Bài giảng kinh tế vi mô | Đại học Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp

Giúp sinh viên hiểu rõ cách các đơn vị kinh tế (cá nhân và doanh nghiệp) tương tác trong thị trường và ảnh hưởng của những tương tác này đến giá cả và số lượng hàng hóa, dịch vụ. Kinh tế vi mô là nhánh của kinh tế học nghiên cứu về hành vi của các cá nhân, hộ gia đình và doanh nghiệp trong việc ra quyết định về phân bổ nguồn lực khan hiếm.

Bài ging Kinh tế vĩ mô
LỜI NÓI ĐẦU
Kinh tế học vĩ mô là môn kinh tế học cơ sở đề cập đến cơ sở lý thuyết và các phương
pháp phân tích sự vận động của nền kinh tế tổng thể, làm nền tảng cho các phân tích chuyên
ngành kinh tế khác. Đây cũng môn học trong chương trình đào tạo của chuyên ngành Kế
toán, Quản trị kinh doanh Tài chính ngân hàng của Trường Đại học Kinh tế - kỹ thuật
Công nghiệp
Giáo trình kinh tế vĩ tài liệu được biên soạn dùng trong giảng dạy và học tập
của sinh viên khối kinh tế. Giáo trình cung cấp những kiến thức cơ bản của kinh tế học vĩ mô,
bao gồm những nguyên lý chung của kinh tế học; nghiên cứu các hoạt động của nền kinh tế
dưới góc độ tổng thể và việc xác định những biến số kinh tế vĩ mô chủ yếu; những yếu tố ảnh
hưởng đến sự biến đổi của các biến số đó cũng như các kiến thức ban đầu về các chính sách
kinh tế vĩ mô.
Giáo trình kinh tế vĩ mô bao gồm các phần sau:
- Chương 1: Giới thiệu về kinh tế học vĩ mô
- Chương 2: Tổng sản phẩm và thu nhập quốc dân
- Chương 3: Tổng cầu và tổng cung
- Chương4: Thị trường tiền tệ
- Chương 5: Ảnh hưởng của chính sách tài khóa và tiền tệ đến tổng cầu
- Chương 6: Lạm phát và thất nghiệp
- Chương 7: Kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế mở
Giáo trình kinh tế vĩ mô được biên soạn rõ ràng, dễ hiểu theo một trình tự thống nhất:
Mục đích yêu cầu, nội dung, tóm tắt nội dung, câu hỏi ôn tập và thảo luận, bài tập vận dụng,
phù hợp làm tài liệu tham khảo và học tập của sinh viên khối kinh tế, trường Đại học Kinh tế
Kỹ thuật Công Nghiệp.
Giáo trình kinh tế vĩ mô đã được biên soạn để đảm bảo tính khoa học, hiện đại và gần
với thực tiễn nền kinh tế hơn. Mặc có nhiều cố gắng song do giáo trình lần đầu tiên được
biên soạn và với thời gian hạn nên không thể tránh khỏi những suất cả về nội dung
hình thức. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để giáo trình được hoàn thiện
hơn.
TM nhóm biên soạn
Ths. Lê Kim Anh
Khoa Kinh tế cơ sở
2
CHƯƠNG 1:
GIỚI THIỆU VỀ KINH TẾ HỌC VĨ MÔ
Mục tiêu của chương:
- Cung cấp các kiến thức ban đầu về môn học
- Nắm được các nguyên lý cơ bản của kinh tế học, vận dụng trong phân tích các vấn đề
kinh tế.
- Hiểu được các khái niệm cơ bản và công cụ phân tích quan trọng của kinh tế vĩ mô.
- Nắm được các mục tiêu và chính sách kinh tế vĩ mô cơ bản
1.1. Khái quát về kinh tế học
1.1.1 Kinh tế học và kinh tế học vĩ mô
Các nhà kinh tế cho rằng vấn đề trọng tâm của kinh tế học sự khan hiếm. Sự khan
hiếm nguồn lực đòi hỏi các cá nhân và xã hội phải đưa ra quyết định lựa chọn. Kinh tế
học nghiên cứu sự lựa chọn trong điều kiện nguồn lực khan hiếm. Sự khan hiếm xảy ra
khi nguồn lực của nền kinh tế không đủ để thỏa mãn cầu của tất cả các chủ thể trong
nền kinh tế đó. Con người từ lúc sinh ra trưởng thành đếunhu cầu về tình yêu,
sự thừa nhận xã hội, nhu cầu vật chất và tiện nghi cuộc sống. Nhu cầu của chúng ta rất
đa dạng và phong phú nhưng không bao giờ có giới hạn. Trong thực tế không phải bất
cứ cái gì chúng ta muốn đều có thể đạt được mà ngược lại, khả năng đáp ứng nhu cầu
của chúng ta luôn bị giới hạn, ít nhất là bị giới hạn bởi thu nhập, điều này thể hiện sự
khan hiếm về tiền bạc, đòi hỏi chúng ta phải sự phân bổ hợp thu nhập sao cho
nhu cầu của chúng ta được thỏa mãn mức cao nhất. Nếu xét góc độ một doanh
nghiệp hay một nền kinh tế cũng vậy, nó cũng luôn phải đối mặt với sự khan hiếm về
nguồn lực để sản xuất ra hàng hóa, dịch vụ trong việc đáp ứng nhu cầu xã hội. Doanh
nghiệp và nền kinh tế cũng phải tìm cách phân bổ các nguồn lực sao cho hiệu quả
cao nhất.
Như vậy, vấn đề khan hiếm nguồn lực yêu cầu các nền kinh tế hay các doanh nghiệp
phải giải quyết đối với sự lựa chọn. Các nhà kinh tế cho rằng: “Kinh tế học khoa
học của sự lựa chọn”. Kinh tế học tập trung vào việc sử dụng quản các nguồn
lực hạn chế để đạt được thỏa mãn tối đa nhu cầu vật chất của con người. Kinh tế học
nghiên cứu hành vi trong sản xuất, phân phối tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ trong
điều kiện nguồn lực hạn chế.
Như vậy, Kinh tế học môn khoa học hội nghiên cứu cách thức phân bổ sử
dụng nguồn tài nguyên khan hiếm để đáp ứng nhu cầu vô hạn của con người.
Dựa vào hành vi kinh tế, các nhà kinh tế phân kinh tế học theo hai nhánh Kinh tế
học vi mô và Kinh tế học vĩ mô.
Kinh tế học vi nghiên cứu cách thức ra quyết định của các hộ gia đình hãng
kinh doanh cũng như sự tương tác của họ trên các thị trường cụ thể.
Kinh tế học vĩ mô nghiên cứu sự vận động và những mối quan hệ kinh tế chủ yếu của
một nền kinh tế ở góc độ tổng thể hay trên bình diện toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế vĩ mô nhấn mạnh tới sự tương tác trong nền kinh tế nói chung. Nghiên cứu sự
lựa chọn của mỗi quốc gia trước những vấn đề kinh tế hội bản như tăng
3
trưởng kinh tế, lạm phát, thất nghiệp, cán cân thanh toán, sự phân phối nguồn lực
phân phối thu nhập cho các thành viên trong xã hội.
Kinh tế học vi kinh tế học tuy khác nhau nhưng đều những nội
dung quan trọng của kinh tế học, không thể chia cắt nhau, bổ sung cho nhau, tạo
thành hệ thống kiến thức của kinh tế thị trường sự điều tiết của nhà nước. Thực tế
đã chứng minh, kết quả của kinh tế vĩ mô phụ thuộc vào các hành vi của kinh tế vi mô,
kinh tế quốc dân phụ thuộc vào sự phát triển của doanh nghiệp, của tế bào kinh tế
trong sự tác động ảnh hưởng của kinh tế mô, của nền kinh tế. Kinh tế tạo
hành lang, tạo môi trường, tạo điều kiện cho kinh tế vi mô phát triển. Trong thực tiễn
kinh tế quản lý kinh tế, nếu chỉ giải quyết những vấn đề kinh tế vi mô hay quản
sản xuất kinh doanh mà không có sự điều chỉnh cần thiết của kinh tế vĩ mô, quản lý
hay quản nhà nước về kinh tế thì chẳng khác nào chỉ thấy từng cây không
thấy cả rừng cây, chỉ thấy từng tế bào kinh tế mà không thấy cả nền kinh tế.
Dựa vào cách tiếp cận kinh tế học được phân tích từ hai góc độ thực chứng chuẩn
tắc.
Kinh tế học thực chứngtả và phân tích các sự kiện, những mối quan hệ trong nền
kinh tế. Nói cách khác, giải thích sự hoạt động của nền kinh tế một cách khách
quan và khoa học.
Kinh tế học thực chứng trả lời câu hỏi : “là bao nhiêu? Là gì? Như thế nào?”
Mục đích của kinh tế học thực chứng muốn biết do sao nền kinh tế lại hoạt
động như vậy. Trên sở đó dự đoán phản ứng của khi sự thay đổi của hoàn
cảnh, đồng thời chúng ta thể sử dụng các công cụ điều chỉnh để hạn chế tác động
tiêu cực và khuyến khich mặt tích cực nhằm đạt được những kết quả mong muốn.
Kinh tế học chuẩn tắc đề cập đến mặt đạo được giải quyết bằng sự lựa chọn,
nghĩa là nó đưa ra quan điểm đánh giá hoặc lựa chọn cách thức giải quyết các vấn đề
kinh tế. Phân tích chuẩn tắc cho biết chúng ta nên làm gì, nó phụ thuộc vào giá trị cảm
nhận của mỗi cá nhân và rất khó có thể kiểm định được là đúng hay sai.
Việc nghiên cứu kinh tế thường được tiến hành từ kinh tế học thực chứng rồi chuyển
sang kinh tế học chuẩn tắc
Mặc kinh tế học nói chung kinh tế học nói riêng được nghiên cứu dưới
nhiều giác độ khác nhau, đồng thời trải qua nhiều giai đoạn lịch sử với những trường
phái, học thuyết khác nhau nhưng môn học này thống nhất với nhau ở một số ý tưởng
cơ bản, gọi là nguyên lý của kinh tế học. Những nguyên lý này do giáo sư Harvard, N.
Gregory Mankiw đưa ra nhằm định hướng chúng ta cách đưa ra câu hỏi và tìm lời giải
đáp cho các vấn đề kinh tế.
1.1.2. Mười nguyên lý của kinh tế học:
Nền kinh tế xét về mặt tổng thể là một nhóm người tác động qua lại với nhau trong
hội. Hoạt động của nền kinh tế thực tế chỉ tác động tổng hợp của các nhân cấu
thành nền kinh tế tạo ra. Bốn nguyên đầu chi phối quá trình ra quyết định của
nhân, liên quan đến kinh tế học vi mô. Sáu nguyên lý sau liên quan đến vấn đề kinh tế
4
vĩ mô, xem xét việc con người tương tác với nhau như thế nào và sự vận hành của nền
kinh tế với tư cách một tổng thể.
1.1.2.1. Con người ra quyết định như thế nào?
Nguyên lý 1: Con người phải đối mặt với sự đánh đổi
Bài học đầu tiên chúng ta thu được từ việc quan sát quá trình ra quyết định của con
người thể tóm tắt bằng câu ngạn ngữ : Mọi cái đều giá của nó”. Để được
một thứ ưa thích, bạn thường phải từ bỏ một thứ khác mà mình thích. Nói cách khác,
quá trình ra quyết định đòi hỏi phải đánh đổi mục tiêu nào đó để đạt được mục tiêu
khác. Chúng ta buộc phải đối mặt với sự đánh đổi do sự khan hiếm về nguồn lực
nên buộc phải lựa chọnphải chấp nhận từ bỏ một thứ để nhận được một thứ khác.
Chẳng hạn, một sinh viên phải đứng trước quyết định phân bổ nguồn lực quý báu nhất
của mình là thời gian. Anh ta có thể dùng toàn bộ thời gian để nghiên cứu kinh tế học,
hoặc dùng toàn bộ thời gian để nghiên cứu tâm lý học, hoặc phân chia thời gian giữa
hai môn học đó. Để một giờ học môn này anh ta phải từ bỏ một giờ học môn kia.
Để có một giờ học một trong hai môn, anh ta phải từ bỏ một giờ đi chơi, xem tivi hoặc
đi làm để kiếm thêm thu nhập.
Cần phải ý thức được rằng việc con người phải đối mặt với sự đánh đổi không cho
chúng ta biết họ sẽ hoặc cần ra những quyết định nào. Sinh viên không cần phải từ bỏ
môn tâm học để tăng thời gian cho việc nghiên cứu môn kinh tế học. Hay hội
không nên ngừng bảo vệ môi trường chỉ các quyết định các quyết định về môi
trường làm giảm mức sống vật chất của chúng ta…Việc nhận thức được sự đánh đổi
trong cuộc sống cũng có ý nghĩa quan trọng vì con người chỉ có thể ra quyết định đúng
đắn khi họ hiểu rõ các phương án có thể lựa chọn.
Nguyên lý 2: Chi phí của một thứ là cái mà bạn phải từ bỏ để có được nó.
Vì sự đánh đổi lien quan đến lợi ích và chi phí (tổn thất), nên trong quá trình ra quyết
định, mọi người thường so sánh giữa chi phí lợi ích của các đường lối hành động
khác nhau. Cái khó đây trong nhiều trường hợp, chi phí của một số hành động
không phải lúc nào cũng rõ ràng như khi mới nhìn qua.
Chẳng hạn chúng ta lấy dụ về quyết định đi học đại học. Lợi ích của phương án
hành động này là làm giàu thêm kiến thức và có cơ hội việc làm tốt hơn trong cả cuộc
đời. Thế còn chi phí củagì? Để trả lời câu hỏi này bạnthể cộng số tiền phải
trả cho học phí, sách vở và sinh hoạt lại với nhau. Nhưng tổng số tiền đó thực sự chưa
phải toàn bộ những gì bạn phải từ bỏ để theo học ở trường đại học.
Câu trả lời trên đây còn khiếm khuyết ở hai điểm. Thứ nhất nó bao gồm cả những thứ
không thực sự là chi phí cho việc học đại học. Ngay cả khi không học đại học, bạn vẫn
phải chi ra những khoản chi phí lien quan đến việc ăn ở, đi lại…và khoản chi phí lớn
nhất cho việc học đại học của bạn là thời gian. Nếu bạn dành thời gian cho việc học thì
bạn sẽ không thể sử dụng nó để làm công việc khác. Nhiều người cho rằng tiền lương
phải từ bỏ (do không đi làm) là khoản chi phí hay cái giá phải trả lớn nhất cho việc học
đại học của họ.
5
Khi đưa ra bất kỳ quyết định nào, người ra quyết định phải nhận thức được chi phí
hội gắn với các hành động có thể thực hiện.
