-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Ảnh hưởng của văn hóa phương tây đến văn hóa Việt Nam | Tiểu luận môn Cơ sở văn hóa Việt Nam Trường đại học sư phạm kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh
Lịch sử văn hóa Việt Nam đã trải qua 3 lần tiếp biến. Lần thứ nhất là thời kỳ tiếp nhận văn hóa Ấn Độ, Trung Quốc... trong thời cổ, trung đại để làm giàu thêm văn hóa bản địa. Những yếu tố văn hóa nước ngoài thời kỳ này có ảnh hưởng khá sâu sắc, toàn diện theo 2 con đường: cưỡng bức và hòa bình. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Cơ sở văn hóa Việt Nam (IVNC320905) 76 tài liệu
Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh 3.1 K tài liệu
Ảnh hưởng của văn hóa phương tây đến văn hóa Việt Nam | Tiểu luận môn Cơ sở văn hóa Việt Nam Trường đại học sư phạm kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh
Lịch sử văn hóa Việt Nam đã trải qua 3 lần tiếp biến. Lần thứ nhất là thời kỳ tiếp nhận văn hóa Ấn Độ, Trung Quốc... trong thời cổ, trung đại để làm giàu thêm văn hóa bản địa. Những yếu tố văn hóa nước ngoài thời kỳ này có ảnh hưởng khá sâu sắc, toàn diện theo 2 con đường: cưỡng bức và hòa bình. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Cơ sở văn hóa Việt Nam (IVNC320905) 76 tài liệu
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh 3.1 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN CƠ SỞ VĂN HÓA
Mã học phần: IVNC320905_21_1_01CLC
ĐỂ TÀI: ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HÓA PHƯƠNG TÂY
ĐẾN VĂN HÓA VIỆT NAM
Nhóm sinh viên thực hiện: 1. Chu Văn Cường 18149057
2. Nguyễn Hoàng Phúc 20158013
3. Nguyễn Thị Huyền Diệu 20158054 4. Lê Thị Thanh Tâm 20158118
5. Lê Ngọc Bảo Trân 20158133
Giảng viên hướng dẫn: TS.GVC Đỗ Thùy Trang
TP. Thủ Đức, tháng 12 năm 2021
DANH SÁCH THÀNH VIÊN VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KÌ II – NĂM HỌC: 2020 – 2021
Nhóm: 1.4a (Lớp IVNC320905_21_1_01CLC 01CLC)
Tên đề tài: Ảnh hưởng của văn hóa phương Tây đến văn hóa Việt Nam. Hoàn STT Họ và tên MSSV thành 1 Chu Văn Cường 18149057 100% 2 Nguyễn Hoàng Phúc 20158013 100% 3 Nguyễn Thị Huyền Diệu 20158054 100% 4 Lê Thị Thanh Tâm 20158118 100% 5 Lê Ngọc Bảo Trân 20158133 100% Ghi chú:
- Tỷ lệ % = 100%: Mức độ phần trăm của từng sinh viên tham gia.
- Trưởng nhóm: Chu Văn Cường : SĐT
Nhận xét của giảng viên:
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
Tp Thủ Đức, ngày tháng năm 2021
Ký xác nhận của giảng viên MỤC LỤC
A. Phần mở đầu...................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.........................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề..............................................................................................1
3. Phương pháp nghiên cứu............................................................................2
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..............................................................2
B. Phần nội dung.................................................................................................3
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT...................................................................3
1.1. Văn hóa và phần vùng văn hóa Đông Tây:............................................3
1.1.1. Văn hóa phương Đông......................................................................3
1.1.2. Văn hóa phương Tây.........................................................................4
1.2. Đặc điểm văn hóa phương Tây...............................................................6
1.3. Quá trình du nhập văn hóa phương Tây vào Việt Nam:......................7
1.3.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực diễn ra quá trình giao lưu Đông –
Tây................................................................................................................7
1.3.2. Một vài nét về hoạt động thương mại và truyền giáo của Bồ Đào
Nha và Pháp.................................................................................................9
CHƯƠNG II: ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HÓA PHƯƠNG TÂY ĐỐI VỚI
VIỆT NĂM HIỆN NAY.....................................................................................16
2.1. Ảnh hưởng đến tôn giáo Sự hình thành với phong tục của Kito giáo ở
Việt Nam.........................................................................................................16
2.1.1. Tư tưởng tín ngưỡng Kito ở Việt Nam..........................................16
2.1.2. Hệ thống nhà thờ Kito ở Việt Nam................................................17
2.1.3. Các lễ hội Kito ở Việt Nam.............................................................18
2.1.4. Phong tục Kito.................................................................................24
C. Phần kết luận................................................................................................34
D. Tài liệu tham khảo........................................................................................35 A. Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử văn hóa Việt Nam đã trải qua 3 lần tiếp biến. Lần thứ nhất là thời
kỳ tiếp nhận văn hóa Ấn Độ, Trung Quốc... trong thời cổ, trung đại để làm giàu
thêm văn hóa bản địa. Những yếu tố văn hóa nước ngoài thời kỳ này có ảnh
hưởng khá sâu sắc, toàn diện theo 2 con đường: cưỡng bức và hòa bình. Dù theo
con đường nào, chúng ta vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu
những tinh hoa văn hóa ngoại nhập làm giàu có và phong phú thêm văn hóa dân
tộc. Lần thứ hai là từ nửa sau thế kỷ XIX đến năm 1945, chủ yếu là ảnh hưởng
của văn hóa phương Tây. Đây là cuộc “ép duyên” văn hóa Đông - Tây, song
cũng là một tất yếu lịch sử của quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa. Sau khi
cơ bản bình định xong các phong trào yêu nước, chính quyền thực dân Pháp ồ ạt
du nhập văn hóa chính quốc vào thuộc địa với những ý đồ có lợi cho chủ nghĩa
thực dân. Sự du nhập này, lập tức bị nền văn hóa bản địa phản kháng mạnh mẽ
như một lẽ tự nhiên. Song, cũng có không ít tinh hoa của văn hóa phương Tây
đã được chúng ta tiếp thu. Luồng văn hóa từ phương Tây vào Việt Nam góp
phần làm thay đổi diện mạo văn hóa nước nhà.
