Bài tập lớn bối cảnh, nội dung và bài học kinh nghiệm từ cuộc cải cách mở cửa nền kinh tế của Trung Quốc từ 1978 - nay - Tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

Trường:

Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu

Thông tin:
23 trang 1 năm trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Bài tập lớn bối cảnh, nội dung và bài học kinh nghiệm từ cuộc cải cách mở cửa nền kinh tế của Trung Quốc từ 1978 - nay - Tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

86 43 lượt tải Tải xuống
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI: Bối cảnh, nội dung và bài học kinh nghiệm từ cuộc cải cách mở cửa
nền kinh tế của Trung Quốc từ 1978 - nay
Họ và tên sinh viên: Trần Lê Kiên
Mã SV: 11212948
Lớp: LLTT1101(122)_35-Tư tưởng Hồ Chí Minh
Hà Nội, 22/09/2022
1
Mục Lục
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................4
I. BỐI CẢNH TRUNG QUỐC TRƯỚC CẢI CÁCH......................................5
A. Thế giới......................................................................................................5
Cuộc khủng hoảng dầu mỏ 1973............................................................5
Phong trào cải cách của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu............5
Yêu cầu về thích nghi với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và xu
hướng hợp tác quốc tế...................................................................................5
B. Trong nước....................................................................................................6
Đối nội:...................................................................................................6
Đối ngoại................................................................................................7
II. CÔNG CUỘC CẢI CÁCH MỞ CỬA CỦA TRUNG QUỐC VÀ NHỮNG
THÀNH TỰU, THÁCH THỨC TỪ 1978 - NAY.................................................7
A. Quá trình cải cách của Trung Quốc từ 1978 - nay.....................................8
Giai đoạn đầu chuyển đổi thể chế kinh tế (1978 - 1991)........................8
Giai đoạn mở rộng cải cách kinh tế (10/1984 – 9/1988):.......................9
Giai đoạn chấn chỉnh, sửa chữa và tiếp tục cải cách (10/1988 –
12/1991):........................................................................................................9
Giai đoạn xây dựng khung thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
(1992 - 2002):..............................................................................................10
Giai đoạn đẩy mạnh xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa (2002 - 2012), cải cách theo chiều sâu:.............................................10
Giai đoạn cải cách toàn diện và sâu rộng (từ năm 2012 đến nay):.......11
B. Những thành tựu đạt được và những vấn đề chưa được khắc phục của
cuộc cải cách mở cửa nền kinh tế....................................................................11
Những thành tựu đã đạt được...............................................................12
Những vấn đề đặt ra chưa được giải quyết:..........................................15
III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ CÔNG CUỘC CẢI CÁCH CỦA TRUNG
QUỐC ĐẾN VIỆT NAM....................................................................................18
2
A. Về nhận thức............................................................................................18
Một là giải phóng tư tưởng, không ngừng sáng tạo về lý luận và mạnh
dạn cải cách trong thực tiễn.........................................................................18
Hai là nhấn mạnh “đặc sắc Trung Quốc” hay điều kiện đặc thù của đất
nước nhưng vẫn coi trọng và nắm vững quy luật........................................19
Ba là, Đảng Cộng sản với tư cách đảng cầm quyền, lãnh đạo cải cách
mở cửa nhất định phải có dũng khí chính trị và kết tinh trí tuệ...................19
B. Về giải pháp.............................................................................................20
Một là, các biện pháp cải cách phải có tính đồng bộ và phối hợp........20
Hai là, trong hàng loạt các biện pháp cải cách khác nhau, cần lựa chọn
đúng trọng điểm và hạt nhân của cải cách...................................................20
Ba là, để sự nghiệp cải cách mở cửa thành công, Đảng phải coi trọng
đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cốt cán cầm quyền có trình độ cao...................21
KẾT LUẬN.............................................................................................................22
LỜI MỞ ĐẦU
3
Lịch sử kinh tế Trung Quốc thời kỳ hiện đại đã trải qua nhiều thành công rồi
xuống thất bại trên con đường lớn tiến đến đích là chủ nghĩa xã hội, nhiều thăng trầm
lịch sử đã liên tiếp diễn ra chỉ trong khoảng thời gian chục năm. lúc nền kinh tế
Trung Quốc đã hứng chịu những cuộc khủng hoảng, cùng cực vì những sai lầm trong
nội dung cải cách. Tuy nhiên, trong 30 năm trở lại đây, với sự chỉ đạo sáng suốt và tức
thời của Đảng Nhà nước Trung Quốc cũng như các yếu tố thuận lợi bên ngoài tác
động vào,Trung Quốc đang trải qua những bước tiến hết sức kỳ diệu và trở thành một
trong những quốc gia đứng đầu thế giới về kinh tế.
Ở cả Việt Nam và Trung Quốc đang đang tiếp tục thực hiện quá trình cải cách toàn
diện nền kinh tế. Nếu Việt Nam chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao
cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng hội Chủ nghĩa thì Trung Quốc đang
dần chuyển sang nền kinh tế thị trường hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc.
Đang đối mặt với những vấn đề nội hàm giống nhau trong quá trình thực hiện mở cửa
nền kinh tế, cũng như trong cùng thời gian phát triển thị trường, hoàn thiện khuôn khổ
pháp lý. Với lợi thế nước tiến hành cải cách sau, Việt Nam có cơ hội để học tập
tận dụng những bài học thành công cũng như không thành công của Trung Quốc,
tránh những tác động tiêu cực có thể nảy sinh trong quá trình chuyển đổi.
Với những thông tin, đánh giá được trình bày trong bài viết, em hy vọng sẽ giúp
cho các bạn sinh viên cũng như những người quan tâm khác hiểu biết đầy đủ hơn v
những chính sách quan trọng tạo nên sự thành công của công cuộc cải cách kinh tế
Trung Quốc trong tương quan so sánh với Việt Nam. Từ đó rút ra những bài học kinh
nghiệm bổ ích cho mỗi nhân để tiếp tục tham gia đóng góp nhiều hơn nữa vào sự
nghiệp đổi mới ở nước ta.
I. BỐI CẢNH TRUNG QUỐC TRƯỚC CẢI CÁCH
4
A. Thế giới
Cuộc khủng hoảng dầu mỏ 1973
Trên bình diện quốc tế, vào năm 1973, cuộc khủng hoảng dầu mỏ đã đã gây
những ảnh hưởng nghiêm trọng tới nền kinh tế, chính trị, hội của nhiều quốc gia
trên thế giới. Để thích nghi với hoàn cảnh, thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, suy yếu
trì trệ, các nước bản phát triển như: Mĩ, Anh, Pháp... đã nhanh chóng thực hiện
những điều chỉnh chiến lược về kinh tế - chính trị - xã hội... Nhờ vậy, các nước này đã
vượt qua khủng hoảng tiếp tục phát triển. Đến giữa những năm 70 của thế kỉ XX,
hầu hết các nước trong khu vực Mĩ Latinh như Chilê, Urugoay, Achentina đã đề ra
tiến hành những chiến lược cải cách, học tập theo mô hình Mĩ.
Phong trào cải cách của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu
Bên cạnh đó, xu hướng cải cách đang ngày càng nở rộ tại các nước hội chủ
nghĩa sau những năm 50-60 với sự lạc hậu của mô hình xã hội chủ nghĩa theo kiểu tập
trung, quan liêu, bao cấp, kế hoạch hóa cao độ đã bắt đầu bộc lộ một số hạn chế.
Trước tình hình đó, tại một số nước hội chủ nghĩa, tưởng cải cách đã bắt đầu
xuất hiện và bước đầu được triển khai. Ví dụ như:
Ở Liên Xô, dưới thời kì cầm quyền của Nikita Sergeyevich Khrushchyov (1953 –
1964) Leonid Ilyich Brezhnev (1964 1982), Liên đã tiến hành hạch toán
trong một số doanh nghiệp quốc doanh; cải tiến kế hoạch, điều chỉnh các chỉ tiêu
của kế hoạch pháp lệnh; tăng cường nguyên tắc phân phối theo lao động sự
kích thích vật chất đối với việc tăng năng suất lao động.
Nam Tư, chính phủ thực hiện mở cửa cả với các nước bản; bãi bỏ kế hoạch
pháp lệnh, mở rộng quyền tự chủ của các xí nghiệp.
Hungary, năm 1968, nhà nước cũng bãi bỏ kế hoạch pháp lệnh, tăng cường tác
dụng của thị trường, mở rộng quyền tự chủ của nghiệp nhưng vẫn đồng thời
đảm bảo vai trò chỉ đạo của nhà nước....
Yêu cầu về thích nghi với sự phát triển của khoa học kỹ thuật xu hướng
hợp tác quốc tế
Trước sự thôi thúc các phong trào cải cách các nước hội chủ nghĩa ảnh
hưởng đến, Trung Quốc còn đứng trước yêu cầu cải cách về chính trị, kinh tế ,hội
để thích nghi với sự phát triển nhanh chóng của khoa học-công nghệ, điển hình
cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật lần thứ 3,hợp tác quốc tế ngày càng phát triển
theo xu hướng quốc tế hóa.
o Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3 được bắt với sự ra đời và phát triển lan tỏa
công nghệ thông tin, điện tử, tự động hóa sản xuất. Cuộc cách mạng này còn được gọi
cuộc cách mạng máy tính hay cuộc cách mạng số. Cuộc cách mạng này diễn ra
đã đưa ra nhiều phát minh để tiết kiệm tài nguyên các nguồn lực hội. Giảm chi
phí trong phương tiện sản xuất. Kéo theo cấu sản xuất hội cũng thay đổi theo
5
giữa nông-lâm-thủy sản, công nghiệp- xây dựng, dịch vụ. Tận dụng công nghệ hydro
và internet để lưu trữ và chia sẻ , phân phát năng lượng rộng rãi đã tạo nên cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ 3 – Hành trình cải cách năng lượng xanh.
o Hợp tác quốc tế theo xu hướng quốc tế hóa
Vào năm 1970 Tuyên bố của Đại hội đồng Liên hợp quốc về những nguyên tắc
của Luật quốc tế đã lan rộng ra nội dung pháp lý của nguyên tắc hợp tác quốc tế. Mọi
vương quốc sẽ hợp tác để khuyến khích sự tôn trọng tuân thủ những quyền con
người tự do bản trên toàn quốc tế trong việc loại trừ tổng thể những hình
thức phân biệt về sắc tộc và tôn giáo. Mọi vương quốc sẽ thực thi những quan hệ quốc
tế của mình trong những ngành nghề dịch vụ kinh tế tài chính, văn hóa truyền thống,
kỹ thuật thương mại tương thích với nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền lãnh thổ
không can thiệp vào việc làm nội bộ. Các vương quốc thành viên của Liên hợp
quốc có nghĩa vụ và trách nhiệm hành vi tập thể hoặc riêng rẽ để hợp tác với Liên hợp
quốc tương thích với những pháp luật tương ứng của Hiến chương Liên hợp quốc.
Các vương quốc nên hợp tác trong những ngành nghề dịch vụ kinh tế tài chính, văn
hóa truyền thống hội cũng như khoa học công nghệ tiên tiến so với việc
tăng trưởng sự tân tiến về văn hóa truyền thống giáo dục trên quốc tế. Các vương
quốc nên hợp tác để tăng trưởng kinh tế tài chính trên toàn quốc tế, đặc biệt quan
trọng so với những nước đang tăng trưởng .
Với bối cảnh thế giới như vậy, yêu cầu lịch sử đặt ra không chỉ cho Trung Quốc
còn nhiều nhiều quốc gia khác trong thời điểm lúc bấy giờ chính phải nhanh
chóng cải cách về kinh tế-chính trị để nhanh chóng thích ứng và phát triển, bắt kịp với
các quốc gia khác.
B. Trong nước
Đối nội:
o Về Kinh tế
Năm 1958, Trung Quốc đề ra đường lối “Ba ngọn cờ hồng” do Mao Trạch Đông
phát động với ý đồ nhanh chóng xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
1 trong 3 đường lối “Đại nhảy vọt” - phát động toàn dân làm gang, thép với mục
tiêu: nhanh chóng đưa sản lượng thép lên tới 10 triệu tấn và gang là 20 triệu tấn.
Nhưng đây là một thất bại về kinh tế. Vì:
Sản xuất quá nhiều thép chất lượng thấp trong khi các ngành khác bị bỏ rơi.
Những người nông dân không qua đào tạo, trang bị nghèo nàn để sản xuất thép.
Các công cụ nhà nông chính bị nấu chảy làm thép khiến quy sản xuất nông
nghiệp bị thu nhỏ.
Nền kinh tế Trung Quốc chưa kịp phục hồi sau chiến tranh lại một lần nữa rơi vào
khủng hoảng. Các khu sản xuất tập thể hỗn loạn, thực phẩm hết sức khan hiếm, sản
xuất giảm đáng kể dẫn đến một trận đói kém cực lớn, số người chết đói ước tính 20-
30 triệu người.
6
o Về Chính trị
Nội bộ ban lãnh đạo Trung Quốc bất đồng gay gắt về đường lối, tranh giành
quyền lực. Đỉnh cao cuộc “Đại cách mạng văn hóa sản” (1966 - 1976) gây nên
tình trạng hỗn loạn trong nước để lại những hậu quả nghiêm trọng trong đời sống
vật chất tinh thần: 12-20 triệu người đã trải qua lao động nặng nhọc nông thôn.
Khoảng 3 triệu người bị kỷ luật hoặc cầm tù, 60% Đảng viên bị khai trừ, trục xuất về
nông thôn để lao động nặng nhọc. Nhiều trường đại học bị đóng cửa cả 1 thế hệ
người Trung Quốc không được tiếp cận với giáo dục đại học. Tổng Bí thư Đảng Cộng
sản Trung Quốc thập niên 1980 Hồ Diệu Bang nhận xét rằng: “Khoảng 100 triệu
người Trung Quốc đã chịu đau khổ trong thời kỳ này”.
Đối ngoại
o Với Việt Nam
Trung Quốc ủng hộ cuộc đấu tranh chống Mỹ của nhân dân Việt Nam và cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Á, Phi, Mỹ Latinh. Trung Quốc cũng đã giúp ta
khôi phục hệ thống đường sắt, bến tàu, tu sửa cầu đường, xây dựng nhà máy dệt, nhà
máy thuộc da, nhà máy giấy..., trị giá 1.224 tỷ đồng trong 5 năm.
o Với các nước khác
Tuy nhiên, trong thời kỳ này, với các nước láng giềng như Ấn Độ, Liên Xô, Trung
Quốc cũng có không ít những mâu thuẫn lợi ích về đường biên giới.
Ngày 20/10/1962, xung đột trang biên giới Trung - Ấn: Quân đội Trung Quốc
vượt qua “đường McMahon” kiểm soát các vị trí nằm sâu trong lãnh thổ Ấn Độ,
chiếm giữ các con đèo thị trấn. Cuộc chiến kéo dài một tháng nhưng đã khiến hơn
1.000 binh Ấn Độ chết n 3.000 người bị bắt làm binh. Quân đội Trung
Quốc chịu thiệt hại ít hơn với 800 nhân mạng. Đến tháng 11, Thủ tướng Trung Quốc
tuyên bố ngừng bắn, vẽ lại đường biên giới không chính thức.
Ngày 2/3/1969, xung đột trang Trung-Xô (tại tỉnh Hắc Long Giang): hai bên
đụng độ ác liệt, cùng sdụng quân chính quy khí hiện đại. Hai bên đều đổ lỗi
cho nhau cố tình khiêu khích, nổ súng trước. Kết thúc xung đột, Trung Quốc thừa
nhận thương vong 92 người, khẳng định đã bắn chết bị thương 230 lính Liên Xô,
đồng thời phá hủy 19 xe tăng thiết giáp. Phía Liên công bố thương vong 152
người.
Bối cảnh lịch sử trên đòi hỏi Trung Quốc phải cải cách để phù hợp với xu thế
chung của thế giới và đưa đất nước thoát khỏi tình trạng không ổn định.
II. CÔNG CUỘC CẢI CÁCH MỞ CỬA CỦA TRUNG QUỐC NHỮNG
THÀNH TỰU, THÁCH THỨC TỪ 1978 - NAY
A. Quá trình cải cách của Trung Quốc từ 1978 - nay
7
Cuối năm 1978, Trung Quốc tiến hành công cuộc cải cách mở cửa với quy mô lớn
sau Hội nghị Trung ương 3 khóa XI. Cuộc cải cách này đã huy động một cách hiệu
quả tính tích cực của nhân dân trong cả nước, giải phóng và phát triển sức sản xuất xã
hội, thúc đẩy kinh tế - xã hội tiến bộ toàn diện. Nền kinh tế Trung Quốc chuyển dần từ
thể chế kinh tế kế hoạch tập trung cao độ sang thể chế kinh tế thị trường hội Chủ
Nghĩa từ đóng cửa, nửa đóng cửa sang mở cửa toàn diện. Sự chuyển biến này đòi hỏi
thể chế hành chính của Trung Quốc cũng phải có sự chuyển mình tương xứng.