Nguyên lý 3: Con người hành động hợp lý suy nghĩ tại điểm cận biên
Các nhà kinh tế sử dụng thuật ngữ thay đổi cận biên để chỉ những điều chỉnh nhỏ
tăng dần so với kế hoạch hành động hiện tại. Người ta ra quyết định bằng cách so sánh
lợi ích chi phí tại điểm cận biên. Chẳng hạn, người tiêu dùng muốn mua các hàng
hóa và dịch vụ cho phép họ tối đa hóa sự thỏa mãn đối với thu nhập của họ và mức giá
họ phải trả. Các doanh nghiệp muốn sản xuất sản lượng nhằm tối đa hóa lợi nhuận của
họ.
Các nhân doanh nghiệp thể đưa ra quyết định tốt hơn nhờ cách suy nghĩ
điểm cận biên. Con người hành động hợp chỉ quyết định tăng thêm hành động khi
thấy lợi ich cận biên cao hơn chi phí cận biên.
Nguyên lý 4: Con người đáp lại các kích thích
con người ra quyết định dựa trên so sánh chi phí lợi ích nên hành vi của họ
thể thay đổi khi lợi ích, chi phí hoặc cả hai thay đổi. Nghĩa là, con người đáp lại các
kích thích. Chẳng hạn khi giá táo tăng, mọi người quyết định ăn ít táo hơn và ăn nhiều
hơn, vì chi phí cho việc mua táo đã tăng lên. Đồng thời người trồng táo quyết định
thuê thêm công nhân và thu hoạch nhiều táo hơn vì lợi nhuận thu được từ việc bán táo
tăng lên. Như chúng ta sẽ thấy, tác động của giá cả lên hành vi của người mua
người bán trên thị trường trong trường hợp này thị trường táo- ý nghĩa quan
trọng trong việc tìm hiểu phương thức vận hành của nền kinh tế.
Các nhà hoạch định chính sách của nhà nước không được phép quên các kích thích,
nhiều chính sách làm thay đổi lợi ích, chi phí mà mọi người phải đối mặt hoặc cả hai,
bởi vậy chúng làm thay đổi hành vi của họ. dụ, việc tăng thuế xăng khuyến khích
mọi người sử dụng xe máy nhỏ hơn, tiết kiệm nhiên liệu hơn. cũng khuyến khích
mọi người sử dụng phương tiện giao thông công cộng thay cho việc sử dụng phương
tiện cá nhân hoặc tìm cách sống gần nơi làm việc hơn. Nếu thuế xăng cao đến mức độ
nhất định, có thể mọi người sẽ chuyển sang sử dụng xe đạp điện.
Khi phân tích bất kỳ một chính sách nào, không những chúng ta cần xem xét hậu quả
trực tiếp,còn phải chú ý tới tác động gián tiếp do các kích thích tạo ra. Nếu chính
sách làm thay đổi các kích thích, nó sẽ làm cho con người thay đổi hành vi.
1.1.2.2. Con người tương tác với nhau như thế nào?
Bốn nguyênđầu tiên nêu trên bàn về các phương diện khác nhau trong quá trình ra
quyết định cá nhân. Nhưng trong cuộc sống hàng ngày, nhiều quyết định của chúng ta
không chỉ ảnh hưởng đến bản thân chúng ta, còn tác động đến những người xung
quanh. Ba nguyên lý tiếp theo lien quan đến cách thức con người tương tác với nhau.
Nguyên lý 5: Thương mại làm cho mọi người đều có lợi
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ thì nền
kinh tế của hầu hết các nước trên thế giới hiện nay đều là nền kinh tế mở. Khi đó các
quốc gia sẽ tiến hành trao đổi thương mại với nhau và điều này làm cho mọi người đều
lợi. Khi trao đổi thương mại, mọi người thường nghĩ đến sự cạnh tranh giữa các
6
nước, giống như một cuộc thi đấu trong đó luôn kẻ thắng, người thua. Sự thật thì
thương mại giữa các nước sẽ có lợi. Thương mại cho phép mỗi nước chuyên môn hóa
vào lĩnh vực sản xuất có lợi thế tốt nhất, nhờ đóngười dân của quốc gia đó có thể
được hưởng thụ hàng hóa, dịch vụ phong phú hơn. Thương mại còn làm giảm được chi
phí do khai thác được hiệu quả kinh tế theo qui mô đồng thời thúc đẩy được hoạt đồng
thời thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất của nền
kinh tê.
Nguyên lý 6: Thị trường là phương thức tốt để tổ chức hoạt động kinh tế
Nền kinh tế thị trường được đặc trưng bởi quan hệ shữu nhân về nguồn lực sản
xuất sử dụng hệ thống thị trường giá cả để phối hợp định hướng các hoạt
động kinh tế. Trong cuốn sách ,Bàn về bản chất và nguồn gốc của cải của các dân tộc
xuất bản năm 1776 của nhà kinh tế học người Anh Adam Smith đa nhận định: Khi
tương tác với nhau trên thị trường, các hộ gia đình và doanh nghiệp theo đuổi lợi ích
nhân hành động như thể được dẫn dắt bởi một "bàn tay hình", đưa đến những
kết quả đáng mong muốn cho xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, giá cả là công cụ mà nhờ đó “bàn tay vô hình” điều hành
hoạt động nền kinh tế. Giá cả phản ánh giá trị hàng hóa đối với xã hội và chi phí mà xã
hội phải chịu để sản xuất ra nó. hộ gia đình doanh nghiệp nhìn vào giá cả khi
đưa ra quyết định mua bán cái gì, nên tình họ tính đến lợi ích và chi phíhội
hành vi của họ tạo ra. Kết quả giá cả giúp các nhân đưa ra quyết định
trong nhiều trường hợp cho phép tối đa hóa phúc lợi xã hội.
Nguyên lý 7: Khi thị trường thất bại, chính phủ có thể can thiệp làm cho nền kinh
tế hoạt động hiệu quả hơn.
Mặc thị trường phương thức tốt để tổ chức hoạt động kinh tế tốt nhưng không
phải lúc nào cũng đưa ra tình trạng tốt nhất. Trong một i trường hợp, nếu để thị
trường tự do quyết định thì có thể hoặc là người tiêu dùng, hoặc là doanh nghiệp hoặc
cả nền kinh tế đều bị thiệt hại. Khi đó các nhà kinh tế nói rằng, thị trường đã thất bại
trong việc phân bổ nguồn lực theo cách hiệu quả. Khi đó, chính phủ cần can thiệp
vào nền kinh tế để nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế đạt được những
mục tiêu đặt ra trong mỗi thời kỳ.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, chính phủ không can thiệp thường xuyên mà chỉ
can thiệp vào hoạt động của nền kinh tế khi thị trường phân bổ nguồn lực không hiệu
quả
1.1.2.3 Nền kinh tế với tư cách một tổng thể vận hành như thế nào?
Nguyên lý 8: Mức sống của một nước phụ thuộc vào năng lực sản xuất hàng hóa
và dịch vụ của nước đó.
Phần lớn sự khác biệt về mức sống là do sự khác biệt về năng suất giữa các nước – tức
số lượng hàng hóa đượcm ra trong mỗi giờ lao động của một công nhân. những
quốc gia năng suất lao động cao hơn, mức thu nhập của người dân trong quốc gia
đó cũng cao nên họ được hưởng mức sống tốt hơn. Còn ở những nước có năng suất lao
7
động thấp hơn thì hầu hết người dân của quốc gia đó có cuộc sống khó khăn hơn. Tốc
độ tăng năng suất của một quốc gia quyết định tốc độ tăng thu nhập bình quân của nó.
Mối quan hệ giữa năng suất mức sống còn có hàm ý sâu xa đối với chính sách của
nhà nước. Khi suy nghĩ về phương thức tác động của các chính sách đến mức sống,
chúng ta phải tập trung vào vấn đề then chốt là chúng ta tác động tới năng lực sản xuất
của chúng ta như thế nào. Để nâng cao mức sống, các nhà hoạch định chính sách cần
làm tăng năng suất lao động bằng cách đảm bảo rằng công nhân được đào tạo tốt,
đủ công cụ cần thiết để sản xuất hàng hóa dịch vụ cũng như được tiếp cận công
nghệ tốt nhất, hiện đại nhất.
Nguyên lý 9: Giá cả tăng khi chính phủ in quá nhiều tiền
Lạm phátsự tăng lên lien tục của mức giá chung của nền kinh tế trong một khoảng
thời gian nhất định.
Một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát là sự gia tăng của lượng tiền cung ứng.
Khi chính phủ phát hành quá nhiều tiền thì giá trị của tiền sẽ giảm.
Nguyên 10: hội phải đối mặt với sự đánh đổi ngắn hạn giữa lạm phát
thất nghiệp
Mối quan hệ giữa lạm phát thất nghiệp trong ngắn hạn được minh họa thông qua
đường Phillips tên của nhà kinh tế học đầu tiên nghiên cứu mối quan hệ này. Trong
ngắn hạn giữa lạm phát và thất nghiệp có quan hệ đánh đổi lẫn nhau. Điều đó có nghĩa
là, trong ngắn hạn nếu nền kinh tế muốn có tỷ lệ lạm phát thấp thì phải chịu mức thất
nghiệp cao và ngược lại.
Sự đánh đổi giữa lạm phát thất nghiệp tuy tính chất tạm thời nhưng thể
kéo dài trong một vài năm. Vì vậy, đường Phillips có ý nghĩa rất quan trọng trong việc
tìm hiểu xu thế phát triển của nền kinh tế. Đặc biệt, các nhà hoạch định chính sách
thể khai thác sđánh đổi này bằng cách vận dụng những công cụ chính sách khác
nhau. Thông qua việc thay đổi ức chi tiêu của chính phủ, thuế lượng tiền in ra,
trong ngắn hạn các nhà hoạch định chính sách thể tác động vào mối quan hệ giữa
lạm phát thất nghiệp nền kinh tế đang phải đối mặt.Vì các công cụ này của
chính sách tài chính và tiền tệ có sức mạnh tiềm tang như vậy, nên việc nhà hoạch định
chính sách sử dụng chúng như thế nào để quản nền kinh tế vẫn còn đề tài tranh
cãi.
1.2 Kinh tế học vĩ mô
1.2.1 Đối tượng nghiên cứu môn học:
Kinh tếlà môn khoa học nghiên cứu nền kinh tế dưới giác độ tổng thể.
Nó nghiên cứu các mối quan hệ tương tác lẫn nhau trong xã hội, nghiên cứu các vấn đề
to lớn bản của nền kinh tế như tăng trưởng, lạm phát, thất nghiệp, cán cân thương
mại, sự phân phối nguồn lực và phân phối thu nhập giữa các thành viên trong xã hội.
Một quốc gia có thể có những lựa chọn khác nhau tuỳ thuộc vào các ràng buộc
về nguồn
lực kinh tế hệ thống chính trị hội. Song sự lựa chọn đúng đắn nào cũng cần
đến sự hiểu
8
biết sâu sắc về các hoạt động mang tính khách quan về hệ thống kinh tế.
Như vậy đối tượng chính của kinh tế nền kinh tế hỗn hợp hay nền
kinh tế tổng thể. Nền kinh tế ở đây được hiểu là một hệ thống, trong hệ thống đó các tế
bào kinh tế sẽ sự tương tác lẫn nhau. Đồng thời thông qua việc phân tích sự vận
động của nền kinh tế để phân tích các tổng lượng kinh tế vĩ mô. Tổng lượng kinh tế
mô là tổng giá trị của một đại lượng được xét trên phạm vi nền kinh tế, nó bao gồm 2
loại:
+ Các tổng lượng liên quan đến thành tựu kinh tế vĩ gồm các chỉ tiêu: sản
lượng tăng trưởng kinh tế; việc làm thất nghiệp; lạm phát; sự cân bằng của cán
cân thương mại.
+ Các tổng lượng liên quan đến các công cụ, chính sách kinh tế mô: chính
sách tài khoá (Tổng thu và mức chi tiêu của Chính phủ); chính sách tiền tệ ( mức cung
tiền và lãi suất trên thị trường); chính sách thu nhập( tiền lương và mức giá cả); chính
sách kinh tế đối ngoại ( tỷ giá hối đoái, hạn ngạch, hàng rào phi thuế quan…)
Trong kinh tế vĩ mô, chúng ta tìm cách giải quyết hai vấn đề:
Một là, Hai là, chúng ta tìm cách hiểu về hoạt động của nền kinh tế tổng thể.
chúng ta tìm cách đưa ra lời giải đáp cho câu hỏi là liệu chính phủ thể làm điều
để cải thiện thành tựu của nền kinh tế. Tức chúng ta quan tâm đến cả giải thích
khuyến nghị về chính sách.
1.2.2. Phương pháp nghiên cứu môn học
- Phương pháp trừu tượng hoá: Theo phương pháp này, người ta sẽ bóc tách
các nhân tố không định nghiên cứu ( cố định các nhân tố này ) để xem xét các mối
quan hệ kinh tế giữa những biến số bản. Mục đích để giảm bớt những chi tiết
phức tạp của nền kinh tế, tạo điều kiện tập trung phân tích những hiện tượng kinh tế
quan trọng nhất, qua đó dễ dàng dự báo và giải thích biểu hiện của những biến số quan
trọng.
- Phương pháp cân bằng tổng hợp: Theo phương pháp này chúng ta sẽ xem xét
sự cân bằng đồng thời của tất cả các thị trường của các hàng hoácác nhân tố, xem
xét đồng thời khả năng cung cấp và sản lượng của toàn bộ nền kinh tế, từ đó xác định
đồng thời giá cả và sản lượng cân bằng- những yếu tố quyết định tính hiệu quả của hệ
thống kinh tế. Chẳng hạn, trong phân tích kinh tế chúng ta quan tâm đến tổng
sản lượng của nền kinh tế (GDP) chứ không phải là sản lượng của từng loại hàng hóa
biệt, hay chúng ta phân tích về mức giá chung chứ không phải giá của từng mặt
hàng.
- Phương pháp mô hình hoá: hình sự trừu tượng hóa thực tế để làm
sở cho phân tích kinh tế. Các nhà kinh tế mô phỏng nền kinh tế bao gồm các biến quan
trọng và loại bỏ các biến không quan trọng. Các hình phân tích thường được biểu
diễn dưới dạng toán học, các mô hình thống kê và kinh tế lượng
+ Phân tích bằng toán: biểu diễn và biến đổi thông qua các phương trình toán
học để đi đến kết luận; biểu diễn bằng đồ thị,…
VD: Qd = a – bP; a và b > 0
9
(1 Y/Y*) = á(u u*): trong đó Y sản lượng thực tế, Y* sản lượng tự
nhiên; u là thất nghiệp thực tế và u* là thất nghiệp tự nhiên.