Những yếu tố văn hóa nước ngoài đã làm phong phú, đa dạng thêm văn
hóa nước nhà, đồng thời góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
hiện đại. Tuy nhiên, có rất nhiều thách thức đặt ra đối với nền văn hóa Việt Nam
trong quá trình tiếp thu, chịu ảnh hưởng của văn hóa nước ngoài giai đoạn hiện
nay. Chính vì điều đó nhóm em đã chọn đề tài: Ảnh hưởng của văn hoá
phương Tây đến văn hoá Việt Nam hiện nay để thực hiện bài tiểu luận cuối kỳ.
2. Lịch sử vấn đề
Nắm bắt, làm rõ được nguồn gốc xuất xứ, đặc điểm của từng nền văn hoá,
cụ thể là hai nền văn hoá phương Đông và phương Tây, tìm hiểu về quá trình du
nhập của nền văn hoá phương Tây vào văn hoá Việt Nam.
Từ đó đưa ra các dẫn chứng, luận điểm để cho thấy sự ảnh hưởng của nền
văn hoá phương Tây vào Việt Nam, đặc biệt là sự ảnh hưởng đến các yếu tố tôn
giáo và ngôn ngữ 1
3. Phương pháp nghiên cứu
4. Những nội dung chính
Để làm rõ chủ đề bài tiểu luận, thì phần nội dung của nhóm em gồm có
các phần sau đây: Văn hoá và phân vùng văn hoá Đông Tây; đặc điểm của văn
hoá phương Tây; quá trình du nhập văn hoá phương Tây vào Việt Nam; Ảnh
hưởng đến tôn giáo Sự hình thành và phát triển của Kito giáo ở Việt Nam; Ảnh
hưởng đến chữ viết, văn học, báo chí.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2 B. Phần nội dung
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Văn hóa và phần vùng văn hóa Đông Tây:
1.1.1. Văn hóa phương Đông
Những nền văn minh cổ kính đó xuất hiện trên lưu vực những con sông
lớn như sông Nile (Ai Cập), Tigris và Euphrates (Lưỡng Hà), sông Ấn (Indus)
và sông Hằng (Gange) (Ấn Độ), sông Hoàng Hà và Trường Giang (Trung Quốc) …
Nhìn chung lưu vực các con sông nói trên là những vùng đồng bằng phì
nhiêu rất thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp. khí hậu ấm áp, nguồn nước
phong phú, đất đai màu mỡ và dễ canh tác đã cho phép các quốc gia cổ đại
phương Đông phát triển nông nghiệp thuận lợi. - Người phương Đông cổ đại
sống trên lưu vực các con sông từ thời nguyên thủy đã sớm phát hiện và lợi
dụng những thuận lợi đó để phát triển sản xuất. Cùng với nông nghiệp, thủ công
nghiệp cũng phát triển mạnh, xã hội sớm xuất hiện giai cấp và nhà nước.
Trên cơ sở những điều kiện tự nhiên như vậy, cư dân ở phương Đông ra
đời sớm và phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên, quá trình hình thành các cộng
đồng dân cư ở phương Đông diễn ra rất đa dạng và phức tạp. Cụ thể:
Chung sống và đồng hóa với người Sumer. Ngoài ra còn rất nhiều bộ lạc
thuộc nhiều ngữ hệ khác nhau ở các vùng xung quanh di cư đến. Trải hàng ngàn
năm, qua quá trình lao động, họ đã hòa nhập thành một cộng đồng dân cư ổn
định và xây dựng nên nền văn minh rực rỡ ở khu vực Tây Á. - Ấn Độ: Cư dân
Ấn Độ đa dạng về tộc người và ngôn ngữ. Có hai chủng tộc chính là người
Dravida chủ yếu cư trú ở miền Nam, và người Aria cư trú ở miền Bắc. Ngoài ra
còn có nhiều tộc người khác như người Hy Lạp, Hung Nô, Arập cũng sinh sống
ở đây… - Trung Quốc: Do điều kiện tự nhiên thuận lợi, từ xa xưa, vùng châu thổ
Hoàng Hà đã là quê hương của các bộ tộc Hạ, Thương, Chu. Họ chính là tổ tiên
của dân tộc Hán – người sáng tạo ra nền văn minh Hoa Hạ. Phía Tây và Tây
Nam là nơi sinh sống của các bộ tộc thuộc ngữ hệ Hán – Tạng, Môn – Khmer
Phía Bắc, Đông Bắc là nơi cư trú của các bộ tộc thuộc ngữ hệ Tungut. Con cháu 3
của họ sau này là các dân tộc ít người như Mông Cổ (lập ra nhà Nguyên), Mãn
(lập ra triều Mãn Thanh), Choang, Ngô, Nhĩ… các dân tộc trên đất này còn rất
nhiều dân tộc khác sinh sống, cùng người Hán xây dựng đất nước.
Về kinh tế, các quốc gia cổ đại phương Đông ra đời ở thời kì mà sức sản
xuất xã hội đang ở trình độ hết sức thấp kém. Với một trình độ sản xuất như vậy
không cho phép các quốc gia cổ đại phương Đông phát triển chế độ chiếm hữu
nô lệ của mình một cách thuần thục và điển hình. Sự phát triển rất yếu ớt chế độ
tư hữu ruộng đất và sự tồn tại dai dẳng những tổ chức công xã nông thôn, tàn
tích của xã hội thị tộc nguyên thủy có thể coi là những nguyên nhân gây nên tình
trạng trì trệ, yếu kém của các nền văn minh cổ đại phương Đông.
Ở phương Đông ra đời và tồn tại một hình thức nhà nước đặc thù, nhà
nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền mà mọi quyền lực đều ở trong
tay nhà vua và một bộ máy quan lại cồng kềnh, quan liêu. Các quốc gia cổ đại
phương Đông đã duy trì lâu dài chế độ nô lệ gia trưởng và các hình thức áp bức
bóc lột kiểu gia trưởng nên vai trò của nô lệ trong xã hội chưa nổi bật. Chính
trên cơ sở như vậy mà nền văn minh phương Đông ra đời và phát triển và cũng
chính các yếu tố đó đã ảnh hưởng, chi phối tạo nên những nét đặc thù của nền văn minh phương Đông.
