



















Preview text:
  lOMoAR cPSD| 60696302
TÀI LIỆU MÔN : TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG 
BÀI 1 TÂM LÝ HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC 
I. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA TÂM LÝ HỌC  1. Tâm lý là gì?   
Những hiện tượng nào dưới đây là hiện tượng tâm lý? a. 
Khóc đỏ hoe cả mắt. 
b. Xấu hổ đỏ mặt. 
c. Tập thể dục buổi sáng. 
d. Hồi hộp khi thi. 
e. Giận cá chém thớt. 
Trong cuộc sống hàng ngày, nhiều người vẫn sử dụng từ “tâm lý” để nói về lòng người, về cách 
cư xử của con người, về sự hiểu biết ý muốn, nhu cầu thị hiếu của người khác, ví dụ “Anh A rất tâm lý”, 
“Chị B là người trò chuyện tâm tình, cởi mở”… Đôi khi người ta còn dùng từ “tâm lý” như là khả năng 
chinh phục người khác… 
Hiểu như thế đúng, nhưng chưa đủ. Thực tế, tâm lý đâu chỉ là ý muốn, nhu cầu, thị hiếu và cách 
cư xử của con người, mà nó bao hàm vô vàn các hiện tượng khác như việc nhận thức để hiểu biết các sự 
vật, hiện tượng tồn tại xung quanh; sự biểu thị thái độ xúc cảm - tình cảm yêu thích hay không yêu thích 
các sự vật, hiện tượng con người nhận thức được. 
Thế giới tâm lý của con người vô cùng phong phú. Nó luôn luôn gắn liền với hoạt động của con 
người. Bất cứ một hoạt động nào, từ đơn giản đến phức tạp, cũng đều có tâm lý cả. 
Như vậy, thuật ngữ “tâm lý” trong khoa học là rất rộng. Tâm lý được hiểu là tất cả những hiện 
tượng tinh thần xảy ra trong đầu óc con người, gắn liền và điều hành mọi hoạt động, hành động của 
con người”. 
Theo cách hiểu này thì, tâm lý của con người là nhận thức, tình cảm, ý chí, nghị lực, nhu cầu, ý 
thức, tự ý thức, động cơ, hành vi, hứng thú và cả khả năng sáng tạo của con người. 2. Đối tượng, 
nhiệm vụ nghiên cứu của Tâm lý học  
a. Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học 
Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học là toàn bộ các hiện tượng tâm lý với các đặc điểm, quy luật 
và cơ chế của nó, những hiện tượng tâm lý này: 
- Trước hết, có cơ sở tự nhiên là hoạt động của hệ thần kinh và hoạt động biến đổi nội tiết 
(sinh lý). Ví dụ: khi sợ tái mét mặt, nổi hết cả da gà, khi lo lắng mất ngủ, hoặc rối loạn tiêu  hóa.    lOMoAR cPSD| 60696302
- Thứ hai, những hiện tượng tâm lý này chỉ được nảy sinh và hình thành trong hoạt động, 
gắn liền với điều kiện xã hội - lịch sử cụ thể. Ví dụ, phong tục, tập quán, truyền thống, kinh  nghiệm sống… 
Với hai tính chất cơ bản trên của hiện tượng tâm lý mà khoa học tâm lý học nghiên cứu, chúng ta 
nhận thấy, tâm lý học không phải là một môn khoa học tự nhiên hay một môn khoa học xã hội đơn thuần, 
mà tâm lý học vừa là môn khoa học tự nhiên nhưng đồng thời cũng vừa là môn khoa học xã hội. 
b. Nhiệm vụ nghiên cứu của Tâm lý học  Tâm lý học nghiên cứu:  - 
Bản chất và các quy luật của hoạt động tâm lý.  - 
Các quy luật nảy sinh và phát triển tâm lý.  - 
Những cơ sở khách quan và chủ quan tạo ra tâm lý người.  - 
Cơ chế hình thành và biểu hiện của hoạt động tâm lý.  - 
Chức năng vai trò của tâm lý đối với hoạt động của con người. 
Trên cơ sở các thành tựu nghiên cứu, tâm lý học sẽ đưa ra những giải pháp hữu hiệu cho việc hình 
thành, phát triển tâm lý, sử dụng nhân tố tâm lý trong con người một cách có hiệu quả nhất. 
II.BẢN CHẤT CỦA HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ NGƯỜI THEO QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ 
NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG 
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định, tâm lý người là sản phẩm phản ánh hiện thực khách 
quan vào não người, thông qua hoạt động của chủ thể và tâm lý người mang bản chất xã hội lịch sử. Do 
đó, bản chất hiện tượng tâm lý người thể hiện ở ba luận điểm sau: 
1. Tâm lý là sản phẩm phản ánh hiện thực khách quan bằng hoạt động của mỗi  người. 
Khi hiện thực khách quan trực tiếp tác động vào giác quan và não, chúng sẽ để lại hình ảnh của 
hiện thực khách quan trên não. Hình ảnh đó gọi là hình ảnh tâm lý. 
Như vậy, hình ảnh tâm lý là kết quả của quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào não. Song, 
hình ảnh của phản ánh tâm lý khác xa về chất so với hình ảnh phản ánh của các hình thức phản ánh khác 
(phản ánh cơ học, vật lý, hóa học, sinh lý, xã hội…). Sự khác nhau ở đây là việc phản ánh tâm lý mang: 
- Tính tích cực: nghĩa là kết quả của lần phản ánh trước ảnh hưởng trực tiếp tới lần phản 
ánh sau. Nhờ đó con người tích lũy được kinh nghiệm trong cuộc sống, là cơ sở cho sự tồn tại 
và phát triển. Tục ngữ có câu: Mỗi lần ngã là một lần bớt dại / Ai nên khôn mà chẳng dại đôi  lần. 
- Tính sinh động, sáng tạo: là việc cùng một hiện thực khách quan tác động, nhưng ở 
những con người khác nhau và ngay trong cùng một con người thì sự phản ánh khác nhau.  Ví dụ: 
+ Với tình yêu: Đàn ông yêu bằng mắt - Phụ nữ yêu bằng tai.    lOMoAR cPSD| 60696302
+ Trong cùng một con người: Khi yêu một trăm chỗ lệch cũng kê cho vừa, khi ghét bới  bèo ra bọ … 
+ Hình ảnh tâm lý về cuốn sách trong đầu của người biết chữ, khác xa về chất so với hình ảnh vật 
lý có tính chất “chết cứng”, hình ảnh vật chất của chính cuốn sách đó ở trong gương. 
Sự phản ánh tâm lý mang tính sinh động, sáng tạo do nhiều yếu tố chi phối: giới tính, hoàn cảnh, 
thời đại, nền văn hóa, giai cấp, lứa tuổi, giáo dục, đặc điểm giải phẫu sinh lý, trạng thái tâm sinh lý, 
nghề nghiệp…Nếu các yếu tố này khác nhau thì sự phản ánh sẽ khác nhau. 
- Tính chủ thể: là sự phản ánh tâm lý mang đậm màu sắc cá nhân (hay nhóm 
người) mang hình ảnh tâm lý đó, hay nói khác đi, hình ảnh tâm lý là hình ảnh chủ quan về thế 
giới khách quan. Tính chủ thể của hình ảnh tâm lý thể hiện ở chỗ: mỗi chủ thể, trong khi tạo ra 
hình ảnh tâm lý về thế giới đã đưa vốn hiểu biết, vốn kinh nghiệm, đưa cái riêng của mình (về 
nhu cầu, xu hướng, tính khí, năng lực)… vào trong hình ảnh đó, làm cho nó mang đậm màu sắc  chủ quan. 
Tuy nhiên, không phải cứ hiện thực khách quan trực tiếp tác động vào giác quan và não là có hình 
ảnh phản ánh tâm lý. Mà muốn có hình ảnh phản ánh tâm lý phải thông qua con đường gián tiếp hoạt 
động (cầm, nắm, đo, đếm, sờ, mó,...) của mỗi cá nhân thì thuộc tính của sự vật hiện tượng mới được bộc 
lộ, con người mới cảm nhận được, mới có hiện tượng phản ánh tâm lý. 
Qua việc phân tích luận điểm một của bản chất hiện tượng tâm lý người, ta có thể rút ra một số kết  luận cơ bản sau: 
- Tâm lý người có nguồn gốc hiện thực khách quan, vì thế, khi nghiên cứu cũngnhư khi 
hình thành, cải tạo tâm lý người, phải nghiên cứu hoàn cảnh trong đó con người sống và hoạt  động. 