+ Phân tích bằng thống kinh tế lượng: thống giá trị của các chỉ tiêu
kinh tế, hồi quy để định lượng quan hệ giữa các biến. VD: Qd = 1000 – 50P
(1 – Y/Y*) = 2(u – u*): quy luật Okun
Trong hình kinh tế, các biến được coi cho trước từ bên ngoài hình
được gọi biến ngoại sinh (biến giải thích), các biến được giải thích bên trong
hình được gọi là biến nội sinh (biến được giải thích). Mục đích của việc xây dựng mô
hình là nhằm xem xét sự thay đổi của các biến ngoại sinh có ảnh hưởng ra sao đến các
biến nội sinh.
- Ngoài ra, kinh tế còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác nữa
như phương pháp phân tích thống kê số lớn, phương pháp logic…
1.2.3 Các vấn đề kinh tế vĩ mô cơ bản:
Sản lượng quốc gia:
Sản lượng quốc gia tổng giá trị các hàng hóa dịch vụ được sản xuất ra
trong một nền kinh tế một thời kỳ nhất định. Chỉ tiêu này thước đo cuối cùng để
đánh giá thành tựu kinh tế của một quốc gia. Chỉ tiêu toàn diện nhất để đo lường sản
lượng quốc gia chỉ tiêu tổng sản phẩm trong nước (GDP) hay tổng sản phẩm quốc
dân (GNP). Chỉ tiêu GDP (GNP) thể được tính theo giá cả hiện hành, được gọi
GDP danh nghĩa hoặc được tính theo giá cố định của một năm được lấy làm gốc gọi là
GDP thực tế. Sự biến động của GDP thực tế sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh
tế của một quốc gia.
Chu kỳ kinh doanh:
Chu kỳ kinh doanh là sự dao động lên xuống của sản lượng thực tế (GDP thực
tế) xung quanh xu hướng tăng lên của sản lượng tiềm năng.
Chu kỳ kinh doanh có ba giai đoạn: suy thoái, phục hồi và hưng thịnh. Những
biến động từ phía tổng cung hoặc tổng cầu gây ra sự biến động về sản lượng của nền
kinh tế và tạo nên chu kỳ kinh doanh. Chính phủ cũng có thể can thiệp bằng các chính
sách tài khóa và tiền tệ để làm dịu hoặc triệt tiêu những biến động ngắn hạn trong nền
kinh tế và đưa nền kinh tế trở về trạng thái tối ưu.
Lạm phát:
Tỷ lệ lạm phát là sự tăng lên liên tục của mức giá chung của nền kinh tế trong
một khoảng thời gian nhất định.
Tỷ lệ lạm phát của nền kinh tế được xác định thông qua các chỉ số giá được đo
bằng phần trăm thay đổi của chỉ số giá năm nay so với năm trước. Tỷ lệ lạm phát
một trong các biến số kinh tế bản để phản ánh tình trạng hoạt động của nền
kinh tế. Lạm phát hiện tượng phổ biến trên thế giới trong những thập kỷ gần đây.
Vấn đề đặt ra điều quy định tỷ lệ lạm phát dài hạn dài hạn những biến động
ngắn hạn của lạm phát trong một nền kinh tế? Lạm phátthể gây ra những tác động
gì cho nền kinh tế? Khi lạm phát cao thì làm cách nào để kiềm chế?.. Tuy nhiên trong
nền kinh tế thị trường thì không thể áp đặt một cơ chế giá cứng nhắc, điều này sẽ làm
10
cho thị trường phân bổ nguồn lực không hiệu quả. vậy, nền kinh tế thể chấp
nhận một tỷ lệ lạm phát thấp và chỉ nên kiềm chế nó khi ở mức quá cao (lạm phát phi
mã hoặc siêu lạm phát), ảnh hưởng xấu tới toàn bộ nền kinh tế.
Thất nghiệp:
Thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động, thuộc lực lượng lao động
sẵn sàng làm việc với mức lương hội quyết định, nỗ lực tìm kiếm việc nhưng
không kiếm được việc làm.
Tình trạng thất nghiệp của một nền kinh tế được phản ánh thông qua chỉ tiêu
tỷ lệ thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp đo lường số người không có việc làm và đang tích
cực tìm việc tính theo tỷ lệ phần trăm so với lực lượng lao động. Cũng như tỷ lệ lạm
phát, tỷ lệ thất nghiệp cũng một biến kinh tế quan trọng phản ánh hoạt
động của nền kinh tế. Sự biến động ngắn hạn của tỷ lệ thất nghiệp cũng liên quan đến
những dao động theo chu kỳ kinh doanh Nếu tỷ lệ thất nghiệp cao, nghĩa nền
kinh tế còn thừa nguồn lực đang trong trạng thái suy thoái hay hoạt động của
nền kinh tế chưa tối ưu. Ngược lại nếu tỷ lệ thất nghiệp thấp và đạt gần bằng tỷ lệ thất
nghiệp tự nhiên có nghĩa là nền kinh tế đang tiến triển tốt.
Cán cân thanh toán:
Hiện nay các giao dịch của một quốc gia không chỉ giới hạn trong phạm vi
quốc gia đó còn mở rộng ra các nước khác. Các giao dịch đó thể mua bán
hàng hóa, dịch vụ, các hoạt động đầu tư, mua bán tài sản tài chính…Tất cả cả các
giao dịch này được thể hiện trong bảng cán cân thanh toán quốc tế (hay còn gọi là cán
cân thương mại). Cán cân thanh toán là một bản báo cáo của một quốc gia về tất cả các
giao dịch về hàng hóa, dịch vụ hay tài sản của quốc gia đó với các nước còn lại của thế
giới. Đồng thời nó cũng là một bản báo cáo về tình hình cung cấp và sử dụng ngoại tệ
của một quốc gia.
Việt Nam nhìn chung có thâm hụt cán cân thương mại. Nghiên cứu về cán cân
thanh toán cho thấy sự mất cân bằng thanh toán liên quan chặt chẽ tới dòng chu
chuyển vốn quóc tế. Nhìn chung khi một nước nhập khẩu nhiều hàng hóan từ thế
giới bên ngoài so với xuất khẩu, cần phải trang trải cho phần nhập khẩu dôi ra đó
bằng cách vay tiền từ thế giới bên ngoài hoặc giảm tài sản quốc tế. Ngược lại, khi một
nước có xuất khẩu lớn hơn nhập khẩu thì nước đó sẽ có tích tụ tài sản từ thế giới bên
ngoài. Như vậy, nghiên cứu về cán cân thanh toán liên qua chặt chẽ tới việc nghiên
cứu tại sao các côngn một nước lại đi vay hoặc cho các công dân nước khác vay
tiền.
1.3Mục tiêu và chính sách kinh tế vĩ mô
1.3.1 Mục tiêu của kinh tế vĩ mô
Để đánh giá thành tựu kinh tế của một quốc gia, người ta thường đánh giá trên
3 dấu hiệu cơ bản ( Các mục tiêu tổng quát) sau:
- Ổn định kinh tế vĩ mô trong ngắn hạn:
Một trong những khuyết tật của kinh tế thị trường tự tạo ra các chu kỳ kinh
doanh. Chu kỳ kinh doanhsự dao động lên xuống của mức sản lượng thực tế xoay
11
quanh mức sản lượng tiềm năng mức sản lượng tối ưu nền kinh tế thể sản
xuất ra trong điều kiện toàn dụng nhân công. Khi mức sản lượng thực tế nhỏ hơn mức
sản lượng tiềm năng, nền kinh tế rơi vào trạng thái suy thoái . Trong thời kỳ suy thoái
mức sản lượng thực tế thấp thất nghiệp gia tăng. Ngược lại, khi mức sản lượng
thực tế cao hơn mức sản lượng tiềm năng nền kinh tế ở vào trạng thái hưng thịnh kèm
theo mức lạm phát cao. Trong cả hai trạng thái suy thoái hoặc hưng thịnh nền kinh tế
đều chưa tối ưu. vậy, thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế trong ngắn hạn
nhằm kiểm soát tổng cầu, làm dịu hay triệt tiêu được những biến động ngắn hạn trong
nền kinh tế để đạt được mức sản lượng tiềm năng.
- Tăng trưởng nhanh và bền vững trong dài hạn :
Mức sống của một quốc gia sẽ phụ thuộc vào khả năng sản xuất hàng hóa, dịch vụ của
quốc gia đó. Nếu sản lượng của nền kinh tế cao và tăng nhanh thì mức sống của người
dân trong quốc gia đó sẽ cao được cải thiện tốt hơn. Tăng trưởng kinh tế cũng
nghĩa là gia tăng năng lực sản xuất của quốc gia một cách bền vững theo thời gian, tức
tốc độ tăng trưởng cao phải đạt được trong dài hạn. Đối với các nước chậm phát
triển thì chỉ có tăng trưởng nhanh và bền vững mới tránh được nguy cơ tụt hậu.
Để đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững thì không chỉ có sự gia tăng
về nguồn lực sản xuất mà còn cần có một hệ thống chính sách hợp lý nhằm quản lý và
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tăng năng suất lao động và tăng khả năng sản xuất
của nền kinh tế.
- Thực hiện công bằng xã hội
- Sự công bằng trong hội thể hiện vấn đề về phân phối thu nhập giữa các
tầng lớp dân cư. Thực tế cho thấy, bản thân nền kinh tế thị trường tự do không tự động
dẫn đến công bằng xã hội mà trái lại còn làm tăng thêm sự phân hóa giàu nghèo, tạo ra
sự bất bình đẳng trong hội. Sự bất bình đẳng thường xảy ra khi nền kinh tế giai
đoạn đầu của sự phát triển, tuy nhiên cang về sau, chính sự phát triển kinh tế lại xóa
dần đi sự bất bình đẳng giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Do đógiai đoạn đầu,
khi nền kinh tếng phát triển, đời sống hội càng được cải thiện thì sự phân hóa
giàu nghèo càng rệt. vậy, trong việc thực hiện mục tiêu ổn định tăng trưởng
kinh tế thì mỗi quốc gia cũng phải đảm bảo sự bình đẳng tương đối giữa các tầng lớp
dân cư trong quốc gia đó.
Các nước khác nhau đặt thứ tự ưu tiên giải quyết các mục tiêu tổng quát một
cách khác nhau. Các nước đang phát triển thường đặt mục tiêu tăng trưởng vị trí ưu
tiên trong các mục tiêu tổng quát. Mặt khác, theo thời gian mục tiêu ổn định trường đặt
ra trong ngắn hạn, còn mục tiêu tăng trưởng thường đặt ra trong dài hạn.
Xuất phát từ các mục tiêu tổng quát, các nước đặt ra các mục tiêu cụ thể cho các
chính sách kinh tế mô. Thực chất của các mục tiêu cụ thể các mục tiêu đối với
đầu ra của hệ thống kinht ế vĩ mô, do vậy các chính sách kinh tế vĩ mô phải hướng tới
các mục tiêu cụ thể sau:
* Mục tiêu về sản lượng :
12
- Đạt được sản lượng thực tế cao, tương ứng với mức sản lượng tiềm năng. Đạt
tốc độ tăng trưởng cao và vững chắc
* Mục tiêu về việc làm:
- Tạo được nhiều việc làm tốt
- Hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp ( duy trì ở mức thất nghiệp tự nhiên)
* Mục tiêu ổn định giá cả :
- Hạ thấp và kiểm soát được lạm phát trong điều kiện thị trường tự do
* Mục tiêu kinh tế đối ngoại :
- Ổn định tỷ giá hối đoái .
- Cân bằng cán cân thanh toán.
* Phân phối công bằng : Giảm bớt khoảng cách thu nhập giữa các nhóm dân
cư trong nền kinh tế
Các mục tiêu kinh tế vĩ mô cụ thể nêu trên phản ánh một trạng thái lý tưởng của
nền kinh tế trong đó sản lượng đạt mức sản lượng tiềm năng, mức thất nghiệp bằng
thất nghiệp tự nhiên, lạm phát thấp thể kiểm soát được, cán cân thanh toán cân
bằng, tỷ giá hối đoái hầu như không đổi. Mặt khác trong thực tế các chính sách kinh tế
vĩ mô chỉ có khả năng làm giảm thiểu các sai lệch giữa trạng thái thực tế của nền kinh
tế so với trạng thái tưởng. Các mục tiêu kinh tế cthể thường bổ sung cho
nhau nhằm thúc đẩy tốc độ tăng trưởng(sản lượng) của nền kinh tế nhưng cũng có khi
giữa chúng xuất hiện những mâu thuẫn hay xung đột nội bộ. Các nhà làm chính sách
cần phải lựa chọn thứ tự ưu tiên đôi khi cần phải chấp nhận hi sinh nào đó trong
thời kỳ ngắn hạn.
Trong dài hạn thứ tự ưu tiên để giải quyết các mục tiêu kinh tế vĩ mô trên cũng
khác nhau giữa các nước. Với các nước đang phát triển thì mục tiêu tăng trưởng
thường được ưu tiên số một.
1.3.2. Các chính sách kinh tế vĩ mô chủ yếu:
Chính sách kinh tế vĩ mô là những công cụ mà các nhà hoạch định chính sách
có thể trực tiếp sử dụng để có ảnh hưởng tới các biến số mục tiêu.
Có bốn tập hợp công cụ chính của chính sách kinh tế vĩ mô. Mỗi một công cụ
chính sách một biến số kinh tế chịu squản trực tiếp hay gián tiếp của Chính
phủ, thay đổi công cụ chính sách này sẽ có tác động đến một hoặc nhiều mục tiêu kinh
tế vĩ mô.
* Chính sách tài khoá:
- Chính sách tài khoá nhằm điều chỉnh thu nhập chi tiêu của Chính phủ để
hướng nền kinh tế vào đạt mức sản lượng và việc làm mong muốn.
- Hai công cụ chủ yếu của Chính sách tài khoá chi tiêu của Chính phủ
thuế:
+ Chi tiêu của Chính phủ (G) tác động trực tiếp tới tổng cầu và sản lượng.
13
nghiên cứu các mối quan hệ tương tác lẫn nhau trong xã hội, nghiên cứu các vấn đề to
lớn cơ bản của nền kinh tế như tăng trưởng, lạm phát, thất nghiệp, cán cân thương mại.
3. Kinh tế môn khoa học hội, ngoài những phương pháp nghiên
cứu chung của các môn khoa học hội, kinh tế sử dụng các phương pháp
nghiên cứu riêng như: phương pháp trừu tượng hóa, phương pháp cân bằng tổng thể và
phương pháp mô hình hóa.