1.1.2. Văn hóa phương Tây
Vào thời cổ đại, khi con người còn chưa tìm ra những lục địa mới người
Hy Lạp đã gọi khu vực mặt trời lặn so với họ là phương Tây, các vùng đất còn
lại (Châu Á, châu Phi) gọi là phương Đông. Sự phân loại này mang tính chất
tương đối và chỉ là sự quy ước của con người mà thôi. Văn minh phương Tây cổ
đại ngày nay được hiểu chính là hai nền văn minh lớn: Hi Lạp và La Mã cổ đại.
Hi Lạp cổ đại nằm ở phái Nam bán đảo Balkans, giống như cái đinh ba
của thần biển từ đất liền vươn ra địa Trung Hải. Thế kỉ IX TCN, người Hi Lạp
gọi tên nước mình là Hellad hay Ellad dựa theo tên tộc người của họ. Qua phiên
âm từ Trung Quốc, ta gọi là Hi Lạp. Đất đai Hi Lạp cổ đại bao gồm Hi Lạp ngày
nay, các đảo trong biển Aegean tới phía Tây Tiểu Á, và phía Bắc của Bắc Hải,
nhưng vùng quan trọng nhất là vùng lục địa Hi Lạp ở phía Nam Balkans. Lục 4
địa Hi Lạp gồm 3 phần: miền Bắc là vùng đồng bằng rộng lớn và quan trọng
nhất Hi Lạp; miền Trung ngăn cách với phía bắc bởi đèo Thermopil hiểm trở,
nơi đây có 2 đồng bằng lớn là Attique và Beotie trù phú với thành thị Athens nổi
tiếng; miền Nam là bán đảo Peloponesus như hình bàn tay bốn ngón xòe ra Địa
Trung Hải – đây là nơi xuất hiện nhà nước thành bang đầu tiên của Hi Lạp – nhà
nước Sparta. Mặc dù có nhiều đồng bằng rộng lớn nhưng nhìn chung đất đai Hi
Lạp không phì nhiêu lắm, chủ yếu trồng nho, ô liu và phát triển các nghề thủ
công, còn lương thực chính là lúa mì phần lớn được nhập từ Ai Cập. Địa hình Hi
Lạp tương đối trở ngại về giao thông đường bộ nhưng có sự thuận lợi tuyệt vời
với con đường giao thông trên biển, bờ biển có nhiều cảng, vịnh, thuận lợi cho
tàu bè hoạt động. Từ đây, người Hi Lạp dễ dàng tới vùng Tiểu Á, Bắc Hải để
giao thương. Nằm giữa vùng tiếp giáp giữa 3 châu, Hi Lạp sớm tiếp thu những
thành tựu của nền văn minh phương Đông cổ đại và tạo ra một nền văn minh Hi
Lạp cổ đại độc đáo và rực rỡ, với những thành tựu tuyệt vời đóng góp cho sự
phát triển của văn minh phương Tây nói riêng và văn minh nhân loại nói chung.
Nơi phát sinh quốc gia La Mã cổ đại là bán đảo Ý – một dải đất dài và
hẹp như chiếc hia duỗi thẳng xuống Địa Trung Hải với diện tích lớn gấp 5 lần
bán đảo Hi Lạp. Phía Bắc có dãy núi Apels như một bức tường thành tự nhiên
ngăn cách bán đảo với lục địa châu Âu; ba phía Đông, Tây, Nam đều có biển
bao bọc. Dãy núi Apennines như một chiếc xương sống chạy dọc bán đảo từ Tây
Bắc xuống Đông Nam. Khác với Hi Lạp, điều kiện tự nhiên của La Mã tương
đối thuận lợi hơn. Nơi đây có nhiều đồng bằng rộng lớn, màu mỡ và phì nhiêu:
đồng bằng sông Pô (miền Bắc), đồng bằng sông Tibrơ (miền Trung), các đồng
bằng trên đảo Xixin. Ở miền Nam còn có nhiều đồng cỏ rộng lớn thuận tiện cho
việc phát triển nghề nông và chăn nuôi gia súc. Ở phía Tây và Nam, bờ biển có
nhiều cảng, tàu bè ra vào dễ dàng, thuận lợi cho giao thông và buôn bán.
Văn minh phương Tây cổ đại mà nền tảng là 2 nền văn minh của Hi Lạp
và La Mã đã hình thành và phát triển trên cơ sở điều kiện tự nhiên của những cư
dân gốc du mục. Khác với các quốc gia cổ đại phương Đông, nền văn minh chủ
yếu được hình thành trên những khu vực gần các con sông lớn, thuận lợi cho sự 5
phát triển nông nghiệp, văn minh phương Tây cổ đại hình thành và phát triển
trên những khu vực điều kiện tự nhiên tương đối khắc nghiệt và phức tạp hơn.
Điều kiện tự nhiên đó tuy khó khăn cho sự phát triển của nông nghiệp, nhưng bù
lại nền văn minh phương Tây có được sự trợ giúp tuyệt vời của biển đảo. Những
con đường giao thương trên biển, hải cảng, tàu bè… không chỉ tạo điều kiện
phát triển trong mối quốc gia mà còn thúc đẩy sự giao lưu, buôn bán giữa các
nước, mang những thành tựu văn hóa, văn minh phương Tây truyền bá khắp nơi
trên thế giới. Sự phát triển về kinh tế, đặc biệt là kinh tế thương nghiệp hàng hải
đã tạo ra một nền kinh tế giàu mạnh cho các quốc gia phương Tây đặc biệt là sự
phát triển cực thịnh của chế độ chiếm nô. Phương thức sản xuất chiếm nô thời
bấy giờ đạt đến mức hoàn chỉnh và cao nhất của nó trong xã hội phương Tây cổ
đại. Chính sự phát triển của chế độ chiếm nô đã tạo điều kiện cho sự sáng tạo ra
những giá trị vật chất và tinh thần của nền văn minh phương Tây. Sự giàu mạnh
về kinh tế cùng với những con đường giao thông trên biển là những nguyên
nhân quan trọng đã thúc đẩy quá trình bành trướng của các quốc gia được mệnh
danh là đế quốc cổ đại: Hi Lạp và La Mã.
Như vậy, điều kiện tự nhiên của Hi Lạp và La Mã không chỉ là nền tảng,
cơ sở tạo ra nền văn minh phương Tây cổ đại với nhiều thành tựu rực rỡ mà điều
kiện tự nhiên cũng là một yếu tố cực kỳ quan trọng đã mang nền văn minh
phương Tây cổ đại truyền bá khắp thế giới dù bằng nhiều con đường khác nhau:
hòa bình hoặc chiến tranh.
