













Preview text:
lOMoAR cPSD| 59561451 Bài 3
ĐẠI CƯƠNG VI SINH VẬT TRONG KHOANG MIỆNG
MỤC TIÊU HỌC TẬP
1. Trình bày được một số đặc điểm môi trường trong khoang miệng.
2. Trình bày được quá trình hình thành của hệ vi sinh vật trong miệng.
3. Trình bày được vai trò của vi hệ trong khoang miệng và vai trò của chúng
trong hệ sinh thái của khoang miệng.
4. Trình bày được nguyên tắc phân loại và xác định vi khuẩn NỘI DUNG MỞ ĐẦU
Vi hệ trong khoang miệng rất đa dạng, bao gồm nhiều loại vi sinh vật khác nhau
như Eubacteria, Archea, nấm, Mycoplasma, Protozoa và đôi khi có cả vi rút. Cho đến
nay, vi khuẩn vẫn chiếm đa số trong vi hệ này. Có khoảng 350 loài vi khuẩn đã được
định danh bằng kỹ thuật nuôi cấy và một số loài không thể nuôi cấy, đang tiếp tục được
định danh bằng kỹ thuật sinh học phân tử. Thêm vào đó, các vi sinh vật sống trong
khoang miệng có môi trường sống rất đa dạng nên việc nghiên cứu về vi hệ này rất phức
tạp và khó khăn. Tuy nhiên, có một điều thú vị, mặc dù vi hệ này đa dạng và phức tạp,
nhưng thực nghiệm cho thấy, rất nhiều các vi sinh vật có thể phân lập từ các vi hệ lân
cận như ruột và dạ dày lại không thể tìm thấy được trong khoang miệng, điều này chứng
tỏ các thuộc tính độc đáo và tính chọn lọc của vi sinh vật trong khoang miệng, có liên
quan đến đặc tính kìm hãm số lượng các vi khuẩn khác của chúng.
Các loại vi khuẩn tìm thấy trong khoang miệng của người bình thường phần lớn là
có lợi. Trước hết, người ta chia vi khuẩn trong khoang miệng dựa vào tính chất bắt màu
Gram như vi khuẩn Gram âm và Gram dương. Sau đó, chúng đã được phân thành vi
khuẩn kỵ khí hoặc hiếu kỵ khí tùy tiện phụ thuộc vào nhu cầu sử dụng oxy của chúng.
Có một số loài vi khuẩn có liên quan chặt chẽ đến các bệnh răng miệng hơn các loại
khác. Trong số đó, có một phần các vi khuẩn chưa thể định danh bằng các kỹ thuật nuôi cấy thông thường.
1. Một số đặc điểm về môi trường trong khoang miệng
Sinh thái học là một môn khoa học có sự liên kết giữa các thực thể sống và môi
trường sống của chúng. Những hiểu biết về sinh thái học rất cần thiết, làm cơ sở cho sự
hiểu biết về các bệnh liên quan. Ví dụ, như các tổn thương sâu răng, bệnh viêm quanh
răng do một loại vi khuẩn nào đó gây ra trong những điều kiện nhất định.
1.1. Một số đặc điểm cấu trúc cơ bản của khoang miệng
Miệng của người được lót bởi lớp biểu mô vảy xếp tầng. Cấu trúc này thay đổi theo
từng khu vực và phụ thuộc vào chức năng của khu vực đó (ví dụ như lưỡi) và bị gián
đoạn bởi các cấu trúc khác như răng, các hố tuyến nước bọt. Mô lợi là cấu trúc ở xung
quanh các răng và luôn có dịch chảy liên tục trong khe lợi. Trên bề mặt răng có một lớp
nước bọt mỏng bao phủ. lOMoAR cPSD| 59561451
1.2. Các môi trường sống cho vi sinh vật trong khoang miệng - Niêm mạc miệng - Lưng lưỡi - Bề mặt răng
- Biểu mô vảy phân tầng của khe lợi
- Các thiết bị chỉnh răng (nếu có)
1.2.1. Niêm mạc miệng và lưng lưỡi
Niêm mạc trong khoang miệng là vị trí kí sinh thuận lợi tạo nên sự đa dạng cho hệ
vi sinh vật sống ở đây. Ví dụ, niêm mạc má tương đối ít vi khuẩn, trong khi đó, bề mặt
gai lưỡi lại chứa rất nhiều vi sinh vật vì đây là nơi trú ẩn an toàn do cấu trúc xếp tầng
của nó. Cấu trúc bề mặt gai nhú của lưỡi cho phép phản ứng oxy hóa khử xảy ra, tạo
điều kiện thuận lợi cho các vi khuẩn yếm khí phát triển và do đó, có vai trò như một nơi
cư trú cho một số các vi khuẩn Gram âm yếm khí trong bệnh viêm quanh răng. Thêm
vào đó, các cấu trúc niêm mạc phủ keratin và không phủ keratin cũng là nơi trú ẩn cho
các vi sinh vật ỏ miệng phát triển. 1.2.2. Răng
Bề mặt của răng là phần diện tích duy nhất trên cơ thể không được bao phủ mà lại
chứa vi khuẩn. Khối lượng lớn vi khuẩn trên bề mặt răng sẽ tạo thành mảng bám răng,
chúng tồn tại cả ở những người có bệnh về răng miệng và những người khỏe mạnh.
Mảng bám này chính là một ví dụ điển hình cho màng sinh học, tuy nhiên, đây cũng
chính là khởi đầu cho bệnh sâu răng và viêm quanh răng. Bệnh lý gây ra khi có sự thay
đổi thành phần, tỷ lệ các loaị vi sinh vật trong khoang miệng so với tỷ lệ ở người khỏe
mạnh. Bản chất của các khuẩn lạc vi khuẩn sẽ khác nhau tùy thuộc vào vị trí răng chúng
cư trú và mức độ phơi nhiễm đối với môi trường lân cận: Các bề mặt nhẵn thường ít vi
khuẩn hơn so với các chỗ lõm và vết nứt. Bề mặt sau của lợi sẽ nhiều vi khuẩn kỵ khí
hơn bề mặt trước của lợi.
1.2.3. Biểu mô của các kẽ hở và khe lợi
Mặc dù các vị trí này là những khu vực nhỏ của môi trường trong miệng miệng
nhưng đóng vai trò quan trọng trong việc khởi đầu các bệnh về nướu và bệnh nha chu.