4. Các mục tiêu kinh tế vĩ mô được chia thành hai nhóm là mục tiêu tổng quát
mục tiêu cụ thể. Các mục tiêu tổng quát bao gồm: Sự ổn định kinh tế trong
ngắn hạn; Đảm bảo tăng trưởng nhanh bền vững trong dài hạn; Thực hiện công
bằng xã hội. Các mục tiêu cụ thể: đạt mức sản lượng thực tế cao; tạo ra nhiều công ăn
việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp; ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát; ổn định tỷ giá hối
đoái; thực hiện phân phối công bằng, giảm bớt khoảng cách về thu nhập. Tùy theo giai
đoạn phát triển của mỗi nền kinh tế mà các mục tiêu trên được sắp xếp theo thứ tự ưu
tiên khác nhau.
5. bốn chính sách kinh tế chủ yếu chính phủ thể sử dụng để
can thiệp vào nền kinh tế đó là: Chính sách tài khóa; Chính sách tiền tệ chính sách thu
nhập và chính sách kinh tế đối ngoại.
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN
1. Kinh tế học gì? Sự khác nhau giữa kinh tế học vi kinh tế học mô?
Cho biết mối liên hệ giữa hai nhánh này trong kinh tế học?
2. Nêu mười nguyên bản của kinh tế học? Những nguyên nào chi phối
hoạt động của kinh tế vĩ mô?
3. Trình bày đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu của kinh tế vĩ mô?
4. Các mục tiêu chủ yếu của kinh tế vĩ mô?
5. Nội dung các chính sách kinh tế vĩ mô chủ yếu?
BÀI TẬP VẬN DỤNG
1. Hãy tìm trên các phương tiện thông tin đại chúng một ví dụ về chính sách kinh tế
mô mà chính phủ đang sử dụng để tác động vào nền kinh tế Việt Nam trong thời gian
gần đây?
2. Chọn câu trả lời đúng nhất.
2.1Kinh tế vĩ mô nghiên cứu:
a. Các thị trường từng ngành hàng.
b. Nền kinh tế với tư cách một tổng thể, một hệ thống lớn.
c. Sự thay đổi giá cả của các mặt hàng.
d. Tất cả các ý trên.
2.2 Trong số các mục tiêu sau đây, mục tiêu nào không phải là mục tiêu của kinh tế
mô:
a. Tăng sản lượng tiềm năng.
b. Kiềm chế tốc độ tăng giá.
c. Kiểm soát giá xăng dầu.
15
d. Tạo ra nhiều việc làm cho xã hội.
2.3Công cụ nào sau đây là công cụ của chính sách tài khóa:
a. Tổng chi tiêu của chính phủ.
b. Lãi suất.
c. Thuế.
d. Tất cả các ý trên.
2.4 Công cụ nào sau đây không phải là công cụ của chính sách tiền tệ:
a. Thuế.
b. Mức cung tiền của ngân hàng trung ương.
c. Lãi suất.
d. Tất cả các ý trên.
3. Cho biết các nhận định sau đây, nhận định nào thuộc kinh tế vi mô, nhận định
nào thuộc kinh tế vĩ mô:
a. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam tiếp tục giảm trong tuần qua, trong bối cảnh thị
trường xuất khẩu gạo châu Á tiếp tục ảm đạm vì vắng bóng khách mua.
b. CPI tháng 3 và 3 tháng đầu năm 2013 thuộc loại thấp hơn cùng kỳ nhiều năm trước.
Tuy vẫn nằm trong thông lệ CPI thường giảm sau hai tháng Tết Dương lịch, Tết
Âm lịch (CPI tháng 3 trong 20 năm trước12 năm giảm, chỉ8 năm tăng) nhưng
diễn biến của giá tháng 3 vẫn hàm chứa nhiều yếu tố đáng lưu tâm...
c. Số liệu mới nhất của Tổng cục thống kê cho thấy tăng trưởng GDP quý I/2013 ước
tính tằng 4,89% so với cùng kỳ năm ngoái. Khu công nghiệp xây dựng, vốn chiếm
40% nền kinh tế Việt Nam, tăng trưởng 4,93% trong quý I, so với mức 5,15% cùng kỳ
năm 2012.
Điều này đồng nghĩa với việc năm 2013 rất có thể là năm thứ ba liên tiếp mà Việt Nam
tăng trưởng chưa đến 6%.
d. Cuối ngày 18/4, một quan chức từ Venezuela đã cho biết, tổ chức trên có thể sẽ phải
tiến hành cuộc họp khẩn cấp trong bối cảnh giá dầu thô giảm mạnh, song những thành
viên khác trong nhóm tỏ ra hoài nghi về khả năng một cuộc họp như vậy thể diễn
ra. Dù vậy, thực tế là giá dầu thô thế giới đang trong xu hướng suy giảm.
e. TPHCM đang nghiên cứu xây dựng 8 tuyến xe buýt nhanh (Bus Rapid Transit -
BRT) với tổng chiều dài 126 km chạy dọc theo các trục đường chính từ chợ Bến
Thành đi các quận, huyện.
f. Riêng trong 9 tháng đầu năm nay, tổng vốn đầu tư ra nước ngoài cả cấp mới và tăng
vốn của các doanh nghiệp trong nước đạt gần 1,3 tỷ USD.
Theo Cục Đầu tư nước ngoài, trong 9 tháng đầu năm 2012, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã
cấp giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài cho 66 dự án với tổng vốn đầu đăng
của nhà đầu tư Việt Nam đạt 1,217 tỷ USD.
g. Phiên giảm mạnh thứ hai liên tiếp vào đêm qua đã đưa giá vàng thế giới về dưới
mức 1.660 USD/oz. Giá kim loại quý đã ồ ạt lao dốc sau cú giảm mạnh của giá dầu thô
và thị trường chứng khoán kéo theo một đợt bán tháo các tài sản.
16
4. Hãy phân loại các nhận định sau đây thành nhận định thực chứng nhận
định chuẩn tắc? Hãy giải thích?
a. Xã hội phải đối mặt với sự đánh đổi ngắn hạn giữa lạm phát và thất nghiệp.
b. Việc cắt giảm tỷ lệ tăng cung tiền sẽ làm giảm tỷ lệ lạm phát.
c. Ngân hàng nhà nước Việt Nam cần cắt giảm tỷ lệ tăng cung tiền
d.Chính phủ cần yêu cầu người nhận phúc lợi xã hội nhanh chóng tìm được việc làm
e. Mức thuế thấp sẽ khuyến khích mọi người làm việc làm việc nhiều hơn và tiết kiệm
nhiều hơn.
Chương 2
TỔNG SẢN PHẨM VÀ THU NHẬP QUỐC DÂN
Mục tiêu của chương
- Cung cấp dữ liệu cho phân tích kinh tế vĩ mô.
- Cung cấp thông tin cho việc đánh giá các chính sách kinh tế.
- Biết cách xác định các chỉ tiêu trong hệ thống tài khoản quốc dân
NỘI DUNG LÝ THUYẾT
2.1 Tổng sản phẩm trong nước (GDP- Gross Domestic Product)
2.1.1. Khái niệm tổng sản phẩm trong nước (GDP)
Tổng sản phẩm trong nước là một chỉ tiêu được sử dụng phổ biến nhất để xem
xét đánh giá hoạt động của một nền kinh tế tốt hay không. GDP phản ánh tổng thu
nhập mà mọi người trong nền kinh tế kiếm được.
GDP là giá trị thị trường của toàn bộ hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản
xuất ra trong phạm vi lãnh thổ quốc gia trong một thời kỳ nhất định (thường một
năm)
Định nghĩa trên đây xem ra có vẻ khá đơn giản. Tuy nhiên trong thực tế rất
nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh khi tính toán GDP của nền kinh tế. Do vậy, chúng ta
hãy xem xét cẩn thận từng cụm từ trong định nghĩa này.
“GDP là giá trị thị trường…”
Tất cả các hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế đều biểu thị giá trị thị trường
thông qua giá cả. Giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa, có nghĩa
là GDP sử dụng đơn vị tiền tệ để tính toán. Nhờ đó mà GDP có thể cộng rất nhiều loại
sản phẩm khác nhau trong nền kinh tế thành một chỉ tiêu duy nhất về giá trị của hoạt
động kinh tế
“của tất cả…”
GDP cố gắng biểu thị một cách đầy đủ. bao gồm tất cả các hàng hóa được
sản xuất ra trong nền kinh tế và được bán hợp pháp trên các thị trường.
GDP còn bao gồm cgiá trị thị trường của dịch vụ nhà do khối lượng nhà
hiện của nền kinh tế cung cấp. Đối với những căn nhà cho thuê, chúng ta dễ dàng
tính được giá trị này, tiền thuê nhà đúng bằng chi tiêu của người thuê nhà thu
17
đó, hàng hóa trung được tạm thời coi là hàng hóa cuối cùng và giá trị của nó dưới dạng
đầu tư vào hàng tồn kho được tính vào GDP. Sau đó khi mức tồn kho hàng hóa trung
gian này được sử dụng hoặc bán, thì đầu vào hàng tồn kho của doanh nghiệp sẽ
âm, và GDP trong thời kỳ sau phải giảm một lượng tương ứng.
“…được sản xuất ra…”
GDP bao gồm mọi hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra trong thời kỳ hiện tại.
Nó không bao gồm những giao dịch liên quan đến hàng hóa được sản xuất ra trong quá
khứ. Khi công ty Toyota sản xuấtbán chiếc xe hơi mới, thì giá trị của chiếc xe hơi
đó được tính vào GDP. Khi người nào đó bán chiếc xe hơi đã qua sử dụng cho người
khác thì giá trị của chiếc xe hơi đó không được tính vào GDP.
“…trong phạm vi lãnh thổ quốc gia…”
GDP tính toán giá trị sản xuất trong phạm vi địa lý của một nước. dụ công
ty Ford của Mỹ sản xuất ô tại Việt Nam thì giá trị sản xuất của công ty này thuộc
GDP của Việt Nam. Hay một họa sĩ Việt Nam ở Pháp vẽ một bức tranh và rao bán thì
giá trị của bức tranh này được tính vào GDP của Pháp chứ không phải của Việt Nam.
Như vậy, GDP có thể bao gồm hàng hóa, dịch vụ do người dân quốc gia đó sản
xuất ra hoặc do người nước ngoài sản xuất tại nước đó. Nhưng GDP không bao gồm
kết quả hoạt động của người dân trong nước tiến hành ở nước ngoài.
“…trong một thời kỳ nhất định.”
GDP phản ánh giá trị sản xuất thực hiện trong một khoảng thời gian cụ thể.
Khoảng thời gian này thường một năm hoặc một quý. GDP phản ánh lượng thu
nhập hay chi tiêu của thời kỳ đó
Tổng sản phẩm trong nước một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh toàn bộ kết quả
cuối cùng của các hoạt động sản xuất. Nó phản ánh quan hệ tương hỗ trong quá trình
sản xuất, phân phối sử dụng cuối cùng của hàng hóa dịch vụ trong toàn bộ nền
kinh tế.
2.1.2. Các phương pháp tính GDP
2.1.2.1. Tổng thu nhập và tổng chi tiêu của nền kinh tế
GDP cùng một lúc phản ánh hai sự việc: tổng thu nhập của mọi người trong nền
kinh tế và tổng chi tiêu để mua sản lượng, hàng hóa và dịch vụ của nền kinh tế.
Mọi giao dịch trong nền kinh tế đều có một bên bán và một bên mua. Một lượng
tiền mà người mua trả chính là thu nhậpngười bán nhận được. Như vậy, tổng thu
nhập chính bằng tổng chi tiêu của nền kinh tế. Đây chính do tại sao GDP phản
ánh được cả tổng thu nhập và tổng chi tiêu của nền kinh tế.
Một cách khác để nhận thấy sự bằng nhau giữa thu nhập và chi tiêu là sử dụng sơ
đồ vòng luân chuyển kinh tế vĩ mô trong hình 2.1.
Trong một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh thường tồn tại bốn tác nhân kinh tế
cùng hoạt động. Đó là các hộ gia đình, các hãng kinh doanh, Chính phủ và người nước
ngoài. Song để tìm ra nguyên bản tính phương pháp luận cho việc xác định
GDP, chúng ta sử dụng phương pháp trừu tượng hoá bằng cách chưa xét đến vai trò
19
của khu vực Chính phủ người nước ngoài, đồng thời đưa ra giả định không ảnh
hưởng gì đến nguyên lý và quy tắc tính GDP như sau:
Thứ nhất, các hộ gia đình sở hữu các yếu tố đầu vào như: vốn, đất đai, sức lao
động...Họ cung cấp các yếu tố đó những dịch vụ tương ứng cho các hãng kinh
doanh và nhờ đó mà họ có thu nhập.
Thứ hai, các hãng mua các yếu tố đầu vào và các dịch vụ thích hợp để tổ chức
quá trình sản xuất ra hàng hoá dịch vụ cung cấp trở lại cho các hộ gia đình tiêu
dùng và cũng nhờ đó mà có thu nhập.
Thứ ba, toàn bộ thu nhập của các hộ gia đình phải được chi tiêu hết vào việc
mua hàng hoá tiêu dùng và các hãng cũng phải tiêu thụ hết hàng hoá, dịch vụ sản xuất
ra để thể tiếp tục quá trình sản xuất tiếp theo. Như vậy, lợi nhuận của hãng cũng
được chuyển thành thu nhập của các hộ gia đình. các hãng ngoài cách người
đầu tư thu lợi nhuận cònmột thành viên của xã hội, tức là cũng đóng vai trò là một
cá nhân hay một hộ gia đình.
Sự giao dịch giữa các hộ gia đình các hãng tạo nên một dòng luân chuyển
kinh tế vĩ mô và được mô tả qua sơ đồ sau:
Hình 2.1: Dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô
Nhìn vào sơ đồ ta có các nhận xét sau:
- Dòng luân chuyển bên trong của sơ đồ sự vận động của hàng hoá, dịch vụ
dưới hình thái hiện vật.
- Dòng luân chuyển bên ngoài dòng vận động giá trị của các hàng hoá
dịch vụ đó thông qua giao dịch của các tác nhân kinh tế.