1.2. Đặc điểm văn hóa phương Tây
Văn hoá phương Tây thuộc loại hình văn hoá gốc du mục. Người Phương
Tây cổ xưa gắn bó với nghề chăn nuôi, đòi hỏi việc thường xuyên đi tìm cỏ,
sống du cư, không ổn định, ít phụ thuộc vào thiên nhiên, sinh ra xem thường tự
nhiên, dẫn đến tham vọng chinh phục tự nhiên (cho nên ở phương Tây đạt nhiều
thành tựu trong lĩnh vực này). Ý thức chinh phục thiên nhiên và giao thương
phát triển sớm làm cho người phương Tây sẵn sàng rời xứ sở đi tìm miền đất
mới để định cư. Người bản quốc sau khi định cư ở miền đất mới thì sẵn sàng lập
ra một quốc gia mới để khẳng định mình và cạnh tranh với bản quốc. 6
Sau đêm dài trung cổ, người Tây Âu sau khi phát hiện ra châu Mỹ đã ồ ạt di cư
sang miền Tân Thế giới này để lập ra một loạt quốc gia độc lập hẳn với chính
quốc của họ. Quốc gia mới của người Anh trên lãnh thổ nước Mỹ ngày nay khác
hẳn với nước Anh chính quốc. Người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ở Trung và
Nam Mỹ cũng vậy. Họ có lối tư duy phân tích. Họ có tư duy khách quan, lý tính
và thực nghiệm, dẫn đến kết quả là khoa học phương tây rất phát triển. Y học
phương Tây là một nền y học chủ yếu dựa vào khả năng lý tính chế tác của con
người mà ít cầu viện đến thiên nhiên.
Đồng thời trọng các yếu tố, dẫn đến lối sống thực dụng, thiên về vật chất.
Trong tổ chức cộng đồng thì coi trọng sức mạnh, kéo theo trọng người tài, trọng
võ, trọng nam giới. Coi trọng vai trò cá nhân, dẫn đến lối sống ganh đua, cạnh
tranh một cách khốc liệt. Ứng xử theo nguyên tắc khiến người phương Tây có
thói quen sống theo pháp luật từ khá sớm. Trong ứng xử với môi trường xã hội
có các biểu hiện: độc đoán trong tiếp nhận, cứng rắn, hiếu thắng trong đối phó.
Nếu ở phương Đông luôn chấp nhận cái tôn ti trật tự có sẵn trong tôn giáo thì ở
phương Tây hoàn toàn ngược lại. Biểu hiện là đạo Cơ Đốc luôn được sửa đổi,
cải cách, thậm chí là giáo lí.
1.3. Quá trình du nhập văn hóa phương Tây vào Việt Nam:
1.3.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực diễn ra quá trình giao lưu Đông – Tây
Châu Âu, sau các cuộc phát kiến địa lý của thế kỷ XV, sự phát triển của
chủ nghĩa tư bản hết sức mạnh mẽ về kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội. Đối với
châu Âu, các cuộc phát kiến địa lý đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tìm
ra những vùng đất mới và nối liền hoạt động thương mại giữa phương Đông và
phương Tây. Ở châu Âu giai đoạn này nổi bật lên là phong trào văn hóa phục
hưng, nó như một cuộc cách mạng tinh thần, hướng tới chủ nghĩa nhân đạo,
cách mạng khoa học. Phong trào quan trọng nữa là phong trào cải cách tôn giáo
và canh tân giáo hội, nhằm khẳng định vị trí của Thiên chúa giáo so với Hồi
giáo, và việc mở rộng ảnh hưởng của Thiên chúa giáo ra bên ngoài (không chỉ bó hẹp ở châu Âu). 7
Bồ Đào Nha, trước thế kỷ XI, Bồ Đào Nha nằm dưới sự thống trị của
người Hồi giáo giống như những vùng đất khác trên bán đảo Iberia. Từ phong
trào Phục hồi (Reconquista), nước Bồ Đào Nha độc lập ra đời, với việc Henri de
Borgonha (1066 – 1112) lập nên vương triều Borgonha, cai trị từ năm 1093 đến
năm 1383. Nét đặc biệt trong quá trình thiết lập vương quốc Bồ Đào Nha là đã
diễn ra hai cuộc đấu tranh chống xâm lược, can thiệp của ngoại bang: thế lực
Hồi giáo và các vương quốc khác trên bán đảo Iberia. Nếu như cuộc đấu tranh
chống người Hồi giáo dẫn tới sự thành lập vương triều thứ nhất – vương triều
Borgonha, thì cuộc đấu tranh chống lại ý muốn cai trị đất nước của các thế lực
khác trên bán đảo Iberia dẫn tới sự thành lập vương triều thứ hai, vương triều
Aviz (1385 – 1580). Đây là thời kỳ đạt đến sự phát triển đỉnh cao về kinh tế,
chính trị, quân sự. Cũng trong thời kỳ của vương triều này, Bồ Đào Nha đã tiến
hành các cuộc phát kiến địa lý, và kết quả là họ đã tìm được đường biển nối liền
châu Âu và châu Á, do vậy trung tâm thương mại thế giới đã chuyển dịch từ Địa
Trung Hải sang Đại Tây Dương.
Nước Pháp, là một bộ phận của châu Âu, nước Pháp dưới triều vua Henri
và Louis cũng đã có những thay đổi lớn trên tất cả các phương diện, vừa mang
đặc điểm chung của khu vực vừa có những nét riêng biệt từ quá trình vận động
nội tại. Về mặt tôn giáo, trước sự lan tỏa nhanh chóng của đạo tin lành, giới trí
thức Pháp chia làm hai phe: phe ủng hộ và phe bài trừ, và mâu thuẫn dẫn đến
Cuộc chiến tranh tôn giáo ở Pháp. Về chính trị, sau khi vua Louis XVIII qua
đời, năm 1643 vua Louis XIV lên ngôi mở ra một trang mới trong lịch sử nước
Pháp “Vua Mặt trời”, là mẫu hình nhà nước chuyên chế, có quân đội mạnh, kỷ
luật cao, tiềm lực quân sự vào loại bậc nhất châu Âu, kinh tế phát triển, giao
thông, xuất khẩu và công nghiệp được mở rộng.