1.2.4. Các thiết bị chỉnh răng
Nếu các thiết bị này không được giữ vệ sinh cẩn thận, chúng có thể đóng vai trò
như một ổ chứa vi khuẩn và nấm men. Nấm men phủ trên bề mặt răng giả có thể chứa
Candida liên quan đến bệnh răng miệng, tình trạng này do nguyên nhân không vệ sinh răng miệng sạch sẽ.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của vi sinh vật trong khoang miệng
Khoang miệng có một vi hệ rất phức tạp bao gồm rất nhiều các vi sinh vật ngoại
lai và kí sinh tự nhiên. Các vi sinh vật sống trong khoang miệng chung sống hài hòa và
cân bằng với vật chủ, tình trạng bệnh lý sẽ xuất hiện khi mối quan hệ này bị phá vỡ.
Bệnh viêm quanh răng cũng theo cơ chế đó. Ngoài hệ sinh vật nói trên, còn có một số lOMoAR cPSD| 59561451
coliforms (vi khuẩn dạng coli) chỉ sống ở miệng trong một khoảng thời gian ngắn (kí
sinh thoáng qua). Khi có những áp lực từ môi trường sống, các vi sinh vật này dễ bị tiêu
diệt, ví dụ như sự ức chế của các vi sinh vật cư trú chính ở đây. Thật vậy, đây được coi
là yếu tố để bảo vệ hệ vi sinh vật ở đường tiêu hóa khỏi các tác nhân gây bệnh xâm nhập từ nơi khác tới.
Môi trường trong miệng sẽ tác động đến các loại vi sinh vật cả về số lượng và chất
lượng. Các lý do dẫn đến sự thay đổi đó rất phức tạp, bao gồm giải phẫu, tuyến nước
bọt, dịch của các kẽ và các yếu tố khác…
1.3.1. Các yếu tố giải phẫu
Khu vực chứa nhiều hay ít vi khuẩn phụ thuộc vào các yếu tố sau: - Hình dạng của răng
- Sự thay đổi cấu trúc của răng (ví dụ như sự xuất hiện của vết nứt khi nhai)
- Các vị trí tiếp giáp của răng
- Các thiết bị phục hình răng kém chất lượng (ví dụ chất hàn hoặc cầu răng)
- Niêm mạc không sừng hóa của kẽ lợi, đây là những vùng khó để làm sạch
bằng cả cách tự nhiên (nước bọt) và tác động của con người (đánh răng)
1.3.2. Nước bọt
Tổng lượng nước bọt trong khoang miệng có nguồn gốc từ 3 tuyến chính: tuyến
mang tai, tuyến dưới hàm và tuyến dưới lưỡi. Ngoài ra, còn có một số tuyến phụ khác
có nguồn gốc từ môi, lưỡi, miệng và vòm miệng. Nước bọt là một hỗn hợp phức tạp của
các ion vô cơ bao gồm Na, K, Ca, clorua, bicacbonat và photphat. Nồng độ các ion này
thay đổi từng ngày, tùy thuộc vào sự kích thích lên tuyến nước bọt. Các hợp chất hữu cơ
chủ yếu của nước bọt là protein và glycoprotein (như mucin), những chất này ảnh hưởng
đến sự phát triển của vi khuẩn theo các cách sau:
- Hấp phụ trên bề mặt răng tạo thành màng mỏng, chính màng mỏng đó tạo điều
kiện cho vi khuẩn bám dính.
- Hoạt động như một nguồn dự trữ thức ăn cho vi khuẩn (carbonhydrate và protein)
- Có sự kết hợp của vi khuẩn cùng với các thành phần được giải phóng từ miệng hoặc
lắng đọng trên bề mặt tạo điều kiện hình thành mảng bám, ức chế sự phát triển của các
sinh vật ngoại sinh bởi các hàng rào bảo vệ không đặc hiệu (ví dụ như lysozyme,
lactoferrin và histatins, đó là các yếu tố diệt khuẩn, diệt nấm và các hàng rào bảo vệ đặc
hiệu (như immunoglobulins, chủ yếu là IgA)
- Duy trì pH với khả năng đệm rất tốt (nước bọt có tính axit thúc đẩy tăng trưởng
của các vi khuẩn là tác nhân gây nên các vị trí sâu răng).
1.3.3. Dịch túi lợi
Có một dòng chảy liên tục của nước bọt nhưng khá chậm trong khe lợi ở người
khỏe mạnh, dịch này sẽ tăng lên khi tổ chức bị viêm (ví dụ: viêm lợi). Thành phần của
dịch lỏng này giống như của huyết thanh, do đó, lợi được bảo vệ bởi các yếu tố đặc hiệu
giống huyết thanh cùng với các hàng rào không đặc hiệu khác. lOMoAR cPSD| 59561451
Dịch túi lợi có thể ảnh hưởng đến vi hệ bằng cách: -
Đẩy vi khuẩn ra khỏi kẽ hở -
Có vai trò như nguồn dinh dưỡng dự trữ thiết yếu: Quá trình phân giải
protein và cacbonhydrat của vi khuẩn trong các kẽ lợi có thể sử dụng đến các thành
phần peptide, amino acid, carbohydrate; và các yếu tố cần thiết khác (ví dụ haemin)
bằng cách làm giảm các phân tử chứa haemin như hemoglobin. -
Các yếu tố ảnh hưởng khác như duy trì điều kiện pH -
Cung cấp các yếu tố bảo vệ đặc hiệu và không đặc hiệu: Kháng thể IgG là
thành phần chủ yếu (ngoài ra còn có lượng nhỏ IgM và IgA) và thực bào: 95% của
bạch cầu trong dịch lợi là bạch cầu đa nhân trung tính.
1.3.4. Các yếu tố vi sinh vật
Vi khuẩn trong môi trường miệng có thể tương tác với nhau. Có 2 kiểu tương tác
là cộng sinh và ức chế thông qua các cơ chế sau:
- Cạnh tranh với thụ thể bám dính để chiếm môi trường và các điều kiện sống khác,
ngăn chặn sự tấn công của “những kẻ đến sau”
Sản xuất các độc tố, chẳng hạn như bacteriocins, tiêu diệt tế bào của các loài vi
khuẩn khác; ví dụ Streptococcus salivarius sản xuất một chất ức chế (enocin) ức chế
Streptococcus pyogenes.