Từ khi tiến hành công cuộc cải cách mở cửa (1978) đến nay, để thích ứng với sự
tăng trưởng nhanh của nền kinh tế, cũng như quá trình chuyển đổi hình phát triển
kinh tế, Trung Quốc đã tiến hành 8 lần cải cách hành chính với quy lớn. Từ mục
tiêu và nhiệm vụ của 8 lần cải cách, có thể chia tiến trình cải cách hành chính ở Trung
Quốc làm 4 giai đoạn:
Giai đoạn đầu chuyển đổi thể chế kinh tế (1978 - 1991)
Nhằm xây dựng một kỷ nguyên mới bắt đầu với một hội nghị của Đảng Cộng sản
Trung Quốc ngày 18/12/1978, đánh dấu bằng việc công nhận trang trại nhân quy
nhỏ, bước đầu tiên từ bỏ chính sách công trong nông nghiệp công nghiệp
thời Mao Trạch Đông, dựng một nền kinh tế bắt đầu từ nông nghiệp.
Cải cách kinh tế Trung Quốc mở đầu bằng việc thực hiện "chế độ trách nhiệm
trong sản xuất nông nghiệp" mà sau này được người ta gọi tắllà "khoán sản lượng tới
hộ" vốn đã diễn ra thực tế trước đó tại hai tỉnh An Huy và Tứ Xuyên. Với việc để cho
người nông dân được tự chủ làm ăn được hưởng toàn bộ sản phẩm làm ra trên
mảnh đất được phân phối sau khi nộp cho nhà nước một số phần trăm thu hoạch, tính
tích cực sản xuất hay là nói sức sản xuất trong nông nghiệp Trung Quốc đã được giải
phóng mạnh mẽ. Thuế nông nghiệp đã được xoá bỏ, con em nông dân một svùng
sâu vùng xa được phát sách giáo khoa, được miễn học phí, chính sách hộ khẩu với
những nông dân vào thành phố làm thuê đã được nới lỏng... Chỉ trong một thời gian
ngắn, với diện tích canh tác chỉ chiếm 7% thế giới, nhưng Trung Quốc đã nuôi được
22% dân số thế giới. Cho đến nay thể nói đây bước cải cách mang tính đột phá,
là thành tựu lớn nhất trong cải cách nông nghiệp ở Trung Quốc.
Năm 1979, Trung Quốc quyết định xây dựng các đặc khu kinh tế, gồm ba đặc khu
kinh tế là Thâm Quyến, Chu Hải, Sán Đầu tại tỉnh Quảng Đông và đặc khu kinh tế Hạ
Môn tại tỉnh Phúc Kiến. Việc quyết định xây dựng đặc khu nhằm mở rộng hợp tác kỹ
thuật giao lưu kinh tế với nước ngoài, tận dụng FDI (vốn đầu trực tiếp nước
ngoài), đưa khoa học kỹ thuật tiên tiến vào Trung Quốc. Từ năm 1978-2007, FDI tích
lũy vượt 760 tỷ USD, đứng đầu thu hút FDI tại các nước đang phát triển và đứng thứ
hai thế giới.
Năm 1982, Trung Quốc thực hiện khoán sản lượng hoặc khoán toàn bộ đến h
nông dân. Việc giải phóng năng lực sản xuất cho hàng trăm triệu hộ nông dân đã
mang lại bước nhảy vọt trong kinh tế nông thôn. Giá trị tổng sản lượng nông nghiệp
tăng bình quân 11,5%/năm trong giai đoạn 1980 - 1985, gấp 3,5 lần giai đoạn 1953 -
8
1980. Tuy nhiên, quá trình thực hiện khoán sản phẩm đã nảy sinh những hạn chế, tiêu
cực: tưởng bình quân chủ nghĩa trong ruộng đất, tâm “sợ thay đổi” trở nên khá
phổ biến, công tác quảnruộng đất trở nên hỗn loạn, sở hạ tầng trong nông thôn
yếu kém lại bị phân tán... Để khắc phục tình trạng này, từ năm 1984 Trung Quốc đã
thực hiện những biện pháp hoàn thiện chế độ khoán sản phẩm, trong đó hai nội
dung quan trọng: quy định thời gian khoán ruộng đất từ 15 năm trở lên áp dụng
chính sách “hộ chuyên”. Những biện pháp này đã đưa công cuộc cải cách kinh tế
nông thôn Trung Quốc đạt được những kết quả ban đầu khá căn bản.
Trên đà những thắng lợi đạt được ở khu vực nông thôn, Trung Quốc bước đầu cải
cách thành thị. Trong giai đoạn này, cải cách thành thị chỉ dừng lại mức thăm
dò, thí điểm.
Giai đoạn mở rộng cải cách kinh tế (10/1984 – 9/1988):
Năm 1984, Trung Quốc mở cửa 14 thành phố ven biển nhằm thu hút đầu tư nước
ngoài và mở rộng điều kiện ngoại thương, buôn bán
Giai đoạn này đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong việc đẩy mạnh cải cách kinh
tế ở Trung Quốc , cải cách toàn diện thể chế kinh tế của Trung Quốc.
Trọng tâm của giai đoạn này cải cách kinh tế thành thị, đặt hiệu quả kinh tế
tiêu chuẩn hàng đầu để đánh giá các thành phần kinh tế, tách chức năng quản nhà
nước ra khỏi chức năng kinh doanh, tách quyền sở hữu khỏi quyền kinh doanh
Làm sống môi trường kinh doanh bằng việc đa dạng hóa các loại hình doanh
nghiệp, mở cửa thị trường, cải cách hệ thống giá cả, tiếp tục cải cách kinh tế nông
thôn theo hướng thương phẩm hóa , hiện đại hóa.
Giai đoạn chấn chỉnh, sửa chữa và tiếp tục cải cách (10/1988 – 12/1991):
Trên sở của việc phát triển kinh tế các giai đoạn trước, từ năm 1988 Trung
Quốc bắt đầu thực hiện chiến lược phát triển kinh tế Duyên Hải làm cho các tỉnh này
có thể tham gia trực tiếp vào việc buôn bán quốc tế.
Trong giai đoạn này cũng tiếp tục cải cách về thể chế kinh tế, cho phép hợp
đồng mua bán thuê mướn chuyển nhượng ruộng đất, lập lại nghiệp, ban bố luật
thuế và nhiều đạo luật khác. Đồng thời, tiếp tục cải cách về tài chính, tài vụ, chỉnh
Cải cách mở cửa kinh tế Trung Quốc 8 đốn trật tự kinh tế, ổn định giá cả, tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng. Đặc biệt trong thời gian này Trung Quốc đã tiến hành
nhiều biện pháp nhằm khắc phục tình trạng quá nóng của nền kinh tế, như:
o Thực thi các biện pháp xiết chặt tiền tệ, thực hiện nghiêm ngặt chính sách bốn
giảm: giảm quy đầu tư, giảm tăng cầu hội, giảm lạm phát giảm tốc độ
tăng trưởng công nghiệp. Trong đó, kìm hãm loại bỏ lạm phát mục tiêu hàng
đầu.
o Tiếp tục mở rộng quyền tự chủ cho các nghiệp, điều chỉnh hệ thống giá cả
theo hướng chế thị trường, chuẩn bị những điều kiện để hình thành thị trường
chứng khoán.
9
Những biện pháp trong đã tỏ ra rất hiệu quả thông qua chỉ số tăng trưởng kinh tế
hàng năm của Trung Quốc trong giai đoạn này năm sau cao hơn năm trước, chẳng hạn
như: Ngoại thương của năm 1988 có doanh số 82 tỷ USD bằng 41 lần năm 1978. Số
hợp đồng liên doanh với nước ngoài cũng tăng lên dưới nhiều hình thức và tỉ lệ khác
nhau. Trung Quốc đã mở cửa nhiều thành phố lớn, thị trấn cho người nước ngoài vào
kinh doanh và du lịch.
Giai đoạn xây dựng khung thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (1992
- 2002):
Bước sang thập niên 90 của thế kỷ XX, tình hình thế giới diễn ra những biến đổi to
lớn sâu sắc. Hệ thống hội chủ nghĩa tan rã, Liên giải thể, đảng cộng sản
các nước Đông u mất địa vị cầm quyền. Chiến tranh lạnh kết thúc, nhiều nước tiến
hành điều chỉnh chính sách phát triển kinh tế - xã hội, đối ngoại.
Tại Trung Quốc, sự nghiệp cải cách, mở cửa đối mặt với nhiều thách thức to lớn.
Vấn đề cải cách, mở cửa thành công hay thất bại, đi theo con đường xã hội chủ nghĩa
(họ Xã) hay tư bản chủ nghĩa (họ Tư) thổi bùng các cuộc tranh luận (đại luận chiến).
Trước tình hình đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc chủ trương gác lại các cuộc tranh
luận, tiến hành “Ba điều lợi” (có lợi cho phát triển sức sản xuất hội chủ nghĩa,
có lợi cho đất nước, có lợi cho đời sống nhân dân), mạnh dạn xông pha vào thực tiễn
lấy thực tiễn để kiểm nghiệm. Đại hội XIV Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm
1992) nêu mục tiêu xây dựng thể chế kinh tế thị trường hội chủ nghĩa, đẩy mạnh
mở cửa. Đây được coi cuộc giải phóng tưởng lần thứ hai, mốc quan trọng
trong tiến trình cải cách, mở cửa ở Trung Quốc.
Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đặc biệt Hội nghị Trung ương 3
khóa XIV (năm 1993) thông qua “Quyết định về một số vấn đề xây dựng thể chế kinh
tế thị trường hội chủ nghĩa”, trong đó chỉ rõ: “lấy chế độ công hữu làm chủ thể,
nhiều thành phần kinh tế khác cùng phát triển,... xây dựng chế độ phân phối thu nhập,
lấy phân phối theo lao động làm chính, ưu tiên hiệu quả, quan tâm tới công bằng,
khuyến khích một số vùng, một số người giàu lên trước, đi con đường cùng giàu
có”(1). Đại hội XV Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 1997) đã xác định mục tiêu xây
dựng Nhà nước pháp trị xã hội chủ nghĩa.
Giai đoạn đẩy mạnh xây dựng thể chế kinh tế thị trường hội chủ nghĩa
(2002 - 2012), cải cách theo chiều sâu:
Năm 2001 Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Sự kiện này
đánh dấu tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng của Trung Quốc. Từ Đại hội XVI (năm
2002) Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, đứng đầu là Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào
đã nêu ra quan điểm phát triển khoa học, xây dựng hội hài hòa hội chủ nghĩa,
thúc đẩy phát triển toàn diện hài hòa và bền vững kinh tế - xã hội. Đại hội XVII Đảng
10
Cộng sản Trung Quốc (năm 2007) nêu chủ trương từ “tam vị nhất thể” - bao gồm kinh
tế, chính trị văn hoá sang “tứ vị nhất thể” - bao gồm kinh tế, chính trị, văn hoá
xã hội.
Bước sang thế kỷ XXI, Trung Quốc đã xây dựng được cục diện cải cách, mở cửa
toàn phương vị, đa tầng nấc; hình thành các cực tăng trưởng, Trước đó, Tiểu Chu
Giang với nòng cốt là Quảng Châu, Thâm Quyến được coi là cực tăng trưởng thứ nhất
của Trung Quốc, hình thành trong giai đoạn đầu của cải cách, mở cửa với việc xây
dựng 4 đặc khu (Thâm Quyến, Chu Hải, Sán Đầu, Hạ Môn). Tiếp đó, từ năm 1984,
Trung Quốc tiến hành mở cửa 14 thành phố ven biển, ven sông, ven biên giới. Từ năm
1990, Trung Quốc đẩy mạnh xây dựng Phố Đông, coi đây“đầu tàu” lôi kéo kết
nối các điểm tăng trưởng hạ lưu sông Trường Giang ven biển Đông Hải. Sự ra đời
của Phố Đông (Thượng Hải) đánh dấu sự xuất hiện cực tăng trưởng thứ hai của Trung
Quốc. Ngày 6-6-2006, Chính phủ Trung Quốc đã công bố “Ý kiến về mấy vấn đề thúc
đẩy mở cửa phát triển Khu mới Tân Hải Thiên Tân”, đánh dấu việc chủ trương đưa
Thiên Tân vươn n trở thành cực tăng trưởng thứ ba của Trung Quốc, gắn liền các
điểm tăng trưởng xoay quanh vịnh Bột Hải. Tiếp đó, vùng Thành Đô - Trùng Khánh
(Xuyên Du), Khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ (Quảng Tây), Khu kinh tế bờ Tây (Phúc Kiến)
cũng phấn đấu trở thành cực tăng trưởng tiếp theo ở Trung Quốc. Năm 2008, Quốc vụ
viện Trung Quốc đã phê chuẩn “Cương yếu quy hoạch Khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ”, thể
hiện quyết tâm của Trung Quốc trong xây dựng cực tăng trưởng mới - cực tăng trưởng
kết nối giữa Trung Quốc và ASEAN.
Giai đoạn cải cách toàn diện và sâu rộng (từ năm 2012 đến nay):
Từ Đại hội XVIII của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đặc biệt là Hội nghị Trung ương
3 khóa XVIII thông qua Nghị quyết về cải cách toàn diện và sâu rộng, thực hiện “giấc
mộng Trung Quốc”, “phục hưng đại dân tộc Trung Hoa”. Tổng thư Tập Cận
Bình với cách “hạt nhân lãnh đạo” đã kế thừa, phát huy hoàn thiện cương
lĩnh, đường lối phát triển của Trung Quốc, hình thành nên “Bố cục tổng thể”: phát
triển “5 trong 1” (kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, môi trường) và bố cục chiến lược
“Bốn toàn diện”. Kinh tế bước vào giai đoạn “trạng thái bình thường mới”, “Made in
China 2025”... tìm kiếm chuyển đổi phương thức tăng trưởng, tái cấu nền kinh tế
và động lực phát triển mới. Sáng kiến “Vành đai, Con đường” được xem là giải pháp
chiến lược, vừa thúc đẩy cải cách trong nước, vừa phát huy vai trò đối ngoại.
tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới đã
được Đại hội XIX khẳng định, đưa vào Điều lệ Đảng, trở thành tưởng chỉ đạo đối
với Đảng Nhà nước Trung Quốc sau khi Hiến pháp được bổ sung, sửa đổi năm
2018. Trung Quốc đẩy mạnh cải cách, mở cửa toàn diện sâu rộng hướng tới mục
tiêu trở thành cường quốc xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI.
11
B. Những thành tựu đạt được những vấn đề chưa được khắc phục của cuộc
cải cách mở cửa nền kinh tế
Những thành tựu đã đạt được
o Quy mô kinh tế Trung Quốc không ngừng lớn mạnh.
Khi mới thực hiện cải cách mở cửa vào năm 1978, Trung Quốc một trong
những quốc gia nghèo trên thế giới. Bốn mươi năm sau, tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) của Trung Quốc tăng 33,5 lần, ước khoảng 12.300 tỷ USD, chiếm 15% GDP
toàn cầu, trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, sau Mỹ. Giai đoạn 1978 - 2017,
tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hằng năm đạt 9,5%, cao hơn nhiều so với mức tăng
trưởng trung bình hằng năm của nền kinh tế thế giới 2,9%. Theo Ngân hàng Thế
giới (WB), giai đoạn 2012 - 2016, hằng năm, kinh tế Trung Quốc đóng góp 34% vào
tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Tiến trình công nghiệp hóa của Trung Quốc tăng nhanh,
cơ cấu ngành nông nghiệp, công nghiệp - xây dựng ngày càng hợp lý hóa. Ngành dịch
vụ dần chiếm vị thế chủ đạo, mức tăng trưởng của ngành dịch vụ vượt qua ngành
nông nghiệp, ngành công nghiệp - xây dựng, trở thành lực lượng chính thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế của Trung Quốc.
o Trình độ phát triển tổng thể kinh tế - xã hội được nâng cao.
Xét từ góc độ tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng kinh tế 40 năm qua của Trung Quốc
thực sự là một kỳ tích. Phát triển kinh tế không chỉ bao gồm chỉ tiêu tăng trưởng kinh
tế, mà còn là góc độ phúc lợi xã hội. Nếu như năm 1978, GDP bình quân đầu người
Trung Quốc mới chỉ mức 156 USD, một trong những nước nghèo nhất thế giới,
nhưng đến năm 2017, GDP bình quân đầu người đã đạt 8.800 USD, được xếp vào
nhóm nước thu nhập trung bình cao . Số người nghèo Trung Quốc giảm từ 770
triệu người năm 1978 xuống còn 30,46 triệu người năm 2017, tức tỷ lệ người nghèo
giảm từ 97,5% năm 1978 xuống mức 3,1% năm 2017 . Tăng trưởng kinh tế cao kéo
theo các ngành, nghề nền tảng như năng lượng, giao thông vận tải, viễn thông, khoa
học, giáo dục, y tế, xây dựng sở hạ tầng… cùng phát triển. Các khoản đầu vào
khoa học - công nghệ tăng. Chỉ riêng trong năm 2017, hơn 1,3 triệu đơn đăng
sáng chế được cấp bằng sáng chế. Hằng năm, hơn 3 triệu sinh viên chuyên ngành
khoa học, công nghệ, kỹ thuật toán học các trường đại học Trung Quốc tốt
nghiệp, lớn hơn gấp 5 lần so với Mỹ.