Tuy nhiên, nền kinh tế trong thực tế phức tạp hơn rất nhiều so với nền kinh tế
được minh họa trong mô hình 2.1. Cụ thể, các hộ gia đình không chi tiêu hết thu nhập
của mình. Họ nộp một phần thu nhập của mình cho chính phủ dưới dạng thuế, cũng
như tiết kiệm và đầu tư một phần thu nhập để sử dụng trong tương lai. Ngoài ra, các hộ
gia đình không mua tất cả hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế. Một
số hàng hóa và dịch vụ được chính phủ mua, còn một số khác được các doanh nghiệp
mua, vì họ dự kiến trong tương lai sẽ sử dụng chúng vào việc sản xuất ra sản phẩm của
riêng họ. Tuy nhiên cho hộ gia đình, chính phủ hay doanh nghiệp mua hàng hóa
20
| 1/145

Preview text:

Bài giảng Kinh tế vĩ mô LỜI NÓI ĐẦU
Kinh tế học vĩ mô là môn kinh tế học cơ sở đề cập đến cơ sở lý thuyết và các phương
pháp phân tích sự vận động của nền kinh tế tổng thể, làm nền tảng cho các phân tích chuyên
ngành kinh tế khác. Đây cũng là môn học trong chương trình đào tạo của chuyên ngành Kế
toán, Quản trị kinh doanh và Tài chính ngân hàng của Trường Đại học Kinh tế - kỹ thuật Công nghiệp
Giáo trình kinh tế vĩ mô là tài liệu được biên soạn dùng trong giảng dạy và học tập
của sinh viên khối kinh tế. Giáo trình cung cấp những kiến thức cơ bản của kinh tế học vĩ mô,
bao gồm những nguyên lý chung của kinh tế học; nghiên cứu các hoạt động của nền kinh tế
dưới góc độ tổng thể và việc xác định những biến số kinh tế vĩ mô chủ yếu; những yếu tố ảnh
hưởng đến sự biến đổi của các biến số đó cũng như các kiến thức ban đầu về các chính sách kinh tế vĩ mô.
Giáo trình kinh tế vĩ mô bao gồm các phần sau:
- Chương 1: Giới thiệu về kinh tế học vĩ mô
- Chương 2: Tổng sản phẩm và thu nhập quốc dân
- Chương 3: Tổng cầu và tổng cung
- Chương4: Thị trường tiền tệ
- Chương 5: Ảnh hưởng của chính sách tài khóa và tiền tệ đến tổng cầu
- Chương 6: Lạm phát và thất nghiệp
- Chương 7: Kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế mở
Giáo trình kinh tế vĩ mô được biên soạn rõ ràng, dễ hiểu theo một trình tự thống nhất:
Mục đích yêu cầu, nội dung, tóm tắt nội dung, câu hỏi ôn tập và thảo luận, bài tập vận dụng,
phù hợp làm tài liệu tham khảo và học tập của sinh viên khối kinh tế, trường Đại học Kinh tế Kỹ thuật Công Nghiệp.
Giáo trình kinh tế vĩ mô đã được biên soạn để đảm bảo tính khoa học, hiện đại và gần
với thực tiễn nền kinh tế hơn. Mặc dù có nhiều cố gắng song do giáo trình lần đầu tiên được
biên soạn và với thời gian có hạn nên không thể tránh khỏi những sơ suất cả về nội dung và
hình thức. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để giáo trình được hoàn thiện hơn. TM nhóm biên soạn Ths. Lê Kim Anh Khoa Kinh tế cơ sở 2 CHƯƠNG 1:
GIỚI THIỆU VỀ KINH TẾ HỌC VĨ MÔ Mục tiêu của chương:
- Cung cấp các kiến thức ban đầu về môn học
- Nắm được các nguyên lý cơ bản của kinh tế học, vận dụng trong phân tích các vấn đề kinh tế.
- Hiểu được các khái niệm cơ bản và công cụ phân tích quan trọng của kinh tế vĩ mô.
- Nắm được các mục tiêu và chính sách kinh tế vĩ mô cơ bản
1.1. Khái quát về kinh tế học
1.1.1 Kinh tế học và kinh tế học vĩ mô
Các nhà kinh tế cho rằng vấn đề trọng tâm của kinh tế học là sự khan hiếm. Sự khan
hiếm nguồn lực đòi hỏi các cá nhân và xã hội phải đưa ra quyết định lựa chọn. Kinh tế
học nghiên cứu sự lựa chọn trong điều kiện nguồn lực khan hiếm. Sự khan hiếm xảy ra
khi nguồn lực của nền kinh tế không đủ để thỏa mãn cầu của tất cả các chủ thể trong
nền kinh tế đó. Con người từ lúc sinh ra và trưởng thành đếu có nhu cầu về tình yêu,
sự thừa nhận xã hội, nhu cầu vật chất và tiện nghi cuộc sống. Nhu cầu của chúng ta rất
đa dạng và phong phú nhưng không bao giờ có giới hạn. Trong thực tế không phải bất
cứ cái gì chúng ta muốn đều có thể đạt được mà ngược lại, khả năng đáp ứng nhu cầu
của chúng ta luôn bị giới hạn, ít nhất là bị giới hạn bởi thu nhập, điều này thể hiện sự
khan hiếm về tiền bạc, đòi hỏi chúng ta phải có sự phân bổ hợp lý thu nhập sao cho
nhu cầu của chúng ta được thỏa mãn ở mức cao nhất. Nếu xét ở góc độ một doanh
nghiệp hay một nền kinh tế cũng vậy, nó cũng luôn phải đối mặt với sự khan hiếm về
nguồn lực để sản xuất ra hàng hóa, dịch vụ trong việc đáp ứng nhu cầu xã hội. Doanh
nghiệp và nền kinh tế cũng phải tìm cách phân bổ các nguồn lực sao cho có hiệu quả cao nhất.
Như vậy, vấn đề khan hiếm nguồn lực yêu cầu các nền kinh tế hay các doanh nghiệp
phải giải quyết đối với sự lựa chọn. Các nhà kinh tế cho rằng: “Kinh tế học là khoa
học của sự lựa chọn”.
Kinh tế học tập trung vào việc sử dụng và quản lý các nguồn
lực hạn chế để đạt được thỏa mãn tối đa nhu cầu vật chất của con người. Kinh tế học
nghiên cứu hành vi trong sản xuất, phân phối và tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ trong
điều kiện nguồn lực hạn chế.
Như vậy, Kinh tế học là môn khoa học xã hội nghiên cứu cách thức phân bổ và sử
dụng nguồn tài nguyên khan hiếm để đáp ứng nhu cầu vô hạn của con người.
Dựa vào hành vi kinh tế, các nhà kinh tế phân kinh tế học theo hai nhánh là Kinh tế
học vi mô và Kinh tế học vĩ mô.
Kinh tế học vi mô nghiên cứu cách thức ra quyết định của các hộ gia đình và hãng
kinh doanh cũng như sự tương tác của họ trên các thị trường cụ thể.
Kinh tế học vĩ mô nghiên cứu sự vận động và những mối quan hệ kinh tế chủ yếu của
một nền kinh tế ở góc độ tổng thể hay trên bình diện toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế vĩ mô nhấn mạnh tới sự tương tác trong nền kinh tế nói chung. Nghiên cứu sự
lựa chọn của mỗi quốc gia trước những vấn đề kinh tế và xã hội cơ bản như tăng 3
trưởng kinh tế, lạm phát, thất nghiệp, cán cân thanh toán, sự phân phối nguồn lực và
phân phối thu nhập cho các thành viên trong xã hội.
Kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô tuy khác nhau nhưng đều là những nội
dung quan trọng của kinh tế học, không thể chia cắt nhau, mà bổ sung cho nhau, tạo
thành hệ thống kiến thức của kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Thực tế
đã chứng minh, kết quả của kinh tế vĩ mô phụ thuộc vào các hành vi của kinh tế vi mô,
kinh tế quốc dân phụ thuộc vào sự phát triển của doanh nghiệp, của tế bào kinh tế
trong sự tác động ảnh hưởng của kinh tế vĩ mô, của nền kinh tế. Kinh tế vĩ mô tạo
hành lang, tạo môi trường, tạo điều kiện cho kinh tế vi mô phát triển. Trong thực tiễn
kinh tế và quản lý kinh tế, nếu chỉ giải quyết những vấn đề kinh tế vi mô hay quản lý
sản xuất kinh doanh mà không có sự điều chỉnh cần thiết của kinh tế vĩ mô, quản lý vĩ
mô hay quản lý nhà nước về kinh tế thì chẳng khác nào chỉ thấy từng cây mà không
thấy cả rừng cây, chỉ thấy từng tế bào kinh tế mà không thấy cả nền kinh tế.
Dựa vào cách tiếp cận kinh tế học được phân tích từ hai góc độ thực chứng và chuẩn tắc.
Kinh tế học thực chứng mô tả và phân tích các sự kiện, những mối quan hệ trong nền
kinh tế. Nói cách khác, nó giải thích sự hoạt động của nền kinh tế một cách khách quan và khoa học.
Kinh tế học thực chứng trả lời câu hỏi : “là bao nhiêu? Là gì? Như thế nào?”
Mục đích của kinh tế học thực chứng là muốn biết lý do vì sao nền kinh tế lại hoạt
động như vậy. Trên cơ sở đó dự đoán phản ứng của nó khi có sự thay đổi của hoàn
cảnh, đồng thời chúng ta có thể sử dụng các công cụ điều chỉnh để hạn chế tác động
tiêu cực và khuyến khich mặt tích cực nhằm đạt được những kết quả mong muốn.
Kinh tế học chuẩn tắc đề cập đến mặt đạo lý được giải quyết bằng sự lựa chọn, có
nghĩa là nó đưa ra quan điểm đánh giá hoặc lựa chọn cách thức giải quyết các vấn đề
kinh tế. Phân tích chuẩn tắc cho biết chúng ta nên làm gì, nó phụ thuộc vào giá trị cảm
nhận của mỗi cá nhân và rất khó có thể kiểm định được là đúng hay sai.
Việc nghiên cứu kinh tế thường được tiến hành từ kinh tế học thực chứng rồi chuyển
sang kinh tế học chuẩn tắc
Mặc dù kinh tế học nói chung và kinh tế học vĩ mô nói riêng được nghiên cứu dưới
nhiều giác độ khác nhau, đồng thời trải qua nhiều giai đoạn lịch sử với những trường
phái, học thuyết khác nhau nhưng môn học này thống nhất với nhau ở một số ý tưởng
cơ bản, gọi là nguyên lý của kinh tế học. Những nguyên lý này do giáo sư Harvard, N.
Gregory Mankiw đưa ra nhằm định hướng chúng ta cách đưa ra câu hỏi và tìm lời giải
đáp cho các vấn đề kinh tế.
1.1.2. Mười nguyên lý của kinh tế học:
Nền kinh tế xét về mặt tổng thể là một nhóm người tác động qua lại với nhau trong xã
hội. Hoạt động của nền kinh tế thực tế chỉ là tác động tổng hợp của các cá nhân cấu
thành nền kinh tế tạo ra. Bốn nguyên lý đầu chi phối quá trình ra quyết định của cá
nhân, liên quan đến kinh tế học vi mô. Sáu nguyên lý sau liên quan đến vấn đề kinh tế 4
vĩ mô, xem xét việc con người tương tác với nhau như thế nào và sự vận hành của nền
kinh tế với tư cách một tổng thể.
1.1.2.1. Con người ra quyết định như thế nào?
Nguyên lý 1: Con người phải đối mặt với sự đánh đổi
Bài học đầu tiên chúng ta thu được từ việc quan sát quá trình ra quyết định của con
người có thể tóm tắt bằng câu ngạn ngữ : “ Mọi cái đều có giá của nó”. Để có được
một thứ ưa thích, bạn thường phải từ bỏ một thứ khác mà mình thích. Nói cách khác,
quá trình ra quyết định đòi hỏi phải đánh đổi mục tiêu nào đó để đạt được mục tiêu
khác. Chúng ta buộc phải đối mặt với sự đánh đổi là do sự khan hiếm về nguồn lực
nên buộc phải lựa chọn và phải chấp nhận từ bỏ một thứ để nhận được một thứ khác.
Chẳng hạn, một sinh viên phải đứng trước quyết định phân bổ nguồn lực quý báu nhất
của mình là thời gian. Anh ta có thể dùng toàn bộ thời gian để nghiên cứu kinh tế học,
hoặc dùng toàn bộ thời gian để nghiên cứu tâm lý học, hoặc phân chia thời gian giữa
hai môn học đó. Để có một giờ học môn này anh ta phải từ bỏ một giờ học môn kia.
Để có một giờ học một trong hai môn, anh ta phải từ bỏ một giờ đi chơi, xem tivi hoặc
đi làm để kiếm thêm thu nhập.
Cần phải ý thức được rằng việc con người phải đối mặt với sự đánh đổi không cho
chúng ta biết họ sẽ hoặc cần ra những quyết định nào. Sinh viên không cần phải từ bỏ
môn tâm lý học để tăng thời gian cho việc nghiên cứu môn kinh tế học. Hay xã hội
không nên ngừng bảo vệ môi trường chỉ vì các quyết định vì các quyết định về môi
trường làm giảm mức sống vật chất của chúng ta…Việc nhận thức được sự đánh đổi
trong cuộc sống cũng có ý nghĩa quan trọng vì con người chỉ có thể ra quyết định đúng
đắn khi họ hiểu rõ các phương án có thể lựa chọn.
Nguyên lý 2: Chi phí của một thứ là cái mà bạn phải từ bỏ để có được nó.
Vì sự đánh đổi lien quan đến lợi ích và chi phí (tổn thất), nên trong quá trình ra quyết
định, mọi người thường so sánh giữa chi phí và lợi ích của các đường lối hành động
khác nhau. Cái khó ở đây là trong nhiều trường hợp, chi phí của một số hành động
không phải lúc nào cũng rõ ràng như khi mới nhìn qua.
Chẳng hạn chúng ta lấy ví dụ về quyết định đi học đại học. Lợi ích của phương án
hành động này là làm giàu thêm kiến thức và có cơ hội việc làm tốt hơn trong cả cuộc
đời. Thế còn chi phí của nó là gì? Để trả lời câu hỏi này bạn có thể cộng số tiền phải
trả cho học phí, sách vở và sinh hoạt lại với nhau. Nhưng tổng số tiền đó thực sự chưa
phải toàn bộ những gì bạn phải từ bỏ để theo học ở trường đại học.
Câu trả lời trên đây còn khiếm khuyết ở hai điểm. Thứ nhất nó bao gồm cả những thứ
không thực sự là chi phí cho việc học đại học. Ngay cả khi không học đại học, bạn vẫn
phải chi ra những khoản chi phí lien quan đến việc ăn ở, đi lại…và khoản chi phí lớn
nhất cho việc học đại học của bạn là thời gian. Nếu bạn dành thời gian cho việc học thì
bạn sẽ không thể sử dụng nó để làm công việc khác. Nhiều người cho rằng tiền lương
phải từ bỏ (do không đi làm) là khoản chi phí hay cái giá phải trả lớn nhất cho việc học đại học của họ. 5
Khi đưa ra bất kỳ quyết định nào, người ra quyết định phải nhận thức được chi phí cơ
hội gắn với các hành động có thể thực hiện.
Nguyên lý 3: Con người hành động hợp lý suy nghĩ tại điểm cận biên
Các nhà kinh tế sử dụng thuật ngữ thay đổi cận biên để chỉ những điều chỉnh nhỏ và
tăng dần so với kế hoạch hành động hiện tại. Người ta ra quyết định bằng cách so sánh
lợi ích và chi phí tại điểm cận biên. Chẳng hạn, người tiêu dùng muốn mua các hàng
hóa và dịch vụ cho phép họ tối đa hóa sự thỏa mãn đối với thu nhập của họ và mức giá
họ phải trả. Các doanh nghiệp muốn sản xuất sản lượng nhằm tối đa hóa lợi nhuận của họ.