- Việc sản xuất các sản phẩm chuyển hóa cuối cùng như sản phẩm của chuỗi ngắn
axit cacboxylic làm giảm độ pH và chúng cũng hoạt động như các chất độc hại, các chất đối kháng.
- Sử dụng sản phẩm cuối cùng trong quá trình trao đổi chất của các vi khuẩn khác
cho các mục đích dinh dưỡng (ví dụ như Veillonella spp sử dụng acid do Streptococcus mutans tạo ra)
- Đồng kết hợp với các loài tương tự (homotypic) hoặc các loài khác nhau
(heterotypic), (ví dụ: cộng hưởng tạo ra cấu trúc viêm).
Những cơ chế này cho phép hệ vi sinh vật trong khoang miệng có thể ngăn chặn
hoặc hạn chế sự phát triển của các vi khuẩn ngoại sinh bằng cách loại trừ chúng ra khỏi
môi trường sống của mình. Cơ chế này được gọi là ‘‘chống sự xâm nhập’’.
1.3.4. Các yếu tố khác pH của môi trường
Có nhiều loại vi khuẩn đòi hỏi phải có môi trường pH trung tính mới đảm bảo cho
sự phát triển của chúng. Tính acid của khoang miệng được quy định chủ yếu bởi nước
bọt (khoảng 6,7). Tùy thuộc vào lượng cacbonhydrat trong thức ăn mà nồng độ pH của
nước bọt có thể xuống thấp (tầm 5,0). Đó là kết quả của quá trình chuyển hóa. Ở những
điều kiện này, các vi khuẩn ưa acid có thể phát triển tốt (như Lactobacilli), trong khi một
số loại khác sẽ bị tiêu diệt dưới tác động của cơ chế cạnh tranh.
Tiềm năng oxy hóa khử
Quá trình oxy hóa khử của môi trường khác nhau tại các vị trí khác nhau trong
khoang miệng. Ví dụ, thế oxy hóa khử giảm trong mảng bám đang phát triển, giảm từ lOMoAR cPSD| 59561451
trên +200mV (thế oxy hóa cao) xuống còn -141mV (thế khử cao) trong 7 ngày, và tùy
từng trường hợp mà sự biến đổi này có thể có lợi cho các loại vi khuẩn khác nhau.
Liệu pháp kháng sinh
Kháng sinh toàn thân hay tại chỗ có thể ảnh hưởng đến hệ vi sinh vật trong
miệng. Ví dụ, kháng sinh phổ rộng như tetracycline có thể tiêu diệt hầu hết các vi sinh
vật nội sinh và tạo điều kiện cho sự xuất hiện của các loài nấm men.
Chế độ ăn uống
Sự lên men của carbonhydrat có vai trò chính trong việc tạo nên các thay đối trong
vi hệ khoang miệng. Chúng có vai trò là nguồn dự trữ thức ăn chính và thúc đẩy sự phát
triển của các loại vi khuẩn ưa acid. Các sản phẩm polysaccharide ngoại bào là điều kiện
cho các vi khuẩn bám dính lên các bề mặt, trong khi các polysaccharide nội bào có vai
trò là nguồn thực phẩm.
Các yếu tố điểu trị
Các thủ thuật như nắn hàm rất có thể làm thay đổi và phá vỡ thế cân bằng của hệ
vi sinh vật trong khoang miệng, dẫn đến tình trạng bệnh lý.
Chế độ dinh dưỡng của hệ vi sinh vật trong miệng
Chúng lấy thức ăn từ rất nhiều nguồn khác nhau. Bao gồm: -
Nguồn thức ăn từ vật chủ, nguồn này luôn sẵn có trong khoang miệng (ví dụ sucrose, tinh bột) -
Trong thành phần của nước bọt (ví dụ glycoprotein, khoáng chất, vitamin)
- Dịch lợi (ví dụ protein)
Trong môi trường không khí (mặc dù hẫu hết các loại vi khuẩn đều yêu cầu một lượng rất nhỏ oxy)
Hoặc từ các nguồn vi sinh vật khác: -
Các sản phẩm ngoại bào của các vi khuẩn ở những vùng lân cận, đặc biệt là trong các mảng bám -
Các hạt dự trữ nội bào (glycogen)
2. Quá trình hình thành của hệ vi sinh vật trong miệng
2.1. Đặc điểm chung
- Miệng của trẻ sơ sinh không có vi sinh vật từ ngoài môi trường, trừ một số loại
vi khuẩn xâm nhập từ đường sinh sản của người mẹ.
- Một vài giờ sau khi sinh, một số vi khuẩn từ miệng người mẹ (có thể là y tá) hoặc
từ môi trường xâm nhập trong miệng của trẻ.
- Các loài tiên phong thường là liên cầu khuẩn, vi khuẩn liên kết với biểu mô niêm
mạc (ví sụ Streptococcus salivarius) lOMoAR cPSD| 59561451
- Các hoạt động chuyển hóa của các loại vi khuẩn này làm thay đổi môi trường
trong miệng, tạo điều kiện cho sự xâm lấn của các vi khuẩn khác. Ví dụ: N. salivarius
sản xuất polyme ngoại bào từ sucrose, tạo điều kiện cho Actinomyces có thể tấn công. -
Hệ vi sinh vật này dần dần phức tạp nên, tạo nên một quần thể vi sinh vật sống cân bằng
và hài hòa trong miệng (đây là một quần thể vi sinh vật vô cùng phong phú với số lượng
loài và số lượng vi khuẩn của mỗi loài là khác nhau).
- Ở trẻ 1 ngày tuổi, trong miệng thường có các loại vi khuẩn: liên cầu, tụ cầu,
Neisseriae và Lactobacilli, cùng với một số vi khuẩn kỵ khí như Veillonella và
Fusobacteria. Một số vi khuẩn ít được tìm thấy hơn như Lectobacillus, Actinomyces,
Prevotella và Fusobacterium.
Hệ vi sinh vật trong khoang miệng lại tiếp tục được hoàn thiện trong suốt quá trình
và kể cả sau khi đã mọc răng, các vị trí của răng lại cung cấp chỗ cư trú cho vi khuẩn:
các bề mặt mô cứng và các khe lợi. Có một số vi khuẩn thích cư trú ở những nơi bề mặt
cứng như: Streptococcus mutans, S. sanguis và Actinomyces spp hơn là các bề mặt chọn
lọc khác, một số loài khác lại thích các môi trường kỵ khí như Prevotella spp,
Porphyromonas spp, S. sanguis và Actinomyces spp và Spirochaetes cư trú ở mô lợi, tuy
nhiên các vi khuẩn kỵ khí này không xuất hiện cho đến khi tới tuổi trưởng thành. Ví dụ,
chỉ có 18-40% trẻ em 5 tuổi có Spirochaetes và vi khuẩn kỵ khí sinh sắc tố đen, trong
khi đó, tỷ lệ này ở trẻ 13-16 tuổi là 90%.