Kinh tế Trung Quốc không chỉ tốc độ tăng trưởng nhanh chóng, trong các
giai đoạn khác nhau, còn thể hiện sự thay đổi trong cách thức phát triển, phù hợp với
từng bối cảnh. Ngay từ tháng 7-2003, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc khi đó
là Hồ Cẩm Đào đề xuất “kiên trì lấy con người làm gốc, thiết lập quan niệm phát triển
toàn diện, hài hòa, bền vững, thúc đẩy phát triển toàn diện kinh tế hội con
người”. Tại Đại hội XIX Đảng Cộng sản Trung Quốc, tháng 10-2017, Tổng thư
Tập Cận Bình đưa ra quan điểm “thúc đẩy nâng cấp sự chuyển đổi mô hình phát triển
12
kinh tế, xây dựng hệ thống kinh tế hiện đại hóa, thúc đẩy nền kinh tế Trung Quốc phát
triển theo con đường mới chất lượng cao, bền vững”.
o Ảnh hưởng đóng góp vào nền kinh tế toàn cầu của Trung Quốc không ngừng
gia tăng.
Thành tựu kinh tế Trung Quốc đạt được trong 40 năm cải cách mở cửa
không tách rời với mối quan hệ và ảnh hưởng với thị trường thế giới. Là nước lớn với
dân số chiếm khoảng 18% dân số toàn cầu, ảnh hưởng của Trung Quốc đối với nền
kinh tế thế giới là rất rõ rệt. Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, Trung Quốc luôn tích
cực thúc đẩy phát triển thương mại, đầu song phương đa phương. Trao đổi
thương mại nước ngoài của Trung Quốc tăng trưởng với tốc độ trung bình hằng năm
là 14,5%\. Kể từ khi Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), năm
2001, Trung Quốc thực hiện đầy đủ các cam kết đối với WTO. Trung Quốc giảm đáng
kể thuế nhập khẩu và các hàng rào phi thuế quan. Mức thuế trung bình giảm từ 15,3%
năm 2001 xuống còn 9,8% năm 2017. Trung Quốc cũng mở cửa thị trường dịch vụ,
liên tục giảm và xóa bỏ những hạn chế đối với đầu tư nước ngoài, tăng cường bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ. Lĩnh vực ngoại thương của Trung Quốc càng tăng trưởng thì
mức đóng góp cho thị trường thương mại quốc tế ngày càng lớn. Cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 bùng nổ, nhiều quốc gia chịu sự tác động của suy
thoái kinh tế toàn cầu, tỷ lệ tăng trưởng của kim ngạch thương mại toàn cầu nằm
mức thấp trong một thời gian dài nhưng tăng trưởng xuất nhập khẩu của Trung Quốc
tương đối ổn định, góp phần ổn định thương mại toàn cầu.
Năm 2018, xảy ra xung đột thương mại Mỹ - Trung, các nhân tố bất ổn bên
ngoài gia tăng, nhưng về tổng thể, nền kinh tế Trung Quốc vẫn ổn định và sự chuyển
dịch cơ cấu vẫn đang tiếp diễn. WTO cho rằng, việc cải cách cơ cấu kinh tế của Trung
Quốc sẽ có tác động tích cực đến tăng trưởng thương mại toàn cầu. Sự chuyển đổi
hình kinh tế của Trung Quốc từ chủ yếu dựa vào đầusang tiêu dùng, xét về lâu dài
sẽ giúp Trung Quốc tăng trưởng kinh tế bền vững hơn, từ đó hỗ trợ nền kinh tế toàn
cầu tiếp tục tăng trưởng. Điều quan trọng hơn, với tư cách là nước đang phát triển lớn
nhất thế giới hiện nay, sự nâng cấp, chuyển đổi hình phát triển kinh tế của Trung
Quốc sẽ cung cấp bài học quan trọng cho các nước đang phát triển khác trong quá
trình phát triển. Thông qua cải cách nâng cấp, chuyển đổi hình, cấu ngành,
nghề liên tục, nền kinh tế Trung Quốc sẽ an toàn hơn, có tính bền vững hơn, điều này
sẽ có lợi cho cả thế giới. Phát biểu tại Hội chợ Nhập khẩu quốc tế Trung Quốc (CIIE)
lần đầu tiên, Tổng Giám đốc WTO R. Azevedo cho biết, CIIE gửi một thông điệp
ràng về vai trò ngày càng tăng của Trung Quốc trong thương mại toàn cầu. Trung
Quốc đang ngày càng tích cực tham gia vào quá trình cải cách WTO, giúp các nước
đang phát triển kém phát triển tham gia hưởng lợi từ hệ thống thương mại đa
phương này, thông qua nhiều chương trình khác nhau.
Tổng Giám đốc Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) C. Lagarde ca ngợi sự đóng góp của
Trung Quốc vào nền kinh tế thế giới, thông qua “ba cây cầu” Trung Quốc khởi
13
xướng và thúc đẩy. Thứ nhất, “cầu nối với thế giới” mà Trung Quốc bắt đầu xây dựng
cách đây 40 năm, đó là thông qua tiến trình cải cáchmở cửa nền kinh tế, thúc đẩy
hội nhập với bên ngoài. Thứ hai, “cầu nối để thịnh vượng”, Trung Quốc thúc đẩy tái
cân bằng nền kinh tế theo hướng thúc đẩy tiêu dùng của các £ gia đình, hạn chế viê £c
đầu quá mức. Trong 3 quý đầu của năm 2018, tiêu thụ đóng góp 78% vào tăng
trưởng GDP của Trung Quốc, tăng 50% so với khoảng 5 năm trước, thặng tài
khoản vãng lai của Trung Quốc dự đoán sẽ giảm, thấp hơn 1% GDP trong năm 2018,
so với con số khoảng 10% GDP năm 2007. Thứ ba, “cầu nối cho tương lai”, Trung
Quốc khai thác sức mạnh hợp tác quốc tế, đặc biệt thương mại, kêu gọi các quốc
gia hợp tác giải quyết tranh chấp thương mại, phối hợp cùng nhau xây dựng cây cầu
hòa bình, tương lai thịnh vượng trên thế giới.
o Trung Quốc tích cực chủ động tham gia quản trị và phát triển kinh tế toàn cầu.
Trung Quốc hiểu rõ thành tựu kinh tế giành được trong 40 năm cải cách và mở cửa
không tách rời với việc đi sâu thúc đẩy tiến trình toàn cầu hóa. Kiên trì cùng lợi,
cùng thắng chủ trương chính sách Trung Quốc kiên trì trong những năm gần
đây. Ngay từ năm 2002, trong báo cáo Đại hội XVI của Đảng Cộng sản, Trung Quốc
đề xuất kiên trì phương châm kết hợp giữa “thu hút đầu nước ngoài” “vươn ra
nước ngoài”, nâng cao toàn diện trình độ mở cửa với nước ngoài. Thực lực kinh tế của
Trung Quốc từng bước được tăng cường, thương mại, xuất, nhập khẩu, đầu nước
ngoài của Trung Quốc sự tác động ngày càng lớn đối với tăng trưởng thương mại
toàn cầu, trở thành lực lượng quan trọng tái cân bằng nền kinh tế thế giới. Cùng với
việc phát triển kinh tế, để tăng thêm sức mạnh mở rộng tầm ảnh hưởng trên thế
giới, Trung Quốc xây dựng chiến lược quốc tế hóa đồng Nhân dân tệ (NDT). Ngày
01-10-2016, đồng NDT chính thức được IMF đưa vào giỏ tiền tệ Quyền rút vốn đặc
biệt (SDR), từng bước giành được vị thế đồng tiền chủ chốt quốc tế.
o Xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
Thể chế kinh tế thị trường hội chủ nghĩa Trung Quốc được ghi rất trong
nghị quyết hội nghị trung ương ba khóa XIV của Đảng Cộng sản Trung Quốc (cuối
năm 1993): “Thành lập thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa nghĩa là để cho thị
trường đóng vai trò bản trong phân bổ nguồn lực dưới sự quản của Nhà
nước ... Hệ thống doanh nghiệp hiện đại lấy chế độ công hữu làm chủ thể là nền tảng
của thể chế kinh tế thị trường hội chủ nghĩa” (Trung ương Đảng Cộng sản Trung
Quốc khóa XIV, 1993). Cùng với quá trình nói trên, doanh nghiệp nhà nước từ chỗ
sản xuất theo kế hoạch hoàn toàn bắt đầu được trao quyền tự chủ (từ cuối 1978 đến
cuối 1984), tiếp theo được phân tách quyền sở hữu quyền kinh doanh, tổ chức
Đảng rút lui khỏi quản kinh doanh thí điểm cổ phần hóa (cuối 1984 đến cuối
1993) sau đó nhân hóa trong trường hợp các doanh nghiệp nhỏ vừa
doanh nghiệp lớn không trong các lĩnh vực quan trọng theo phương châm “nắm lớn,
buông nhỏ” (Hoàng Thế Anh chủ biên, 2018).
14
Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Tập Cận Bình và Lý Khắc Cường khẳng định vai
trò quyết định của thị trường trong phân bổ nguồn lực. Tuy nhiên, doanh nghiệp nhà
nước tiếp tục được coi trọng hỗ trợ để lớn hơn mạnh hơn trở thành những
doanh nghiệp khổng lồ quán quân quốc tế. Trung Quốc đã tập trung củng cố khoảng
gần 100 doanh nghiệp chủ yếu là trong lĩnh vực công nghiệp để trở thành những quán
quân thế giới. Thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa từ thời điểm này thể hiện rõ
chế độ sở hữu hỗn hợp cho phép các quỹ tài chính của nhà nước doanh nghiệp
nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp nhân như vậy mở rộng sự kiểm soát của
Nhà nước trong nền kinh tế.
Khu vực kinh tế tư nhân Trung Quốc, từ chỗ bị cấm trước năm 1979, đến chỗ
được cho phép thành lập nhưng bkiềm chế phát triển chậm chạp trong thập niên
1980 khu vực đô thị một số địa phương được chọn để thử nghiệm kinh tế thị
trường; rồi sở pháp để hoạt động không còn bị hạn chế về quy lao
động từ năm 1988; rồi hoạt động dựa trên Luật Doanh nghiệp từ giữa thập niên 1990;
được công nhận “một thành phần quan trọng của nền kinh tế hỗn hợp” t năm
1999. Năm 2005 tiếp đó năm 2010, chính phủ Trung Quốc đã gỡ bỏ các hạn chế
đối với doanh nghiệp nhân trong việc tham gia vào các ngành chẳng hạn như vận
tải hàng không. Các doanh nghiệp nhân dần dần cũng đgặp khó khăn hơn trong
huy động vốn do Nhà nước gỡ bỏ dần các hạn chế đối với tiếp cận các khoản vay
ngân hàng huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Suốt bốn mươi năm qua,
khu vực doanh nghiệp tư nhân đã đóng góp to lớn vào tăng trưởng kinh tế của Trung
Quốc và tỏ ra hiệu quả hơn hẳn khu vực doanh nghiệp nhà nước (Lardy, 2018). Trong
chặng đường ấy, một sự kiện đặc biệt, đó vào năm 2001, nhân kỷ niệm 80 năm
thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc, Tổng thư Giang Trạch Dân đã công bố
thuyết “ba đại diện”, cho phép chủ doanh nghiệp tư nhân trở thành đảng viên. Từ đây,
thành phần của Đảng Cộng sản Trung Quốc bao gồm các đại diện của ba lực lượng
công nhân, nông dân và chủ doanh nghiệp tư nhân.
Những vấn đề đặt ra chưa được giải quyết:
o Tốc độ tăng trưởng kinh tế không ổn định
Kinh tế Trung Quốc suốt một thời gian dài tăng trưởng quá nóng, dựa quá nhiều
vào đầu tư, dựa quá ít vào tiêu dùng nội địa, mức vay nợ cao, lượng tiền mặt trong lưu
thông lớn, mất cân bằng cán cân thương mại (De, 2007; Hoàng Thế Anh chủ biên,
2017). Nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao của Trung Quốc rất khó kiểm soát được
bằng các sắc lệnh hành chính Nhà nước Trung Quốc vẫn dùng. Thêm vào đó, kỹ
năng điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước không thể có được thông qua các giáo trình
hay nhờ kinh nghiệm tích lũy trong một thời gian ngắn ngủi phải kinh nghiệm
đau đớn và thấm thía qua cả trăm năm kinh tế thị trường.
Đầu Trung Quốc luôn cao, giao động trong khoảng 30% đến 40% GDP trong
thập niên 1990 và đầu thập niên 2000, thậm chí đã vượt tỷ trọng của tiêu dùng từ năm
15
2006 giao động trong khoảng 40% đến 45% GDP trong thời gian từ 2008 tới nay
(Lo, 2016). Đầu quá cao trong khi tiêu dùng nội địa không tương xứng dẫn tới sản
xuất dư thừa trong khi Trung Quốc thường xuyên gặp phải tình trạng thiếu cung
nguyên liệu kết cấu hạ tầng không theo kịp. Không dựa vào tiêu dùng nội địa
lại dựa vào nhu cầu nước ngoài dẫn đến việc kinh tế Trung Quốc phụ thuộc nhiều vào
tình hình tăng trưởng toàn cầu. Mặt khác do thặng thương mại lớn nhất
trong quan hệ thương mại song phương với một số nước, nên những căng thẳng
thương mại hay nảy sinh dụ điển hình căng thẳng thương mại với Mỹ hiện
nay.
Khi tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc giảm, vấn đề nợ trở nên được chú ý.
Vào năm 2003, nợ của Trung Quốc mới chỉ khoảng 175% GDP và tốc độ tăng trưởng
của Trung Quốc rất cao, nên vấn đề nợ không đáng lo ngại. Song do dựa vào đầu tư để
đối phó với tác động của khủng hoảng, nợ đã ngày một tăng đến năm 2018 đã lên
tới 253% GDP trong khi tăng trưởng kinh tế ngày càng chậm lại. Phần lớn nhất trong
nợ của Trung Quốc nợ của doanh nghiệp ngoài ngành tài chính, vào khoảng 123%
GDP năm 2014. Thứ đến là nợ công, khoảng 58% GDP cùng năm. Nợ của hộ gia đình
khoảng 36% GDP (Edwards, 2016). IMF cho rằng nợ của khu vực doanh nghiệp
Trung Quốc gia tăng mức nhanh đáng lo ngại. Nguyên nhân của nợ doanh nghiệp
tăng nhanh các doanh nghiệp Trung Quốc dựa nhiều vào vốn vay ngân hàng do
thị trường chứng khoán còn kém phát triển. Nếu các doanh nghiệp Trung Quốc vỡ n
thì khu vực ngân hàng của Trung Quốc sẽ lâm vào tình trạng nguy hiểm. Trong nợ
công, nợ của chính quyền địa phương đã tăng rất nhanh đã vượt cả nợ của chính
quyền trung ương. Chủ nghĩa GDP là nhân tố quan trọng góp phần gây ra nợ công của
chính quyền địa phương.
o Sự phát triển không cân bằng giữa các vùng kinh tế
Không cân bằng nghĩa phát triển không đồng đều giữa nông thôn thành thị,
giữa sâu trong nội địa (miền trung, miền tây) duyên hải (miền đông); không đồng
đều giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội. Tình trạng khó được đi học, khó được
khám chữa bệnh, khó tìm được việc làm thành những vấn đề nhức nhối (De, 2007;
Hoàng Thế Anh chủ biên, 2017).
Thực tiễn Trung Quốc cho thấy cùng với thu nhập bình quân đầu người tăng
nhanh giảm nghèo cũng rất nhanh, bất bình đẳng thu nhập lại gia tăng rất nhanh.
Bất bình đẳng về thu nhập Trung Quốc đạt mức cao nhất vào năm 2008, tức ba
mươi năm kể từ khi cải cách, bắt đầu giảm dần nhưng chậm từ 2008 đến nay. Tuy
nhiên, sự thay đổi này chủ yếu là do tỷ trọng của nhóm 20 phần trăm dân số thu nhập
cao nhất giảm tỷ trọng của nhóm 20 phần trăm dân số thu nhập giữa tăng; trong
khi đó, tỷ trọng của nhóm 20 phần trăm dân số thu nhập thấp nhất lại không hề tăng
(Jain-Chandra et al., 2018).
Trong quá trình phát triển, chênh lệch phát triển vùng miền là không tránh khỏi
bất cứ nước nào. Tuy nhiên, Trung Quốc, chênh lệch phát triển vùng miền lại lớn
16
hơn hẳn các nước bản cũng như các nước đang phát triển khác. Sự chênh lệch này
thể hiện cả GDP, thu nhập, mức tiêu dùng, cung ứng dịch vụ công, v.v… Ngay cả
đóng góp của vốn nhân lực vào tăng trưởng cũng sự chênh lệch lớn giữa khu vực
nông thôn với khu vực thành thị do lao động nông thôn không được giáo dục tốt bằng
lao động thành thị (Li et al., 2017). Nguyên nhân của chênh lệch do điều kiện phát
triển kinh tế không đồng đều dẫn tới tốc độ tăng trưởng kinh tế phát triển kinh tế,
tốc độ đô thị hóa không như nhau. Các chính sách phát triển vùng nông thôn các
vùng sâu trong nội địa được triển khai từ năm 1999 nhất là dưới thời Hồ Cẩm Đào và
Ôn Gia Bảo nhưng mãi đến giữa thập niên 2000 mới có vẻ phát huy hiệu quả.