- Tâm lý người mang tính chủ thể, vì thế, trong dạy học cũng như trong ứng xử,phải chú 
ý nguyên tắc quan sát đối tượng (tức chú ý đến đặc điểm riêng của con người). 
- Tâm lý người là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp, vì thế phải tổ chức hoạtđộng và 
các quan hệ giao tiếp để nghiên cứu sự hình thành và phát triển tâm lý con người. 
2. Tâm lý là chức năng của não 
Mối liên hệ giữa não và tâm lý là một trong những vấn đề cơ bản của việc lý giải cơ sở tự nhiên, 
cơ sở vật chất của hiện tượng tâm lý người. 
Khi có hiện thực khách quan tác động vào não, bộ não tiếp nhận tác động của hiện thực khách 
quan dưới dạng các xung động thần kinh, cùng với những biến đổi lý hóa ở từng nơ-ron thần kinh, từng 
xi-náp, các trung khu thần kinh ở bộ phận dưới vỏ và vỏ não, làm cho bộ não hoạt động theo các quy 
luật thần kinh, tạo nên hiện tượng tâm lý này hay hiện tượng tâm lý khác theo cơ chế phản xạ. 
Như vậy, tâm lý là kết quả của hệ thống chức năng những hoạt động phản xạ của não. Vì vậy, các 
hiện tượng tâm lý vừa là hoạt động phản ánh, vừa là hoạt động phản xạ.  Tuy nhiên:    lOMoAR cPSD| 60696302
- Không phải cứ có não và vỏ não là có hiện tượng tâm lý. Đó mới là điều kiệncần, cái 
quyết định tâm lý là ở chỗ: não phải ở trạng thái hoạt động mới có tâm lý.  
- Tâm lý không phải do não sinh ra giống như gan tiết ra mật, mà não chỉ quyđịnh hình 
thức biểu hiện của hiện tượng tâm lý. Đó là quy định về tốc độ biểu hiện nhanh hay chậm, 
cường độ mạnh hay yếu của hiện tượng tâm lý. Còn nội dung của hiện tượng tâm lý do hiện 
thực khách quan, do kinh nghiệm sống, do hoạt động của cá nhân quy định. 
3. Tâm lý là kinh nghiệm xã hội, lịch sử của loài người biến thành cái riêng của  từng người 
Tâm lý người bao giờ cũng phản ánh hiện thực khách quan, mang bản chất xã hội, mang tính lịch 
sử của những điều kiện mà con người là một thành viên sống và hoạt động. Do đó, tâm lý người bao giờ 
cũng mang bản chất xã hội và mang tính lịch sử. 
a. Bản chất xã hội của hiện tượng tâm lý 
Bản chất xã hội của hiện tượng tâm lý thể hiện ở nội dung xã hội và nguồn gốc xã hội. 
- Nội dung xã hội: Tâm lý người là sản phẩm của hoạt động và giao lưu của con người 
trong các quan hệ xã hội. Vì thế, tâm lý người mang đầy đủ dấu ấn xã hội - lịch sử của loài 
người mà họ là một thành viên sống và hoạt động trong xã hội đó. 
- Nguồn gốc xã hội: Tâm lý người có nguồn gốc là hiện thực khách quan (thế giới tự 
nhiên, thế giới xã hội), trong đó, nguồn gốc xã hội là cái quyết định tâm lý con người, thể hiện 
qua các mối quan hệ xã hội: đó là quan hệ đạo đức, pháp quyền, quan hệ giữa con người với 
con người, quan hệ gia đình, làng xóm, cộng đồng,... Các quan hệ này quyết định bản chất tâm 
lý người. Nếu thoát ly khỏi các quan hệ này thì tâm lý con người sẽ mất bản tính con người, 
hoặc rối loạn, hoặc phát triển không bình thường. 
Trong thực tế, người ta đã tìm được những đứa trẻ bị thú nuôi. Ở những đứa trẻ này, về cấu tạo, 
hình hài là một con người, nhưng không có các phẩm chất tâm lý người. Chúng không có dáng đứng 
thẳng và không đi bằng hai chân, không có khả năng tư duy bằng ngôn ngữ, không có khả năng lao động  sáng tạo... 
b. Tính lịch sử của hiện tượng tâm lý 
Tâm lý của mỗi cá nhân là kết quả của quá trình tiếp thu và lĩnh hội vốn kinh nghiệm xã hội, nền 
văn hóa xã hội thông qua hoạt động và giao tiếp mà ở đó giáo dục giữ vai trò chủ đạo. Trong tất cả các 
yếu tố trên, hoạt động của con người và mối quan hệ giao tiếp của con người trong xã hội có tính quyết  định. 
Chính vì thế, tâm lý của mỗi cá nhân vừa mang những nét chung, đặc trưng lịch sử - xã hội, vừa 
mang nét riêng tạo nên bản sắc của mỗi cá nhân. Bởi vậy: 
- Trong quan hệ cuộc sống, đặc biệt trong công tác giáo dục, chúng ta nên đến với đối 
tượng bằng con mắt khả quan, đừng đến với đối tượng bằng con mắt định kiến.    lOMoAR cPSD| 60696302
- Để mở rộng thế giới tâm lý, tinh thần của con người phong phú, cần mở rộng các mối 
quan hệ trong xã hội. Tục ngữ, ca dao có câu rằng: Có đi thì mới tới nơi/ Ở nhà với mẹ biết ngày  nào khôn. 
Kết luận: Ba luận điểm trên giúp chúng ta hiểu một cách khoa học về bản chất hiện tượng  tâm lý người. 
Tâm lý người là hiện tượng tinh thần do hiện thực khách quan tác động vào giác quan và 
não một con người cụ thể gây ra, có tính xã hội - lịch sử, tính giai cấp, tính dân tộc, mang màu 
sắc riêng của bản thân mỗi người. 
III. PHÂN LOẠI CÁC HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ 
Có nhiều cách phân loại hiện tượng tâm lý. Song, cách phân loại phổ biến là dựa theo thời gian 
tồn tại của chúng và vị trí tương đối của chúng trong nhân cách. Theo cách này, người ta chia ra ba loại  chính. 
1. Quá trình tâm lý 
Là những hiện tượng tâm lý diễn ra có mở đầu, có diễn biến và có kết thúc. 
Quá trình tâm lý thường diễn ra trong một thời gian ngắn, kết thúc tương đối rõ ràng, bao gồm: a. 
Quá trình nhận thức 
Là quá trình phản ánh bản thân các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan. 
Dựa vào lý luận nhận thức của triết học Mark, người ta chia ra ở con người có các quá trình nhận  thức sau: 
- Nhận thức cảm tính: là quá trình phản ánh những thuộc tính bên ngoài không bản chất 
của sự vật, hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động vào các giác quan. Nhờ có nhận thức cảm 
tính mà con người hiểu biết về thế giới khách quan. Nó diễn ra với hai giai đoạn nhận thức: 
Cảm giác và Tri giác. 
- Nhận thức trung gian: phản ánh thuộc tính khái quát bên ngoài không bản chất của 
một nhóm sự vật, hiện tượng cùng loại; giúp con người lưu giữ được hình ảnh của sự vật, hiện 
tượng khi chúng thôi không còn trực tiếp tác động. Đó là quá trình Trí nhớ. 
- Nhận thức lý tính: phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ, quan hệ có 
tính quy luật của sự vật, hiện tượng mà trước đó, con người chưa biết. Nhờ có nhận thức lý tính 
mà con người cải tạo được thế giới khách quan. Nó diễn ra với hai giai đoạn nhận thức: Tư duy  và Tưởng tượng. 
b. Quá trình xúc cảm 
Là sự biểu thị thái độ của con người đối với đối tượng mà con người nhận thức được như: sự hài 
lòng, phấn khởi, buồn phiền, thất vọng, lo âu, chán nản … 
c. Ý chí và hành động ý chí 
Là quá trình con người tác động vào thế giới khách quan nhằm cải tạo thế giới khách quan.    lOMoAR cPSD| 60696302
2. Trạng thái tâm lý 
Là hiện tượng tâm lý diễn ra trong một thời gian dài, việc mở đầu và kết thúc thường không rõ 
ràng, ví như: Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn (Xuân Diệu) 
Các trạng thái tâm lý thường gặp: bâng khuâng, do dự, hồi hộp, lo lắng, chú ý… 
3. Thuộc tính tâm lý 
Là những hiện tượng tâm lý tương đối ổn định, khó hình thành và khó mất đi, tạo thành những nét 
riêng của nhân cách, chi phối các quá trình tâm lý và trạng thái tâm lý của con người. Bao gồm các thuộc  tính sau: 
- Xu hướng: mặt chỉ đạo của nhân cách. 