- Giai đoạn thứ 2 trong quá trình phát triển (giai đoạn định hình nơi cư trú) đạt
được khi trẻ đã thay hết răng. Vi khuẩn xâm chiếm trong giai đoạn này giống với vi
khuẩn trong giai đoạn mọc răng.
- Sự xuất hiện của một thiết bị răng giả trong giai đoạn này sẽ làm thay đổi cấu
trúc vi sinh vật. Sự phát triển của nấm Candida tăng lên sau khi có sự ra đời của răng
giả acrylic, trong khi đó, Staphylococcus aureus và Lactobacilli phổ biến ở người trong
độ tuổi 70 và lớn hơn. Mảng bám ở răng giả cũng tương tự như mảng bám ở men răng,
chứa một hàm lượng cao của nấm men.
2.2. Mảng bám răng
Mảng bám trên răng là một lớp màng chứa đầy vi khuẩn, phát triển trên mô mềm
và bề mặt mô cứng của miệng. Nó được tạo thành bởi các vi sinh vật sống, các vi sinh
vật đã chết và các vi sinh vật phát triển yếu cùng với các sản phẩm ngoại tiết của chúng
cũng như những chất tiết của cơ thể vật chủ mà chủ yếu là nước bọt.
2.2.1. Thành phần
Các vi sinh vật ở mảng bám trên răng được bao quanh bởi hệ thống các chất hữu
cơ, thành phần hữu cơ này chiếm khoảng 30% tổng lượng mảng bám. Chúng có nguồn
gốc từ cả vật chủ và các thành viên khác của mảng bám. Ở vùng lợi, các protein từ khe
lợi cũng trở thành thành phần của mảng bám. Hệ thống này cũng có vai trò như thức ăn
và như chất xi măng gắn kết các vi sinh vật với các thành phần còn lại và với các loại bề mặt khác nhau.
Thành phần vi khuẩn của mảng bám có thể thay đổi khác nhau tùy thuộc vào từng
trường hợp cụ thể. Có một số người hình thành mảng bám khá nhanh trong khi những
người khác, việc hình thành này chậm. Hơn nữa,mỗi cá nhân, thành phần của các mảng
bám khác nhau cũng rất khác nhau, ví dụ: lOMoAR cPSD| 59561451
- Các mảng bám tại các vị trí khác nhau của cùng một răng
- Các mảng bám tại các vị trí giống nhau ở các răng khác nhau
- Các mảng bám tại cùng một vị trí nhưng ở các thời điểm khác nhau.
2.2.2. Vị trí
Mảng bám sinh học được tìm thấy trên bề mặt của răng và các thiết bị xử lý mảng
bám, đặc biệt là trong các trường hợp vệ sinh răng miệng không sạch sẽ. Bình thường,
chúng được tìm thấy ở các vị trí giải phẫu được bảo vệ bởi hàng rào của vật chủ, ví dụ
như vết nứt của hàm, bên cạnh hoặc bao quanh kẽ hở của lợi. Các mẫu mảng bám được
mô tả trong mối liên quan về nguồn gốc của chúng và được phân loại như mảng bám dưới lợi.
Mảng bám tại vết nứt-chủ yếu xuất hiện ở những vị trí có khe nứt rất nhỏ.
Mảng bám giao thoa-tại các điểm tiếp xúc của các răng với nhau.
Mảng bám ở các bề mặt nhẵn-ví dụ như vòm miệng dưới lợi hoặc là những phần liên quan:
+ Răng giả toàn phần và bán phần
+ Các thiết bị liên quan đến xử lý mảng bám răng, các dụng cụ tương tự,...
2.2.3. Điều kiện và quá trình hình thành mảng bám răng 2.2.3.1. Điều kiện
Sự bám dính của vi khuẩn vào bề mặt răng là điều kiện tiên quyết cho quá trình cư
trú và là bước đầu tiên dẫn đến các nhiễm trùng liên quan.
2.2.3.2. Quá trình hình thành mảng bám sinh học
Hình thành mảng bám sinh học là một quá trình phức tạp bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau.
Giai đoạn 1: Hình thành màng mỏng: Sự hấp thụ của vật chủ và các vi khuẩn lên
bề mặt răng tại lớp màng mỏng nước bọt. Một lớp nước bọt mỏng chứa glycogen được
lắng đọng trên bề mặt răng trong vòng vài phút. Vi khuẩn trong khoang miệng ban đầu
gắn vào màng mỏng này chứ không trực tiếp gắn vào men răng.
Giai đoạn 2: Chuyển động: Vi khuẩn tiếp cận các vùng lân cận của bề mặt răng
trước khi tấn công, chúng chuyển động theo các dòng nước bọt tự nhiên hoặc bằng
chuyển động Brown hoặc bởi hóa ứng động.
Giai đoạn 3: Tương tác phạm vi rộng: Bao gồm có tương tác lý hóa giữa bề mặt
tế bào vi sinh vật và màng bọc mỏng đó. Tác động của lực Vander Waals và lực đẩy tĩnh
điện giúp hoàn thành sự bám dính.
Giai đoạn 4: Tương tác phạm vi hẹp: Bao gồm các phản ứng lập thể giữa các thụ
thể trên bề mặt tế bào vi khuẩn và các receptor trên tế bào vật chủ. Đây là một giai đoạn
không thể đảo ngược trong đó có cầu nối polyme giữa vi khuẩn và vật chủ giúp cho vi
khuẩn có thể dễ cư trú. Thời gian sinh sản của vi khuẩn trong mảng bám rất khác nhau lOMoAR cPSD| 59561451
(có thể tính bằng phút nhưng cũng có thể kéo dài hàng giờ), khác nhau giữa các vi khuẩn
trong cùng loài và giữa các loài khác nhau. Ngoài ra, nó còn phụ thuộc vào cả điều kiện môi trường sống.
Giai đoạn 5: Cùng tập hợp hoặc cùng bám dính: Các loài vi khuẩn riêng biệt
tấn công lên những khu vực có thể, các vi khuẩn này có thể cùng loài hoặc khác loài
nhưng thuộc các chi tương thích với nhau.