Việt Nam trong bối cảnh khu vực Đông Nam Á, Đông Nam Á trong giai
đoạn này, chính quyền phong kiến đang trên đà suy yếu, nền kinh tế nông
nghiệp tiểu nông kết hợp chặt chẽ với thủ công gia đình, lương thực chính vẫn là
lúa, tuy nhiên, về văn hóa, người Đông Nam Á sống trong mối quan hệ làng 8
xóm bền chặt với tính cố kết cộng đồng rất cao, văn hóa làng xã là đặc trưng của văn hóa Đông Nam Á.
Việt Nam cũng nằm trong sự chuyển biến chung của khu vực Đông Nam
Á, xã hội truyền thống với tư tưởng “trọng nông ức thương” nên nền kinh tế
khép kín mang nặng tính tự cung tự cấp trong suốt hàng chục thế kỷ. Bước vào
các thế kỷ XVII - XVIII, những cuộc nội chiến giữa các tập đoàn phong kiến
thống trị đã hình thành nên nhu cầu mua vũ khí và các nhu yếu phẩm phục vụ
cho chiến tranh của các tập đoàn này, khiến giai cấp thống trị không ngần ngại
đẩy mạnh quan hệ buôn bán với các nước phương Tây. Nằm trên con đường
thương mại quốc tế, Việt Nam đã trở thành cửa ngõ giao thương của các luồng
hàng từ châu Âu sang châu Á; từ Trung Quốc, Nhật Bản đến các nước Đông Nam Á.
Bối cảnh lịch sử của thế giới, khu vực, từng nước đã hội đủ những yếu tố
để tiến hành thiết lập các mối quan hệ thương mại và truyền giáo. Việc xuất hiện
các đoàn thuyền buôn phương Tây cùng với hoạt động truyền giáo của các giáo
sĩ, Việt Nam đã tiếp nhận một phần phương thức sản xuất mới (so với phương
thức sản xuất phong kiến trước đó) – phương thức tư bản chủ nghĩa, văn hóa
phương Tây du nhập vào Việt Nam trong cách ứng xử, kiến trúc, lối sống, tôn
giáo và cả chữ viết, một số giá trị văn hóa vẫn còn tồn tại ở Việt Nam đến ngày
hôm nay và làm đa dạng thêm văn hóa truyền thống dân tộc.
1.3.2. Một vài nét về hoạt động thương mại và truyền giáo của Bồ Đào Nha và Pháp
Về hoạt động thương mại, theo một số tài liệu, những cuộc gặp gỡ giữa
người Việt và người phương Tây đã có ngay từ những năm đầu công nguyên,
Việt Nam cũng được xem là nơi liên lạc thương mại giữa đế quốc Roma và Ấn
Độ, vùng Trung Đông, Trung Quốc giữa phương Đông và phương Tây, nhưng
đây chỉ là những bước “chập chững” đầu tiên của quá trình giao lưu thương mại.
Đến thế kỷ XVI, những cuộc gặp gỡ về thương mại mới diễn ra thường xuyên.
Đầu thế kỷ XVI, tàu buôn người Bồ đã đến và thiết lập buôn bán với
người Việt. Năm 1524, Duarte Coelho người Bồ được cử làm đại diện để thiết 9
lập thương mại với người Việt. Đối với người Bồ, việc đến buôn bán ban đầu với
Việt Nam là do một lần, khi tàu buôn người Bồ tiến vào Quảng Đông (Trung
Quốc), giữa đường gặp bão nên tàu của Fernão Perez d’Andrade bị giạt vào bờ
biển Việt Nam (lúc đó là Chiêm Thành), còn tàu của Duarte Coelho bị tách khỏi
đoàn và giạt vào bờ biển Xiêm (Thái Lan). Sau đó năm, Duarte Coelho sang
Việt Nam để thiết lập quan hệ thương mại với Việt Nam.
Năm 1535, Antonie de Faria cũng đã vào cửa Hàn, và đã để ý đến Hội An.
Sau đó, khoảng năm 1540, thương nhân Bồ Đào Nha từ Macao hoặc Nam
Dương đến Hội An vào tháng chạp hoặc tháng giêng bán, mua hàng như tơ, lụa,
hồ tiêu, gỗ quý, qua tay các đại lý Hoa kiều hay Nhật kiều ở Hội An rồi quay
thuyền về các căn cứ trên. Năm 1555, người Bồ lập trụ sở thương mại ở Áo Môn
(Macao), liên lạc buôn bán lại càng tiến triển ở cửa Hàn (Đà Nẵng) và cửa Hội
An. Nguyễn Hoàng từ khi vào trấn thủ đất Thuận Hóa, và sau khi chiếm cả trấn
Quảng Nam, muốn thế lực mạnh để đương đầu với họ Trịnh, đã tìm cách lôi
cuốn người Bồ đem đạn dược, khí giới vào bán cho mình. Trong quá trình giao
thương với nước ta, Bồ Đào Nha không tiến hành lập thương điếm, tuy không để
lại người buôn bán thường trực, nhưng họ rất muốn độc quyền buôn bán với
nước ta. Năm 1584, đã có nhiều người Bồ Đào Nha sống ở Đàng Trong, việc
buôn bán giữa người Bồ Đào Nha và Đàng Trong phụ thuộc vào quan hệ buôn
bán giữa Macao và Nhật Bản. Về phía người Bồ, việc buôn bán với Đàng Trong
trở nên quan trọng từ 1640, khi họ giảm bớt việc buôn bán với Nhật và hướng về
Đông Nam Á. Về phía họ Nguyễn, việc buôn bán với họ Nguyễn chỉ có ý nghĩa
thực sự khi xảy ra chiến tranh với họ Trịnh bởi vì đại bác là mặt hàng quan trọng
nhất trong việc trao đổi với hai bên. Đại bác bằng đồng và thép được đúc tại
Macao đã có sẵn thị trường là hai khách hàng lớn đó là Đàng Trong và Đàng
Ngoài. Hàng hóa người Bồ chở từ Đàng Trong là tơ vàng rất tốt và rẻ, một số
trầm hương, kỳ nam, mặc dù rất hiếm và một số ít benzoin…tất cả là sản phẩm
của địa phương và một lượng lớn là đồng người Nhật đem tới đây. Hội An là
trung tâm tập trung và phân phối hàng hóa, Hội An xuất khẩu một số sản phẩm
của địa phương đứng đầu là kỳ nam hương và vàng. Các thương nhân Bồ Đào 10
Nha không đến Việt Nam theo đại diện cho công ty nào và không đến cư ngụ,
mở thương điếm mà họ chỉ thông qua các trung gian để gom hàng hóa hoặc giao
dịch. Họ mua nhiều hàng hóa rẻ ở Việt Nam và bán ở các nước châu Âu. Với tư
cách là những người phương Tây đầu tiên đến Việt Nam, người Bồ Đào Nha đã
cậy có một nền hàng hải khỏe vào bậc nhất và hung hăng đến chiếm đất để buôn
bán. Sau khi thành lập trung tâm buôn bán ở Hội An, người Bồ Đào Nha đã phát
triển buôn bán với Đàng Ngoài. Dưới thời vua Lê Anh Tông (1556 – 1573), từ
khi lập thương điếm ở Macao, việc buôn bán của người Bồ diễn ra ở cả Đàng
Trong và Đàng Ngoài và ngày càng tiến triển, thuyền của người Bồ Đào Nha
thường cập bến ở cửa biển Thanh Hóa. Công việc mua bán của người Bồ có lúc
đụng độ với người Hà Lan, người Bồ Đào Nha và người Hà Lan tiếp tục cạnh
tranh và thường xuyên diễn ra xung đột nặng nề. Người Bồ Đào Nha luôn muốn
độc quyền ở Đàng Trong, nhưng vào đầu thế kỷ XVII, người Bồ Đào Nha đã
dần suy yếu nên hoạt động thương mại của Bồ Đào Nha ở Đại Việt cũng chấm
dứt khi mà người Hà Lan thiết lập thương điếm của mình ở cả Hội An, Phố Hiến
và Thăng Long-Kẻ Chợ của cả Đàng Trong và Đàng Ngoài.