Một số nghiên cứu gần đây cho thấy hiện tượng chữ U ngược trong tương quan
giữa chênh lệch về thu nhập và mức thu nhập bình quân đầu người được khẳng định ở
Trung Quốc. Chênh lệch thu nhập nói chung chênh lệch thu nhập giữa nông thôn
thành thị lên đến mức cao nhất vào năm 2004 giảm dần sau đó, nhưng mức độ
chênh lệch thu nhập giữa các tỉnh duyên hải với các tỉnh sâu trong nội địa vẫn tiếp tục
gia tăng đến tận năm 2009 rồi mới bắt đầu giảm (Kanbur et al., 2017).
o Thiếu sự phối hợp trong các lĩnh vực kinh tế
Thiếu sự phối hợp giữa ba lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp dịch vụ, đồng
thời, thiếu phối hợp giữa đầu tiêu dùng (De, 2007; Hoàng Thế Anh chủ biên,
2017). Ngoài ra, còn thiếu sự phối hợp trong phát triển vùng.
Khu vực dịch vụ ở Trung Quốc được xem là quá nhỏ và không giúp nhiều cho việc
hấp thụ lao động dư thừa ở nông thôn, giảm thâm dụng tài nguyên, tăng hiệu quả đầu
ra giúp nâng cao chất lượng sống. Vào thời điểm năm 2013, khu vực dịch vụ chỉ
chiếm gần 47% GDP và chỉ 37% tổng số việc làm ở Trung Quốc. Những chỉ số này
thấp so với các nước thu nhập trung bình nói chung (55 phần trăm GDP)
(Rutkowski, 2015; Fang, 2018). Ngay so với trình độ phát triển kinh tế nói chung của
Trung Quốc thì quy khu vực GDP cũng nhỏ (Park & Shin, 2012). Năm 2013
cũng là thời điểm tỷ trọng của dịch vụ trong GDP bắt đầu vượt tỷ trọng của các ngành
chế biến, chế tạo (ngoại trừ các năm 2008-2009 khi khu vực chế biến chế tạo bị ảnh
hưởng tiêu cực của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu).
hai nguyên nhân thể dẫn tới khu vực dịch vụ nhỏ Trung Quốc. Một là,
quá nhiều ưu đãi đối với các ngành công nghiệp dẫn tới đầu đổ vào công nghiệp
hơn vào dịch vụ. Các ưu đãi đó bao gồm trợ giá đầu vào, các kiểm soát giá chế
độ thuế có lợi cho công nghiệp, các rào cản đầu tư tư nhân vào các ngành tài chính và
ngân hàng, hàng không, viễn thông. Hai là, khu vực dịch vụ bị chi phối bởi các doanh
nghiệp nhà nước (lớn n nhiều so với trong lĩnh vực công nghiệp) khiến nhân
không thấy cơ hội kinh doanh thuận lợi nào nếu đầu tư vào dịch vụ.
Chính sách phát triển vùng theo triết lý khai thác lợi thế so sánh đã dẫn tới việc tạo
các điều kiện thuận lợi cho các địa phương ven biển phát triển trước, sau đó đến các
thành phố tỉnh lỵ và thành phố ven sông Dương Tử. Chính vì thế, các vùng Đông Bắc,
Trung, Tây và Tây Nam vốn có ít lợi thế cạnh tranh hơn lại càng bị tụt hậu. Đô thị hóa
17
công nghiệp, dịch vụ các địa phương được ưu tiên phát triển hơn hẳn các địa
phương còn lại. Hệ quả là, lao động thừa các vùng không được ưu tiên phải di
chuyển lên thành phố các địa phương ưu tiên để tìm việc làm. Nhưng chế độ hộ
khẩu không được thay đổi đã khiến cho khoảng 250 triệu người Trung Quốc di cư lên
thành phố làm việc nhưng không có hộ tịch
Sau khi Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, các rào cản đối với
khu vực dịch vụ được gỡ bỏ dần nhưng chậm. Nhận ra hệ quả tiêu cực của việc thiếu
phối hợp trong cơ cấu ngành kinh tế, năm 2012 Tổng thư Hồ Cẩm Đào cũng từng
khẳng định phải phát triển dịch vụ, thúc đẩy cầu nội địa nhất là tiêu dùng nội địa, thúc
đẩy bảo tồn tài nguyên và kinh tế tuần hoàn, phát triển có phối hợp giữa nông thôn
thành thị, xem đó những mục tiêu của nhiệm vụ tăng tốc hoàn thiện kinh tế thị
trường hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, các đánh giá của quốc tế về việc thực hiện các
mục tiêu này ở Trung Quốc là rất chậm chạp.
o Gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường
Nền kinh tế Trung Quốc tiêu dùng quá nhiều năng lượng không thân thiện với
môi trường sinh thái (De, 2007; Hoàng Thế Anh chủ biên, 2017). Điều tra ô nhiễm
của Bộ Môi trường sinh thái cho thấy, số lượng các nguồn gây ô nhiễm ở Trung Quốc
đã tăng từ 5,9 triệu năm 2010 lên khoảng 9 triệu năm 2018. Trong số 9 triệu nguồn
gây ô nhiễm đó, có tới 7,4 triệu nguồn là từ các cơ sở công nghiệp (Kuo, 2018).
Thực tế, không phải Trung Quốc không ý thức được vấn đề môi trường trong quá
trình công nghiệp hóa. Ngay từ đầu thập niên 1980, khẩu hiệu “văn minh sinh thái” đã
được nêu ra. Tuy nhiên, chỉ đến khi ô nhiễm môi trường trở nên nhức nhối vào giữa
thập niên 2000 thì đến năm 2007, khẩu hiệu này mới được nhắc đến liên tục (Zhang,
2015). Năm 2007, Tổng thư Hồ Cẩm Đào kêu gọi thực hiện Quan điểm Phát triển
Khoa học với mục đích chuyển phương thức phát triển của Trung Quốc sang phát
triển bền vững trên đồng thời các mặt kinh tế, hội, môi trường. Tuy nhiên, khủng
hoảng tài chính toàn cầu 2008 những tác động tiêu cực của tới kinh tế Trung
Quốc đã khiến cho các cải cách này không diễn ra như kế hoạch. Đầu vẫn một
nhân tố tăng trưởng quan trọng tiếp tục được thúc đẩy. Ngay cả năm 2014, khi
Trung Quốc “tuyên chiến” với ô nhiễm môi trường, những lo ngại rằng chống ô nhiễm
môi trường thể làm nền kinh tế tăng trưởng chậm lại vẫn còn rất (Branigan,
2014).
III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ CÔNG CUỘC CẢI CÁCH CỦA TRUNG
QUỐC ĐẾN VIỆT NAM
Là quốc gia láng giềng có những điểm tương đồng với Trung Quốc,vì vậy - những
kinh nghiệm (cả thành công chưa thành công) trong cải cách mở cửa của Trung
Quốc, đều có giá trị tham khảo tốt cho Việt Nam..
A. Về nhận thức
18
Một giải phóng tưởng, không ngừng sáng tạo về luận mạnh dạn
cải cách trong thực tiễn.
Như đã nêu ở trên, đối với các quốc gia đang trong quá trình chuyển đổi như Trung
Quốc và Việt Nam, thực hiện cải cách mở cửa hay đổi mới, hội nhập quốc tế là một sự
nghiệp hoàn toàn mới, chưa tiền lệ. Vậy, Đảng Cộng sản hai nước - với
cách đảng cầm quyền, lãnh đạo sự nghiệp cải cách và đổi mới cần phải giải phóng
tưởng, không ngừng sáng tạo v luận mạnh dạn cải cách trong thực tiễn; đồng
thời chủ động nắm bắt xu thế thời đại, tận dụng tốt thời cơ do môi trường quốc tế đưa
lại, từ đó định ra những chủ trương chính sách phù hợp để phát triển.Thực tiễn Trung
Quốc cho thấy, quá trình lãnh đạo cải cách mở cửa cũng quá trình Đảng Cộng sản
Trung Quốc tìm tòi, và đã tìm ra được “Ba cái một”, bao gồm: Một ngọn cờ - CNXH
đặc sắc ngọn cờ (tức phương tiện) đoàn kết nhân dân các dân tộc cùng phấn đấu;
“Một luận” -hệ thống luận CNXH đặc sắc Trung Quốc (gồm luận Đặng Tiểu
Bình, tư tưởng Ba đại diện, quan điểm phát triển khoa học…); “Một con đường” - con
đường xây dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc gồm 5 con đường nhỏ (công nghiệp hóa
kiểu mới, đô thị hóa, thông tin hóa, hiện đại hóa nông nghiệp tự chủ sáng tạo đặc
sắc Trung Quốc).
Hai nhấn mạnh “đặc sắc Trung Quốc” hay điều kiện đặc thù của đất
nước nhưng vẫn coi trọng và nắm vững quy luật.
Như đã nêu ở trên, quá trình lãnh đạo cải cách mở cửa cũng là quá trình Đảng Cộng
sản Trung Quốc những sáng tạo về luận, đồng thời dùng luận đó đchỉ đạo
thực tiễn mới, hình thành nên cái gọi “đặc sắc Trung Quốc”. Nhưng cùng với tiến
trình cải cách ngày càng đi vào chiều sâu, nếu quá nhấn mạnh tính đặc thù, thì những
lý luận đó cũng sẽ vấp phải những lực cản, thậm chí không thể chỉ đạo giải đáp được
mọi vấn đề thực tiễn mới đặt ra.Vì vậy, sau khi gia nhập trở thành thành viên
chính thức của WTO, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã ngày càng nhận thức ràng
hơn về tính quy luật trong phát triển, bao gồm quy luật hiện đại hóa của hội loài
người,thậm chí cả quy luật cầm quyền của các chính đảng (vô sản và sản)trên thế
giới. Hội nghị Trung ương 3 khóa 18 khi đặt vấn đề phát huy vai trò quyết định của thị
trường trong phân bổ nguồn lực, cũng được xuất phát từ quan điểm cho rằng: Thị
trường quyết định phân bổ nguồn lực quy luật chung của kinh tế thị trường, Trung
Quốc muốn kiên trì thể chế kinh tế thị trường hội Chủ Nghĩa cũng phải tuân theo
quy luật này.
Ba là, Đảng Cộng sản với cách đảng cầm quyền, lãnh đạo cải cách mở
cửa nhất định phải có dũng khí chính trị và kết tinh trí tuệ.
Cải cách mở cửa một sự nghiệp hoàn toàn mới, được như một cuộc cách
mạng. vậy, người lãnh đạo sự nghiệp “cách mạng mới” này, Đảng Cộng sản
cũng phải tự đổi mới mình, nâng cao năng lực cầm quyền, trong đó có nâng cao năng
lực điều hành nền kinh tế thị trường xây dựng nhà nước pháp quyền.Thực tiễn
Trung Quốc cho thấy, quá trình cầm quyền lâu dài (65 năm) cũng là quá trình hệ thống
19
chính trị của Đảng ngày càng bị hành chính hóa, quan liêu hóa xa dân. Trong
Đảng cũng hình thành các tập đoàn lợi ích, thậm chí cả tập đoàn gia tộc. Do sự tác
động chi phối của những tập đoàn này, nhiều chủ trương chính sách của Đảng bị
méo mó, dẫn đến tình trạng: Lợi ích quốc gia bị bộ ngành hóa, lợi ích bộ ngành bị tập
đoàn hóa, lợi ích tập đoàn bị cá nhân hóa.
Chính vì lẽ đó, văn kiện của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã gọi giai đoạn cải cách
hiện nay là “giai đoạn công kiên”, với hàm ý rằng: Các tập đoàn lợi ích trong Đảng và
xã hội đã hình thành và thâm căn cố đế. Các biện pháp cải cách phải đủ mạnh mới
thể đột phá được các tập đoàn lợi ích giống như bức tường thành này. Bản thân Tổng
thư Tập Cận Bình khi trình bày bản Thuyết minh tại hội nghị Trung ương 3 khóa
18 cũng nhấn mạnh Đảng phải dũng khí chính trị trí tuệ cao hơn nữa. như
vậy, Đảng mới thể kích hoạt được sức sáng tạo của toàn hội,qua đó tập trung
được trí tuệ vượt qua kkhăn, thách thức cùng với những rủi ro từ môi trường bên
ngoài và ngay trong thể chế đưa lại.
B. Về giải pháp
Một là, các biện pháp cải cách phải có tính đồng bộ và phối hợp.
Thực tiễn Trung Quốc cho thấy, thời kỳ đầu, cải cách được tiến hành theo phương
châm “dò đá qua sông”, Đảng Cộng sản Trung Quốc phải vừa làm vừa rút kinh
nghiệm. Các biện pháp cải cách đều được thực hiện theo một lộ trình thống nhất,
tính đồng bộ và phối hợp với nhau. Cải Cách bắt đầu từ nông thôn, sau đó mở rộng ra
thành thị. Mở cửa được bắt đầu từ mở cửa bên trong, từng bước từ ven biển (đặc khu)
- đền ven sông, ven biên giới; sau đó mở cửa ra bên ngoài bằng chiến lược “đi ra
ngoài” (bao gồm thương mại, đầu tư trực tiếp nước ngoài, thầu khoán công trình, viện
trợ phát triển, mua bán sáp nhập các xí nghiệp).
Ngoài ra, các biện pháp cải cách còn được thực hiện có sự phối hợp, thời kỳ đầu là
giữa kinh tế, chính trị, văn hóa; về sau bổ sung thêm xã hội và hiện nay là môi trường
sinh thái; từ đó hình thành một bố cục được gọi là “ngũ vị nhất thể” bao gồm: Kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội và văn minh sinh thái.
Hai là, trong hàng loạt các biện pháp cải cách khác nhau, cần lựa chọn
đúng trọng điểm và hạt nhân của cải cách.
Cải cách một cuộc cách mạng. Các biện pháp cải cách được đưa ra thường rất
nhiều, bao quát nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, Đảng Cộng sản với tư cách như
người thiết kế công trình hệ thống, cần xác định từ đó lựa chọn đúng đắn lĩnh vực
trọngđiểm hạt nhân cải cách.Thực tiễn Trung Quốc cho thấy, giai đoạn đầu cải
cách, Đảng Cộng sản Trung Quốc xác định lấy cải cách nông thôn làm trọng điểm
hạt nhân là thực hiện khoán sản lượng đến hộ gia đình. Còn hiện nay khi cải cách mở
cửa đã bước vào một giai đoạn hoàn toàn mới, mặc gặp nhiều khó khăn thách
thức cả bên trong lẫn bên ngoài, nhưng Đảng Cộng sản Trung Quốc trong hội nghị
Trung ương 3 khóa 18 vẫn xác định “cải cách thể chế kinh tế là trọng điểm” và vấn đề
hạt nhân xử lý tốt mối quan hệ giữa chính phủ thị trường.Khi đã xác định được
20
“trọng điểm” vấn đề “hạt nhân” thì các nguồn lực - bao gồm nguồn lực cứng
nguồn lực mềm sẽ được tập trung vào đó để thực hiện. Như vậy, Đảng vẫn nắm được
quyền chủ động và kiểm soát toàn bộ tiến trình cải cách mở cửa, trong đó có việc thiết
kế từ trên đỉnh và thành lập Ban chỉ đạo đi sâu cải cách toàn diện như đã nêu trên.
Ba là, để sự nghiệp cải cách mở cửa thành công, Đảng phải coi trọng đào
tạo bồi dưỡng đội ngũ cốt cán cầm quyền có trình độ cao.
Sự nghiệp cải cách mở cửa Trung Quốc đổi mới Việt Nam đều do Đảng
Cộng sản của hai nước khởi xướng lãnh đạo. Xây dựng thể chế kinh tế thị trường
hội Chủ Nghĩa (Trung Quốc) kinh tế thị trường định hướnghội Chủ Nghĩa
(Việt Nam) đều là những sự việc hoàn toàn mới.Đảng muốn lãnh đạo cải cách hay đổi
mới thành công, khâu then chốt là đội ngũ cốt cán cầm quyền. Thực tiễn Trung Quốc
cho thấy, mặc ngay từ năm 1993 Hội nghị Trung ương 3 Đại hội 14 của Đảng
Cộng sản Trung Quốc đã ban hành bản Quyết định về xây dựng thể chế kinh tế thị
trường Xã hội Chủ Nghĩa, nhưng 10 năm sau - năm 2003 kết quả cuộc điều tra xã hội
học cho thấy có tới 65% cán bộ từ cấp huyện trở lên không hiểu kinh tế thị trường Xã
hội Chủ Nghĩa là thế nào. Vì vậy, sau Đại hội 16, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã dành
hẳn một hội nghị Trung ương - tức hội nghị Trung ương 4, để thảo luận nghiên cứu và
thông qua Nghị quyết về nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng, gồm 4 nội dung,
trong đó nội dung đầu tiên nâng cao năng lực điều hành kinh tế thị trường hội
Chủ Nghĩa.