Các cá nhân và doanh nghiệp có thể đưa ra quyết định tốt hơn nhờ cách suy nghĩ ở
điểm cận biên. Con người hành động hợp lý chỉ quyết định tăng thêm hành động khi
thấy lợi ich cận biên cao hơn chi phí cận biên.
Nguyên lý 4: Con người đáp lại các kích thích
Vì con người ra quyết định dựa trên so sánh chi phí và lợi ích nên hành vi của họ có
thể thay đổi khi lợi ích, chi phí hoặc cả hai thay đổi. Nghĩa là, con người đáp lại các
kích thích. Chẳng hạn khi giá táo tăng, mọi người quyết định ăn ít táo hơn và ăn nhiều
lê hơn, vì chi phí cho việc mua táo đã tăng lên. Đồng thời người trồng táo quyết định
thuê thêm công nhân và thu hoạch nhiều táo hơn vì lợi nhuận thu được từ việc bán táo
tăng lên. Như chúng ta sẽ thấy, tác động của giá cả lên hành vi của người mua và
người bán trên thị trường – trong trường hợp này là thị trường táo- có ý nghĩa quan
trọng trong việc tìm hiểu phương thức vận hành của nền kinh tế.
Các nhà hoạch định chính sách của nhà nước không được phép quên các kích thích, vì
nhiều chính sách làm thay đổi lợi ích, chi phí mà mọi người phải đối mặt hoặc cả hai,
bởi vậy chúng làm thay đổi hành vi của họ. Ví dụ, việc tăng thuế xăng khuyến khích
mọi người sử dụng xe máy nhỏ hơn, tiết kiệm nhiên liệu hơn. Nó cũng khuyến khích
mọi người sử dụng phương tiện giao thông công cộng thay cho việc sử dụng phương
tiện cá nhân hoặc tìm cách sống gần nơi làm việc hơn. Nếu thuế xăng cao đến mức độ
nhất định, có thể mọi người sẽ chuyển sang sử dụng xe đạp điện.
Khi phân tích bất kỳ một chính sách nào, không những chúng ta cần xem xét hậu quả
trực tiếp, mà còn phải chú ý tới tác động gián tiếp do các kích thích tạo ra. Nếu chính
sách làm thay đổi các kích thích, nó sẽ làm cho con người thay đổi hành vi.
1.1.2.2. Con người tương tác với nhau như thế nào?
Bốn nguyên lý đầu tiên nêu trên bàn về các phương diện khác nhau trong quá trình ra
quyết định cá nhân. Nhưng trong cuộc sống hàng ngày, nhiều quyết định của chúng ta
không chỉ ảnh hưởng đến bản thân chúng ta, mà còn tác động đến những người xung
quanh. Ba nguyên lý tiếp theo lien quan đến cách thức con người tương tác với nhau.
Nguyên lý 5: Thương mại làm cho mọi người đều có lợi
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ thì nền
kinh tế của hầu hết các nước trên thế giới hiện nay đều là nền kinh tế mở. Khi đó các
quốc gia sẽ tiến hành trao đổi thương mại với nhau và điều này làm cho mọi người đều
có lợi. Khi trao đổi thương mại, mọi người thường nghĩ đến sự cạnh tranh giữa các 6
nước, giống như một cuộc thi đấu trong đó luôn có kẻ thắng, người thua. Sự thật thì
thương mại giữa các nước sẽ có lợi. Thương mại cho phép mỗi nước chuyên môn hóa
vào lĩnh vực sản xuất có lợi thế tốt nhất, nhờ đó mà người dân của quốc gia đó có thể
được hưởng thụ hàng hóa, dịch vụ phong phú hơn. Thương mại còn làm giảm được chi
phí do khai thác được hiệu quả kinh tế theo qui mô đồng thời thúc đẩy được hoạt đồng
thời thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tê.
Nguyên lý 6: Thị trường là phương thức tốt để tổ chức hoạt động kinh tế
Nền kinh tế thị trường được đặc trưng bởi quan hệ sở hữu tư nhân về nguồn lực sản
xuất và sử dụng hệ thống thị trường và giá cả để phối hợp và định hướng các hoạt
động kinh tế. Trong cuốn sách Bàn về bản chất và nguồn gốc của cải của các dân tộc,
xuất bản năm 1776 của nhà kinh tế học người Anh Adam Smith đa nhận định: Khi
tương tác với nhau trên thị trường, các hộ gia đình và doanh nghiệp theo đuổi lợi ích
cá nhân hành động như thể được dẫn dắt bởi một "bàn tay vô hình", đưa đến những
kết quả đáng mong muốn cho xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, giá cả là công cụ mà nhờ đó “bàn tay vô hình” điều hành
hoạt động nền kinh tế. Giá cả phản ánh giá trị hàng hóa đối với xã hội và chi phí mà xã
hội phải chịu để sản xuất ra nó. Vì hộ gia đình và doanh nghiệp nhìn vào giá cả khi
đưa ra quyết định mua và bán cái gì, nên vô tình họ tính đến lợi ích và chi phí xã hội
mà hành vi của họ tạo ra. Kết quả là giá cả giúp các cá nhân đưa ra quyết định mà
trong nhiều trường hợp cho phép tối đa hóa phúc lợi xã hội.
Nguyên lý 7: Khi thị trường thất bại, chính phủ có thể can thiệp làm cho nền kinh
tế hoạt động hiệu quả hơn.
Mặc dù thị trường là phương thức tốt để tổ chức hoạt động kinh tế tốt nhưng không
phải lúc nào cũng đưa ra tình trạng tốt nhất. Trong một vài trường hợp, nếu để thị
trường tự do quyết định thì có thể hoặc là người tiêu dùng, hoặc là doanh nghiệp hoặc
cả nền kinh tế đều bị thiệt hại. Khi đó các nhà kinh tế nói rằng, thị trường đã thất bại
trong việc phân bổ nguồn lực theo cách có hiệu quả. Khi đó, chính phủ cần can thiệp
vào nền kinh tế để nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế và đạt được những
mục tiêu đặt ra trong mỗi thời kỳ.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, chính phủ không can thiệp thường xuyên mà chỉ
can thiệp vào hoạt động của nền kinh tế khi thị trường phân bổ nguồn lực không hiệu quả
1.1.2.3 Nền kinh tế với tư cách một tổng thể vận hành như thế nào?
Nguyên lý 8: Mức sống của một nước phụ thuộc vào năng lực sản xuất hàng hóa
và dịch vụ của nước đó.
Phần lớn sự khác biệt về mức sống là do sự khác biệt về năng suất giữa các nước – tức
số lượng hàng hóa được làm ra trong mỗi giờ lao động của một công nhân. Ở những
quốc gia có năng suất lao động cao hơn, mức thu nhập của người dân trong quốc gia
đó cũng cao nên họ được hưởng mức sống tốt hơn. Còn ở những nước có năng suất lao 7
động thấp hơn thì hầu hết người dân của quốc gia đó có cuộc sống khó khăn hơn. Tốc
độ tăng năng suất của một quốc gia quyết định tốc độ tăng thu nhập bình quân của nó.
Mối quan hệ giữa năng suất và mức sống còn có hàm ý sâu xa đối với chính sách của
nhà nước. Khi suy nghĩ về phương thức tác động của các chính sách đến mức sống,
chúng ta phải tập trung vào vấn đề then chốt là chúng ta tác động tới năng lực sản xuất
của chúng ta như thế nào. Để nâng cao mức sống, các nhà hoạch định chính sách cần
làm tăng năng suất lao động bằng cách đảm bảo rằng công nhân được đào tạo tốt, có
đủ công cụ cần thiết để sản xuất hàng hóa và dịch vụ cũng như được tiếp cận công
nghệ tốt nhất, hiện đại nhất.
Nguyên lý 9: Giá cả tăng khi chính phủ in quá nhiều tiền
Lạm phát là sự tăng lên lien tục của mức giá chung của nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định.
Một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát là sự gia tăng của lượng tiền cung ứng.
Khi chính phủ phát hành quá nhiều tiền thì giá trị của tiền sẽ giảm.
Nguyên lý 10: Xã hội phải đối mặt với sự đánh đổi ngắn hạn giữa lạm phát và thất nghiệp
Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp trong ngắn hạn được minh họa thông qua
đường Phillips – tên của nhà kinh tế học đầu tiên nghiên cứu mối quan hệ này. Trong
ngắn hạn giữa lạm phát và thất nghiệp có quan hệ đánh đổi lẫn nhau. Điều đó có nghĩa
là, trong ngắn hạn nếu nền kinh tế muốn có tỷ lệ lạm phát thấp thì phải chịu mức thất
nghiệp cao và ngược lại.
Sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp tuy có tính chất tạm thời nhưng nó có thể
kéo dài trong một vài năm. Vì vậy, đường Phillips có ý nghĩa rất quan trọng trong việc
tìm hiểu xu thế phát triển của nền kinh tế. Đặc biệt, các nhà hoạch định chính sách có
thể khai thác sự đánh đổi này bằng cách vận dụng những công cụ chính sách khác
nhau. Thông qua việc thay đổi ức chi tiêu của chính phủ, thuế và lượng tiền in ra,
trong ngắn hạn các nhà hoạch định chính sách có thể tác động vào mối quan hệ giữa
lạm phát và thất nghiệp mà nền kinh tế đang phải đối mặt.Vì các công cụ này của
chính sách tài chính và tiền tệ có sức mạnh tiềm tang như vậy, nên việc nhà hoạch định
chính sách sử dụng chúng như thế nào để quản lý nền kinh tế vẫn còn là đề tài tranh cãi. 1.2 Kinh tế học vĩ mô
1.2.1 Đối tượng nghiên cứu môn học:

Kinh tế vĩ mô là môn khoa học nghiên cứu nền kinh tế dưới giác độ tổng thể.
Nó nghiên cứu các mối quan hệ tương tác lẫn nhau trong xã hội, nghiên cứu các vấn đề
to lớn cơ bản của nền kinh tế như tăng trưởng, lạm phát, thất nghiệp, cán cân thương
mại, sự phân phối nguồn lực và phân phối thu nhập giữa các thành viên trong xã hội.
Một quốc gia có thể có những lựa chọn khác nhau tuỳ thuộc vào các ràng buộc về nguồn
lực kinh tế và hệ thống chính trị – xã hội. Song sự lựa chọn đúng đắn nào cũng cần đến sự hiểu 8
biết sâu sắc về các hoạt động mang tính khách quan về hệ thống kinh tế.
Như vậy đối tượng chính của kinh tế vĩ mô là nền kinh tế hỗn hợp hay nền
kinh tế tổng thể. Nền kinh tế ở đây được hiểu là một hệ thống, trong hệ thống đó các tế
bào kinh tế sẽ có sự tương tác lẫn nhau. Đồng thời thông qua việc phân tích sự vận
động của nền kinh tế để phân tích các tổng lượng kinh tế vĩ mô. Tổng lượng kinh tế vĩ
mô là tổng giá trị của một đại lượng được xét trên phạm vi nền kinh tế, nó bao gồm 2 loại:
+ Các tổng lượng liên quan đến thành tựu kinh tế vĩ mô gồm các chỉ tiêu: sản
lượng và tăng trưởng kinh tế; việc làm và thất nghiệp; lạm phát; sự cân bằng của cán cân thương mại.
+ Các tổng lượng liên quan đến các công cụ, chính sách kinh tế vĩ mô: chính
sách tài khoá (Tổng thu và mức chi tiêu của Chính phủ); chính sách tiền tệ ( mức cung
tiền và lãi suất trên thị trường); chính sách thu nhập( tiền lương và mức giá cả); chính
sách kinh tế đối ngoại ( tỷ giá hối đoái, hạn ngạch, hàng rào phi thuế quan…)
Trong kinh tế vĩ mô, chúng ta tìm cách giải quyết hai vấn đề:
Một là, chúng ta tìm cách hiểu về hoạt động của nền kinh tế tổng thể. Hai là,
chúng ta tìm cách đưa ra lời giải đáp cho câu hỏi là liệu chính phủ có thể làm điều gì
để cải thiện thành tựu của nền kinh tế. Tức là chúng ta quan tâm đến cả giải thích và
khuyến nghị về chính sách.
1.2.2. Phương pháp nghiên cứu môn học
- Phương pháp trừu tượng hoá: Theo phương pháp này, người ta sẽ bóc tách
các nhân tố không định nghiên cứu ( cố định các nhân tố này ) để xem xét các mối
quan hệ kinh tế giữa những biến số cơ bản. Mục đích là để giảm bớt những chi tiết
phức tạp của nền kinh tế, tạo điều kiện tập trung phân tích những hiện tượng kinh tế
quan trọng nhất, qua đó dễ dàng dự báo và giải thích biểu hiện của những biến số quan trọng.
- Phương pháp cân bằng tổng hợp: Theo phương pháp này chúng ta sẽ xem xét
sự cân bằng đồng thời của tất cả các thị trường của các hàng hoá và các nhân tố, xem
xét đồng thời khả năng cung cấp và sản lượng của toàn bộ nền kinh tế, từ đó xác định
đồng thời giá cả và sản lượng cân bằng- những yếu tố quyết định tính hiệu quả của hệ
thống kinh tế. Chẳng hạn, trong phân tích kinh tế vĩ mô chúng ta quan tâm đến tổng
sản lượng của nền kinh tế (GDP) chứ không phải là sản lượng của từng loại hàng hóa
cá biệt, hay chúng ta phân tích về mức giá chung chứ không phải giá của từng mặt hàng.
- Phương pháp mô hình hoá: Mô hình là sự trừu tượng hóa thực tế để làm cơ
sở cho phân tích kinh tế. Các nhà kinh tế mô phỏng nền kinh tế bao gồm các biến quan
trọng và loại bỏ các biến không quan trọng. Các mô hình phân tích thường được biểu
diễn dưới dạng toán học, các mô hình thống kê và kinh tế lượng
+ Phân tích bằng toán: biểu diễn và biến đổi thông qua các phương trình toán
học để đi đến kết luận; biểu diễn bằng đồ thị,…
VD: Qd = a – bP; a và b > 0 9
(1 – Y/Y*) = á(u – u*): trong đó Y là sản lượng thực tế, Y* là sản lượng tự
nhiên; u là thất nghiệp thực tế và u* là thất nghiệp tự nhiên.