Giai đoạn 6: Hình dạng của màng sinh học: Quá trình trên đây tiếp tục với kết
quả là sự ra tăng thành phần và hình thành hình dạng của màng sinh học, thảnh phần
màng sinh học trở nên phức tạp theo thời gian. Một màng sinh học, được định nghĩa là
một tập hợp phức tạp của một hoặc nhiều loài vi sinh vật được bao bọc trong hệ thống
polysaccharide và tấn công các khu vực cận kề hoặc gắn liền với bề mặt rắn. Các bề mặt
rắn nói trên có thể là một bề mặt trơ như men răng, răng giả acrylic hoặc là những ống
thông bằng nhựa, thậm chí có thể là nhưng thiết bị thay thế cho các cơ quan hoặc vật thể
sống như van tim. Cấu trúc của màng sinh học không phải là những cấu trúc bằng phẳng
như tấm bê tông mà các vi sinh vật sắp xếp với nhau theo cột hoặc hình nấm xen kẽ với
các khe nước nhỏ vận chuyển các chất chuyển hóa và các chất dinh dưỡng.
Như vậy, quá trình hình thành mảng bám sinh học là một quá trình xâm chiếm vị
trí cư trú một cách phức tạp, liên tục, và màng sinh học dạng mảng bám thì phức tạp hơn
các màng bình thường do có sự tham gia của rất nhiều loại vi sinh vật khác nhau trong
khoang miệng. Cụ thể là, nhóm vi khuẩn đầu tiên xuất hiện trong miệng là cầu khuẩn
Gram dương và vi khuẩn Gram dương hình que. Tiếp đến là các vi khuẩn Gram âm hình
cầu và hình que. Cuối cùng mới đến các vi khuẩn dạng sợi, Fusobacteria, xoắn khuẩn
và Spirochaetes. Đã có nghiên cứu thực nghiệm về quá trình hình thành mảng bám được
thực hiện trên nhóm nghiên cứu bằng cách gây viêm lợi cho các cá thể này. Ban đầu,
từng người được vệ sinh răng miệng tỉ mỉ, sau đó các bệnh nhân này được theo dõi kỹ
trong giai đoạn không vệ sinh răng miệng về quá trình hình thành và sự phát triển của thành phần mảng bám.
Một thành phần quan trọng của màng sinh học là hệ thống ở ngoại bào. Chúng bao
gồm polysaccharide của vi sinh vật và glycogen sắn có của lớp nước bọt (hoặc dịch nướu,
tùy thuộc vào từng nơi). Các sản phẩm trong quá trình trao đổi của các vi sinh vật cư trú
đầu tiên có thể làm thay đổi môi trường ngay lập tức (ví dụ: tạo ra một tiềm năng oxy
hóa khử thấp phù hợp cho vi khuẩn yếm khí phát triển), dần dần xuất hiện sự xâm nhập
và tấn công của các loại vi khuẩn khác, dẫn đến sự tăng lên về độ phức tạp, sinh khối và
độ dày của mảng bám. Quá trình phát triển liên tục đó dẫn đến sự hoàn thiện mảng bám
với kích thước tối đa mà tại đó đạt tới sự cân bằng giữa các vi khuẩn, hệ vi sinh vật này
được coi là đỉnh cao của vi hệ.
Quá trình hình thành mảng bám ở cấp độ phân tử rất phức tạp. Màng sinh học vi
khuẩn xuất hiện để duy trì cấu trúc phức tạp của nó thông qua sự bài tiết liên tục
các phân tử cấp thấp được gọi là quorumsensing (ví dụ như phân tử acyl homoserine
lacton). Khi số lượng sinh vật trong màng sinh học tăng lên, đồng thời với nó là sự tăng
lên của các tín hiệu cảm ứng. Những kích hoạt tới các gen có thể liên quan đến việc sản
xuất thêm polysaccharide ngoại bào, hoặc giảm sự trao đổi chất (đối với các vi khuẩn ở lOMoAR cPSD| 59561451
bên dưới của màng sinh học) hoặc sản xuất ra các yếu tố độc hại bao gồm cả các gen
phân giải thuốc. Tách rời: Vi khuẩn cư trú ở mảng bám này có thể tách ra và bước vào
giai đoạn phù du (tức là lơ lửng trong nước bọt) và được vận chuyển đến các vị trí cư trú
mới, do đó khởi động lại toàn bộ chu kỳ.
Những điểm đặc thù khác của màng sinh học
Thực tế cho thấy có đến 65% bệnh nhiễm trùng ở người đều do các vi sinh vật sống
trong các màng sinh học gây nên. Các vi sinh vật này trái ngược hẳn với các vi sinh vật
sống tự do hoặc sống phù du, đây là kết quả của nhiều nghiên cứu về cách thức tồn tại
của hai loài vi sinh vật này. Một ưu thế nữa của các màng sinh học là cho phép các vi
sinh vật sống trong nó có thể tồn tại cả trong môi trường có nước. Nghiên cứu lâm sàng
cho thấy, màng sinh học giúp các vi sinh vật đề kháng lại nhiều loại thuốc và các tác
nhân trị liệu khác hơn vi khuẩn sống tự do khác. Nguyên nhân chính của hiện tượng này là: -
Màng sinh học cung cấp các hàng rào ngăn cản, giúp kháng khuẩn -
Nồng độ thuốc trong màng sinh học thấp dẫn đến sự đề kháng -
Sự khác biệt về Eh hoặc pH ở trong màng có thể làm cho thuốc ít hoạt
động hoặc không hoạt động -
Hoạt động trao đổi chất chậm của vi khuẩn trong màng sinh học thúc đẩy
sự phát triển của kiểu hình đề kháng kháng sinh -
Sự kết hợp của các chất kháng sinh với exopolysaccharide màng sinh học
làm giảm thiểu nồng độ thuốc -
Làm giảm cơ chế miễn dịch của cơ thể vật chủ
Vấn đề kháng thuốc của vi khuẩn không phải là mối quan tâm lớn khi nói đến các
vi khuẩn ở mảng bám răng, tuy nhiên vấn đề kháng thuốc trong một số mảng bám ở các
cơ quan khác (ví dụ: nhiễm trùng đường hô hấp do P. aeruginosa trong bệnh xơ nang)
lại là vấn đề đáng quan tâm.