- Tính cách: mặt bản chất của nhân cách. 
- Khí chất: sắc thái biểu hiện của nhân cách. 
- Năng lực: khả năng hiện thực của một nhân cách. IV. CÁC PHƯƠNG PHÁP  NGHIÊN CỨU TÂM LÝ 
1. Phương pháp quan sát 
Là phương pháp nhằm xác định đặc điểm đối tượng qua những biểu hiện như: hành động, điệu bộ, 
cử chỉ, ăn mặc, cách nói năng, đồ vật sử dụng hàng ngày hoặc các vật phẩm trao tặng nhau… 
Nói chung, chúng ta nên rèn cho mình có được kỹ năng quan sát tinh tế để đọc được những thông 
tin sâu kín bên trong của đối tượng, để có được những hành vi ứng xử thích hợp, tránh được những cái 
nhìn cảm tính sai lầm. Hãy học tập và cố gắng rèn luyện óc: Quan sát - Quan sát - Quan sát. 
2. Phương pháp nghiên cứu qua sản phẩm hoạt động 
Người ta vẫn thường hay nói, sản phẩm hoạt động chính là thước đo giá trị nhân cách của mỗi cá 
nhân. Nghĩa là, thông qua sản phẩm hoạt động, một phần nào đó, chúng ta sẽ hiểu được bản chất của 
con người. Bởi vì, để tạo ra sản phẩm hoạt động, con người phải chuyển toàn bộ phẩm chất, năng lực 
của mình vào trong sản phẩm, cho nên sản phẩm hoạt động chính là quá trình đối tượng hóa. 
3. Phương pháp nghiên cứu tiểu sử 
Thông qua đồ dùng cá nhân, qua nhật ký, thông qua tiểu sử xuất thân của một con người, chúng ta 
cũng sẽ hiểu một phần nào đó bản chất con người. 
4. Phương pháp điều tra 
Bằng hệ thống phiếu điều tra trắc nghiệm, chúng ta đưa ra một loạt các câu hỏi có nội dung muốn 
tìm hiểu, thông qua đó sẽ hiểu một số thông tin của đối tượng như nhu cầu, lý tưởng, niềm tin, thế giới  quan, hứng thú …      lOMoAR cPSD| 60696302
BÀI 2 CÁC HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ NGƯỜI  ******************** 
 1- QUÁ TRÌNH TÂM LÝ 1.1 QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC A -
NHẬN THỨC CẢM TÍNH  A.1. CẢM GIÁC 
I. KHÁI NIỆM CHUNG 1. Định nghĩa 
Cảm giác là một quá trình tâm lý phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ, bề ngoài của sự vật, hiện 
tượng khách quan khi chúng trực tiếp tác động vào giác quan của ta. 
Ví dụ: khi nhìn cái bảng thấy nó màu xanh đen, khi sờ tay vào bảng thấy bảng trơn và nhẵn, khi 
chưa ăn thấy đói bụng … 
Như vậy, ở mức độ cảm giác, chúng ta mới chỉ có những hiểu biết mơ hồ, chung chung về sự vật, 
hiện tượng chứ chưa phản ánh đầy đủ, trọn vẹn thuộc tính của vật tác động. Đó chính là những hạn chế  của cảm giác. 
2. Vai trò của cảm giác 
Tuy có những hạn chế, nhưng cảm giác lại đóng một vai trò hết sức quan trọng trong cuộc sống, 
trong hoạt động. Đó là: 
- Cảm giác đưa lại cho chúng ta nguồn tài liệu phong phú, nó cung cấp tài liệucho các 
giai đoạn nhận thức cao hơn. Không có tài liệu của cảm giác mang lại thì không có bất cứ tri 
thức nào hết. Bởi vậy, nói như Lênin: Cảm giác là nguồn gốc duy nhất của sự hiểu biết. Hay 
nói một cách hình ảnh, “cảm giác là viên gạch đầu tiên để xây lên tòa lâu đài của nhận thức”, 
tức là muốn đi vào tòa lâu đài nhận thức phải qua cửa ngõ của cảm giác. 
- Cảm giác là điều kiện quan trọng để đảm bảo trạng thái hoạt động cân bằng củavỏ não; 
nhờ đó, đảm bảo hoạt động tinh thần của con người được bình thường. Các công trình nghiên 
cứu cho thấy, trong trạng thái đói cảm giác, các chức năng hoạt động tâm sinh lý của con người  sẽ bị rối loạn. 
- Cảm giác giúp con người định hướng trong hành vi, trong hoạt động và nhiềukhi cảm 
giác tạo nên ở chúng ta một năng lực đặc biệt - đó là tính nhạy cảm, nhờ đó cảm giác của con 
người trở nên tinh vi, nhạy bén và tế nhị hơn. 
Trong thực tế, cảm giác chính là con đường nhận thức đặc biệt của những người bị 
khuyết tật. Người ta vẫn thường nói “người có tật thường hay có tài”. Trong cuộc sống, những 
người mù, nhận ra những người thân và hàng loạt đồ vật qua xúc giác… 
II. CÁC QUY LUẬT CẢM GIÁC 
Cảm giác, tuy là một quá trình nhận thức đơn giản, nhưng cũng diễn ra theo các quy luật của mình.    lOMoAR cPSD| 60696302
1. Quy luật về ngưỡng cảm giác 
Muốn có cảm giác, phải có kích thích trực tiếp tác động vào giác quan. Nhưng không phải mọi 
kích thích trực tiếp tác động đều gây ra cảm giác; nếu kích thích quá yếu thì không đủ gây cảm giác, 
nhưng nếu kích thích quá mạnh thì cũng không còn cảm giác. Muốn gây ra cảm giác thì cường độ của 
tác nhân kích thích phải đạt tới một ngưỡng giới hạn nhất định. 
Vậy, giới hạn mà, ở đó, kích thích gây ra được cảm giác, gọi là ngưỡng cảm giác. 
Có hai loại ngưỡng: ngưỡng tuyệt đối và ngưỡng sai biệt.    - 
Ngưỡng tuyệt đối 
+ Ngưỡng tuyệt đối phía dưới: là cường độ tác nhân kích thích tối thiểu để gây ra được  cảm giác. 
+ Ngưỡng tuyệt đối phía trên: là cường độ tác nhân kích thích tối đa để vẫn còn có cảm  giác. 
Giữa hai ngưỡng có một vùng gọi là vùng phản ánh tốt nhất, tức là trong phạm vi vùng phản ánh 
này, con người sẽ cảm nhận rõ và phản ánh chính xác tác nhân đang kích thích là tác nhân gì.  Ví dụ: 
+ Để gây ra cảm giác nghe, những sóng âm thanh phải có tần số 16hz  20.000Hz. Vùng 
nghe rõ âm thanh gây ra (động cơ ôtô, xe máy, máy bay) trong khoảng 1000Hz. 
+ Để gây ra cảm giác nhìn, những sóng ánh sáng phải có bước sóng từ 390Mm  780Mm, 
ngoài hai giới hạn này ra là những tia cực tím (tử ngoại), cực đỏ (hồng ngoại) mắt thường không 
nhìn thấy được. Vùng phản ánh tốt nhất mà con người nhìn và phân biệt rõ tác nhân đang kích  thích là 565Mm. 
- Ngưỡng sai biệt là đại lượng kích thích thêm vào để người ta có thể phân biệt được sự 
khác nhau giữa hai kích thích. 
Ví dụ: Trong giờ lao động, ta cho máy tiện chạy tốc độ ban đầu là 2000 vòng/phút, yêu cầu học 
sinh lắng nghe, sau đó, ta tăng tốc độ chạy lên 2050 vòng/phút, hỏi học sinh có thấy khác biệt gì không 
thì tất cả đều nói không có gì khác biệt. Sau đó, ta tăng tốc độ chạy lên 2.200 vòng/phút, lúc này học 
sinh đã phân biệt được tiếng máy chạy ban đầu với tiếng máy chạy sau khi tăng số vòng chạy lên. 
