liền với tăng trưởng bền vững, vì vậy xây dựng hệ thống tài chính xanh là một
trong những nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của nhiều quốc
gia trên thế giới. Hệ thống tài chính xanh sẽ làm tăng tính hiệu quả của nguồn vốn trong nền kinh tế.
Hệ thống tài chính xanh cũng có chức năng chính như hệ thống tài chính thông
thường. Đó là luân chuyển vốn từ người tiết kiệm tới nhà đầu tư và do đó làm tăng
tính hiệu quả của nguồn vốn trong nền kinh tế. Tuy nhiên sự khác biệt nằm trong đặc
điểm của các thành phần tham gia vào quá trình luân chuyển vốn. Nguồn vốn xanh
được huy động sẽ luân chuyển theo kênh tài chính gián tiếp thông qua các sản phẩm
tài chính xanh và kênh tài chính trực tiếp thông qua thị trường tài chính xanh để được
sử dụng vào các mục tiêu xanh. Tại Việt Nam hiện nay các sản phẩm tài chính xanh
vẫn chỉ được phát triển trong phạm vi hẹp, tham gia vào hệ thống tài chính này mới
chỉ tập trung ở tín dụng xanh và trái phiếu xanh và đang dần hình thành quỹ tài chính xanh.
Trái phiếu xanh được định nghĩa như một loại chứng khoán có thu nhập cố
định nhằm thu hút vốn cho các dự án có lợi ích về môi trường. Theo đó, các khoản
tiền thu được từ việc phát hành trái phiếu này sẽ được cam kết đầu tư cho các chương
trình tăng cường sự thích nghi và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu, bao gồm
các dự án năng lượng sạch, sử dụng năng lượng hiệu quả, giao thông công cộng và
nước sạch,… Trái phiếu xanh có thể được phát hành bởi chính phủ, các ngân hàng
thương mại, ngân hàng phát triển, các tổ chức tài chính quốc tế, các công ty,… Hiện
nay, phần lớn trái phiếu xanh trên thị trường được phát hành bởi một số các tổ chức
tài chính quốc tế lớn như Ngân hàng Đầu tư châu âu (European Investment Bank),
Tập đoàn Tài chính quốc tế (IFC) và Ngân hàng Thế giới (WB). Trên thị trường
chứng khoán Việt Nam đã bắt đầu xuất hiện các sản phẩm trái phiếu phục vụ cho các
dự án, công trình “xanh”. Đó là trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo
lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương mà nguồn huy động được tài trợ cho các
dự án thủy lợi, bảo vệ môi trường, điện gió, năng lượng mặt trời…
Theo tính toán của Dara Inter2, Việt Nam chịu tổn thất từ biến đổi khí hậu
khoảng 15 tỷ USD/năm, năm 2010 khoảng 5% GDP, dự báo sẽ là 11% GDP vào năm
2030 nếu không có hành động bảo vệ môi trường. Do vậy Chính phủ đặt mục tiêu
đến năm 2020, 100% dự án đầu tư mới tuân thủ các quy định về công nghệ sạch.
Tuy nhiên, thách thức trong việc phát triển trái phiếu xanh còn rất nhiều. Đó
không chỉ là thiếu các chuẩn mực chung về tiêu chuẩn xanh và đầu tư vào trái phiếu
xanh, chi phí ban đầu cho các dự án xanh thường có nhu cầu vốn ban đầu cao hơn
so với các dự án khác, và phải chịu các rủi ro về chi phí vốn cao hơn… mà còn là
cần có sự phối hợp đồng bộ của nhiều cơ quan ban ngành trong triển khai giải pháp và chính sách xanh.