Hình thành mảng bám
Canxi và phosphat có nguồn gốc từ nước bọt có thể bị đọng lại ở lớp sâu hơn của
mảng bám răng (khi nước bọt đã bão hòa các ion đó). Nếu các mảng bám đó được phát
triển tiếp tục mà không có sự xáo trộn nào, khi các vi khuẩn thoái hóa sẽ cung cấp chất
khoáng để tiếp tục bồi đắp mảng bám. Quá trình hỗ trợ này được tăng tốc bới
phosphatase và protease của vi khuẩn, làm suy giảm các chất ức chế canxi hóa trong
nước bọt. Các quá trình này dẫn đến sự hình thành của các tinh thể calcium phosphate
không hòa tan mà kết hợp lại để tạo thành mảng vôi hóa, dần hình thành mảng bám.
Nhiều loại kem đáng răng ngày nay có chứa các hợp chất pyrophosphat có khả
năng hấp thụ các ion canxi dư thừa làm giảm sự lắng đọng của mảng bám. Nói chung,
thành phần của mảng bám chứa khoảng 80% khối lượng chất khoáng, còn lại là khoảng
20% là thành phần các hợp chất hữu cơ. lOMoAR cPSD| 59561451
2.2.4. Cấu trúc
Trong cấu trúc của mảng bám, loài vi sinh vật chiếm ưu thế hơn là cầu khuẩn, trực
khuẩn và và vi khuẩn dạng sợi (đặc biệt là ở các lớp ngoài), và đôi khi là các xoắn khuẩn.
Vi khuẩn ở bề mặt men thường làm giảm tỷ lệ tế bào chất, có thể do chúng làm giảm
trao đổi chất. Người ta đã tính toán và cho thấy, ở trước lợi có nhiều vi khuẩn Gram
dương hơn, trong khi đó ở dưới lợi, tỷ lệ vi khuẩn Gram âm nhiều hơn.
Trong một số khu vực (đặc biệt là trên bề mặt bên ngoài), cầu khuẩn bám vào và
phát triển trên bề mặt các vật thể dạng sợi, tạo nên một cấu trúc “lõi ngô”. Các vật thể
dạng sợi có xu hướng định hướng vuông góc với bề mặt răng tạo nên hiệu ứng rào cản
(như cuốn sách trên kệ).
Các tế bào chất của vi khuẩn (chủ yếu là cầu khuẩn) có chứa các hạt dự trữ glycogen,
nó hoạt động như các nguồn dự trữ thức ăn khi môi trường sống không thuận lợi.
Các mảng bám có các bề mặt thô ráp và xốp, nó giống như một nơi cư trú lý tưởng
cho vi khuẩn có hại cho các hố lợi (ví dụ: lipopolysaccharides). Do đó, loại bỏ các mảng
bám rất cần thiết để duy trì sức khỏe răng miệng.
3. Vai trò của vi hệ trong khoang miệng đối với nhiễm trùng hệ thống
Gần đây, người ta đã chứng minh các bệnh liên quan đến mảng bám răng như viêm
quanh răng có thể gây ra các nhiễm trùng hệ thống. Các bệnh nhiễm trùng hệ thống bao gồm: - Bệnh tim mạch
- Viêm nội tâm mạc nhiễm trùng - Xơ vữa động mạch - Đột quỵ - Viêm phổi vi khuẩn - Đái tháo đường - Sinh trẻ nhẹ cân
Ba cơ chế về mối liên quan giữa các bệnh nhiễm trùng răng miệng với các nhiễm
trùng hệ thống được đề xuất như sau:
- Bệnh di trú: Vi khuẩn không ngừng xâm nhập vào hệ thống tuần hoàn
thông qua hàng rào mạch máu ở miệng, như trong trường hợp vi khuẩn xâm nhập
vào máu trong quá trình nhổ răng. Kết quả là xuất hiện viêm nội tâm mạc nhiễm trùng.
- Do chấn thương: Các sản phẩm của vi khuẩn, chẳng hạn như các enzym
tiêu tế bào, ngoại độc tố và nội độc tố tiếp cận với hệ thống tim mạch ở những người bị nha chu.
- Viêm di trú: Do chấn thương, miễn dịch do các sinh vật ở miệng. Do đó,
kháng nguyên hòa tan có thể xâm nhập vào dòng, phản ứng với các kháng thể đặc lOMoAR cPSD| 59561451
hiệu lưu hành trong máu và tạo thành phức hợp đại phân tử, dẫn đến các bệnh gây
ra bởi những phản ứng miễn dịch không đặc hiệu.
Trong số này, các cơ chế liên quan đến nhiễm trùng răng miệng và bệnh viêm quanh
răng đã được nghiên cứu nhiều nhất và sau này mới được biết:
- Những yếu tố khiến cho một người dễ mắc bệnh viêm quanh răng thì cũng
làm cho người đó dễ mắc các bệnh nhiễm trùng hệ thống như bệnh tim mạch.
Chúng bao gồm hút thuốc lá, căng thẳng, lão hóa, các vấn đề như chủng tộc hay
sắc tộc và giới tính nam.
- Màng sinh học dưới lợi: Đây là các ổ chứa khổng lồ của các vi khuẩn đặc
biệt là vi khuẩn Gram âm. Chúng chứa một nguồn lipopolysaccharide-LPS (tức là
nội độc tố) mà có thể gây ra các phản ứng nghiêm trọng. Hơn nữa, LPS làm tăng
hoạt động của các phân tử kết dính tế bào nội mô và tiết interleukin-1 cũng như
yếu tố hoại tử u (TNF- alpha).
Túi quanh răng là một vị trí chứa các cytokine: Các cytokine tiền viêm TNF-ct và
interleukin-l Q, interferon gamma và prostaglandin đạt nồng độ cao trong viêm quanh
răng. Sự lan tỏa của các chất trung gian này làm trầm trọng thêm các bệnh lý hệ thống.
Người ta đã xác định được mối liên quan giữa viêm nội tâm mạc và các vi khuẩn
gây bệnh ở đường răng miệng, nhưng chưa có một bằng chứng chắc chắn nào chứng tỏ
có sự liên hệ giữa vi khuẩn ở khoang miệng với sự bắt đầu hay duy trì các dạng nhiễm
trùng khác được liệ kê ở trên. Do đó, cần có thêm các nghiên cứu về vấn đề này.