Đối với Pháp, người Pháp cũng tiến hành hoạt động thương mại với Việt
Nam, người Pháp đến Việt Nam muộn so với các nước phương Tây khác (Bồ
Đào Nha, Hà Lan, Anh), nhưng việc buôn bán của người Pháp không phải là sự
buôn bán theo mùa như người Bồ Đào Nha, mà họ buôn bán thông qua hoạt
động của Công ty Đông Ấn Pháp (La Compagnie Française d’Extrême-Orient –
CIO), quá trình buôn bán dưới hình thức Công ty Đông Ấn diễn ra từ nửa cuối
thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XIX. Năm 1669, CIO cử đại diện của mình đến
Đàng Ngoài của Đại Việt nhằm thiết lập quan hệ buôn bán, chuyến đi được khởi
hành từ Xiêm và các thương nhân Pháp được chính quyền Lê – Trịnh đón tiếp
nồng nhiệt, những đại diện của CIO cũng được cho phép mở và xây dựng
thương điếm như những người Hà Lan trước đó. Nhưng, việc thiết lập quan hệ
ngoại giao của của CIO với Đàng Ngoài cũng gặp nhiều trở ngại vì những
thương nhân của CIO gặp phải sự chống đối cạnh tranh của người Hà Lan và
gặp phải thời tiết khó khăn, một số chiếc tàu do CIO cử đến đã không cập bến an 11
toàn. Kết quả là phải mất một thời gian sau (kể từ năm 1669) thì CIO mới đến
được Đàng Ngoài. Và trong thời gian này, chúa Trịnh bận quan tâm đến chiến
tranh với Đàng Trong, cũng như “thủ tục” tiếp kiến vua của Đại Việt hết sức khó
khăn, thêm vào đó, những người ủng hộ mạnh mẽ việc thiết lập buôn bán với
Đại Việt như J.B.Corbert, F.Pallu qua đời nên ảnh hưởng không tốt đến giao
thương. Hơn 10 năm kể từ khi ý định giao thương với Đại Việt được thực hiện,
thì việc buôn bán cũng diễn ra ít ỏi, một số mặt hàng mang đến chỉ là hàng mẫu,
biếu tặng cho chính quyền Lê – Trịnh và quan lại địa phương là phần nhiều.
Đến thế kỷ XVIII, CIO đã chuyển trọng tâm thương mại từ Đàng Ngoài
vào Đàng Trong. Đối với hiểu biết của người Pháp, Đàng Trong là vùng đất mới
khai phá, có nhiều ngành nghề thủ công phát triển, nhân dân ở đây có cuộc sống
ấm no, phồn thịnh. Chúa Nguyễn ở Đàng Trong lại cởi mở trong việc tiếp nhận
các thương nhân nước ngoài. Chính điều đó, Đàng Trong được đánh giá như một
vùng đất giàu có và trở thành một trung tâm thương mại phát triển của Đông
Nam Á. Đến những năm của nửa sau thế kỷ XVIII, việc buôn bán với Đàng
Ngoài không còn mặn mà với người phương Tây, không chỉ riêng người Pháp,
tuy thế, người Pháp vẫn giữ lại những đại diện của mình ở Đàng Ngoài và vạch
ra kế hoạch chuyển hướng thương mại vào Đàng Trong. Việc chuyển hướng vào
Đàng Trong cũng phản ánh một thực tế là Pháp không giành nhiều thắng lợi
trong việc buôn bán với Trung Quốc. Kế hoạch của người Pháp là muốn xây
dựng thương điếm ở Đàng Trong và phá vỡ thế độc quyền buôn bán của người
Hà Lan. Nhưng trong giai đoạn này, chúa Nguyễn đang ra lệnh trục xuất hết các
giáo sĩ vào năm 1750, vì vậy kế hoạch buôn bán với Đàng Trong của CIO không
mấy thành công. Tuy không có nhiều hoạt động buôn bán ở Đàng Trong, nhưng
CIO cũng thiết lập được một thương điếm ở Tourance (Đà Nẵng) vào những năm 1750.