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu cho thấy, phải có một tỷ lệ chênh lệch tối thiểu về cường độ 
hay về tính chất thì ta mới cảm thấy có sự khác nhau giữa hai kích thích. Chẳng hạn: 
+ Với âm thanh: cường độ kích thích thêm vào phải là 1/10 so với cường độ xuất phát. 
+ Với ánh sáng: tỷ lệ kích thích thêm vào phải là 1/100 so với cường độ xuất phát. 
+ Với trọng lượng: tỷ lệ kích thích thêm vào phải là 1/30 so với trọng lượng xuất phát. 
Ở mỗi con người, ngưỡng sai biệt cũng không giống nhau do bộ máy phân tích khác 
nhau, do tính chất kích thích khác nhau.    lOMoAR cPSD| 60696302
- Độ lớn tối thiểu để từ đó xuất hiện một cảm giác đặc trưng cho tính nhạy cảm của cảm giác. 
Tính nhạy cảm là một đại lượng tỷ lệ nghịch với ngưỡng tuyệt đối. Nghĩa là, ngưỡng tuyệt đối càng thấp 
thì tính nhạy cảm càng cao. 
Trong thực tế, nhiều khi kích thích rất nhỏ nhưng có người vẫn nhận ra được kích thích đó, do tính 
nhạy cảm của người đó cao. Người có ngưỡng tuyệt đối thấp thì sẽ có tính nhạy cảm cao. 
Ví dụ: Trong hội trường đông hàng ngàn người, nhưng đối tượng của ta đứng ở góc nào trong hội 
trường, ngồi ở dãy ghế nào ta vẫn nhận ra được ngay... 
Ngưỡng tuyệt đối và ngưỡng sai biệt của người này không giống với người kia. Ở mỗi cá nhân các 
ngưỡng này cũng thay đổi tùy từng lúc. 
Ngưỡng cảm giác phụ thuộc chủ yếu vào việc rèn luyện và kinh nghiệm nghề nghiệp. Vì vậy, 
trong công tác giáo dục, phải coi trọng việc rèn luyện học sinh sao cho ngưỡng dưới của cảm giác phải 
thấp hơn, ngưỡng trên phải cao hơn. 
Trong quá trình luyện tập, phải hình thành tính nhạy cảm cho học sinh, bởi vì nó là một trong 
những yếu tố tạo nên tài năng của con người, và cần thiết cho tất cả mọi hoạt động. 
Ví dụ: Trong lao động sản xuất, người công nhân có tính nhạy cảm cao sẽ tránh được những tai 
nạn xảy ra trong khi làm việc vì chỉ nghe tiếng máy chạy khác thường là có thể phát hiện để ngừng, tắt  máy đúng lúc… 
2. Quy luật về sự thích ứng của cảm giác 
Tính thích ứng là khả năng thay đổi độ nhạy cảm của cảm giác cho phù hợp với sự thay đổi cường 
độ kích thích. Tức là, khi cường độ kích thích tăng thì giảm độ nhạy cảm, khi cường độ kích thích giảm 
thì tăng tính nhạy cảm. 
Ví dụ: Khi ta đang ở trong phòng tối bước ra bên ngoài ánh nắng chói chang (cường độ ánh sáng 
tăng), ban đầu mắt hoa lên không nhìn thấy gì, nhưng sau vài giây, tính nhạy cảm giảm xuống, chúng ta 
nhìn thấy rõ tất cả mọi vật xung quanh. Cũng như vậy, đang ở ngoài trời nắng chói chang bước vào 
phòng tối (cường độ ánh sáng giảm), ban đầu ta cũng không nhìn rõ vật kê trong phòng, nhưng một lúc 
sau ta bắt đầu nhìn rõ từng vật. 
Tính thích ứng có ở tất cả các loại cảm giác, song mức độ thích ứng không giống nhau. Các loại 
cảm giác mang tính thích ứng nhanh là cảm giác nhìn, cảm giác ngửi, cảm giác vị giác. Các loại cảm 
giác chậm thích ứng hơn là cảm giác nghe, cảm giác đau, cảm giác thăng bằng … 
Khả năng thích ứng của cảm giác có thể thay đổi và phát triển do hoạt động, rèn luyện và do tính 
chất của nghề nghiệp. Nếu được rèn luyện lâu dài và có phương pháp, tính thích ứng có thể rất phát triển  và trở nên bền vững. 
Nếu tính nhạy cảm tăng cao thì cảm giác của con người trở nên nhạy bén và tinh tế. 
Ví dụ: Những người làm nghề nếm định chất lượng sản phẩm, chỉ cần uống một ngụm rượu nho, 
là có thể nói chính xác loại nho đó trồng ở vùng đất nào; uống một ngụm cà phê có thể nói chính xác 
mẻ cà phê lẫn bao nhiêu hạt cà phê xanh… 
Nếu tính nhạy cảm giảm xuống nhiều thì cảm giác trở nên chai dạn, giúp con người chịu được 
những kích thích mạnh và lâu.    lOMoAR cPSD| 60696302
 Ví dụ: Công nhân đốt lò luyện kim có thể làm việc suốt 8 giờ bên miệng cửa lò nhiệt độ lúc nào 
cũng hầm hập từ 50  60oC. Thợ lặn có thể chịu được áp suất 2at trong vài chục phút. 
Trong cuộc sống, ai càng dễ thích ứng và thích ứng được nhiều thì cuộc sống càng phong phú bấy 
nhiêu. Tuy nhiên, tính thích ứng có thể tạo nên sự đơn điệu, nhàm chán trong công việc, cũng như trong 
cuộc sống, gây nên tâm trạng mệt mỏi ở con người, cho nên cũng phải lưu ý tới các yếu tố gây ra trạng  thái đơn điệu. 
3. Quy luật về sự tác động qua lại lẫn nhau của các cảm giác 
Sự thay đổi tính nhạy cảm của một cảm giác này dưới ảnh hưởng của một cảm giác kia.  
Sự tác động qua lại lẫn nhau diễn ra theo quy luật: sự kích thích yếu lên cơ quan phân tích này 
(giác quan này) sẽ làm tăng tính nhạy cảm của một cơ quan phân tích khác. Ngược lại, khi kích thích 
mạnh lên cơ quan phân tích này sẽ làm giảm tính nhạy cảm của cơ quan phân tích khác. 
Ví dụ, khi nấu chè mà chúng ta nếm lúc nóng (ở nhiệt độ cao) thường có cảm giác chè không ngọt, 
cho bao nhiêu đường cũng vẫn cảm thấy nhạt (nhưng khi chè nguội thì bị ngọt khé cổ), bởi cảm giác 
nóng làm giảm tính nhạy cảm của vị giác (độ ngọt). 
Sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các cảm giác xảy ra thường do các nguyên nhân sau: 
- Các kích thích cùng loại nhưng có cường độ kích thích khác nhau thì làm cho cảm giác 
bị thay đổi (tính tương phản cảm giác). 
Ví dụ: Ăn kẹo trước khi ăn chuối ta có cảm giác chuối nhạt và chua hơn thực tế. 
- Do con người có kinh nghiệm về cảm giác trước đó (hiện tượng loạn cảm giác). 
Ví dụ: khi nhìn thấy ai bị ong chích, hoặc dẫm phải gai, ta cảm thấy buốt và lạnh hết cả  xương sống. 
- Do trạng thái cơ thể, trạng thái tâm lý, tức phụ thuộc vào cơ thể lúc khỏe mạnh, haylúc 
mệt mỏi, lúc vui hay lúc buồn. 
 Ví dụ: Cùng một người, khi yêu thì củ ấu cũng tròn, ghét nhau quả bồ hòn cũng méo. 
Hay như Nguyễn Du đã thốt lên rằng: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. 
- Do tác động của ngôn ngữ, chúng ta cảm thấy bớt đau, đỡ buồn, hoặc ngược lại. Chính 
vì vậy, phải sử dụng ngôn ngữ đúng lúc, đúng chỗ, đúng với tình huống, nếu không hậu quả 
không lường hết được. 
Quy luật này được ứng dụng rất nhiều trong đời sống và trong giảng dạy, cụ thể: 
- Trong lĩnh vực quảng cáo, gây được sự chú ý của mọi người. 
- Trong dạy học, nếu học sinh được ngồi học trong một phòng thoáng mát, đủánh sáng, 
nhìn lên bảng màu xanh lá cây thì sự mệt mỏi sẽ đến chậm hơn, học nhanh vào hơn, cảm thấy  dễ chịu hơn. 