Còn văn kiện Đại hội 18 Đảng Cộng sản Trung Quốc gần đây, trong 6 nhóm giải
pháp về xây dựng Đảng, đã dành hẳn một nhóm giải pháp nói về“đi sâu cải cách chế
độ nhân sự cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ cốt cán cầm quyền tố chất cao”. Bởi
lẽ, khi Đảng đã đường lối đúng, giải pháp đúng thì khâu then chốt cán bộ. Cán
bộ trong điều kiện Đảng Cầm quyền hoàn toàn khác với trước khi Đảng giành được
chính quyền.Hơn nữa, hoàn cảnh cầm quyền của Đảng hiện nay hoàn toàn khác với
trước đây. Đảng Cộng sản Trung Quốc trên sở rút kinh nghiệm từ sự mất đi địa vị
cầm quyền của Đảng Cộng sản Liên Đông Âu cho rằng, các chính đảng này
thất bại mất đi địa vị cầm quyền do không thích ứng với hoàn cảnh cầm quyền
mới.Để thể xây dựng được đội ngũ cán b cốt cán cầm quyền trình độ cao,
Đảng Cộng sản Trung Quốc đã nhiều chủ trương chính sách biện pháp khác
nhau, trong đó việc hoàn thiện chế bình xét đánh giá cán bộ, kiện toàn thể chế
quản lý cán bộ, hoàn thiện chế độ công chức, tăng cườngcải tiến công tác đào tạo
bồi dưỡng qua đó nâng cao năng lực và trình độ cho cán bộ cầm quyền v.v…
21
KẾT LUẬN
Công cuộc cải cách, mở cửa nền kinh tế của Trung Quốc đã đi qua hơn 50 năm
đang tiếp tục ngày càng trở nên hoàn thiện, thích ứng với những bối cảnh bên ngoài
và nội tại đặt ra, với mục đích phát triển quốc gia một cách toàn diện. Dù thời gian cải
cách chưa dài, Trung Quốc vẫn đang trong thời kỳ xây dựng khuôn khổ pháp lý đi
lên chủ nghĩa xã hội mang “đặc sắc Trung Quốc”, nhưng giải phóng tư tưởng khỏi sự
lạc hậu trong chế độ cũ, đi kèm với tinh thần cầu thị, tìm kiếm phương thức cải cách
phù hợp. Từ đấy, bằng phương tiện cải cách - mở cửa nền kinh tế, Trung Quốc xuất
phát từ chỗ nghèo nàn, lạc hậu, đứng trên bờ vực sụp đổ của cả một chế độ, đã vươn
lên thành một trong những cường quốc kinh tế của thế giới với đời sống của nhân dân
được cải thiện rõ rệt. Vị thế của Trung Quốc từ đó ngày càng được nâng cao, chủ động
trong việc tham gia quản trị các công việc hợp tác quốc tế.
Công cuộc Đổi mới ở Việt Nam do ĐCS Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đến nay
cũng đã được 28 năm. Nhân dịp năm mới, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng
trong bài viết của mình đã chuyển đi một Thông điệp về hoàn thiện thể chế, trong đó
ông nhắc đến “một thế chế chất lượng cao một nền quản trị quốc gia hiện đại”,
đồng thời nhấn mạnh nguồn động lực để lấy lại đà tăng trưởng nhanh và phát triển bền
vững, “phải đến từ Đổi mới thể chế phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của Nhân
dân”.
Vì vậy, những kinh nghiệm rút ra từ cải cách thể chế của Trung Quốc trong 35 năm
cải cách mở cửa, giá trị tham khảo nhất định cho Việt Nam. Việc trao đổi kinh
nghiệm giữa hai Đảng, hai nước trong quản đất nước xây dựng Đảng, trong đó
có cải cách và đổi mới thể chế là rất cần thiết và quan trọng, góp phần làm phong phú
nội dung của mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện lãnh đạo cấp cao
hai nước đã thỏa thuận.
22
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo của Hồ Cẩm Đào tại Đại hội đại biểu toàn quốc ĐảngCộng sản Trung
Quốc lần thứ 18, Nhà xuất bản Nhân dân, Bắc Kinh,2012.
2. “Quyết định của Trung ương ĐCS Trung Quốc về một số vấn đềtrọng đại đi sâu
cải cách toàn diện”, Nhà xuất bản Nhân dân Bắc Kinh,2013.
3. Tập Cận Bình, Thuyết minh về “Quyết định của Trung ươngĐCS Trung Quốc về
một số vấn đề trọng đại đi sâu cải cách toàn
diện”,http://news.xinhuanet.com/politics/2013-11/15/c_118164294.htm
4. Sách phụ đạo về “Quyết định của Trung ương ĐCS Trung Quốcvề một số vấn đề
trọng đại đi sâu cải cách toàn diện”, Nhà xuất bản Nhân dân, Bắc Kinh, 2013.
5. Chuyên gia học giả trường Đảng Trung ương, “Giải thích sâu sắcmột số vấn đề
trọng đại của việc đi sâu cải cách mở cửa”, Nhà xuất bảntrường Đảng Trung ương
Đảng Cộng sản Trung Quốc, Bắc Kinh, 2013.
6. Đặng Xuân Thanh, Hoàng Thế Anh, “Hội nghị Trung ương 3khóa 18 ĐCS
Trung Quốc: Một số điểm nhấn thúc đẩy cải cách mở cửatrong giai đoạn mới”, Tạp
chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 12 năm 2013,tr. 22-31.
23
| 1/23

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI: Bối cảnh, nội dung và bài học kinh nghiệm từ cuộc cải cách mở cửa
nền kinh tế của Trung Quốc từ 1978 - nay

Họ và tên sinh viên: Trần Lê Kiên Mã SV: 11212948
Lớp: LLTT1101(122)_35-Tư tưởng Hồ Chí Minh Hà Nội, 22/09/2022 1 Mục Lục
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................4 I.
BỐI CẢNH TRUNG QUỐC TRƯỚC CẢI CÁCH......................................5
A. Thế giới......................................................................................................5 
Cuộc khủng hoảng dầu mỏ 1973............................................................5 
Phong trào cải cách của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu............5 
Yêu cầu về thích nghi với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và xu
hướng hợp tác quốc tế...................................................................................5
B. Trong nước....................................................................................................6 
Đối nội:...................................................................................................6 
Đối ngoại................................................................................................7
II. CÔNG CUỘC CẢI CÁCH MỞ CỬA CỦA TRUNG QUỐC VÀ NHỮNG
THÀNH TỰU, THÁCH THỨC TỪ 1978 - NAY.................................................7
A. Quá trình cải cách của Trung Quốc từ 1978 - nay.....................................8 
Giai đoạn đầu chuyển đổi thể chế kinh tế (1978 - 1991)........................8 
Giai đoạn mở rộng cải cách kinh tế (10/1984 – 9/1988):.......................9 
Giai đoạn chấn chỉnh, sửa chữa và tiếp tục cải cách (10/1988 –
12/1991):........................................................................................................9 
Giai đoạn xây dựng khung thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
(1992 - 2002):..............................................................................................10 
Giai đoạn đẩy mạnh xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa (2002 - 2012), cải cách theo chiều sâu:.............................................10 
Giai đoạn cải cách toàn diện và sâu rộng (từ năm 2012 đến nay):.......11
B. Những thành tựu đạt được và những vấn đề chưa được khắc phục của
cuộc cải cách mở cửa nền kinh tế....................................................................11 
Những thành tựu đã đạt được...............................................................12 
Những vấn đề đặt ra chưa được giải quyết:..........................................15
III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ CÔNG CUỘC CẢI CÁCH CỦA TRUNG
QUỐC ĐẾN VIỆT NAM....................................................................................18 2
A. Về nhận thức............................................................................................18 
Một là giải phóng tư tưởng, không ngừng sáng tạo về lý luận và mạnh
dạn cải cách trong thực tiễn.........................................................................18 
Hai là nhấn mạnh “đặc sắc Trung Quốc” hay điều kiện đặc thù của đất
nước nhưng vẫn coi trọng và nắm vững quy luật........................................19 
Ba là, Đảng Cộng sản với tư cách đảng cầm quyền, lãnh đạo cải cách
mở cửa nhất định phải có dũng khí chính trị và kết tinh trí tuệ...................19
B. Về giải pháp.............................................................................................20 
Một là, các biện pháp cải cách phải có tính đồng bộ và phối hợp........20 
Hai là, trong hàng loạt các biện pháp cải cách khác nhau, cần lựa chọn
đúng trọng điểm và hạt nhân của cải cách...................................................20 
Ba là, để sự nghiệp cải cách mở cửa thành công, Đảng phải coi trọng
đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cốt cán cầm quyền có trình độ cao...................21
KẾT LUẬN.............................................................................................................22 LỜI MỞ ĐẦU 3
Lịch sử kinh tế Trung Quốc thời kỳ hiện đại đã trải qua nhiều thành công rồi
xuống thất bại trên con đường lớn tiến đến đích là chủ nghĩa xã hội, nhiều thăng trầm
lịch sử đã liên tiếp diễn ra chỉ trong khoảng thời gian chục năm. Có lúc nền kinh tế
Trung Quốc đã hứng chịu những cuộc khủng hoảng, cùng cực vì những sai lầm trong
nội dung cải cách. Tuy nhiên, trong 30 năm trở lại đây, với sự chỉ đạo sáng suốt và tức
thời của Đảng và Nhà nước Trung Quốc cũng như các yếu tố thuận lợi bên ngoài tác
động vào,Trung Quốc đang trải qua những bước tiến hết sức kỳ diệu và trở thành một
trong những quốc gia đứng đầu thế giới về kinh tế.
Ở cả Việt Nam và Trung Quốc đang đang tiếp tục thực hiện quá trình cải cách toàn
diện nền kinh tế. Nếu Việt Nam chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao
cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa thì Trung Quốc đang
dần chuyển sang nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc.
Đang đối mặt với những vấn đề nội hàm giống nhau trong quá trình thực hiện mở cửa
nền kinh tế, cũng như trong cùng thời gian phát triển thị trường, hoàn thiện khuôn khổ
pháp lý. Với lợi thế là nước tiến hành cải cách sau, Việt Nam có cơ hội để học tập và
tận dụng những bài học thành công cũng như không thành công của Trung Quốc,
tránh những tác động tiêu cực có thể nảy sinh trong quá trình chuyển đổi.
Với những thông tin, đánh giá được trình bày trong bài viết, em hy vọng sẽ giúp
cho các bạn sinh viên cũng như những người quan tâm khác hiểu biết đầy đủ hơn về
những chính sách quan trọng tạo nên sự thành công của công cuộc cải cách kinh tế ở
Trung Quốc trong tương quan so sánh với Việt Nam. Từ đó rút ra những bài học kinh
nghiệm bổ ích cho mỗi cá nhân để tiếp tục tham gia đóng góp nhiều hơn nữa vào sự
nghiệp đổi mới ở nước ta. I.
BỐI CẢNH TRUNG QUỐC TRƯỚC CẢI CÁCH 4 A. Thế giới
Cuộc khủng hoảng dầu mỏ 1973
Trên bình diện quốc tế, vào năm 1973, cuộc khủng hoảng dầu mỏ đã đã gây
những ảnh hưởng nghiêm trọng tới nền kinh tế, chính trị, xã hội của nhiều quốc gia
trên thế giới. Để thích nghi với hoàn cảnh, thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, suy yếu
và trì trệ, các nước tư bản phát triển như: Mĩ, Anh, Pháp... đã nhanh chóng thực hiện
những điều chỉnh chiến lược về kinh tế - chính trị - xã hội... Nhờ vậy, các nước này đã
vượt qua khủng hoảng và tiếp tục phát triển. Đến giữa những năm 70 của thế kỉ XX,
hầu hết các nước trong khu vực Mĩ Latinh như Chilê, Urugoay, Achentina đã đề ra và
tiến hành những chiến lược cải cách, học tập theo mô hình Mĩ. 
Phong trào cải cách của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu
Bên cạnh đó, xu hướng cải cách đang ngày càng nở rộ tại các nước xã hội chủ
nghĩa sau những năm 50-60 với sự lạc hậu của mô hình xã hội chủ nghĩa theo kiểu tập
trung, quan liêu, bao cấp, kế hoạch hóa cao độ đã bắt đầu bộc lộ một số hạn chế.
Trước tình hình đó, tại một số nước xã hội chủ nghĩa, tư tưởng cải cách đã bắt đầu
xuất hiện và bước đầu được triển khai. Ví dụ như:
 Ở Liên Xô, dưới thời kì cầm quyền của Nikita Sergeyevich Khrushchyov (1953 –
1964) và Leonid Ilyich Brezhnev (1964 – 1982), Liên Xô đã tiến hành hạch toán
trong một số doanh nghiệp quốc doanh; cải tiến kế hoạch, điều chỉnh các chỉ tiêu
của kế hoạch pháp lệnh; tăng cường nguyên tắc phân phối theo lao động và sự
kích thích vật chất đối với việc tăng năng suất lao động.
 Ở Nam Tư, chính phủ thực hiện mở cửa cả với các nước tư bản; bãi bỏ kế hoạch
pháp lệnh, mở rộng quyền tự chủ của các xí nghiệp.
 Ở Hungary, năm 1968, nhà nước cũng bãi bỏ kế hoạch pháp lệnh, tăng cường tác
dụng của thị trường, mở rộng quyền tự chủ của xí nghiệp nhưng vẫn đồng thời
đảm bảo vai trò chỉ đạo của nhà nước.... 
Yêu cầu về thích nghi với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và xu hướng hợp tác quốc tế
Trước sự thôi thúc mà các phong trào cải cách ở các nước xã hội chủ nghĩa ảnh
hưởng đến, Trung Quốc còn đứng trước yêu cầu cải cách về chính trị, kinh tế , xã hội
để thích nghi với sự phát triển nhanh chóng của khoa học-công nghệ, điển hình là
cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật lần thứ 3, và hợp tác quốc tế ngày càng phát triển
theo xu hướng quốc tế hóa.
o Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3 được bắt với sự ra đời và phát triển lan tỏa
công nghệ thông tin, điện tử, tự động hóa sản xuất. Cuộc cách mạng này còn được gọi
là cuộc cách mạng máy tính hay là cuộc cách mạng số. Cuộc cách mạng này diễn ra
đã đưa ra nhiều phát minh để tiết kiệm tài nguyên và các nguồn lực xã hội. Giảm chi
phí trong phương tiện sản xuất. Kéo theo cơ cấu sản xuất xã hội cũng thay đổi theo 5
giữa nông-lâm-thủy sản, công nghiệp- xây dựng, dịch vụ. Tận dụng công nghệ hydro
và internet để lưu trữ và chia sẻ , phân phát năng lượng rộng rãi đã tạo nên cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ 3 – Hành trình cải cách năng lượng xanh.
o Hợp tác quốc tế theo xu hướng quốc tế hóa
Vào năm 1970 Tuyên bố của Đại hội đồng Liên hợp quốc về những nguyên tắc
của Luật quốc tế đã lan rộng ra nội dung pháp lý của nguyên tắc hợp tác quốc tế. Mọi
vương quốc sẽ hợp tác để khuyến khích sự tôn trọng và tuân thủ những quyền con
người và tự do cơ bản trên toàn quốc tế và trong việc loại trừ tổng thể những hình
thức phân biệt về sắc tộc và tôn giáo. Mọi vương quốc sẽ thực thi những quan hệ quốc
tế của mình trong những ngành nghề dịch vụ kinh tế tài chính, văn hóa truyền thống,
kỹ thuật và thương mại tương thích với nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền lãnh thổ
và không can thiệp vào việc làm nội bộ. Các vương quốc là thành viên của Liên hợp
quốc có nghĩa vụ và trách nhiệm hành vi tập thể hoặc riêng rẽ để hợp tác với Liên hợp
quốc tương thích với những pháp luật tương ứng của Hiến chương Liên hợp quốc.
Các vương quốc nên hợp tác trong những ngành nghề dịch vụ kinh tế tài chính, văn
hóa truyền thống và xã hội cũng như khoa học và công nghệ tiên tiến và so với việc
tăng trưởng sự tân tiến về văn hóa truyền thống và giáo dục trên quốc tế. Các vương
quốc nên hợp tác để tăng trưởng kinh tế tài chính trên toàn quốc tế, đặc biệt quan
trọng so với những nước đang tăng trưởng .
Với bối cảnh thế giới như vậy, yêu cầu lịch sử đặt ra không chỉ cho Trung Quốc
mà còn nhiều nhiều quốc gia khác trong thời điểm lúc bấy giờ chính là phải nhanh
chóng cải cách về kinh tế-chính trị để nhanh chóng thích ứng và phát triển, bắt kịp với các quốc gia khác. B. Trong nước  Đối nội: o Về Kinh tế
Năm 1958, Trung Quốc đề ra đường lối “Ba ngọn cờ hồng” do Mao Trạch Đông
phát động với ý đồ nhanh chóng xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
1 trong 3 đường lối là “Đại nhảy vọt” - phát động toàn dân làm gang, thép với mục
tiêu: nhanh chóng đưa sản lượng thép lên tới 10 triệu tấn và gang là 20 triệu tấn.