4. Nguyên tắc phân loại và xác định vi khuẩn Hệ vi sinh vật của khoang miệng rất da
dạng bao gồm các vi rút, vi khuẩn, Mycoplasma, nấm men và thậm chí có cả những đơn
bào. Sự đa dạng này là do khoang miệng bao gồm nhiều “loại môi trường sống khác
nhau” với nguồn dinh dưỡng được cung cấp vô cùng phong phú cho các vi sinh vật.
Thêm vào đó, trong các màng sinh học như mảng bám răng, sự thay đổi các thành phần
môi trường như nồng độ oxy, pH, chất dinh dưỡng tạo điều cho các loài vi sinh vật khác
nhau phát triển. Trong điều kiện như vậy, không phải chỉ có một loài vi sinh vật duy nhất
(ví dụ vi khuẩn) mà nhiều loài khác nhau có thể tồn tại và phát triển. Mảng bám răng có
vai trò như một “cộng đồng” vi sinh vật, trong đó, có nhiều mối tương tác, hiệp đồng,
quá trình trao đổi chất xảy ra. Điều này cũng cho phép một số vi khuẩn “khó tính”có
điều kiện để tồn tại và phát triển được, trong khi chúng rất khó sống nếu chỉ tồn tại đơn
độc. Cộng đồng vi sinh vật này rất đa dạng và có vai trò quan trọng đối với sức khỏe con
người cả về mặt lợi lẫn khả năng gây bệnh của chúng. Trong cộng đồng ấy, các vi khuẩn
đóng vai trò vô cùng quan trọng cả về mặt sinh lý và bệnh lý. Do vậy, bài này chủ yếu
tập trung mô tả phân loại hệ vi khuẩn trong khoang miệng. 4.1. Nguyên tắc phân loại
Phân loại vi khuẩn là cách sắp xếp các vi sinh vật vào các nhóm dựa trên những đặc
điểm giống và khác nhau của chúng. Ngược lại, định danh vi khuẩn là quá trình phát
hiện xem một chủng vi khuẩn mới thuộc nhóm nào trong các nhóm đã phân loại trên,
vai trò của phân loại là xác định xem các vi khuẩn thuộc cùng một chi hay cùng một loài.
Các vi khuẩn có chung các đặc tính được xếp vào một loài, các loài giống nhau được
xếp vào cùng một chi. Tên của các loài được đặt theo tiếng La tinh hoặc từ đôi được La
tinh hóa (ví dụ Streptococcus mutans, thuộc chi Streptococcus, loài mutans). Nếu một lOMoAR cPSD| 59561451
loại vi khuẩn được phát hiện không thuộc các loài sẵn có, thì một loài mới sẽ được bổ
sung. Việc đặt tên vi khuẩn này được quy định bởi Ủy ban quốc tế. Một loài sinh vật có
thể được chia thành rất nhiều chủng khác nhau, việc phân chủng này rất có ý nghĩa trong
việc nghiên cứu dịch tễ trong các vụ dịch. Quá trình phân loại, đặt danh pháp, định danh
được gọi chung là phân loại. Mặc dù đôi khi có thể có những thuật ngữ khác. Như đã
nêu trên, mục đích của việc phân loại vi khuẩn là sắp xếp các vi khuẩn một cách logic
hơn nữa dựa trên các nét tương đồng và mối tương quan giữa chúng. Sự sắp xếp này yêu
cầu sự phát hiện và so sánh tất cả những tính chất có thể, mặc dù trong việc định danh,
chỉ có một số test đặc trưng là có thể phân loại được vi khuẩn. Trước đây, việc phân loại
vi khuẩn chủ yếu dựa vào các tiêu chí sinh lý và hình thái đơn giản như hình dạng của
các tế bào và cách thức lên men các loại đường đơn giản của chúng. Trong thực tế, các
phương pháp tiếp cận trên mới chỉ phân tích được một phần cấu trúc vật liệu di truyền
của tế bào (gen). Phương pháp phân tích hóa học bao gồm sự phân tích rộng lớn hơn các
thành phần hóa học của thành tế bào hoặc lipid màng hoặc protein,…mang đến những
cải tiến lớn trong việc phân loại. Cấu trúc của tế bào cũng có thể được so sánh bằng cách
sử dụng các kỹ thuật miễn dịch (huyết thanh), trong đó, người ta sử dụng các kháng thể
đặc hiệu (có thể là kháng thế đa giá hoặc đơn giá) để phát hiện các kháng nguyên bề mặt tế bào.
Hệ thống phân loại hiện đại còn dựa trên cả mối liên hệ gen giữa các chủng. Các
thuộc tính của vi sinh vật được quyết định bởi các gen mã hóa chúng, chính vì thế ta tiến
hành so sánh để xác định sự tương quan trong thành phần ADN của chúng. Tổng tỷ lệ
mol Guanin (G) và Cytosine (C) trên tổng ADN là tỷ lệ rất có ý nghĩa. Các vi khuẩn có
tỷ lệ G+C/ADN khác nhau ró rệt, thường không liên quan đến nhau, trong khi đó các vi
khuẩn có cùng tỷ lệ này thì thường liên quan chặt chẽ đến nhau, mặc dù sự tương tự
trong thành phần ADN không phải là bằng chứng rõ rệt cho vấn đề có cùng loài hay
cùng chi hay không, bởi vì, 2 vi khuẩn có cùng tỷ lệ (G+C)/ADN nhưng có thể có trình
tự sắp xếp khác nhau. Trong trường hợp đó, chúng ta sẽ xác định mức độ tương đồng
giữa 2 chủng bằng cách xác định trình tự nucleotid. Hai chủng có mối liên quan gần gũi
khi mà chúng có sự tương đồng cao trong trình tự nucleotide. Hiện nay, việc phân loại
vi khuẩn được dựa trên sự so sánh trình tự sắp xếp trên gen ribosom ARN 16S. Trong
gen rARN, phần lớn khu vực được bảo toàn trình tự, trong khi các khu vực còn lại có
thể thay đổi rất khác nhau, phản ánh mức độ tiến hóa của loài. Đoạn gen khác nhau này
dài khoảng 1500 nucleotid, đủ ngắn để có thể thực hiện những xét nghiệm nhanh trong
các phòng thí nghiệm (ví dụ: sử dụng thiết bị giải trình tự ADN tự động), nhưng cũng
đủ dài để cung cấp đủ thông tin đê phân biệt sự giống và khác nhau giữa các loài và các
giống. Các khu vực bảo tồn có thể được sử dụng cho việc thiết kế “mồi PCR chung” có