- Trong lao động sản xuất, quy luật này được ứng dụng vào việc nâng cao năngsuất lao 
động, cải thiện thể trạng của người công nhân bằng cách bố trí màu sắc của các vật xung quanh    lOMoAR cPSD| 60696302
(môi trường lao động, dụng cụ lao động, máy móc…), sử dụng âm nhạc, ánh sáng…phù hợp với 
tính chất công việc và đặc điểm tâm lý người lao động. 
4. Quy luật về tính tương phản của cảm giác 
Tính nhạy cảm có thể tăng nhờ sự tương phản đồng thời hay nối tiếp của kích thích lên cùng một  bộ máy phân tích.  Ví dụ: 
+ Tác động đồng thời: Người mập mặc áo kẻ sọc dọc, màu sẫm trông có vẻ như ốm bớt 
đi; ngược lại, người ốm mặc áo kẻ sọc ngang, màu sáng trông có da có thịt hơn. 
+ Tác động nối tiếp: Nhúng bàn tay phải vào thau nước đá, bàn tay trái vào thau nước 
nóng, sau đó, nhúng cả hai tay vào thau nước ấm, ta có cảm giác bàn tay phải đang ấm dần lên, 
còn bàn tay trái đang mát dần. 
Thực chất hiện tượng này nằm trong quy luật về sự tác động qua lại giữa các cảm giác, xảy ra do 
sự tác động qua lại giữa các kích thích cùng loại. 
5. Quy luật về hiện tượng loạn cảm giác 
Là hiện tượng xảy ra khi có kích thích gây ra một cảm giác này thì đồng thời lại có một cảm giác  khác xuất hiện. 
Ví dụ: “Nhà sạch thì mát/ Bát sạch ngon cơm” 
Thực chất, hiện tượng này nằm trong quy luật về sự tác động qua lại giữa các cảm giác, do sự kết 
hợp khá vững chắc giữa các cảm giác bền vững (con người có kinh nghiệm từ trước về nó). 
Nhờ có quy luật này, trong dạy học, khi đưa ra một vấn đề gì thì giáo viên phải phân tích kỹ càng, 
sâu sắc, tránh đưa ra sự kiện không phân tích, bỏ lửng; hoặc những vấn đề có thể hiểu theo hai nghĩa thì 
trong nhận thức của học sinh có thể xảy ra tình trạng hiểu sai vấn đề, nhiều khi hậu quả sẽ không lường  hết được.  A.2. TRI GIÁC 
I. KHÁI NIỆM CHUNG 1. Định nghĩa 
Tri giác là một quá trình tâm lý, phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bên ngoài của từng sự 
vật, hiện tượng riêng lẻ dưới hình thức hình tượng, khi chúng trực tiếp tác động vào giác quan của ta. 
Ví dụ: lấy một chiếc khăn bịt chặt mắt một người lại và bảo người đó xòe lòng bàn tay ra, rồi đặt 
bất cứ vật gì vào lòng bàn tay người đó và yêu cầu không được nắm lòng bàn tay lại để đoán xem vật gì. 
Giai đoạn này, người đó chỉ có thể nói có một vật gì nhè nhẹ, nằng nặng, lành lạnh, nong nóng… mà 
không nói chính xác đó là vật gì, giai đoạn này là cảm giác. Sau đó, ta cho phép người đó nắm lòng bàn 
tay lại nhận biết, người đó sẽ gọi chính xác vật đó là vật gì, ví dụ, đó là cái ly, cái chai, cái khăn hay cái 
hộp… Đó chính là giai đoạn tri giác.    lOMoAR cPSD| 60696302
2. So sánh sự giống và khác nhau giữa cảm giác và tri giác a. Sự giống nhau giữa 
cảm giác và tri giác 
- Đều ở bậc thang nhận thức cảm tính. Dù phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ (cảm giác), 
hayphản ánh trọn vẹn thuộc tính (tri giác), thì cũng đều là những thuộc tính bên ngoài, không 
phải bản chất của sự vật, hiện tượng. 
- Đều là quá trình tâm lý diễn ra có mở đầu, có diễn biến và có kết thúc. 
- Đều nảy sinh khi sự vật, hiện tượng trực tiếp tác động vào giác quan của ta. Khisự vật, 
hiện tượng thôi không tác động thì cả cảm giác lẫn tri giác đều không nảy sinh, không phản ánh. 
- Đều phản ánh một cách riêng lẻ, cụ thể từng sự vật, hiện tượng chứ chưa phảnánh một 
cách khái quát cả một lớp, một loại hay một phạm trù của các sự vật, hiện tượng. 
- Đều giúp cho con người hiểu biết về thế giới khách quan.b. Sự khác nhau giữa cảm  giác và tri giác 
Tuy ở trong cùng một bậc thang nhận thức cảm tính, nhưng tri giác ở mức độ phản ánh cao hơn 
so với cảm giác. Tri giác không phản ánh riêng lẻ từng thuộc tính của sự vật, hiện tượng, mà khi có một 
tác nhân kích thích tác động vào các giác quan, quá trình tri giác đồng thời cùng một lúc phản ánh đầy 
đủ, trọn vẹn thuộc tính của vật tác động (tuy nhiên, đó vẫn chỉ là những thuộc tính bên ngoài, không 
phải bản chất của sự vật, hiện tượng). Ví dụ, khi ta tri giác một quả cam, đồng thời cùng một lúc tất cả 
thuộc tính của quả cam đều được con người phản ánh, đều được con người cảm nhận trong cùng một 
lúc như hình thù (hình cầu), mầu sắc (vàng, xanh), vỏ cam (trơn, nhẵn, xù xì), trọng lượng quả cam 
(nhẹ), có mùi thơm mát … 
Tuy nhiên, tri giác không phải phép cộng đơn thuần của từng cảm giác lại. Bởi vì, khi có một quá 
trình tri giác được diễn ra, trên vỏ não không phải là hoạt động của từng bộ máy phân tích riêng lẻ (như 
ở cảm giác), mà đồng thời, là hoạt động phối hợp của nhiều bộ máy phân tích. 
Cơ sở sinh lý của quá trình tri giác là những phản xạ có điều kiện - đó chính là những đường dây 
liên hệ thần kinh tạm thời được hình thành trên vỏ não. 
Tóm lại: Tri giác là một quá trình nhận thức cao hơn, phức tạp hơn so với cảm giác, tri giác phản 
ánh các sự vật một cách trọn vẹn, chân thực, rõ ràng hơn so với cảm giác về hiện thực khách quan.   
Mỗi sự kiện dưới đây thuộc về quá trình nhận thức cảm tính nào? 
a) Khi đưa sự vật ra cho xem với thời gian 0,005s, thì học sinh nói: “Có cái gì đó lướt  qua trước mắt” 
b) Nếu đưa sự vật ra trong 0,05s, thì học sinh nhận xét: “Nhìn thấy một cái gì sang  sáng”. 
c) Nếu cho xem sự vật 0,5s thì học sinh nhận ra hình dạng.    lOMoAR cPSD| 60696302
3. Vai trò của tri giác 
Cùng với cảm giác, tri giác là nguồn cung cấp tài liệu cho các quá trình nhận thức tiếp theo. 
Trên cơ sở phản ánh thế giới một cách đầy đủ, tri giác giúp con người định hướng nhanh chóng 
và chính xác hơn hiện thực khách quan. Ví dụ, khi ta đi vào rừng, càng đi càng thấy bịt bùng, biết là 
mình đã lạc hướng, ta phải tìm hướng khác để ra khỏi rừng trước khi trời sập tối. 
Hình ảnh tri giác, với sự tham gia của vốn kinh nghiệm sống, của các chức năng tâm lý cao hơn, 
giúp con người điều chỉnh một cách hợp lý hành động của mình trong thế giới, giúp con người phản ánh 
thế giới có chọn lọc và mang ý nghĩa. 
Kết luận sư phạm: Trong công tác dạy học và giáo dục, tri giác được xem là cơ sở của nguyên 
tắc trực quan trong dạy và học, tránh lý thuyết xa rời với thực tế, tránh lối “dạy chay” gây khó khăn cho 
việc tiếp thu và lĩnh hội khái niệm của người học. Tuy nhiên, để sử dụng đúng, cần phải tuân thủ những 
quy tắc nhất định, nếu không sẽ hạn chế việc phát huy khả năng tư duy trừu tượng và óc tưởng tượng 
phong phú ở người học. 