+ Phân tích bằng thống kê và kinh tế lượng: thống kê giá trị của các chỉ tiêu
kinh tế, hồi quy để định lượng quan hệ giữa các biến. VD: Qd = 1000 – 50P
(1 – Y/Y*) = 2(u – u*): quy luật Okun
Trong mô hình kinh tế, các biến được coi là cho trước từ bên ngoài mô hình
được gọi là biến ngoại sinh (biến giải thích), các biến được giải thích bên trong mô
hình được gọi là biến nội sinh (biến được giải thích). Mục đích của việc xây dựng mô
hình là nhằm xem xét sự thay đổi của các biến ngoại sinh có ảnh hưởng ra sao đến các biến nội sinh.
- Ngoài ra, kinh tế vĩ mô còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác nữa
như phương pháp phân tích thống kê số lớn, phương pháp logic…
1.2.3 Các vấn đề kinh tế vĩ mô cơ bản: Sản lượng quốc gia:
Sản lượng quốc gia là tổng giá trị các hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra
trong một nền kinh tế ở một thời kỳ nhất định. Chỉ tiêu này là thước đo cuối cùng để
đánh giá thành tựu kinh tế của một quốc gia. Chỉ tiêu toàn diện nhất để đo lường sản
lượng quốc gia là chỉ tiêu tổng sản phẩm trong nước (GDP) hay tổng sản phẩm quốc
dân (GNP). Chỉ tiêu GDP (GNP) có thể được tính theo giá cả hiện hành, được gọi là
GDP danh nghĩa hoặc được tính theo giá cố định của một năm được lấy làm gốc gọi là
GDP thực tế. Sự biến động của GDP thực tế sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia. Chu kỳ kinh doanh:
Chu kỳ kinh doanh là sự dao động lên xuống của sản lượng thực tế (GDP thực
tế) xung quanh xu hướng tăng lên của sản lượng tiềm năng.
Chu kỳ kinh doanh có ba giai đoạn: suy thoái, phục hồi và hưng thịnh. Những
biến động từ phía tổng cung hoặc tổng cầu gây ra sự biến động về sản lượng của nền
kinh tế và tạo nên chu kỳ kinh doanh. Chính phủ cũng có thể can thiệp bằng các chính
sách tài khóa và tiền tệ để làm dịu hoặc triệt tiêu những biến động ngắn hạn trong nền
kinh tế và đưa nền kinh tế trở về trạng thái tối ưu. Lạm phát:
Tỷ lệ lạm phát là sự tăng lên liên tục của mức giá chung của nền kinh tế trong
một khoảng thời gian nhất định.
Tỷ lệ lạm phát của nền kinh tế được xác định thông qua các chỉ số giá được đo
bằng phần trăm thay đổi của chỉ số giá năm nay so với năm trước. Tỷ lệ lạm phát là
một trong các biến số kinh tế vĩ mô cơ bản để phản ánh tình trạng hoạt động của nền
kinh tế. Lạm phát là hiện tượng phổ biến trên thế giới trong những thập kỷ gần đây.
Vấn đề đặt ra là điều gì quy định tỷ lệ lạm phát dài hạn dài hạn và những biến động
ngắn hạn của lạm phát trong một nền kinh tế? Lạm phát có thể gây ra những tác động
gì cho nền kinh tế? Khi lạm phát cao thì làm cách nào để kiềm chế?.. Tuy nhiên trong
nền kinh tế thị trường thì không thể áp đặt một cơ chế giá cứng nhắc, điều này sẽ làm 10
cho thị trường phân bổ nguồn lực không hiệu quả. Vì vậy, nền kinh tế có thể chấp
nhận một tỷ lệ lạm phát thấp và chỉ nên kiềm chế nó khi ở mức quá cao (lạm phát phi
mã hoặc siêu lạm phát), ảnh hưởng xấu tới toàn bộ nền kinh tế. Thất nghiệp:
Thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động, thuộc lực lượng lao động
sẵn sàng làm việc với mức lương xã hội quyết định, có nỗ lực tìm kiếm việc nhưng
không kiếm được việc làm.
Tình trạng thất nghiệp của một nền kinh tế được phản ánh thông qua chỉ tiêu
tỷ lệ thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp đo lường số người không có việc làm và đang tích
cực tìm việc tính theo tỷ lệ phần trăm so với lực lượng lao động. Cũng như tỷ lệ lạm
phát, tỷ lệ thất nghiệp cũng là một biến sô kinh tế vĩ mô quan trọng phản ánh hoạt
động của nền kinh tế. Sự biến động ngắn hạn của tỷ lệ thất nghiệp cũng liên quan đến
những dao động theo chu kỳ kinh doanh Nếu tỷ lệ thất nghiệp cao, có nghĩa là nền
kinh tế còn dư thừa nguồn lực và đang trong trạng thái suy thoái hay hoạt động của
nền kinh tế chưa tối ưu. Ngược lại nếu tỷ lệ thất nghiệp thấp và đạt gần bằng tỷ lệ thất
nghiệp tự nhiên có nghĩa là nền kinh tế đang tiến triển tốt. Cán cân thanh toán:
Hiện nay các giao dịch của một quốc gia không chỉ giới hạn trong phạm vi
quốc gia đó mà còn mở rộng ra các nước khác. Các giao dịch đó có thể là mua bán
hàng hóa, dịch vụ, là các hoạt động đầu tư, mua bán tài sản tài chính…Tất cả cả các
giao dịch này được thể hiện trong bảng cán cân thanh toán quốc tế (hay còn gọi là cán
cân thương mại). Cán cân thanh toán là một bản báo cáo của một quốc gia về tất cả các
giao dịch về hàng hóa, dịch vụ hay tài sản của quốc gia đó với các nước còn lại của thế
giới. Đồng thời nó cũng là một bản báo cáo về tình hình cung cấp và sử dụng ngoại tệ của một quốc gia.
Việt Nam nhìn chung có thâm hụt cán cân thương mại. Nghiên cứu về cán cân
thanh toán cho thấy sự mất cân bằng thanh toán liên quan chặt chẽ tới dòng chu
chuyển vốn quóc tế. Nhìn chung khi một nước nhập khẩu nhiều hàng hóa hơn từ thế
giới bên ngoài so với xuất khẩu, nó cần phải trang trải cho phần nhập khẩu dôi ra đó
bằng cách vay tiền từ thế giới bên ngoài hoặc giảm tài sản quốc tế. Ngược lại, khi một
nước có xuất khẩu lớn hơn nhập khẩu thì nước đó sẽ có tích tụ tài sản từ thế giới bên
ngoài. Như vậy, nghiên cứu về cán cân thanh toán liên qua chặt chẽ tới việc nghiên
cứu tại sao các công dân một nước lại đi vay hoặc cho các công dân nước khác vay tiền.
1.3 Mục tiêu và chính sách kinh tế vĩ mô
1.3.1 Mục tiêu của kinh tế vĩ mô

Để đánh giá thành tựu kinh tế của một quốc gia, người ta thường đánh giá trên
3 dấu hiệu cơ bản ( Các mục tiêu tổng quát) sau: -
Ổn định kinh tế vĩ mô trong ngắn hạn:
Một trong những khuyết tật của kinh tế thị trường là nó tự tạo ra các chu kỳ kinh
doanh. Chu kỳ kinh doanh là sự dao động lên xuống của mức sản lượng thực tế xoay 11
quanh mức sản lượng tiềm năng – mức sản lượng tối ưu mà nền kinh tế có thể sản
xuất ra trong điều kiện toàn dụng nhân công. Khi mức sản lượng thực tế nhỏ hơn mức
sản lượng tiềm năng, nền kinh tế rơi vào trạng thái suy thoái . Trong thời kỳ suy thoái
mức sản lượng thực tế thấp và thất nghiệp gia tăng. Ngược lại, khi mức sản lượng
thực tế cao hơn mức sản lượng tiềm năng nền kinh tế ở vào trạng thái hưng thịnh kèm
theo mức lạm phát cao. Trong cả hai trạng thái suy thoái hoặc hưng thịnh nền kinh tế
đều chưa tối ưu. Vì vậy, thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô trong ngắn hạn là
nhằm kiểm soát tổng cầu, làm dịu hay triệt tiêu được những biến động ngắn hạn trong
nền kinh tế để đạt được mức sản lượng tiềm năng.
- Tăng trưởng nhanh và bền vững trong dài hạn :
Mức sống của một quốc gia sẽ phụ thuộc vào khả năng sản xuất hàng hóa, dịch vụ của
quốc gia đó. Nếu sản lượng của nền kinh tế cao và tăng nhanh thì mức sống của người
dân trong quốc gia đó sẽ cao và được cải thiện tốt hơn. Tăng trưởng kinh tế cũng có
nghĩa là gia tăng năng lực sản xuất của quốc gia một cách bền vững theo thời gian, tức
là tốc độ tăng trưởng cao phải đạt được trong dài hạn. Đối với các nước chậm phát
triển thì chỉ có tăng trưởng nhanh và bền vững mới tránh được nguy cơ tụt hậu.
Để đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững thì không chỉ có sự gia tăng
về nguồn lực sản xuất mà còn cần có một hệ thống chính sách hợp lý nhằm quản lý và
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tăng năng suất lao động và tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế.
- Thực hiện công bằng xã hội
- Sự công bằng trong xã hội thể hiện ở vấn đề về phân phối thu nhập giữa các
tầng lớp dân cư. Thực tế cho thấy, bản thân nền kinh tế thị trường tự do không tự động
dẫn đến công bằng xã hội mà trái lại còn làm tăng thêm sự phân hóa giàu nghèo, tạo ra
sự bất bình đẳng trong xã hội. Sự bất bình đẳng thường xảy ra khi nền kinh tế ở giai
đoạn đầu của sự phát triển, tuy nhiên cang về sau, chính sự phát triển kinh tế lại xóa
dần đi sự bất bình đẳng giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Do đó ở giai đoạn đầu,
khi nền kinh tế càng phát triển, đời sống xã hội càng được cải thiện thì sự phân hóa
giàu nghèo càng rõ rệt. Vì vậy, trong việc thực hiện mục tiêu ổn định và tăng trưởng
kinh tế thì mỗi quốc gia cũng phải đảm bảo sự bình đẳng tương đối giữa các tầng lớp
dân cư trong quốc gia đó.
Các nước khác nhau đặt thứ tự ưu tiên giải quyết các mục tiêu tổng quát một
cách khác nhau. Các nước đang phát triển thường đặt mục tiêu tăng trưởng ở vị trí ưu
tiên trong các mục tiêu tổng quát. Mặt khác, theo thời gian mục tiêu ổn định trường đặt
ra trong ngắn hạn, còn mục tiêu tăng trưởng thường đặt ra trong dài hạn.
Xuất phát từ các mục tiêu tổng quát, các nước đặt ra các mục tiêu cụ thể cho các
chính sách kinh tế vĩ mô. Thực chất của các mục tiêu cụ thể là các mục tiêu đối với
đầu ra của hệ thống kinht ế vĩ mô, do vậy các chính sách kinh tế vĩ mô phải hướng tới
các mục tiêu cụ thể sau:
* Mục tiêu về sản lượng : 12
- Đạt được sản lượng thực tế cao, tương ứng với mức sản lượng tiềm năng. Đạt
tốc độ tăng trưởng cao và vững chắc
* Mục tiêu về việc làm:
- Tạo được nhiều việc làm tốt
- Hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp ( duy trì ở mức thất nghiệp tự nhiên)
* Mục tiêu ổn định giá cả :
- Hạ thấp và kiểm soát được lạm phát trong điều kiện thị trường tự do
* Mục tiêu kinh tế đối ngoại :
- Ổn định tỷ giá hối đoái .
- Cân bằng cán cân thanh toán.
* Phân phối công bằng : Giảm bớt khoảng cách thu nhập giữa các nhóm dân cư trong nền kinh tế
Các mục tiêu kinh tế vĩ mô cụ thể nêu trên phản ánh một trạng thái lý tưởng của
nền kinh tế trong đó sản lượng đạt mức sản lượng tiềm năng, mức thất nghiệp bằng
thất nghiệp tự nhiên, lạm phát thấp có thể kiểm soát được, cán cân thanh toán cân
bằng, tỷ giá hối đoái hầu như không đổi. Mặt khác trong thực tế các chính sách kinh tế
vĩ mô chỉ có khả năng làm giảm thiểu các sai lệch giữa trạng thái thực tế của nền kinh
tế so với trạng thái lý tưởng. Các mục tiêu kinh tế vĩ mô cụ thể thường bổ sung cho
nhau nhằm thúc đẩy tốc độ tăng trưởng(sản lượng) của nền kinh tế nhưng cũng có khi
giữa chúng xuất hiện những mâu thuẫn hay xung đột nội bộ. Các nhà làm chính sách
cần phải lựa chọn thứ tự ưu tiên và đôi khi cần phải chấp nhận hi sinh nào đó trong thời kỳ ngắn hạn.
Trong dài hạn thứ tự ưu tiên để giải quyết các mục tiêu kinh tế vĩ mô trên cũng
khác nhau giữa các nước. Với các nước đang phát triển thì mục tiêu tăng trưởng
thường được ưu tiên số một.
1.3.2. Các chính sách kinh tế vĩ mô chủ yếu:
Chính sách kinh tế vĩ mô là những công cụ mà các nhà hoạch định chính sách
có thể trực tiếp sử dụng để có ảnh hưởng tới các biến số mục tiêu.
Có bốn tập hợp công cụ chính của chính sách kinh tế vĩ mô. Mỗi một công cụ
chính sách là một biến số kinh tế chịu sự quản lý trực tiếp hay gián tiếp của Chính
phủ, thay đổi công cụ chính sách này sẽ có tác động đến một hoặc nhiều mục tiêu kinh tế vĩ mô. * Chính sách tài khoá:
- Chính sách tài khoá nhằm điều chỉnh thu nhập và chi tiêu của Chính phủ để
hướng nền kinh tế vào đạt mức sản lượng và việc làm mong muốn.
- Hai công cụ chủ yếu của Chính sách tài khoá là chi tiêu của Chính phủ và thuế:
+ Chi tiêu của Chính phủ (G) tác động trực tiếp tới tổng cầu và sản lượng. 13
nghiên cứu các mối quan hệ tương tác lẫn nhau trong xã hội, nghiên cứu các vấn đề to
lớn cơ bản của nền kinh tế như tăng trưởng, lạm phát, thất nghiệp, cán cân thương mại.
3. Kinh tế vĩ mô là môn khoa học xã hội, ngoài những phương pháp nghiên
cứu chung của các môn khoa học xã hội, kinh tế vĩ mô sử dụng các phương pháp
nghiên cứu riêng như: phương pháp trừu tượng hóa, phương pháp cân bằng tổng thể và phương pháp mô hình hóa.