thể được sử dụng để khuếch đại phần còn lại của gen rARN 16S. Sau đó, người ta giải
mã và xác định sự khác biệt trong các vùng. Các trình tự có thể được so sánh giữa các
vi sinh vật khác nhau, từ đó ta biết được mối quan hệ giữa các loài và cây phát sinh loài
được xây dựng. Kỹ thuật này tương đối nhanh và đã tạo điều kiện cho các nhà khoa học
có thể nghiên cứu số lượng vi khuẩn rộng hơn trước đây. Việc so sánh trình tự gen của
rARN 16S đã tạo ra một bước ngoặt trong việc phân loại vi khuẩn, vì đã làm rõ việc
phân loại nhiều nhóm mà trước đây chưa được xếp vào vi khuẩn của vi hệ trong khoang
miệng mà xếp vào Eubacterium như các liên cầu, trực khuẩn Gram (+) kỵ khí. Ngoài
việc khẳng định các chủng trước đây chưa được khẳng định rõ, phương pháp này cũng lOMoAR cPSD| 59561451
được sử dụng để xác định các chủng liên quan, phương pháp này có ưu điểm hơn so với
các phương pháp tiếp cận thông thường. Kết quả của việc phân loại là đề xuất hình thành
loài mới. Một loài đại diện cho một tập hợp các chủng có nhiều đặc điểm chung và trong
đó có sự khác biệt đáng kể so với các chủng khác. Khi một loài mới đã được công nhận,
người ta sẽ chọn ra một loài có tính chất đặc trưng đại diện cho loài đó. Tập hợp các
chủng loại được sắp xếp tùy theo từng quốc gia, như Bộ sưu tập các chủng của Mỹ,
ATCC, hoặc Bộ sưu tập các chủng của Anh, NCTC. Một loài có thể được chia thành
nhiều phân loài nếu như giữa chúng có những khác biệt nhỏ nhưng vẫn có thể nhận biết
được. Chính vì như vậy, các nhóm trong cùng một loài có thể được phân biệt bởi một
đặc tính đặc biệt nào đó. Ví dụ, các dòng có một đặc tính hóa sinh hay sinh lý nào đó
đặc biệt thì được gọi là biovars hoặc biotypes, trong khi các loài có môt kháng nguyên
nào đó đặc biệt thì được gọi là serovar hoặc serotype, các loài này có thể được phát hiện
nhờ sử dụng kháng thể thích hợp. Phương pháp phân tử cũng có thể được sử dụng để
phân chủng riêng biệt trong các loài. Toàn bộ ADN có thể được phân cắt bởi các enzyme
khác nhau (endonucleases), chúng cắt ADN thành các đoạn khác nhau tại những điểm
cụ thể, sau đó người ta đem các đoạn đó điện di trên gel agarose để tạo ra những sản
phẩm điện di khác nhau. Đặc điểm và độ dài của vết trên điện di phụ thuộc vào đặc điểm
của đoạn ADN. Mô hình phân tích này quá phức tạp, có khi phải sử dụng đến nhiều loại
enzyme phân cắt khác nhau. Để khắc phục vấn đề này, các đoạn cắt được chuyển lên
màng nitrocellulose hoặc màng nilon và lai tạo lại với một mồi phù hợp để tạo ra 1 mô
hình đơn giản. Một “mồi thăm dò chung” được sử dụng, mồi này phụ thuộc vào phần
còn lại của gen rARN, chính mồi này tạo ra sự khác biệt trong mô hình của từng loài (ribotyping).
4.2. Nguyên tắc xác định vi khuẩn
Đầu tiên, các vi sinh vật được xác định bằng các kỹ thuật chặt chẽ và nghiêm ngặt,
sau đó có những kỹ thuật đơn giản hơn, mà trong đó người ta chỉ tiến hành thí nghiệm
để so sánh những tính chất đặc trưng nhất của chúng. Đầu tiên, người ta xác định tính
chất bắt màu Gram của chúng, sau đó xác định hình thái tế bào. Ví dụ, ta có thể mô tả:
Cầu khuẩn Gram (+) hay trực khuẩn Gram (-),…Tiếp theo đó, ta tiến hành các thử
nghiệm xác định các tính chất đơn giản. Ví dụ xác định cách thức lên men đường, các
sản phẩm của quá trình lên men glucose hay việc lựa chọn các enzyme sử dụng. Việc
phát hiện nhanh chóng sự tập trung của các enzyme do vi khuẩn tiết ra đã làm đơn giản
hơn quá trình xác định vi khuẩn. Việc phát hiện một số chất như glycosidases phân giải
đường trong chất nhầy nước bọt ngày nay được sử dụng để làm cho việc phân loại một
số loài trước đây khó phân loại được dễ dàng hơn (ví dụ cho một số liên cầu trong khoang
miệng). Một số thử nghiệm đã được bổ sung vào bộ kít thương mại, cùng với các dữ liệu
máy tính để làm cho quá trình định danh được diễn ra dễ dàng hơn. Các kháng thể đơn
dòng và acid nucleic có thể được sử dụng để định danh nhanh một số loài vi khuẩn. Tuy
nhiên hấu hết các kỹ thuật này có khả năng ảnh hưởng đến sức khỏe do chúng có thể có
chứa thuốc nhuộm huỳnh quang, chất phóng xạ hoặc các enzyme như horseradish
peroxidase. Kỹ thuật này có ưu điểm là có thể phát hiện được vi khuẩn trực tiếp từ mảng
bám hoặc các mẫu lâm sàng mà không cần phải có thời gian nuôi cấy dài, tuy nhiên
phương pháp này lại không xác định được vi khuẩn còn sống hay đã chết. Phương pháp
xác định vi khuẩn thông thường chỉ thực hiện được khi các vi khuẩn đã được phân lập
và nuôi cấy tạo ra dòng thuần nhất. Chính vì phương pháp này cần có được chủng thuần lOMoAR cPSD| 59561451
(trong môi trường pha loãng, môi trường thạch chọn lọc và không chọn lọc, điều kiện
nuôi cấy) nên người ta thường áp dụng nó cho các loại vi khuẩn dễ sống và phát triển
nhanh trong điều kiện phòng thí nghiệm. Bổ sung cho phương pháp đó, các kỹ thuật hiện
đại hơn đã ra đời, và nhờ vậy, người ta đã biết rõ hơn sự tồn tại, tính đa dạng và mối liên
quan phát sinh loài giữa các chủng vi khuẩn.