Nhưng đây là một thất bại về kinh tế. Vì:
 Sản xuất quá nhiều thép chất lượng thấp trong khi các ngành khác bị bỏ rơi.
 Những người nông dân không qua đào tạo, trang bị nghèo nàn để sản xuất thép.
 Các công cụ nhà nông chính bị nấu chảy làm thép khiến quy mô sản xuất nông nghiệp bị thu nhỏ.
Nền kinh tế Trung Quốc chưa kịp phục hồi sau chiến tranh lại một lần nữa rơi vào
khủng hoảng. Các khu sản xuất tập thể hỗn loạn, thực phẩm hết sức khan hiếm, sản
xuất giảm đáng kể dẫn đến một trận đói kém cực lớn, số người chết đói ước tính 20- 30 triệu người. 6 o Về Chính trị
Nội bộ ban lãnh đạo Trung Quốc bất đồng gay gắt về đường lối, tranh giành
quyền lực. Đỉnh cao là cuộc “Đại cách mạng văn hóa vô sản” (1966 - 1976) gây nên
tình trạng hỗn loạn trong nước và để lại những hậu quả nghiêm trọng trong đời sống
vật chất và tinh thần: 12-20 triệu người đã trải qua lao động nặng nhọc ở nông thôn.
Khoảng 3 triệu người bị kỷ luật hoặc cầm tù, 60% Đảng viên bị khai trừ, trục xuất về
nông thôn để lao động nặng nhọc. Nhiều trường đại học bị đóng cửa ⇒ cả 1 thế hệ
người Trung Quốc không được tiếp cận với giáo dục đại học. Tổng Bí thư Đảng Cộng
sản Trung Quốc thập niên 1980 Hồ Diệu Bang nhận xét rằng: “Khoảng 100 triệu
người Trung Quốc đã chịu đau khổ trong thời kỳ này”.  Đối ngoại o Với Việt Nam
Trung Quốc ủng hộ cuộc đấu tranh chống Mỹ của nhân dân Việt Nam và cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Á, Phi, Mỹ Latinh. Trung Quốc cũng đã giúp ta
khôi phục hệ thống đường sắt, bến tàu, tu sửa cầu đường, xây dựng nhà máy dệt, nhà
máy thuộc da, nhà máy giấy..., trị giá 1.224 tỷ đồng trong 5 năm. o Với các nước khác
Tuy nhiên, trong thời kỳ này, với các nước láng giềng như Ấn Độ, Liên Xô, Trung
Quốc cũng có không ít những mâu thuẫn lợi ích về đường biên giới.
Ngày 20/10/1962, xung đột vũ trang biên giới Trung - Ấn: Quân đội Trung Quốc
vượt qua “đường McMahon” và kiểm soát các vị trí nằm sâu trong lãnh thổ Ấn Độ,
chiếm giữ các con đèo và thị trấn. Cuộc chiến kéo dài một tháng nhưng đã khiến hơn
1.000 binh sĩ Ấn Độ chết và hơn 3.000 người bị bắt làm tù binh. Quân đội Trung
Quốc chịu thiệt hại ít hơn với 800 nhân mạng. Đến tháng 11, Thủ tướng Trung Quốc
tuyên bố ngừng bắn, vẽ lại đường biên giới không chính thức.
Ngày 2/3/1969, xung đột vũ trang Trung-Xô (tại tỉnh Hắc Long Giang): hai bên
đụng độ ác liệt, cùng sử dụng quân chính quy và vũ khí hiện đại. Hai bên đều đổ lỗi
cho nhau cố tình khiêu khích, nổ súng trước. Kết thúc xung đột, Trung Quốc thừa
nhận thương vong 92 người, khẳng định đã bắn chết và bị thương 230 lính Liên Xô,
đồng thời phá hủy 19 xe tăng và thiết giáp. Phía Liên Xô công bố thương vong 152 người.
Bối cảnh lịch sử trên đòi hỏi Trung Quốc phải cải cách để phù hợp với xu thế
chung của thế giới và đưa đất nước thoát khỏi tình trạng không ổn định.
II. CÔNG CUỘC CẢI CÁCH MỞ CỬA CỦA TRUNG QUỐC VÀ NHỮNG
THÀNH TỰU, THÁCH THỨC TỪ 1978 - NAY

A. Quá trình cải cách của Trung Quốc từ 1978 - nay 7
Cuối năm 1978, Trung Quốc tiến hành công cuộc cải cách mở cửa với quy mô lớn
sau Hội nghị Trung ương 3 khóa XI. Cuộc cải cách này đã huy động một cách hiệu
quả tính tích cực của nhân dân trong cả nước, giải phóng và phát triển sức sản xuất xã
hội, thúc đẩy kinh tế - xã hội tiến bộ toàn diện. Nền kinh tế Trung Quốc chuyển dần từ
thể chế kinh tế kế hoạch tập trung cao độ sang thể chế kinh tế thị trường Xã hội Chủ
Nghĩa từ đóng cửa, nửa đóng cửa sang mở cửa toàn diện. Sự chuyển biến này đòi hỏi
thể chế hành chính của Trung Quốc cũng phải có sự chuyển mình tương xứng.
Từ khi tiến hành công cuộc cải cách mở cửa (1978) đến nay, để thích ứng với sự
tăng trưởng nhanh của nền kinh tế, cũng như quá trình chuyển đổi mô hình phát triển
kinh tế, Trung Quốc đã tiến hành 8 lần cải cách hành chính với quy mô lớn. Từ mục
tiêu và nhiệm vụ của 8 lần cải cách, có thể chia tiến trình cải cách hành chính ở Trung Quốc làm 4 giai đoạn: 
Giai đoạn đầu chuyển đổi thể chế kinh tế (1978 - 1991)
Nhằm xây dựng một kỷ nguyên mới bắt đầu với một hội nghị của Đảng Cộng sản
Trung Quốc ngày 18/12/1978, đánh dấu bằng việc công nhận trang trại tư nhân quy
mô nhỏ, bước đầu tiên từ bỏ chính sách công xã trong nông nghiệp và công nghiệp
thời Mao Trạch Đông, dựng một nền kinh tế bắt đầu từ nông nghiệp.
Cải cách kinh tế Trung Quốc mở đầu bằng việc thực hiện "chế độ trách nhiệm
trong sản xuất nông nghiệp" mà sau này được người ta gọi tắllà "khoán sản lượng tới
hộ" vốn đã diễn ra thực tế trước đó tại hai tỉnh An Huy và Tứ Xuyên. Với việc để cho
người nông dân được tự chủ làm ăn và được hưởng toàn bộ sản phẩm làm ra trên
mảnh đất được phân phối sau khi nộp cho nhà nước một số phần trăm thu hoạch, tính
tích cực sản xuất hay là nói sức sản xuất trong nông nghiệp Trung Quốc đã được giải
phóng mạnh mẽ. Thuế nông nghiệp đã được xoá bỏ, con em nông dân một số vùng
sâu vùng xa được phát sách giáo khoa, được miễn học phí, chính sách hộ khẩu với
những nông dân vào thành phố làm thuê đã được nới lỏng... Chỉ trong một thời gian
ngắn, với diện tích canh tác chỉ chiếm 7% thế giới, nhưng Trung Quốc đã nuôi được
22% dân số thế giới. Cho đến nay có thể nói đây là bước cải cách mang tính đột phá,
là thành tựu lớn nhất trong cải cách nông nghiệp ở Trung Quốc.
Năm 1979, Trung Quốc quyết định xây dựng các đặc khu kinh tế, gồm ba đặc khu
kinh tế là Thâm Quyến, Chu Hải, Sán Đầu tại tỉnh Quảng Đông và đặc khu kinh tế Hạ
Môn tại tỉnh Phúc Kiến. Việc quyết định xây dựng đặc khu nhằm mở rộng hợp tác kỹ
thuật và giao lưu kinh tế với nước ngoài, tận dụng FDI (vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài), đưa khoa học kỹ thuật tiên tiến vào Trung Quốc. Từ năm 1978-2007, FDI tích
lũy vượt 760 tỷ USD, đứng đầu thu hút FDI tại các nước đang phát triển và đứng thứ hai thế giới.
Năm 1982, Trung Quốc thực hiện khoán sản lượng hoặc khoán toàn bộ đến hộ
nông dân. Việc giải phóng năng lực sản xuất cho hàng trăm triệu hộ nông dân đã
mang lại bước nhảy vọt trong kinh tế nông thôn. Giá trị tổng sản lượng nông nghiệp
tăng bình quân 11,5%/năm trong giai đoạn 1980 - 1985, gấp 3,5 lần giai đoạn 1953 - 8
1980. Tuy nhiên, quá trình thực hiện khoán sản phẩm đã nảy sinh những hạn chế, tiêu
cực: tư tưởng bình quân chủ nghĩa trong ruộng đất, tâm lý “sợ thay đổi” trở nên khá
phổ biến, công tác quản lý ruộng đất trở nên hỗn loạn, cơ sở hạ tầng trong nông thôn
yếu kém lại bị phân tán... Để khắc phục tình trạng này, từ năm 1984 Trung Quốc đã
thực hiện những biện pháp hoàn thiện chế độ khoán sản phẩm, trong đó có hai nội
dung quan trọng: quy định thời gian khoán ruộng đất từ 15 năm trở lên và áp dụng
chính sách “hộ chuyên”. Những biện pháp này đã đưa công cuộc cải cách kinh tế ở
nông thôn Trung Quốc đạt được những kết quả ban đầu khá căn bản.
Trên đà những thắng lợi đạt được ở khu vực nông thôn, Trung Quốc bước đầu cải
cách ở thành thị. Trong giai đoạn này, cải cách ở thành thị chỉ dừng lại ở mức thăm dò, thí điểm. 
Giai đoạn mở rộng cải cách kinh tế (10/1984 – 9/1988):
Năm 1984, Trung Quốc mở cửa 14 thành phố ven biển nhằm thu hút đầu tư nước
ngoài và mở rộng điều kiện ngoại thương, buôn bán
Giai đoạn này đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong việc đẩy mạnh cải cách kinh
tế ở Trung Quốc , cải cách toàn diện thể chế kinh tế của Trung Quốc.
Trọng tâm của giai đoạn này là cải cách kinh tế thành thị, đặt hiệu quả kinh tế là
tiêu chuẩn hàng đầu để đánh giá các thành phần kinh tế, tách chức năng quản lý nhà
nước ra khỏi chức năng kinh doanh, tách quyền sở hữu khỏi quyền kinh doanh
Làm sống môi trường kinh doanh bằng việc đa dạng hóa các loại hình doanh
nghiệp, mở cửa thị trường, cải cách hệ thống giá cả, tiếp tục cải cách kinh tế nông
thôn theo hướng thương phẩm hóa , hiện đại hóa. 
Giai đoạn chấn chỉnh, sửa chữa và tiếp tục cải cách (10/1988 – 12/1991):
Trên cơ sở của việc phát triển kinh tế ở các giai đoạn trước, từ năm 1988 Trung
Quốc bắt đầu thực hiện chiến lược phát triển kinh tế Duyên Hải làm cho các tỉnh này
có thể tham gia trực tiếp vào việc buôn bán quốc tế.
Trong giai đoạn này cũng tiếp tục cải cách về thể chế kinh tế, cho phép ký hợp
đồng mua bán thuê mướn và chuyển nhượng ruộng đất, lập lại xí nghiệp, ban bố luật
thuế và nhiều đạo luật khác. Đồng thời, tiếp tục cải cách về tài chính, tài vụ, chỉnh
Cải cách – mở cửa kinh tế Trung Quốc 8 đốn trật tự kinh tế, ổn định giá cả, tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng. Đặc biệt trong thời gian này Trung Quốc đã tiến hành
nhiều biện pháp nhằm khắc phục tình trạng quá nóng của nền kinh tế, như: o
Thực thi các biện pháp xiết chặt tiền tệ, thực hiện nghiêm ngặt chính sách bốn
giảm: giảm quy mô đầu tư, giảm tăng cầu xã hội, giảm lạm phát và giảm tốc độ
tăng trưởng công nghiệp. Trong đó, kìm hãm và loại bỏ lạm phát là mục tiêu hàng đầu. o
Tiếp tục mở rộng quyền tự chủ cho các xí nghiệp, điều chỉnh hệ thống giá cả
theo hướng cơ chế thị trường, chuẩn bị những điều kiện để hình thành thị trường chứng khoán. 9
Những biện pháp trong đã tỏ ra rất hiệu quả thông qua chỉ số tăng trưởng kinh tế
hàng năm của Trung Quốc trong giai đoạn này năm sau cao hơn năm trước, chẳng hạn
như: Ngoại thương của năm 1988 có doanh số 82 tỷ USD bằng 41 lần năm 1978. Số
hợp đồng liên doanh với nước ngoài cũng tăng lên dưới nhiều hình thức và tỉ lệ khác
nhau. Trung Quốc đã mở cửa nhiều thành phố lớn, thị trấn cho người nước ngoài vào kinh doanh và du lịch. 
Giai đoạn xây dựng khung thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (1992 - 2002):
Bước sang thập niên 90 của thế kỷ XX, tình hình thế giới diễn ra những biến đổi to
lớn và sâu sắc. Hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã, Liên Xô giải thể, đảng cộng sản ở
các nước Đông u mất địa vị cầm quyền. Chiến tranh lạnh kết thúc, nhiều nước tiến
hành điều chỉnh chính sách phát triển kinh tế - xã hội, đối ngoại.
Tại Trung Quốc, sự nghiệp cải cách, mở cửa đối mặt với nhiều thách thức to lớn.
Vấn đề cải cách, mở cửa thành công hay thất bại, đi theo con đường xã hội chủ nghĩa
(họ Xã) hay tư bản chủ nghĩa (họ Tư) thổi bùng các cuộc tranh luận (đại luận chiến).
Trước tình hình đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc chủ trương gác lại các cuộc tranh
luận, tiến hành “Ba điều có lợi” (có lợi cho phát triển sức sản xuất xã hội chủ nghĩa,
có lợi cho đất nước, có lợi cho đời sống nhân dân), mạnh dạn xông pha vào thực tiễn
và lấy thực tiễn để kiểm nghiệm. Đại hội XIV Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm
1992) nêu mục tiêu xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh
mở cửa. Đây được coi là cuộc giải phóng tư tưởng lần thứ hai, là mốc quan trọng
trong tiến trình cải cách, mở cửa ở Trung Quốc.
Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đặc biệt là Hội nghị Trung ương 3
khóa XIV (năm 1993) thông qua “Quyết định về một số vấn đề xây dựng thể chế kinh
tế thị trường xã hội chủ nghĩa”, trong đó chỉ rõ: “lấy chế độ công hữu làm chủ thể,
nhiều thành phần kinh tế khác cùng phát triển,... xây dựng chế độ phân phối thu nhập,
lấy phân phối theo lao động làm chính, ưu tiên hiệu quả, quan tâm tới công bằng,
khuyến khích một số vùng, một số người giàu có lên trước, đi con đường cùng giàu
có”(1). Đại hội XV Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 1997) đã xác định mục tiêu xây
dựng Nhà nước pháp trị xã hội chủ nghĩa. 
Giai đoạn đẩy mạnh xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
(2002 - 2012), cải cách theo chiều sâu:
Năm 2001 Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Sự kiện này
đánh dấu tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng của Trung Quốc. Từ Đại hội XVI (năm
2002) Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, đứng đầu là Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào
đã nêu ra quan điểm phát triển khoa học, xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa,
thúc đẩy phát triển toàn diện hài hòa và bền vững kinh tế - xã hội. Đại hội XVII Đảng 10
Cộng sản Trung Quốc (năm 2007) nêu chủ trương từ “tam vị nhất thể” - bao gồm kinh
tế, chính trị và văn hoá sang “tứ vị nhất thể” - bao gồm kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội.
Bước sang thế kỷ XXI, Trung Quốc đã xây dựng được cục diện cải cách, mở cửa
toàn phương vị, đa tầng nấc; hình thành các cực tăng trưởng, Trước đó, Tiểu Chu
Giang với nòng cốt là Quảng Châu, Thâm Quyến được coi là cực tăng trưởng thứ nhất
của Trung Quốc, hình thành trong giai đoạn đầu của cải cách, mở cửa với việc xây
dựng 4 đặc khu (Thâm Quyến, Chu Hải, Sán Đầu, Hạ Môn). Tiếp đó, từ năm 1984,
Trung Quốc tiến hành mở cửa 14 thành phố ven biển, ven sông, ven biên giới. Từ năm
1990, Trung Quốc đẩy mạnh xây dựng Phố Đông, coi đây là “đầu tàu” lôi kéo và kết
nối các điểm tăng trưởng hạ lưu sông Trường Giang và ven biển Đông Hải. Sự ra đời
của Phố Đông (Thượng Hải) đánh dấu sự xuất hiện cực tăng trưởng thứ hai của Trung
Quốc. Ngày 6-6-2006, Chính phủ Trung Quốc đã công bố “Ý kiến về mấy vấn đề thúc
đẩy mở cửa phát triển Khu mới Tân Hải Thiên Tân”, đánh dấu việc chủ trương đưa
Thiên Tân vươn lên trở thành cực tăng trưởng thứ ba của Trung Quốc, gắn liền các
điểm tăng trưởng xoay quanh vịnh Bột Hải. Tiếp đó, vùng Thành Đô - Trùng Khánh
(Xuyên Du), Khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ (Quảng Tây), Khu kinh tế bờ Tây (Phúc Kiến)
cũng phấn đấu trở thành cực tăng trưởng tiếp theo ở Trung Quốc. Năm 2008, Quốc vụ
viện Trung Quốc đã phê chuẩn “Cương yếu quy hoạch Khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ”, thể
hiện quyết tâm của Trung Quốc trong xây dựng cực tăng trưởng mới - cực tăng trưởng
kết nối giữa Trung Quốc và ASEAN. 