4. Các mục tiêu kinh tế vĩ mô được chia thành hai nhóm là mục tiêu tổng quát
và mục tiêu cụ thể. Các mục tiêu tổng quát bao gồm: Sự ổn định kinh tế vĩ mô trong
ngắn hạn; Đảm bảo tăng trưởng nhanh và bền vững trong dài hạn; Thực hiện công
bằng xã hội. Các mục tiêu cụ thể: đạt mức sản lượng thực tế cao; tạo ra nhiều công ăn
việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp; ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát; ổn định tỷ giá hối
đoái; thực hiện phân phối công bằng, giảm bớt khoảng cách về thu nhập. Tùy theo giai
đoạn phát triển của mỗi nền kinh tế mà các mục tiêu trên được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên khác nhau.
5. Có bốn chính sách kinh tế vĩ mô chủ yếu mà chính phủ có thể sử dụng để
can thiệp vào nền kinh tế đó là: Chính sách tài khóa; Chính sách tiền tệ chính sách thu
nhập và chính sách kinh tế đối ngoại.
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN
1. Kinh tế học là gì? Sự khác nhau giữa kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô?
Cho biết mối liên hệ giữa hai nhánh này trong kinh tế học?
2. Nêu mười nguyên lý cơ bản của kinh tế học? Những nguyên lý nào chi phối
hoạt động của kinh tế vĩ mô?
3. Trình bày đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu của kinh tế vĩ mô?
4. Các mục tiêu chủ yếu của kinh tế vĩ mô?
5. Nội dung các chính sách kinh tế vĩ mô chủ yếu? BÀI TẬP VẬN DỤNG
1.
Hãy tìm trên các phương tiện thông tin đại chúng một ví dụ về chính sách kinh tế vĩ
mô mà chính phủ đang sử dụng để tác động vào nền kinh tế Việt Nam trong thời gian gần đây?
2. Chọn câu trả lời đúng nhất.
2.1 Kinh tế vĩ mô nghiên cứu:
a. Các thị trường từng ngành hàng.
b. Nền kinh tế với tư cách một tổng thể, một hệ thống lớn.
c. Sự thay đổi giá cả của các mặt hàng. d. Tất cả các ý trên.
2.2 Trong số các mục tiêu sau đây, mục tiêu nào không phải là mục tiêu của kinh tế vĩ mô:
a. Tăng sản lượng tiềm năng.
b. Kiềm chế tốc độ tăng giá.
c. Kiểm soát giá xăng dầu. 15
d. Tạo ra nhiều việc làm cho xã hội.
2.3 Công cụ nào sau đây là công cụ của chính sách tài khóa:
a. Tổng chi tiêu của chính phủ. b. Lãi suất. c. Thuế. d. Tất cả các ý trên.
2.4 Công cụ nào sau đây không phải là công cụ của chính sách tiền tệ: a. Thuế.
b. Mức cung tiền của ngân hàng trung ương. c. Lãi suất. d. Tất cả các ý trên.
3. Cho biết các nhận định sau đây, nhận định nào thuộc kinh tế vi mô, nhận định
nào thuộc kinh tế vĩ mô
:
a. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam tiếp tục giảm trong tuần qua, trong bối cảnh thị
trường xuất khẩu gạo châu Á tiếp tục ảm đạm vì vắng bóng khách mua.
b. CPI tháng 3 và 3 tháng đầu năm 2013 thuộc loại thấp hơn cùng kỳ nhiều năm trước.
Tuy vẫn nằm trong thông lệ CPI thường giảm sau hai tháng có Tết Dương lịch, Tết
Âm lịch (CPI tháng 3 trong 20 năm trước có 12 năm giảm, chỉ có 8 năm tăng) nhưng
diễn biến của giá tháng 3 vẫn hàm chứa nhiều yếu tố đáng lưu tâm...
c. Số liệu mới nhất của Tổng cục thống kê cho thấy tăng trưởng GDP quý I/2013 ước
tính tằng 4,89% so với cùng kỳ năm ngoái. Khu công nghiệp và xây dựng, vốn chiếm
40% nền kinh tế Việt Nam, tăng trưởng 4,93% trong quý I, so với mức 5,15% cùng kỳ năm 2012.
Điều này đồng nghĩa với việc năm 2013 rất có thể là năm thứ ba liên tiếp mà Việt Nam
tăng trưởng chưa đến 6%.
d. Cuối ngày 18/4, một quan chức từ Venezuela đã cho biết, tổ chức trên có thể sẽ phải
tiến hành cuộc họp khẩn cấp trong bối cảnh giá dầu thô giảm mạnh, song những thành
viên khác trong nhóm tỏ ra hoài nghi về khả năng một cuộc họp như vậy có thể diễn
ra. Dù vậy, thực tế là giá dầu thô thế giới đang trong xu hướng suy giảm.
e. TPHCM đang nghiên cứu xây dựng 8 tuyến xe buýt nhanh (Bus Rapid Transit -
BRT) với tổng chiều dài 126 km chạy dọc theo các trục đường chính từ chợ Bến
Thành đi các quận, huyện.
f. Riêng trong 9 tháng đầu năm nay, tổng vốn đầu tư ra nước ngoài cả cấp mới và tăng
vốn của các doanh nghiệp trong nước đạt gần 1,3 tỷ USD.
Theo Cục Đầu tư nước ngoài, trong 9 tháng đầu năm 2012, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã
cấp giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài cho 66 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký
của nhà đầu tư Việt Nam đạt 1,217 tỷ USD.
g. Phiên giảm mạnh thứ hai liên tiếp vào đêm qua đã đưa giá vàng thế giới về dưới
mức 1.660 USD/oz. Giá kim loại quý đã ồ ạt lao dốc sau cú giảm mạnh của giá dầu thô
và thị trường chứng khoán kéo theo một đợt bán tháo các tài sản. 16
4. Hãy phân loại các nhận định sau đây thành nhận định thực chứng và nhận
định chuẩn tắc? Hãy giải thích?
a. Xã hội phải đối mặt với sự đánh đổi ngắn hạn giữa lạm phát và thất nghiệp.
b. Việc cắt giảm tỷ lệ tăng cung tiền sẽ làm giảm tỷ lệ lạm phát.
c. Ngân hàng nhà nước Việt Nam cần cắt giảm tỷ lệ tăng cung tiền
d.Chính phủ cần yêu cầu người nhận phúc lợi xã hội nhanh chóng tìm được việc làm
e. Mức thuế thấp sẽ khuyến khích mọi người làm việc làm việc nhiều hơn và tiết kiệm nhiều hơn. Chương 2
TỔNG SẢN PHẨM VÀ THU NHẬP QUỐC DÂN
Mục tiêu của chương
- Cung cấp dữ liệu cho phân tích kinh tế vĩ mô.
- Cung cấp thông tin cho việc đánh giá các chính sách kinh tế.
- Biết cách xác định các chỉ tiêu trong hệ thống tài khoản quốc dân NỘI DUNG LÝ THUYẾT
2.1 Tổng sản phẩm trong nước (GDP- Gross Domestic Product)
2.1.1. Khái niệm tổng sản phẩm trong nước (GDP)

Tổng sản phẩm trong nước là một chỉ tiêu được sử dụng phổ biến nhất để xem
xét đánh giá hoạt động của một nền kinh tế tốt hay không. GDP phản ánh tổng thu
nhập mà mọi người trong nền kinh tế kiếm được.
GDP là giá trị thị trường của toàn bộ hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản
xuất ra trong phạm vi lãnh thổ quốc gia trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm)
Định nghĩa trên đây xem ra có vẻ khá đơn giản. Tuy nhiên trong thực tế có rất
nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh khi tính toán GDP của nền kinh tế. Do vậy, chúng ta
hãy xem xét cẩn thận từng cụm từ trong định nghĩa này.
“GDP là giá trị thị trường…”
Tất cả các hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế đều biểu thị giá trị thị trường
thông qua giá cả. Giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa, có nghĩa
là GDP sử dụng đơn vị tiền tệ để tính toán. Nhờ đó mà GDP có thể cộng rất nhiều loại
sản phẩm khác nhau trong nền kinh tế thành một chỉ tiêu duy nhất về giá trị của hoạt động kinh tế
“của tất cả…”
GDP cố gắng biểu thị một cách đầy đủ. Nó bao gồm tất cả các hàng hóa được
sản xuất ra trong nền kinh tế và được bán hợp pháp trên các thị trường.
GDP còn bao gồm cả giá trị thị trường của dịch vụ nhà ở do khối lượng nhà ở
hiện có của nền kinh tế cung cấp. Đối với những căn nhà cho thuê, chúng ta dễ dàng
tính được giá trị này, vì tiền thuê nhà đúng bằng chi tiêu của người thuê nhà và thu 17
đó, hàng hóa trung được tạm thời coi là hàng hóa cuối cùng và giá trị của nó dưới dạng
đầu tư vào hàng tồn kho được tính vào GDP. Sau đó khi mức tồn kho hàng hóa trung
gian này được sử dụng hoặc bán, thì đầu tư vào hàng tồn kho của doanh nghiệp sẽ là
âm, và GDP trong thời kỳ sau phải giảm một lượng tương ứng.
“…được sản xuất ra…”
GDP bao gồm mọi hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra trong thời kỳ hiện tại.
Nó không bao gồm những giao dịch liên quan đến hàng hóa được sản xuất ra trong quá
khứ. Khi công ty Toyota sản xuất và bán chiếc xe hơi mới, thì giá trị của chiếc xe hơi
đó được tính vào GDP. Khi người nào đó bán chiếc xe hơi đã qua sử dụng cho người
khác thì giá trị của chiếc xe hơi đó không được tính vào GDP.
“…trong phạm vi lãnh thổ quốc gia…”
GDP tính toán giá trị sản xuất trong phạm vi địa lý của một nước. Ví dụ công
ty Ford của Mỹ sản xuất ô tô tại Việt Nam thì giá trị sản xuất của công ty này thuộc
GDP của Việt Nam. Hay một họa sĩ Việt Nam ở Pháp vẽ một bức tranh và rao bán thì
giá trị của bức tranh này được tính vào GDP của Pháp chứ không phải của Việt Nam.
Như vậy, GDP có thể bao gồm hàng hóa, dịch vụ do người dân quốc gia đó sản
xuất ra hoặc do người nước ngoài sản xuất tại nước đó. Nhưng GDP không bao gồm
kết quả hoạt động của người dân trong nước tiến hành ở nước ngoài.
“…trong một thời kỳ nhất định.”
GDP phản ánh giá trị sản xuất thực hiện trong một khoảng thời gian cụ thể.
Khoảng thời gian này thường là một năm hoặc một quý. GDP phản ánh lượng thu
nhập hay chi tiêu của thời kỳ đó
Tổng sản phẩm trong nước là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh toàn bộ kết quả
cuối cùng của các hoạt động sản xuất. Nó phản ánh quan hệ tương hỗ trong quá trình
sản xuất, phân phối và sử dụng cuối cùng của hàng hóa và dịch vụ trong toàn bộ nền kinh tế.
2.1.2. Các phương pháp tính GDP
2.1.2.1. Tổng thu nhập và tổng chi tiêu của nền kinh tế

GDP cùng một lúc phản ánh hai sự việc: tổng thu nhập của mọi người trong nền
kinh tế và tổng chi tiêu để mua sản lượng, hàng hóa và dịch vụ của nền kinh tế.
Mọi giao dịch trong nền kinh tế đều có một bên bán và một bên mua. Một lượng
tiền mà người mua trả chính là thu nhập mà người bán nhận được. Như vậy, tổng thu
nhập chính bằng tổng chi tiêu của nền kinh tế. Đây chính là lý do tại sao GDP phản
ánh được cả tổng thu nhập và tổng chi tiêu của nền kinh tế.
Một cách khác để nhận thấy sự bằng nhau giữa thu nhập và chi tiêu là sử dụng sơ
đồ vòng luân chuyển kinh tế vĩ mô trong hình 2.1.
Trong một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh thường tồn tại bốn tác nhân kinh tế
cùng hoạt động. Đó là các hộ gia đình, các hãng kinh doanh, Chính phủ và người nước
ngoài. Song để tìm ra nguyên lý cơ bản có tính phương pháp luận cho việc xác định
GDP, chúng ta sử dụng phương pháp trừu tượng hoá bằng cách chưa xét đến vai trò 19
của khu vực Chính phủ và người nước ngoài, đồng thời đưa ra giả định không ảnh
hưởng gì đến nguyên lý và quy tắc tính GDP như sau:
Thứ nhất, các hộ gia đình sở hữu các yếu tố đầu vào như: vốn, đất đai, sức lao
động...Họ cung cấp các yếu tố đó và những dịch vụ tương ứng cho các hãng kinh
doanh và nhờ đó mà họ có thu nhập.
Thứ hai, các hãng mua các yếu tố đầu vào và các dịch vụ thích hợp để tổ chức
quá trình sản xuất ra hàng hoá dịch vụ và cung cấp trở lại cho các hộ gia đình tiêu
dùng và cũng nhờ đó mà có thu nhập.
Thứ ba, toàn bộ thu nhập của các hộ gia đình phải được chi tiêu hết vào việc
mua hàng hoá tiêu dùng và các hãng cũng phải tiêu thụ hết hàng hoá, dịch vụ sản xuất
ra để có thể tiếp tục quá trình sản xuất tiếp theo. Như vậy, lợi nhuận của hãng cũng
được chuyển thành thu nhập của các hộ gia đình. Vì các hãng ngoài tư cách là người
đầu tư thu lợi nhuận còn là một thành viên của xã hội, tức là cũng đóng vai trò là một
cá nhân hay một hộ gia đình.
Sự giao dịch giữa các hộ gia đình và các hãng tạo nên một dòng luân chuyển
kinh tế vĩ mô và được mô tả qua sơ đồ sau:
Hình 2.1: Dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô
Nhìn vào sơ đồ ta có các nhận xét sau:
- Dòng luân chuyển bên trong của sơ đồ là sự vận động của hàng hoá, dịch vụ
dưới hình thái hiện vật.
- Dòng luân chuyển bên ngoài là dòng vận động giá trị của các hàng hoá và
dịch vụ đó thông qua giao dịch của các tác nhân kinh tế.
Tuy nhiên, nền kinh tế trong thực tế phức tạp hơn rất nhiều so với nền kinh tế
được minh họa trong mô hình 2.1. Cụ thể, các hộ gia đình không chi tiêu hết thu nhập
của mình. Họ nộp một phần thu nhập của mình cho chính phủ dưới dạng thuế, cũng
như tiết kiệm và đầu tư một phần thu nhập để sử dụng trong tương lai. Ngoài ra, các hộ
gia đình không mua tất cả hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế. Một
số hàng hóa và dịch vụ được chính phủ mua, còn một số khác được các doanh nghiệp
mua, vì họ dự kiến trong tương lai sẽ sử dụng chúng vào việc sản xuất ra sản phẩm của
riêng họ. Tuy nhiên cho dù hộ gia đình, chính phủ hay doanh nghiệp mua hàng hóa 20