II. CÁC QUY LUẬT CỦA TRI GIÁC 1. Quy luật về tính lựa chọn của tri giác 
Tính lựa chọn của tri giác là sự tách bạch rõ rệt hơn một số đối tượng này so với đối tượng khác 
trong quá trình tri giác. 
 Ví dụ, đứng trước một đám đông, ta chỉ có thể tri giác một người. 
Tính lựa chọn của tri giác biểu hiện tính tích cực của con người trong quá trình tri giác. 
Tính lựa chọn của tri giác còn phụ thuộc vào một số yếu tố sau: 
- Đặc điểm đặc biệt của đối tượng tri giác. Ví dụ, khi đang giảng bài, có học sinhbiểu hiện 
bất thường (nói chuyện riêng, ngủ gật, nghịch ngợm trong lớp...), giáo viên có thể tri giác em  học sinh đó. 
- Kinh nghiệm của người tri giác. Khi kinh nghiệm của ta về một sự vật, hiệntượng nào 
đó mà phong phú thì ta tri giác và lựa chọn đối tượng ấy nhanh, nếu không thì ngược lại. 
- Phụ thuộc vào nhu cầu, hứng thú, tâm thế của cá nhân. Khi ta có nhu cầu vàhứng thú về 
cái gì đó thì tri giác của ta thiên về đối tượng ấy. Ví dụ, khi đi vào hiệu sách, ta chỉ tìm những 
đĩa hát hoặc các sách chuyên ngành phục vụ cho chuyên môn. 
- Phụ thuộc vào tác động của ngôn ngữ. Ví dụ, lời chỉ dẫn của giáo viên đối vớisự tri giác 
tài liệu, đồ dùng dạy học là vô cùng quan trọng vì nó có tác dụng hướng dẫn sự lựa chọn trong  tri giác của học sinh. 
- Phụ thuộc vào đối tượng và bối cảnh (hay giữa hình và nền) trong quá trình tri giác. 
Ví dụ, xem những bức hình hai nghĩa sau:    lOMoAR cPSD| 60696302             
Quy luật này có rất nhiều ứng dụng trong thực tế: 
- Khi muốn làm cho đối tượng tri giác được phản ánh tốt nhất, người ta tìm cáchlàm cho 
đối tượng phân biệt hẳn với bối cảnh. Ví dụ, phấn trắng viết, kẻ trên nền bảng đen hoặc xanh lá 
cây; dùng mực đỏ khi chấm bài, học sinh dễ nhận ra điểm đạt được và những nội dung làm bài 
đúng hoặc sai sót của mình. 
- Ngược lại, khi làm cho tri giác đối tượng trở nên khó khăn, người ta tìm cáchcho đối 
tượng hòa lẫn với bối cảnh (ngụy trang). Ví dụ, trong chiến tranh: mâm pháo, nòng pháo được 
phủ màu xanh hòa với lá xanh cây rừng để địch khó phát hiện. 
2. Quy luật về tính ý nghĩa của tri giác 
Tính ý nghĩa của tri giác là sự thông hiểu về đối tượng tri giác. Tức là, khi tri giác một sự vật, 
hiện tượng, bằng kinh nghiệm và vốn hiểu biết của mình, con người gọi được đúng tên sự vật, hiện tượng 
đó và xếp nó vào một nhóm, một loại nhất định. 
Ví dụ, khi tri giác cái bảng, ta gọi đúng tên cái bảng, biết nó làm bằng nguyên vật liệu gì, như vậy, 
quy luật tính ý nghĩa của tri giác đã diễn ra. 
Tính ý nghĩa của tri giác phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm của người tri giác. Vì thế, cùng một 
sự vật hiện tượng tri giác, nó có thể có ý nghĩa với người này nhưng không có ý nghĩa với người khác. 
Kết luận sư phạm: Trong công tác giáo dục và dạy học, quy luật này có ý nghĩa to lớn. Khi giáo 
viên đưa ra một khái niệm, một định lý hay một định luật..., hoặc khi tổ chức một hoạt động giáo dục 
nào đó, phải làm cho học sinh hiểu rõ được vai trò và ý nghĩa tác dụng đối với sự hình thành và phát 
triển nhân cách của học sinh. Muốn vậy, 
- Khi đưa ra một vấn đề gì, giáo viên cần phải giải thích, phân tích, rồi khái quátvấn đề. 
Tránh đưa ra hiện tượng, sự kiện mà không giải thích, phân tích thì hậu quả và tác hại trong 
nhận thức của học sinh có thể không lường hết được.    lOMoAR cPSD| 60696302
- Thầy phải trau dồi, rèn luyện ngôn ngữ trong sáng, mạch lạc, ngắn gọn, súctích, sử dụng 
đúng thuật ngữ khoa học quy định. 
- Trong quá trình tổ chức học tập cho học sinh, tài liệu trực quan chỉ được quan sátmột 
cách đầy đủ, sâu sắc khi được kèm theo những lời chỉ dẫn. Việc gọi tên đầy đủ, chính xác các 
sự vật, hiện tượng mới mẻ khi tổ chức cho học sinh quan sát là rất cần thiết. 
3. Quy luật về tính ổn định của tri giác 
Tính ổn định của tri giác là khả năng phản ánh các sự vật, hiện tượng không thay đổi khi điều kiện  tri giác thay đổi.  Ví dụ: 
+ Khi ta tri giác tờ giấy trắng dưới ánh sáng ban ngày cũng như dưới ánh sáng đèn dầu 
hỏa (điều kiện ánh sáng thay đổi) thì tờ giấy trắng vẫn cứ là tờ giấy trắng. 
+ Một hòn than đen vào giữa trưa tỏa ra một lượng ánh sáng gấp 8, 9 lần so với viên phấn 
trắng vào lúc 3 giờ chiều, nhưng khi tri giác ta thấy: hòn than đen vẫn cứ là hòn than đen, mà 
viên phấn trắng vẫn cứ là viên phấn trắng. 
Tính ổn định của tri giác phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trước hết, do cấu trúc của sự vật, hiện tượng 
tương đối ổn định trong một thời gian, thời điểm nhất định, nhưng chủ yếu là do cơ chế tự điều chỉnh 
của hệ thần kinh cũng như vốn kinh nghiệm của con người về đối tượng. 
Tính ổn định của tri giác không phải là cái bẩm sinh, mà nó được hình thành trong đời sống cá 
nhân, là điều kiện cần thiết trong hoạt động thực tiễn của con người. Tuy nhiên, khi tri giác cần khắc 
phục cái nhìn phiến diện, tĩnh tại về thế giới. 
Nhờ có quy luật này, trong công tác giáo dục và dạy học, chúng ta rèn luyện cho học sinh có được 
thói quen và hành vi đúng, lập trường vững vàng. 
4. Quy luật ảo ảnh của tri giác 
Ảo ảnh của tri giác là sự phản ánh sai lệch, phản ánh không đúng, phản ánh hời hợt các sự vật, 
hiện tượng khách quan trong quá trình tri giác của con người. 
Nguyên nhân ảo ảnh trong tri giác rất đa dạng, nhưng nhìn chung có ba nhóm nguyên nhân chính,  đó là: 
- Nhóm nguyên nhân vật lý, ví dụ: do sự khúc xạ ánh sáng, để đôi đũa trong ly nước, 
nhìn qua cái ly ta thấy đũa như bị gãy. Chạy xe trên đường vào mùa hè, đoạn đường trước mắt 
ta như có ai đổ nước hoặc dầu ướt ra đường nhựa. 
- Nhóm nguyên nhân sinh lý, do mức độ tiêu hao năng lượng thần kinh, hay độ căng 
thẳng của cơ bắp khác nhau. Ví dụ, khi bị đói bụng: cảm thấy hoa mắt, ù tai nghe không rõ… 
- Nhóm nguyên nhân tâm lý, bị chi phối bởi tâm trạng, bởi quy luật trọn vẹn của tri giác 
hay sự tương phản của cảm giác. Ví dụ: Đi trên con đường đầy ắp kỷ niệm và vui vẻ ta cảm    lOMoAR cPSD| 60696302
thấy quãng đường như ngắn lại, nhưng nếu cảm thấy buồn phiền, chán nản thì quãng đường 
như dài hơn rất nhiều so với thực tế… 
Quy luật này thường được áp dụng trong nghệ thuật quảng cáo, hội họa, trang trí, trang điểm, hóa 
trang cho diễn viên khi lên sân khấu; hoặc trong nghệ thuật bán hàng như: kê các kệ để hàng, giá tiền 
bán hàng, ánh đèn trang trí gian hàng bày bán … 
Tuy nhiên, trong quá trình dạy học, chúng ta cần hạn chế tới mức thấp nhất hiện tượng ảo ảnh tri 
giác ở học sinh trong quá trình tiếp thu và lĩnh hội tri thức. Khi chuẩn bị các hình vẽ, mô hình, vật thật… 
phải hết sức cẩn thận: trình bày một cách khoa học, rõ ràng, đồng thời có sự hướng dẫn tỷ mỷ để học 
sinh nhận thức đúng vấn đề. 