Đến cuối thế kỷ XVIII, tình hình buôn bán giữa Đại Việt và CIO ngày
càng khan hiếm, lý do là việc Anh trở thành cường quốc sau Đại cách mạng
công nghiệp, Pháp nhận thức được rằng nếu người Anh đến trước sẽ làm mất
quyền lợi của Pháp ở vùng Viễn Đông, trong lúc đó, vị trí của Pháp ngày càng 12
giảm sút ở những khu vực này, vì thế việc buôn bán song phương tự nguyện
giữa CIO và Đại Việt đã ngày càng chuyển sang một thái trạng khác. Về phía
người Pháp, họ cần đưa ra biện pháp mới trong việc chiếm đất ở những khu vực
buôn bán này, còn đối với Đàng Trong và Đàng Ngoài, chính quyền nơi đây
ngày càng cảnh giác với các đoàn thuyền buôn phương Tây. Đến cuối thế kỷ
XVIII, CIO đã dần dần rút lui những hoạt động thương mại của mình ở cả Đàng
Trong và Đàng Ngoài. Thay vào đó là những kế hoạch mới trong việc đánh chiếm Đàng Trong.
Đến đầu thế kỷ XIX, tình hình chính trị - xã hội Đại Việt có nhiều biến
chuyển quan trọng, việc lên ngôi của Nguyễn Ánh – Gia Long cùng với sự tham
gia chính sự của Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc), sự thất bại của Nguyễn Ánh
trong việc cầu cứu quân Xiêm trong việc tranh giành ngôi báu khiến Nguyễn
Ánh càng quyết định gắn kết chặt chẽ với vị giám mục này. Việc xuất hiện ngày
càng nhiều vai trò của người Pháp đối với triều đình Gia Long đã mở ra một
trang mới trong quan hệ thương mại hai nước, và về sau là việc Pháp nổ súng
xâm lược Việt Nam, để lại những hệ lụy lịch sử cho đến ngày nay.
Về hoạt động truyền giáo, Bồ Đào Nha, vào năm 1523, những cuộc tiếp
xúc truyền giáo giữa người Việt và người Bồ Đào Nha đã diễn ra, nhưng chỉ là
những ý định bước đầu, mãi đến năm 1544 một giáo sĩ người Bồ là Fernão
Mander Pinto đi qua xứ Bắc để tham khảo tình hình, đến năm 1556, Fernão
Mander Pinto lại đi qua bờ biển Việt Nam và tiến hành cắm cột thánh giá ở Cù
Lao Chàm (thuộc Quảng Nam ngày nay).
Dưới thời vua Lê Anh Tông, nhà vua cởi mở cho việc truyền đạo của các
giáo sĩ, và cũng trong thời gian này, các giáo sĩ dóng thánh Phanxico đã gửi thư
lên nhà vua để xin truyền giảng, cùng thời điểm, các giáo sĩ chưa xây dựng các
tu viện ở Macao và Philippines. Tuy nhiên, không may mắn cho các giáo sĩ, là
việc thiếu hụt các thừa sai khiến các giáo sĩ chần chừ, khất lại một thời gian nên
việc truyền đạo không được tiến hành nhanh chóng và “bắt nhịp” cùng ý muốn
của nhà vua. Tuy nhiên, theo một số tài liệu thì người ta vẫn tìm thấy những cột
thánh giá ở Thanh Hóa. Cuối thế kỷ XVI - đầu thế kỷ thứ XVII, các giáo sĩ 13
người Bồ còn truyền giáo ở cả Thăng Long, nhưng trong thời gian này, việc
truyền giáo ở Macao và Philippines, Trung Quốc có nhiều bước tiến triển, và
công cuộc truyền giáo ở Đại Việt thường xuyên liên lạc với các nơi này.
Cũng chính từ công cuộc truyền giáo, các giáo sĩ phải tiến hành học tiếng địa
phương, phiên âm và truyền giảng tiếng địa phương, đó là lý do để giáo sĩ
Alexandre de Rhodes – một giáo sĩ người Pháp, hoạt động truyền giáo dưới
danh nghĩa là giáo phận của Bồ Đào Nha đã dần hoàn thiện cuốn từ điển Việt-
Bồ-La để dễ dàng trong việc truyền đạo, về sau, người Việt Nam từ nền tảng đó
làm chữ Quốc Ngữ hoàn thiện như ngày hôm nay.
Năm 1664, Louis Chevreuil được cử đến Đàng Trong, giáo sĩ này đã ra
sức thuyết phục các địa phận quản hạt tại Đàng Trong công nhận địa vị của các
giáo sĩ Pháp thay thế người Bồ Đào Nha. Nhưng công việc này không hề dễ
dàng. Vào năm 1670, Lambert cũng được cử đến Đàng Trong để tiếp tục công
việc mà Louis đã làm. Đồng thời, giáo sĩ F.Deydier cũng được cử đến Đàng
Ngoài. Trong thời gian này, chủ yếu là thiết lập địa vị của các giáo sĩ Pháp thay
thế vị trí của Bồ Đào Nha, và thiết lập các giáo phận ở cả Đàng Trong và Đàng
Ngoài, việc đào tạo linh mục bản địa chưa được chú trọng.
Đến đầu thế kỷ XVIII, cùng với những biến động về thương mại, hoạt
động truyền giáo của MEP cũng có phần “khủng hoảng”, Giáo hoàng đã cử
người đến để thay đổi tình hình đang diễn ra không mấy tốt đẹp ở đây. Ngoài
tình hình khủng hoàng về người và phương tiện, thì công cuộc truyền giáo còn
vấp phải sự cấm đoán từ phía chính quyền bản địa và những mâu thuẫn nội bộ
giữa MEP, Dòng Tên và Dòng Phanxicô nhưng vẫn không mấy hiệu quả.
Đến cuối thế kỷ XVIII, việc “cấm đạo” càng diễn ra gay gắt ở cả Đàng
Trong và Đàng Ngoài, cùng với sự rút lui của thương nhân Pháp nên việc thâm
nhập của người Pháp đối với Đại Việt giai đoạn này chỉ mang tính chất tạm thời,
không hiệu quả như dưới thời của giáo sĩ Alexandre de Rhodes.
Bước sang đầu thế kỷ XIX, việc thâm nhập truyền giáo của Pháp được
đánh giá trên vai trò của Pigneau de Béhaine, mặc dù việc liên hệ giữa giáo sĩ
này với Nguyễn Ánh đã diễn ra ngay từ những năm cuối của thế kỷ XVIII, đến 14
đầu thế kỷ XIX, việc can thiệp ngày càng sâu của giáo sĩ này với Nguyễn Ánh,
sau này là giám mục Adran. Một điều phải thừa nhận rằng là các giáo sĩ đã một
phần mang khoa học kỹ thuật phương Tây đến Việt Nam như việc xây dựng
kinh thành Huế với lối kiến trúc Vauban của Pháp, xưởng đúc tiền, các chiến hào
quân sự và cách đúc súng đồng, mà ngày nay ta có Cửu vị thần công ở Huế, các
tàu chiến, súng và kỹ thuật quân sự của Pháp...