Giai đoạn cải cách toàn diện và sâu rộng (từ năm 2012 đến nay):
Từ Đại hội XVIII của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đặc biệt là Hội nghị Trung ương
3 khóa XVIII thông qua Nghị quyết về cải cách toàn diện và sâu rộng, thực hiện “giấc
mộng Trung Quốc”, “phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa”. Tổng Bí thư Tập Cận
Bình với tư cách là “hạt nhân lãnh đạo” đã kế thừa, phát huy và hoàn thiện cương
lĩnh, đường lối phát triển của Trung Quốc, hình thành nên “Bố cục tổng thể”: phát
triển “5 trong 1” (kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, môi trường) và bố cục chiến lược
“Bốn toàn diện”. Kinh tế bước vào giai đoạn “trạng thái bình thường mới”, “Made in
China 2025”... tìm kiếm chuyển đổi phương thức tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế
và động lực phát triển mới. Sáng kiến “Vành đai, Con đường” được xem là giải pháp
chiến lược, vừa thúc đẩy cải cách trong nước, vừa phát huy vai trò đối ngoại.
Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới đã
được Đại hội XIX khẳng định, đưa vào Điều lệ Đảng, trở thành tư tưởng chỉ đạo đối
với Đảng và Nhà nước Trung Quốc sau khi Hiến pháp được bổ sung, sửa đổi năm
2018. Trung Quốc đẩy mạnh cải cách, mở cửa toàn diện và sâu rộng hướng tới mục
tiêu trở thành cường quốc xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI. 11
B. Những thành tựu đạt được và những vấn đề chưa được khắc phục của cuộc
cải cách mở cửa nền kinh tế
Những thành tựu đã đạt được
o Quy mô kinh tế Trung Quốc không ngừng lớn mạnh.
Khi mới thực hiện cải cách và mở cửa vào năm 1978, Trung Quốc là một trong
những quốc gia nghèo trên thế giới. Bốn mươi năm sau, tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) của Trung Quốc tăng 33,5 lần, ước khoảng 12.300 tỷ USD, chiếm 15% GDP
toàn cầu, trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, sau Mỹ. Giai đoạn 1978 - 2017,
tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hằng năm đạt 9,5%, cao hơn nhiều so với mức tăng
trưởng trung bình hằng năm của nền kinh tế thế giới là 2,9%. Theo Ngân hàng Thế
giới (WB), giai đoạn 2012 - 2016, hằng năm, kinh tế Trung Quốc đóng góp 34% vào
tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Tiến trình công nghiệp hóa của Trung Quốc tăng nhanh,
cơ cấu ngành nông nghiệp, công nghiệp - xây dựng ngày càng hợp lý hóa. Ngành dịch
vụ dần chiếm vị thế chủ đạo, mức tăng trưởng của ngành dịch vụ vượt qua ngành
nông nghiệp, ngành công nghiệp - xây dựng, trở thành lực lượng chính thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế của Trung Quốc.
o Trình độ phát triển tổng thể kinh tế - xã hội được nâng cao.
Xét từ góc độ tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng kinh tế 40 năm qua của Trung Quốc
thực sự là một kỳ tích. Phát triển kinh tế không chỉ bao gồm chỉ tiêu tăng trưởng kinh
tế, mà còn là góc độ phúc lợi xã hội. Nếu như năm 1978, GDP bình quân đầu người ở
Trung Quốc mới chỉ ở mức 156 USD, là một trong những nước nghèo nhất thế giới,
nhưng đến năm 2017, GDP bình quân đầu người đã đạt 8.800 USD, được xếp vào
nhóm nước có thu nhập trung bình cao . Số người nghèo ở Trung Quốc giảm từ 770
triệu người năm 1978 xuống còn 30,46 triệu người năm 2017, tức tỷ lệ người nghèo
giảm từ 97,5% năm 1978 xuống mức 3,1% năm 2017 . Tăng trưởng kinh tế cao kéo
theo các ngành, nghề nền tảng như năng lượng, giao thông vận tải, viễn thông, khoa
học, giáo dục, y tế, xây dựng cơ sở hạ tầng… cùng phát triển. Các khoản đầu tư vào
khoa học - công nghệ tăng. Chỉ riêng trong năm 2017, có hơn 1,3 triệu đơn đăng ký
sáng chế được cấp bằng sáng chế. Hằng năm, hơn 3 triệu sinh viên chuyên ngành
khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học ở các trường đại học Trung Quốc tốt
nghiệp, lớn hơn gấp 5 lần so với Mỹ.
Kinh tế Trung Quốc không chỉ có tốc độ tăng trưởng nhanh chóng, mà trong các
giai đoạn khác nhau, còn thể hiện sự thay đổi trong cách thức phát triển, phù hợp với
từng bối cảnh. Ngay từ tháng 7-2003, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc khi đó
là Hồ Cẩm Đào đề xuất “kiên trì lấy con người làm gốc, thiết lập quan niệm phát triển
toàn diện, hài hòa, bền vững, thúc đẩy phát triển toàn diện kinh tế xã hội và con
người”. Tại Đại hội XIX Đảng Cộng sản Trung Quốc, tháng 10-2017, Tổng Bí thư
Tập Cận Bình đưa ra quan điểm “thúc đẩy nâng cấp sự chuyển đổi mô hình phát triển 12
kinh tế, xây dựng hệ thống kinh tế hiện đại hóa, thúc đẩy nền kinh tế Trung Quốc phát
triển theo con đường mới chất lượng cao, bền vững”.
o Ảnh hưởng và đóng góp vào nền kinh tế toàn cầu của Trung Quốc không ngừng gia tăng.
Thành tựu mà kinh tế Trung Quốc đạt được trong 40 năm cải cách và mở cửa
không tách rời với mối quan hệ và ảnh hưởng với thị trường thế giới. Là nước lớn với
dân số chiếm khoảng 18% dân số toàn cầu, ảnh hưởng của Trung Quốc đối với nền
kinh tế thế giới là rất rõ rệt. Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế, Trung Quốc luôn tích
cực thúc đẩy phát triển thương mại, đầu tư song phương và đa phương. Trao đổi
thương mại nước ngoài của Trung Quốc tăng trưởng với tốc độ trung bình hằng năm
là 14,5%\. Kể từ khi Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), năm
2001, Trung Quốc thực hiện đầy đủ các cam kết đối với WTO. Trung Quốc giảm đáng
kể thuế nhập khẩu và các hàng rào phi thuế quan. Mức thuế trung bình giảm từ 15,3%
năm 2001 xuống còn 9,8% năm 2017. Trung Quốc cũng mở cửa thị trường dịch vụ,
liên tục giảm và xóa bỏ những hạn chế đối với đầu tư nước ngoài, tăng cường bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ. Lĩnh vực ngoại thương của Trung Quốc càng tăng trưởng thì
mức đóng góp cho thị trường và thương mại quốc tế ngày càng lớn. Cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 bùng nổ, nhiều quốc gia chịu sự tác động của suy
thoái kinh tế toàn cầu, tỷ lệ tăng trưởng của kim ngạch thương mại toàn cầu nằm ở
mức thấp trong một thời gian dài nhưng tăng trưởng xuất nhập khẩu của Trung Quốc
tương đối ổn định, góp phần ổn định thương mại toàn cầu.
Năm 2018, dù xảy ra xung đột thương mại Mỹ - Trung, các nhân tố bất ổn bên
ngoài gia tăng, nhưng về tổng thể, nền kinh tế Trung Quốc vẫn ổn định và sự chuyển
dịch cơ cấu vẫn đang tiếp diễn. WTO cho rằng, việc cải cách cơ cấu kinh tế của Trung
Quốc sẽ có tác động tích cực đến tăng trưởng thương mại toàn cầu. Sự chuyển đổi mô
hình kinh tế của Trung Quốc từ chủ yếu dựa vào đầu tư sang tiêu dùng, xét về lâu dài
sẽ giúp Trung Quốc tăng trưởng kinh tế bền vững hơn, từ đó hỗ trợ nền kinh tế toàn
cầu tiếp tục tăng trưởng. Điều quan trọng hơn, với tư cách là nước đang phát triển lớn
nhất thế giới hiện nay, sự nâng cấp, chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế của Trung
Quốc sẽ cung cấp bài học quan trọng cho các nước đang phát triển khác trong quá
trình phát triển. Thông qua cải cách và nâng cấp, chuyển đổi mô hình, cơ cấu ngành,
nghề liên tục, nền kinh tế Trung Quốc sẽ an toàn hơn, có tính bền vững hơn, điều này
sẽ có lợi cho cả thế giới. Phát biểu tại Hội chợ Nhập khẩu quốc tế Trung Quốc (CIIE)
lần đầu tiên, Tổng Giám đốc WTO R. Azevedo cho biết, CIIE gửi một thông điệp rõ
ràng về vai trò ngày càng tăng của Trung Quốc trong thương mại toàn cầu. Trung
Quốc đang ngày càng tích cực tham gia vào quá trình cải cách WTO, giúp các nước
đang phát triển và kém phát triển tham gia và hưởng lợi từ hệ thống thương mại đa
phương này, thông qua nhiều chương trình khác nhau.
Tổng Giám đốc Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) C. Lagarde ca ngợi sự đóng góp của
Trung Quốc vào nền kinh tế thế giới, thông qua “ba cây cầu” mà Trung Quốc khởi 13
xướng và thúc đẩy. Thứ nhất, “cầu nối với thế giới” mà Trung Quốc bắt đầu xây dựng
cách đây 40 năm, đó là thông qua tiến trình cải cách và mở cửa nền kinh tế, thúc đẩy
hội nhập với bên ngoài. Thứ hai, “cầu nối để thịnh vượng”, Trung Quốc thúc đẩy tái
cân bằng nền kinh tế theo hướng thúc đẩy tiêu dùng của các hô £ gia đình, hạn chế viê £c
đầu tư quá mức. Trong 3 quý đầu của năm 2018, tiêu thụ đóng góp 78% vào tăng
trưởng GDP của Trung Quốc, tăng 50% so với khoảng 5 năm trước, thặng dư tài
khoản vãng lai của Trung Quốc dự đoán sẽ giảm, thấp hơn 1% GDP trong năm 2018,
so với con số khoảng 10% GDP năm 2007. Thứ ba, “cầu nối cho tương lai”, Trung
Quốc khai thác sức mạnh hợp tác quốc tế, đặc biệt là thương mại, kêu gọi các quốc
gia hợp tác giải quyết tranh chấp thương mại, phối hợp cùng nhau xây dựng cây cầu
hòa bình, tương lai thịnh vượng trên thế giới.
o Trung Quốc tích cực chủ động tham gia quản trị và phát triển kinh tế toàn cầu.
Trung Quốc hiểu rõ thành tựu kinh tế giành được trong 40 năm cải cách và mở cửa
không tách rời với việc đi sâu thúc đẩy tiến trình toàn cầu hóa. Kiên trì cùng có lợi,
cùng thắng là chủ trương chính sách mà Trung Quốc kiên trì trong những năm gần
đây. Ngay từ năm 2002, trong báo cáo Đại hội XVI của Đảng Cộng sản, Trung Quốc
đề xuất kiên trì phương châm kết hợp giữa “thu hút đầu tư nước ngoài” và “vươn ra
nước ngoài”, nâng cao toàn diện trình độ mở cửa với nước ngoài. Thực lực kinh tế của
Trung Quốc từng bước được tăng cường, thương mại, xuất, nhập khẩu, đầu tư nước
ngoài của Trung Quốc có sự tác động ngày càng lớn đối với tăng trưởng thương mại
toàn cầu, trở thành lực lượng quan trọng tái cân bằng nền kinh tế thế giới. Cùng với
việc phát triển kinh tế, để tăng thêm sức mạnh và mở rộng tầm ảnh hưởng trên thế
giới, Trung Quốc xây dựng chiến lược quốc tế hóa đồng Nhân dân tệ (NDT). Ngày
01-10-2016, đồng NDT chính thức được IMF đưa vào giỏ tiền tệ Quyền rút vốn đặc
biệt (SDR), từng bước giành được vị thế đồng tiền chủ chốt quốc tế.
o Xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
Thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc được ghi rất rõ trong
nghị quyết hội nghị trung ương ba khóa XIV của Đảng Cộng sản Trung Quốc (cuối
năm 1993): “Thành lập thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa nghĩa là để cho thị
trường đóng vai trò cơ bản trong phân bổ nguồn lực dưới sự quản lý vĩ mô của Nhà
nước ... Hệ thống doanh nghiệp hiện đại lấy chế độ công hữu làm chủ thể là nền tảng
của thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa” (Trung ương Đảng Cộng sản Trung
Quốc khóa XIV, 1993). Cùng với quá trình nói trên, doanh nghiệp nhà nước từ chỗ
sản xuất theo kế hoạch hoàn toàn bắt đầu được trao quyền tự chủ (từ cuối 1978 đến
cuối 1984), tiếp theo là được phân tách quyền sở hữu và quyền kinh doanh, tổ chức
Đảng rút lui khỏi quản lý kinh doanh và thí điểm cổ phần hóa (cuối 1984 đến cuối
1993) và sau đó là tư nhân hóa trong trường hợp là các doanh nghiệp nhỏ và vừa và
doanh nghiệp lớn không trong các lĩnh vực quan trọng theo phương châm “nắm lớn,
buông nhỏ” (Hoàng Thế Anh chủ biên, 2018). 14
Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Tập Cận Bình và Lý Khắc Cường khẳng định vai
trò quyết định của thị trường trong phân bổ nguồn lực. Tuy nhiên, doanh nghiệp nhà
nước tiếp tục được coi trọng và hỗ trợ để lớn hơn và mạnh hơn và trở thành những
doanh nghiệp khổng lồ quán quân quốc tế. Trung Quốc đã tập trung củng cố khoảng
gần 100 doanh nghiệp chủ yếu là trong lĩnh vực công nghiệp để trở thành những quán
quân thế giới. Thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa từ thời điểm này thể hiện rõ
ở chế độ sở hữu hỗn hợp cho phép các quỹ tài chính của nhà nước và doanh nghiệp
nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp tư nhân và như vậy mở rộng sự kiểm soát của
Nhà nước trong nền kinh tế.
Khu vực kinh tế tư nhân ở Trung Quốc, từ chỗ bị cấm trước năm 1979, đến chỗ
được cho phép thành lập nhưng bị kiềm chế và phát triển chậm chạp trong thập niên
1980 ở khu vực đô thị ở một số địa phương được chọn để thử nghiệm kinh tế thị
trường; rồi có cơ sở pháp lý để hoạt động và không còn bị hạn chế về quy mô lao
động từ năm 1988; rồi hoạt động dựa trên Luật Doanh nghiệp từ giữa thập niên 1990;
được công nhận là “một thành phần quan trọng của nền kinh tế hỗn hợp” từ năm
1999. Năm 2005 và tiếp đó năm 2010, chính phủ Trung Quốc đã gỡ bỏ các hạn chế
đối với doanh nghiệp tư nhân trong việc tham gia vào các ngành chẳng hạn như vận
tải hàng không. Các doanh nghiệp tư nhân dần dần cũng đỡ gặp khó khăn hơn trong
huy động vốn do Nhà nước gỡ bỏ dần các hạn chế đối với tiếp cận các khoản vay
ngân hàng và huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Suốt bốn mươi năm qua,
khu vực doanh nghiệp tư nhân đã đóng góp to lớn vào tăng trưởng kinh tế của Trung
Quốc và tỏ ra hiệu quả hơn hẳn khu vực doanh nghiệp nhà nước (Lardy, 2018). Trong
chặng đường ấy, có một sự kiện đặc biệt, đó là vào năm 2001, nhân kỷ niệm 80 năm
thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc, Tổng Bí thư Giang Trạch Dân đã công bố
thuyết “ba đại diện”, cho phép chủ doanh nghiệp tư nhân trở thành đảng viên. Từ đây,
thành phần của Đảng Cộng sản Trung Quốc bao gồm các đại diện của ba lực lượng là
công nhân, nông dân và chủ doanh nghiệp tư nhân. 