Cùng với trái phiếu xanh, tín dụng xanh cũng là một sản phẩm tài chính đang
được thúc đẩy phát triển tại Việt Nam. Tín dụng xanh là những khoản tín dụng được
ngành ngân hàng hỗ trợ các dự án sản xuất kinh doanh không gây rủi ro hoặc nhằm
mục đích bảo vệ môi trường. Xu hướng tăng trưởng tín dụng xanh đã phát triển từ
lâu trên thế giới với mục đích hướng tới các dự án tiết kiệm năng lượng, năng lượng
tái tạo và công nghệ sạch. Các sản phẩm tín dụng xanh góp phần đem lại những lợi
ích to lớn về phát triển nền kinh tế, hướng tới mục tiêu tăng trưởng xanh. Thông qua
việc giảm các tác động tiêu cực của khối doanh nghiệp đến môi trường - xã hội, tín
dụng xanh không những có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ môi trường, mà còn
góp phần vào quá trình phát triển bền vững của nền kinh tế. Vì vậy, “xanh hóa” tín
dụng là một hành động rất cần thiết trong bối cảnh biến đổi khí hậu diễn ra trên toàn cầu.
Góp phần trong tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường - xã
hội trong hoạt động cấp tín dụng, cũng như triển khai kế hoạch hành động của ngành
ngân hàng thực hiện chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh ở Việt Nam đến năm
2020, Ngân hàng HSBC đã cam kết hỗ trợ 100 tỷ USD cho các hoạt động tài chính
và đầu tư bền vững đến năm 2025. Theo đó, HSBC sẽ tăng cường hỗ trợ cho năng
lượng sạch và những công nghệ phát thải ít carbon hơn, cũng như các dự án hỗ trợ
mục tiêu phát triển bền vững của Liên hiệp quốc. Cùng với đó, HSBC cũng cam kết
sử dụng 100% nguồn điện tái tạo vào năm 2030, mục tiêu tạm thời là 90% vào năm
2025. Đồng thời, giảm hợp tác với các dự án than nhiệt lượng cao và chủ động quản
lý quá trình chuyển đổi đối với các ngành có hàm lượng thải carbon cao khác. Điều
này bao gồm việc ngưng cấp vốn cho nhà máy nhiệt điện than mới tại các thị trường
phát triển và mỏ than nhiệt trên toàn thế giới.
Ngoài ra, ngân hàng này cũng dẫn dắt và định hình cuộc tranh luận về tài chính,
đầu tư bền vững và thực hiện các khuyến nghị của nhóm hành động về báo cáo tài
chính liên quan đến khí hậu để cải thiện tính minh bạch. Đầu năm 2017, Ngân hàng
Nhà nước cũng ban hành Chỉ thị 01/2017 tiếp tục nhấn mạnh việc triển khai kế hoạch
hành động của ngành ngân hàng thực hiện chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh
đến năm 2020. Thực tế cho thấy, những năm qua, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã
có những điều chỉnh để dòng tín dụng phù hợp hơn với mục tiêu tăng trưởng xanh.
Trong năm 2015, các ngân hàng VietinBank, BIDV và MB đã ký kết hợp đồng
nguyên tắc về phát triển du lịch xanh cho 3 dự án tại Kiên Giang, Cần Thơ với tổng
số vốn cho vay khoảng 1.000 tỷ đồng, tập trung chủ yếu vào lĩnh vực du lịch sinh
thái, xây dựng khách sạn, khu nghỉ dưỡng. Ngoài ra, để hướng đến mục tiêu phát
triển của quốc gia trong việc góp phần ngăn chặn biến đổi khí hậu, một số ngân hàng
khác cũng đã đưa ra các gói tín dụng xanh để thực hiện chủ trương của Chính phủ
và Ngân hàng Nhà nước. Cuối năm 2016, Ngân hàng Agribank có gói “Tín dụng
xanh” đầu tư vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp sạch.
Theo đó, Agribank dành tối thiểu 50.000 tỷ đồng triển khai chương trình tín dụng ưu
đãi phục vụ nông nghiệp sạch. Gói tín dụng này cho vay ưu đãi đối với khách hàng
vay vốn là DN, hợp tác xã, Liên hiệp HTX, chủ trang trại tham gia các khâu trong
chuỗi sản xuất sản phẩm nông nghiệp an toàn, quy mô lớn. Lãi suất cho vay giảm từ
0,5% - 1,5%/năm so với lãi suất ưu đãi cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp nông thôn bình thường.