Hoạt động thương mại và truyền giáo của Bồ Đào Nha và Pháp ở Đại Việt
diễn ra từ nửa đầu thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, hai nước phương Tây này đến
Pháp trong thời gian dường như kế tiếp nhau. Mỗi nước có một phương thức
riêng trong hoạt động thương mại và truyền giáo, nhưng cũng đã mang văn minh
phương Tây vào Việt Nam bằng cách này hay cách khác. 1.4. 15
CHƯƠNG II: ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HÓA PHƯƠNG TÂY ĐỐI VỚI VIỆT NĂM HIỆN NAY.
1. Ảnh hưởng đến tôn giáo Sự hình thành với phong tục của Kito giáo ở Việt Nam
1.1. Tư tưởng tín ngưỡng Kito ở Việt Nam
Kitô giáo tại Việt Nam hiện gồm có Giáo hội Công giáo và các Hội thánh Tin Lành Kitô .
giáo được truyền vào Việt Nam từ thế kỷ 16 thông qua các
thừa sai tới từ Iberia. Số lượng tín hữu Công giáo và Tin Lành ngày nay được
ghi nhận là lần lượt chiếm 7% và 2% dân số cả nước; tuy nhiên, con số thực tế
có thể cao hơn, như 10% dân số Công giáo và 5% dân số Tin Lành.
Cảnh giáo được cho là đã có mặt tại Giao Châu hay An Nam dưới
thời nhà Đường. Công giáo đã được truyền bá từ thế kỷ 16 nhưng các tu sĩ Dòng
Tên, bắt đầu có mặt từ năm 1615, mới là những người có công lớn trong việc
thiết lập vững chắc các cộng đoàn Công giáo Việt Nam tại cả Đàng
Trong và Đàng Ngoài. Ngày chiếc thuyền của các thừa sai Dòng Tên cập bến tại Đàng Ngoài năm cũng 1627
đúng vào ngày lễ Thánh Giuse (19 tháng 3) nên
Giáo hội Công giáo tại Việt Nam đã chọn Thánh Giuse làm bổn mạng.
Năm 1911, các nhà truyền giáo thuộc Hội Truyền giáo Phúc âm Liên
hiệp đặt chân đến Đà Nẵng để bắt đầu truyền giảng Phúc Âm theo đức tin Kháng ,
Cách thường gọi chung là Tin Lành. Cách gọi này được dùng bởi
cả Hội thánh Tin Lành Việt Nam và các hội thánh thuộc những hệ phái như
Baptist, Trưởng lão, Mennonite, Ngũ tuần.
Chính thống giáo hiện diện tại Việt Nam vào đầu thế kỷ 21 với các cộng
đoàn tiếng Nga. Áp dụng theo lập luận tuyên truyền của cộng sản, cánh tả thì
Nga gửi các nhà truyền giáo sang để chuẩn bị dọn đường cho xâm lược Việt Nam.
Việt Nam hiện nay có khoảng 7 triệu tín hữu Công giáo và 2 triệu tín hữu Tin
Lành. Từ giữa thập niên 1990 trong xu hướng mở cửa, mối quan hệ giữa chính
quyền Việt Nam với nhiều nhóm Kitô giáo có sự cải thiện. Chính quyền Việt 16
Nam khẳng định tôn trọng tự do tôn giáo. Đồng thời, chủ trương của chính
quyền là muốn quản lý hoạt động tôn giáo
1.2. Hệ thống nhà thờ Kito ở Việt Nam
Hệ thống nhà thờ được trải dài từ Bắc vào Nam:
Nhà thờ Chính Tòa Bùi Chu
Tọa lạc tại xã Xuân Ngọc, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam là Định nhà thờ
chính tòa của Giáo phận Bùi Chu. Năm 2020, công trình nhà thờ cổ 135 năm
tuổi đã bị dỡ bỏ vì lý do an toàn, hiện nay việc thi công nhà thờ mới đang được tiến hành.
Giáo xứ Bùi Chu, chính thức thành lập năm 1670, được chọn là nơi đặt
tòa giám mục của Địa phận Đông Đàng Ngoài từ năm 1779, sau đó là của Địa
phận Trung Đàng Ngoài từ khi thành lập năm 1848. Xứ đạo Bùi Chu là một làng
toàn tòng, nằm giữa nhiều làng Công giáo khác trong vùng, từng được truyền
giảng Phúc Âm bởi Dòng Tên, Hội Thừa sai Paris và nhất là Dòng Đa Minh Tây
Ban Nha. Sau khi nạn bách hại đạo chấm dứt, Nhà thờ Bùi Chu được hoàn thành
năm 1885. Với sự bổ nhiệm giám mục Đa Minh Maria Hồ Ngọc Cẩn, Bùi Chu
là địa phận thứ hai ở Việt Nam được trao cho các giáo sĩ bản quốc coi sóc.
Nhà thờ Bùi Chu là một trong những nhà thờ cổ kính nhất ở Việt Nam, có
lịch sử tương đương Nhà thờ chính tòa Đức Bà Sài Gòn (hoàn thành năm
1880), Nhà thờ Lớn Hà Nội (1887), Nhà thờ chính tòa Phát Diệm (1891). Đây là
nơi lưu dấu ấn lịch sử truyền giáo, giao thoa văn hóa Đông – Tây ở vùng Đồng
bằng Bắc Bộ, và là công trình có giá trị đặc biệt về phương diện lịch sử, văn
hóa, nghệ thuật, kiến trúc. Các đường nét hoa văn thể hiện sự hài hòa kiến trúc
Âu – Á. Bộ tòa chính ở cung thánh được sơn son thếp vàng lộng lẫy, các cột gỗ
lim lớn được đặt trên bệ đá chạm trổ tỉ mỉ, vòm trần nhà thờ làm từ vôi rơm trộn
mật, có thiết kế đặc sắc là những hình oval ba lá.
Nhà thờ Tin Lành Đà Nẵng
Nhà thờ nằm trên đường Ông Ích Khiêm, Đà Nẵng, được xây dựng năm
1931, là một trong những nhà thờ lớn nhất của đạo Tin Lành ở thành phố Đà 17