5. Quy luật tổng giác 
Ngoài tính chất, đặc điểm của vật kích thích gây ra, tri giác còn bị quy định bởi một loạt các nhân 
tố nằm trong bản thân chủ thể tri giác như nhu cầu, hứng thú, tình cảm, mục đích, động cơ … 
Sự phụ thuộc của tri giác vào nội dung đời sống tâm lý con người, vào đặc điểm nhân cách của họ 
được gọi là hiện tượng tổng giác. 
Như vậy, ta có thể điều khiển được tri giác. Do đó, trong quá trình giáo dục và dạy học, chúng ta 
phải tính đến kinh nghiệm, vốn hiểu biết, xu hướng, hứng thú, tâm lý của học sinh…, đồng thời việc 
cung cấp tri thức, kinh nghiệm, giáo dục hình thành niềm tin, nhu cầu … cho học sinh sẽ làm cho tri 
giác của họ trở nên tinh tế, nhạy bén hơn.   
Nhà vật lý học vĩ đại ở thế kỷ XVIII Leona Ole đã viết: “Nếu chúng ta quen nhận biết các vật theo 
đúng sự thật thì nghệ thuật (tức mỹ thuật) không còn chỗ dựa nữa, cũng giống như khi chúng ta mù vậy: 
dù nhà mỹ thuật có dốc hết tài nghệ ra để pha màu cũng hoàn toàn vô ích; nhìn tác phẩm của ông, chúng 
ta sẽ nói: đây là những vết đỏ, đây là những vết lam, đó là một mảng màu đen, và kia là vài đường trăng 
trắng, tất cả đều trên cùng một bề mặt, nhìn vào không thấy một sự khác nào về khoảng cách và chẳng 
giống một vật gì hết”. Dù trên bức tranh có vẽ gì đi chăng nữa thì đối với chúng ta cũng chỉ như chữ 
trên trang giấy mà thôi…Và như thế, chúng ta mất hết thú vui mà nền nghệ thuật đem lại” 
Tại sao điều lo ngại nói trên của nhà khoa học lại không xảy ra? Quy luật nào của tri giác đã giúp 
ta không rơi vào thảm họa đó?  B- TRÍ NHỚ 
I. KHÁI NIỆM CHUNG 1. Định nghĩa 
 Trí nhớ là một quá trình nhận thức, phản ánh những kinh nghiệm đã trải qua của cá nhân dưới 
dạng biểu tượng.    lOMoAR cPSD| 60696302
Qua định nghĩa ta thấy, trí nhớ phản ánh hiện thực khách quan dưới dạng biểu tượng. Đó là sự 
nảy sinh trong não những hình ảnh của sự vật, hiện tượng khi nó thôi không còn trực tiếp tác động vào 
giác quan của ta nữa.  
Ví dụ, nhớ lại dòng sông quê hương, nhớ lại những gương mặt của người thân trong gia đình khi  đang ở xa. 
Có hai loại biểu tượng. 
- Biểu tượng của trí nhớ: là biểu tượng về những cái đã qua, những cái con người đã trải 
nghiệm. Ví dụ: tả lại được dòng sông quê hương nơi mình đã sinh ra và lớn lên sau khi đã xa  nó … 
- Biểu tượng của tưởng tượng: được xây dựng trên cơ sở biểu tượng của trí nhớ, nhưng 
qua tưởng tượng thì đã được cải biên, được chế biến, được chắp ghép tạo thành hình ảnh mới. 
Ví dụ, con rồng là sự kết hợp các thành phần: đầu sư tử, mình rắn, vẩy cá, móng của loài chim 
dữ (cú mèo, diều hâu, đại bàng) … 
Như vậy, hình ảnh của biểu tượng có hai đặc điểm: 
- Vừa mang tính chất trực quan của một hình tượng, tức là không có cảm giác, tri giác, 
thì biểu tượng không thể hình thành được. Nó là kết quả của sự chế biến những hình tượng do 
cảm giác, tri giác tạo nên. Do đó, biểu tượng cũng phản ánh hiện thực khách quan dưới dạng  hình ảnh cụ thể. 
- Vừa mang tính khái quát của một khái niệm, tức là chỉ phản ánh những nét đặc trưng 
của sự vật, hiện tượng, và thường bỏ đi những nét ngẫu nhiên. Ví dụ, biểu tượng về dòng sông 
quê hương thì hình ảnh rõ nét là đôi bờ và dòng chảy; biểu tượng về tam giác thì hình ảnh rõ 
nét là 3 cạnh và 3 góc khép kín cùng nằm trên một mặt phẳng … 
Như vậy, hình ảnh của biểu tượng vừa có tính trực quan, vừa có tính khái quát (kết hợp hệ thống 
tín hiệu thứ nhất và hệ thống tín hiệu thứ hai). Nó giống với nhận thức cảm tính ở tính trực quan, nhưng 
cao hơn ở tính khái quát. Nó không chỉ phản ánh hình ảnh của một sự vật, hiện tượng mà có khả năng 
phản ánh khái quát chung cho nhiều sự vật, hiện tượng cùng loại. Tuy nhiên, cái khái quát này vẫn chỉ là 
những thuộc tính bên ngoài không bản chất do trực tiếp các giác quan mang lại. Như vậy, so với nhận 
thức lý tính, trí nhớ ở mức nhận thức thấp hơn. 
Với hai tính chất trên, trí nhớ là mức độ chuyển tiếp trung gian từ nhận thức cảm tính lên nhận 
thức lý tính. 
Tóm lại: Cũng giống như cảm giác, tri giác, trí nhớ cũng phản ánh bản thân hiện thực khách quan, 
nhưng hiện thực khách quan này đã được con người tích lũy thành kinh nghiệm, thành vốn riêng của 
mỗi người, tạo ra ở con người những hiểu biết nhất định. 
2. Vai trò của trí nhớ 
Trí nhớ có một vai trò to lớn trong đời sống và trong hoạt động của con người.    lOMoAR cPSD| 60696302
- Trí nhớ là điều kiện không thể thiếu được để con người có đời sống tâm lý bìnhthường, 
ổn định, lành mạnh. Trí nhớ đảm bảo tính thống nhất và tính toàn vẹn của nhân cách. 
- Nhờ có trí nhớ, con người xác định được phương hướng để thích nghi với sự tácđộng  của ngoại giới. 
- Đối với hoạt động nhận thức, trí nhớ đóng một vai trò quan trọng: 
+ Đối với nhận thức cảm tính: Trí nhớ là công cụ, phương tiện để lưu lại các kết quả của 
các quá trình cảm giác và tri giác, nhờ đó nhận thức phân biệt được cái mới tác động lần đầu 
tiên và cái cũ đã tác động trước đây để có phản ứng tốt với sự tác động hiện tại của hiện thực  khách quan. 
+ Trí nhớ là nguồn cung cấp tài liệu do nhận thức cảm tính mang lại làm cơ sở cho nhận 
thức lý tính (tư duy và tưởng tượng) một cách đầy đủ nhất, nó chính là cơ sở cho những phát 
minh và sáng chế ra đời. 
II. CÁC GIAI ĐOẠN CƠ BẢN CỦA TRÍ NHỚ 
Trí nhớ là sự phản ánh hiện thực khách quan, trong đó bao gồm các giai đoạn: 
1. Ghi nhớ (quá trình tạo vết trên vỏ não) 
Ghi nhớ là quá trình lưu giữ lại những hình ảnh của sự vật, hiện tượng trên vỏ não trong quá trình  tri giác.  
Ghi nhớ là điều kiện cần thiết để tiếp thu tri thức, tích lũy kinh nghiệm. Không có ghi nhớ thì không  có quá trình trí nhớ. 
Ghi nhớ thường được diễn ra dưới hai hình thức: a. 