Có thể thấy, để tăng trưởng tài chính xanh ở Việt Nam cần phải hoàn thiện và
thúc đẩy các sản phẩm tài chính xanh . Sau đây là một số giải pháp để phát triển các
sản phẩm tài chính xanh tại Việt Nam:
Thứ nhất, xây dựng bộ tiêu chuẩn “xanh”. Trái phiếu xanh tại Việt Nam mới
chỉ dừng lại ở trái phiếu Chính phủ và trái phiếu chính quyền địa phương, vì vậy để
phát hành trái phiếu xanh của các Doanh nghiệp và các tổ chức tài chính khác thì
cần phải xác định được tiêu chuẩn như thế nào thì được coi là trái phiếu xanh. Đối
với tín dụng xanh, các Ngân hàng thương mại cũng còn khó khăn trong việc thẩm
định các dự án được coi là dự án “xanh”. Bộ Tài chính cần thống nhất với Bộ Tài
nguyên và Môi trường và các ban ngành liên quan trong việc đưa ra bộ tiêu chuẩn
môi trường – xã hội “xanh” theo lĩnh vực ngành nghề trong nền kinh tế.
Thứ hai, rà soát, hoàn thiện cơ chế pháp lý về các sản phẩm tài chính xanh.
Hiện nay, hầu hết các quy định của pháp luật mới chỉ điều chỉnh hành vi gây ô nhiễm
môi trường của các chủ thể tham gia hệ thống tài chính xanh mà chưa có quy định
cụ thể đối với các Ngân hàng thương mại hoặc tổ chức tín dụng về việc xem xét có
cấp vốn cho chủ thể vay vốn hay không. Cần có một hệ thống văn bản pháp luật quy
định cụ thể quyền và nghĩa vụ của tổ chức tín dụng và Ngân hàng thương mại trong
việc cung cấp vốn tín dụng xanh.
Thứ ba, mở rộng liên kết và thu hút đầu tư nước ngoài. Đối với trái phiếu
xanh,Chính phủ cần liên kết với các tổ chức nước ngoài như Ngân hàng Thế giới,
UNEP, GIZ… để được tư vấn và hướng dẫn trong việc thực hiện phát hành và phát
triển trái phiếu xanh trên thị trường. Kiến thức và kinh nghiệm của các tổ chức này
trong việc phát triển xanh những năm qua sẽ rất hữu ích cho Việt Nam trong tiến
trình xây dựng và phát triển loại tài sản tài chính này. Đội ngũ chuyên gia hàng đầu
về phát triển kinh tế và môi trường đóng vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu và
tư vấn chính sách cho Chính phủ trong việc phát triển hệ thống tài chính xanh cũng
như trái phiếu xanh. Đồng thời, đối với tín dụng xanh, tiếp tục hợp tác với các tổ
chức tài chính quốc tế có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực đầu tư bền vững, tín dụng
xanh để nâng cao năng lực chuyên môn cho nhân lực ngành ngân hàng trong chiến lược này.
Thứ tư, Việt Nam cần có những chính sách ưu đãi để khuyến khích các chủ thể
phát hành trái phiếu xanh và thu hút các nhà đầu tư quan tâm đến loại tài sản này.
Sau khi đưa ra được các nguyên tắc liên quan đến trái phiếu xanh, Nhà nước cần đưa
ra những ưu đãi về thuế, phí hoặc những thuận lợi khác cho các đơn vị phát hành
cũng như những nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Thứ năm, xây dựng, đào tạo nguồn nhân lực hiểu biết, quản lý tốt các sản phẩm
tài chính xanh. Cụ thể, đào tạo đội ngũ cán bộ của sở giao dịch chứng khoán trong
việc quản lý việc phát hành các trái phiếu xanh, mở các khóa huấn luyện, nâng cao
nghiệp vụ cho các chuyên viên Ngân hàng thương mại trong việc thẩm định, kiểm
soát các hợp đồng, dự án “xanh” hiện nay.