Ghi nhớ không chủ định 
Là ghi nhớ không đặt ra mục đích từ trước, không cần sự nỗ lực của ý chí, sự căng thẳng của thần 
kinh và khi ghi nhớ không cần sử dụng bất cứ phương pháp nào để nhớ. 
Ví dụ, tình cờ nghe một câu chuyện mà nhớ mãi không quên, 15-20 năm sau vẫn nhớ từng chi tiết. 
Tuy không đặt ra mục đích, song loại ghi nhớ này nó phụ thuộc vào mức độ cảm xúc mạnh mẽ, 
mức độ hứng thú của cá nhân, vào sự thỏa mãn nhu cầu... Các thông tin càng phù hợp thì càng được lưu 
giữ lâu bền. Nhờ có loại ghi nhớ này mà kinh nghiệm sống của con người được mở rộng và phong phú. 
Một khi ghi nhớ này phù hợp với mục đích cá nhân thì nó trở thành ghi nhớ có chủ định. 
Trong dạy học, loại ghi nhớ này vẫn thường xảy ra. Để giúp cho học sinh nhớ nhanh, nhớ nhiều, 
nhớ chính xác mà tốn ít thời gian, giáo viên cần:  - 
Có sự chuẩn bị giáo án, trình bày bài giảng một cách hệ thống, logic.  - 
Ngôn ngữ trong sáng, mạch lạc, sử dụng đúng thuật ngữ khoa học môn học  quyđịnh.  - 
Có ví dụ sinh động đi kèm với nội dung truyền thụ.    lOMoAR cPSD| 60696302 - 
Sử dụng thuần thục, nhuần nhuyễn các đồ dùng dạy học và các phương tiện dạy 
học để phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh trong học tập. 
b. Ghi nhớ có chủ định 
Là loại ghi nhớ với mục đích đã được xác định từ trước, có sự nỗ lực của bản thân và trong ghi 
nhớ có sử dụng những phương pháp, phương tiện để ghi nhớ. 
Ví dụ, học sinh học bài để đi thi. 
Hiệu quả của ghi nhớ có chủ định phụ thuộc rất nhiều vào động cơ, mục đích ghi nhớ. 
Trong ghi nhớ có chủ định, việc sử dụng phương pháp hợp lý là một điều kiện rất quan trọng để 
đạt hiệu quả cao. Ghi nhớ có chủ định có thể được tiến hành bằng hai cách: 
- Ghi nhớ máy móc: là loại ghi nhớ dựa vào sự liên hệ bề ngoài của sự vật, hiện tượng để 
nhớ (không để ý đến nội dung cũng như ý nghĩa của sự vật, hiện tượng), không thông hiểu nội  dung vẫn cứ ghi nhớ. 
Để ghi nhớ máy móc, chỉ cần lặp lại thông tin một cách đơn giản, nhiều lần là được. Điển hình của 
loại ghi nhớ này trong học tập của học sinh là học vẹt. Nguyên nhân do: 
- Không thể hiểu, hoặc lười không chịu tìm hiểu ý nghĩa của tài liệu học tập. 
- Do các phần của tài liệu rời rạc, không logic với nhau. 
- Do khối lượng tài liệu học tập nhiều mà thời gian học ít, vì vậy phải học đốiphó. 
- Do giáo viên thường xuyên yêu cầu trả lời đúng từng câu, từng chữ trong tài liệu. 
Ghi nhớ máy móc thường dẫn đến sự ghi nhớ một cách hình thức, tốn nhiều thời gian, khi quên 
khó có thể hồi tưởng được. Do vậy, trong học tập không nên phát huy loại ghi nhớ này, còn trong cuộc 
sống ghi nhớ máy móc có khi lại cần thiết, nhất là khi ta ghi nhớ tài liệu không có nội dung khái quát 
như số nhà, số điện thoại, số tài khoản, số chứng minh nhân dân, ngày tháng năm sinh... 
- Ghi nhớ có ý nghĩa (hay còn gọi là ghi nhớ logic): Dựa trên sự thông hiểu nội dung của 
tài liệu mới ghi nhớ, dựa trên sự nhận thức được mối liên hệ logíc giữa các bộ phận của tài liệu  đó. 
Loại ghi nhớ này có sự tham gia tích cực của tư duy, vì nhờ có tư duy mới tìm ra mối liên hệ giữa 
các thuộc tính, tìm ra những dấu hiệu chung có tính quy luật của sự vật, hiện tượng. 
Đây là loại ghi nhớ chủ yếu của học sinh trong học tập, đảm bảo cho sự lĩnh hội vững chắc khái 
niệm. Nó tốn ít thời gian hơn ghi nhớ máy móc, nhưng lại tiêu hao năng lượng nhiều hơn. 
Ngoài ra, trong ghi nhớ có chủ định, người ta còn có thể sử dụng thuật nhớ (ghi nhớ theo 
liên tưởng) là sự ghi nhớ bằng cách tạo ra những mối liên hệ bề ngoài để nhớ, hoặc khi ghi nhớ 
sự vật, hiện tượng này dựa trên cơ sở sự vật, hiện tượng khác để nhớ. Ví dụ: Ăn trái gắm - nhớ 
trái dừa da diết/ Tắm vũng nước trong nhớ biển biếc bao la (Cánh chim chơ rao – Thu Bồn)    lOMoAR cPSD| 60696302
Thuật nhớ không giúp phát triển trí nhớ, nhưng đôi khi giúp cho ghi nhớ có ý nghĩa sâu sắc hơn. 
Mặc dù vậy, ngay cả trong ghi nhớ có ý nghĩa, nhiều khi thuật nhớ cũng không đáp ứng được lòng mong 
mỏi của những ai quá tin tưởng vào phương pháp ghi nhớ theo liên tưởng. 
Trong dạy học, để giúp học sinh ghi nhớ tốt, giáo viên cần:  - 
Xác định rõ nội dung ghi nhớ, cái gì cần nhớ toàn bộ, nhớ từng phần, thậm trítừng  câu, từng chữ.  - 
Cần làm cho học sinh hiểu kỹ tài liệu, không nên bắt trẻ học thuộc lòng bất cứ 
điều gì ngoài những điều đã thật hiểu.  - 
Ôn tập một cách tích cực bằng cách tái hiện.  - 
Não bộ phải ở trạng thái hoạt động khỏe khoắn, tự do. 
2. Giữ gìn (giai đoạn củng cố vết) 
Là quá trình củng cố vững chắc những dấu vết đã được hình thành trên vỏ não trong quá trình ghi  nhớ. 
Thường quá trình giữ gìn diễn ra ngay sau khi hoặc đồng thời cùng với quá trình ghi nhớ. 
Quá trình giữ gìn thường diễn ra theo hai cách: 
- Giữ gìn tích cực: Được thực hiện bằng cách tái hiện lại tài liệu đã được ghi nhớ mà 
không phải tri giác tài liệu đó. Giữ gìn tích cực có hiệu quả hơn, bởi vì, trong trường hợp này 
các mối liên hệ tạm thời trên não được củng cố một cách tích cực và chắc chắn hơn. 
- Giữ gìn tiêu cực: Được diễn ra bằng cách lặp lại một cách đơn giản nhiều lần tài liệu đã  được tri giác. 
3. Quá trình nhận lại và nhớ lại 
a. Nhận lại (còn gọi là tái nhận) 
Nhận lại là quá trình làm nảy sinh ở trong não những hình ảnh của sự vật, hiện tượng đã được con 
người tri giác trước kia, hiện tại lại xuất hiện một lần nữa.  
Ví dụ, đang đi trên đường, bất chợt gặp một người, đứng lại trò chuyện, sau 15 - 20 phút nhận ra 
đó là người quen cách đây nhiều năm về trước. 
Nhận lại có thể có nhiều mức độ, từ cảm giác quen quen mơ hồ đối với những sự vật, hiện tượng 
đang được tri giác, đến khi nhận ra rõ đối tượng tri giác. 
Sự đầy đủ và chính xác của mức độ nhận lại tùy thuộc vào: 
- Quá trình ghi nhớ trước đây. 
- Bản thân các sự vật, hiện tượng, nếu ít thay đổi thì sự nhận lại nhanh, còn nếucó quá 
nhiều thay đổi thì sự nhận lại diễn ra chậm. 
Tuy nhiên, trong sự nhận lại nhiều khi vẫn nhận lại sai (gọi là ngộ nhận), nguyên nhân: - 
Do sự hiểu biết về đối tượng quá ít. 
- Do những lần tri giác trước đây không nắm được thành phần chính của đốitượng.