Những vấn đề đặt ra chưa được giải quyết:
o Tốc độ tăng trưởng kinh tế không ổn định
Kinh tế Trung Quốc suốt một thời gian dài tăng trưởng quá nóng, dựa quá nhiều
vào đầu tư, dựa quá ít vào tiêu dùng nội địa, mức vay nợ cao, lượng tiền mặt trong lưu
thông lớn, mất cân bằng cán cân thương mại (De, 2007; Hoàng Thế Anh chủ biên,
2017). Nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao của Trung Quốc rất khó kiểm soát được
bằng các sắc lệnh hành chính mà Nhà nước Trung Quốc vẫn dùng. Thêm vào đó, kỹ
năng điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước không thể có được thông qua các giáo trình
hay nhờ kinh nghiệm tích lũy trong một thời gian ngắn ngủi mà phải là kinh nghiệm
đau đớn và thấm thía qua cả trăm năm kinh tế thị trường.
Đầu tư ở Trung Quốc luôn cao, giao động trong khoảng 30% đến 40% GDP trong
thập niên 1990 và đầu thập niên 2000, thậm chí đã vượt tỷ trọng của tiêu dùng từ năm 15
2006 và giao động trong khoảng 40% đến 45% GDP trong thời gian từ 2008 tới nay
(Lo, 2016). Đầu tư quá cao trong khi tiêu dùng nội địa không tương xứng dẫn tới sản
xuất dư thừa trong khi Trung Quốc thường xuyên gặp phải tình trạng thiếu cung
nguyên liệu và kết cấu hạ tầng không theo kịp. Không dựa vào tiêu dùng nội địa mà
lại dựa vào nhu cầu nước ngoài dẫn đến việc kinh tế Trung Quốc phụ thuộc nhiều vào
tình hình tăng trưởng toàn cầu. Mặt khác do có thặng dư thương mại lớn và nhất là
trong quan hệ thương mại song phương với một số nước, nên những căng thẳng
thương mại hay nảy sinh mà ví dụ điển hình là căng thẳng thương mại với Mỹ hiện nay.
Khi tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc giảm, vấn đề nợ trở nên được chú ý.
Vào năm 2003, nợ của Trung Quốc mới chỉ khoảng 175% GDP và tốc độ tăng trưởng
của Trung Quốc rất cao, nên vấn đề nợ không đáng lo ngại. Song do dựa vào đầu tư để
đối phó với tác động của khủng hoảng, nợ đã ngày một tăng và đến năm 2018 đã lên
tới 253% GDP trong khi tăng trưởng kinh tế ngày càng chậm lại. Phần lớn nhất trong
nợ của Trung Quốc là nợ của doanh nghiệp ngoài ngành tài chính, vào khoảng 123%
GDP năm 2014. Thứ đến là nợ công, khoảng 58% GDP cùng năm. Nợ của hộ gia đình
khoảng 36% GDP (Edwards, 2016). IMF cho rằng nợ của khu vực doanh nghiệp ở
Trung Quốc gia tăng ở mức nhanh đáng lo ngại. Nguyên nhân của nợ doanh nghiệp
tăng nhanh là các doanh nghiệp ở Trung Quốc dựa nhiều vào vốn vay ngân hàng do
thị trường chứng khoán còn kém phát triển. Nếu các doanh nghiệp Trung Quốc vỡ nợ
thì khu vực ngân hàng của Trung Quốc sẽ lâm vào tình trạng nguy hiểm. Trong nợ
công, nợ của chính quyền địa phương đã tăng rất nhanh và đã vượt cả nợ của chính
quyền trung ương. Chủ nghĩa GDP là nhân tố quan trọng góp phần gây ra nợ công của
chính quyền địa phương.
o Sự phát triển không cân bằng giữa các vùng kinh tế
Không cân bằng nghĩa là phát triển không đồng đều giữa nông thôn và thành thị,
giữa sâu trong nội địa (miền trung, miền tây) và duyên hải (miền đông); không đồng
đều giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội. Tình trạng khó được đi học, khó được
khám chữa bệnh, khó tìm được việc làm thành những vấn đề nhức nhối (De, 2007;
Hoàng Thế Anh chủ biên, 2017).
Thực tiễn ở Trung Quốc cho thấy cùng với thu nhập bình quân đầu người tăng
nhanh và giảm nghèo cũng rất nhanh, bất bình đẳng thu nhập lại gia tăng rất nhanh.
Bất bình đẳng về thu nhập ở Trung Quốc đạt mức cao nhất vào năm 2008, tức là ba
mươi năm kể từ khi cải cách, và bắt đầu giảm dần nhưng chậm từ 2008 đến nay. Tuy
nhiên, sự thay đổi này chủ yếu là do tỷ trọng của nhóm 20 phần trăm dân số thu nhập
cao nhất giảm và tỷ trọng của nhóm 20 phần trăm dân số thu nhập ở giữa tăng; trong
khi đó, tỷ trọng của nhóm 20 phần trăm dân số thu nhập thấp nhất lại không hề tăng (Jain-Chandra et al., 2018).
Trong quá trình phát triển, chênh lệch phát triển vùng miền là không tránh khỏi ở
bất cứ nước nào. Tuy nhiên, ở Trung Quốc, chênh lệch phát triển vùng miền lại lớn 16
hơn hẳn các nước tư bản cũng như các nước đang phát triển khác. Sự chênh lệch này
thể hiện cả ở GDP, thu nhập, mức tiêu dùng, cung ứng dịch vụ công, v.v… Ngay cả
đóng góp của vốn nhân lực vào tăng trưởng cũng có sự chênh lệch lớn giữa khu vực
nông thôn với khu vực thành thị do lao động nông thôn không được giáo dục tốt bằng
lao động thành thị (Li et al., 2017). Nguyên nhân của chênh lệch là do điều kiện phát
triển kinh tế không đồng đều dẫn tới tốc độ tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế,
tốc độ đô thị hóa không như nhau. Các chính sách phát triển vùng nông thôn và các
vùng sâu trong nội địa được triển khai từ năm 1999 nhất là dưới thời Hồ Cẩm Đào và
Ôn Gia Bảo nhưng mãi đến giữa thập niên 2000 mới có vẻ phát huy hiệu quả.
Một số nghiên cứu gần đây cho thấy hiện tượng chữ U ngược trong tương quan
giữa chênh lệch về thu nhập và mức thu nhập bình quân đầu người được khẳng định ở
Trung Quốc. Chênh lệch thu nhập nói chung và chênh lệch thu nhập giữa nông thôn
và thành thị lên đến mức cao nhất vào năm 2004 và giảm dần sau đó, nhưng mức độ
chênh lệch thu nhập giữa các tỉnh duyên hải với các tỉnh sâu trong nội địa vẫn tiếp tục
gia tăng đến tận năm 2009 rồi mới bắt đầu giảm (Kanbur et al., 2017).
o Thiếu sự phối hợp trong các lĩnh vực kinh tế
Thiếu sự phối hợp giữa ba lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, đồng
thời, thiếu phối hợp giữa đầu tư và tiêu dùng (De, 2007; Hoàng Thế Anh chủ biên,
2017). Ngoài ra, còn thiếu sự phối hợp trong phát triển vùng.
Khu vực dịch vụ ở Trung Quốc được xem là quá nhỏ và không giúp nhiều cho việc
hấp thụ lao động dư thừa ở nông thôn, giảm thâm dụng tài nguyên, tăng hiệu quả đầu
ra và giúp nâng cao chất lượng sống. Vào thời điểm năm 2013, khu vực dịch vụ chỉ
chiếm gần 47% GDP và chỉ 37% tổng số việc làm ở Trung Quốc. Những chỉ số này là
thấp so với các nước có thu nhập trung bình nói chung (55 phần trăm GDP)
(Rutkowski, 2015; Fang, 2018). Ngay so với trình độ phát triển kinh tế nói chung của
Trung Quốc thì quy mô khu vực GDP cũng là nhỏ (Park & Shin, 2012). Năm 2013
cũng là thời điểm tỷ trọng của dịch vụ trong GDP bắt đầu vượt tỷ trọng của các ngành
chế biến, chế tạo (ngoại trừ các năm 2008-2009 khi khu vực chế biến chế tạo bị ảnh
hưởng tiêu cực của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu).
Có hai nguyên nhân có thể dẫn tới khu vực dịch vụ nhỏ ở Trung Quốc. Một là, có
quá nhiều ưu đãi đối với các ngành công nghiệp dẫn tới đầu tư đổ vào công nghiệp
hơn là vào dịch vụ. Các ưu đãi đó bao gồm trợ giá đầu vào, các kiểm soát giá và chế
độ thuế có lợi cho công nghiệp, các rào cản đầu tư tư nhân vào các ngành tài chính và
ngân hàng, hàng không, viễn thông. Hai là, khu vực dịch vụ bị chi phối bởi các doanh
nghiệp nhà nước (lớn hơn nhiều so với trong lĩnh vực công nghiệp) khiến tư nhân
không thấy cơ hội kinh doanh thuận lợi nào nếu đầu tư vào dịch vụ.
Chính sách phát triển vùng theo triết lý khai thác lợi thế so sánh đã dẫn tới việc tạo
các điều kiện thuận lợi cho các địa phương ven biển phát triển trước, sau đó đến các
thành phố tỉnh lỵ và thành phố ven sông Dương Tử. Chính vì thế, các vùng Đông Bắc,
Trung, Tây và Tây Nam vốn có ít lợi thế cạnh tranh hơn lại càng bị tụt hậu. Đô thị hóa 17
và công nghiệp, dịch vụ ở các địa phương được ưu tiên phát triển hơn hẳn các địa
phương còn lại. Hệ quả là, lao động dư thừa ở các vùng không được ưu tiên phải di
chuyển lên thành phố ở các địa phương ưu tiên để tìm việc làm. Nhưng chế độ hộ
khẩu không được thay đổi đã khiến cho khoảng 250 triệu người Trung Quốc di cư lên
thành phố làm việc nhưng không có hộ tịch
Sau khi Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, các rào cản đối với
khu vực dịch vụ được gỡ bỏ dần nhưng chậm. Nhận ra hệ quả tiêu cực của việc thiếu
phối hợp trong cơ cấu ngành kinh tế, năm 2012 Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào cũng từng
khẳng định phải phát triển dịch vụ, thúc đẩy cầu nội địa nhất là tiêu dùng nội địa, thúc
đẩy bảo tồn tài nguyên và kinh tế tuần hoàn, phát triển có phối hợp giữa nông thôn và
thành thị, xem đó là những mục tiêu của nhiệm vụ tăng tốc hoàn thiện kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, các đánh giá của quốc tế về việc thực hiện các
mục tiêu này ở Trung Quốc là rất chậm chạp.
o Gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường
Nền kinh tế Trung Quốc tiêu dùng quá nhiều năng lượng và không thân thiện với
môi trường sinh thái (De, 2007; Hoàng Thế Anh chủ biên, 2017). Điều tra ô nhiễm
của Bộ Môi trường sinh thái cho thấy, số lượng các nguồn gây ô nhiễm ở Trung Quốc
đã tăng từ 5,9 triệu năm 2010 lên khoảng 9 triệu năm 2018. Trong số 9 triệu nguồn
gây ô nhiễm đó, có tới 7,4 triệu nguồn là từ các cơ sở công nghiệp (Kuo, 2018).
Thực tế, không phải Trung Quốc không ý thức được vấn đề môi trường trong quá
trình công nghiệp hóa. Ngay từ đầu thập niên 1980, khẩu hiệu “văn minh sinh thái” đã
được nêu ra. Tuy nhiên, chỉ đến khi ô nhiễm môi trường trở nên nhức nhối vào giữa
thập niên 2000 thì đến năm 2007, khẩu hiệu này mới được nhắc đến liên tục (Zhang,
2015). Năm 2007, Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào kêu gọi thực hiện Quan điểm Phát triển
Khoa học với mục đích chuyển phương thức phát triển của Trung Quốc sang phát
triển bền vững trên đồng thời các mặt kinh tế, xã hội, môi trường. Tuy nhiên, khủng
hoảng tài chính toàn cầu 2008 và những tác động tiêu cực của nó tới kinh tế Trung
Quốc đã khiến cho các cải cách này không diễn ra như kế hoạch. Đầu tư vẫn là một
nhân tố tăng trưởng quan trọng và tiếp tục được thúc đẩy. Ngay cả năm 2014, khi
Trung Quốc “tuyên chiến” với ô nhiễm môi trường, những lo ngại rằng chống ô nhiễm
môi trường có thể làm nền kinh tế tăng trưởng chậm lại vẫn còn rất rõ (Branigan, 2014).
III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ CÔNG CUỘC CẢI CÁCH CỦA TRUNG
QUỐC ĐẾN VIỆT NAM
Là quốc gia láng giềng có những điểm tương đồng với Trung Quốc,vì vậy - những
kinh nghiệm (cả thành công và chưa thành công) trong cải cách mở cửa của Trung
Quốc, đều có giá trị tham khảo tốt cho Việt Nam.. A. Về nhận thức 18 
Một là giải phóng tư tưởng, không ngừng sáng tạo về lý luận và mạnh dạn
cải cách trong thực tiễn.
Như đã nêu ở trên, đối với các quốc gia đang trong quá trình chuyển đổi như Trung
Quốc và Việt Nam, thực hiện cải cách mở cửa hay đổi mới, hội nhập quốc tế là một sự
nghiệp hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ. Vì Vậy, Đảng Cộng sản ở hai nước - với tư
cách đảng cầm quyền, lãnh đạo sự nghiệp cải cách và đổi mới cần phải giải phóng tư
tưởng, không ngừng sáng tạo về lý luận và mạnh dạn cải cách trong thực tiễn; đồng
thời chủ động nắm bắt xu thế thời đại, tận dụng tốt thời cơ do môi trường quốc tế đưa
lại, từ đó định ra những chủ trương chính sách phù hợp để phát triển.Thực tiễn Trung
Quốc cho thấy, quá trình lãnh đạo cải cách mở cửa cũng là quá trình Đảng Cộng sản
Trung Quốc tìm tòi, và đã tìm ra được “Ba cái một”, bao gồm: Một ngọn cờ - CNXH
đặc sắc là ngọn cờ (tức phương tiện) đoàn kết nhân dân các dân tộc cùng phấn đấu;
“Một lý luận” -hệ thống lý luận CNXH đặc sắc Trung Quốc (gồm lý luận Đặng Tiểu
Bình, tư tưởng Ba đại diện, quan điểm phát triển khoa học…); “Một con đường” - con
đường xây dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc gồm 5 con đường nhỏ (công nghiệp hóa
kiểu mới, đô thị hóa, thông tin hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và tự chủ sáng tạo đặc sắc Trung Quốc). 
Hai là nhấn mạnh “đặc sắc Trung Quốc” hay điều kiện đặc thù của đất
nước nhưng vẫn coi trọng và nắm vững quy luật.
Như đã nêu ở trên, quá trình lãnh đạo cải cách mở cửa cũng là quá trình Đảng Cộng
sản Trung Quốc có những sáng tạo về lý luận, đồng thời dùng lý luận đó để chỉ đạo
thực tiễn mới, hình thành nên cái gọi là “đặc sắc Trung Quốc”. Nhưng cùng với tiến
trình cải cách ngày càng đi vào chiều sâu, nếu quá nhấn mạnh tính đặc thù, thì những
lý luận đó cũng sẽ vấp phải những lực cản, thậm chí không thể chỉ đạo giải đáp được
mọi vấn đề mà thực tiễn mới đặt ra.Vì vậy, sau khi gia nhập và trở thành thành viên
chính thức của WTO, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã ngày càng nhận thức rõ ràng
hơn về tính quy luật trong phát triển, bao gồm quy luật hiện đại hóa của xã hội loài
người,thậm chí cả quy luật cầm quyền của các chính đảng (vô sản và tư sản)trên thế
giới. Hội nghị Trung ương 3 khóa 18 khi đặt vấn đề phát huy vai trò quyết định của thị
trường trong phân bổ nguồn lực, cũng được xuất phát từ quan điểm cho rằng: Thị
trường quyết định phân bổ nguồn lực là quy luật chung của kinh tế thị trường, Trung
Quốc muốn kiên trì thể chế kinh tế thị trường Xã hội Chủ Nghĩa cũng phải tuân theo quy luật này. 
Ba là, Đảng Cộng sản với tư cách đảng cầm quyền, lãnh đạo cải cách mở
cửa nhất định phải có dũng khí chính trị và kết tinh trí tuệ.
Cải cách mở cửa là một sự nghiệp hoàn toàn mới, được ví như một cuộc cách
mạng. Vì vậy, là người lãnh đạo sự nghiệp “cách mạng mới” này, Đảng Cộng sản
cũng phải tự đổi mới mình, nâng cao năng lực cầm quyền, trong đó có nâng cao năng
lực điều hành nền kinh tế thị trường và xây dựng nhà nước pháp quyền.Thực tiễn
Trung Quốc cho thấy, quá trình cầm quyền lâu dài (65 năm) cũng là quá trình hệ thống 19
chính trị của Đảng ngày càng bị hành chính hóa, quan liêu hóa và xa dân. Trong
Đảng cũng hình thành các tập đoàn lợi ích, thậm chí cả tập đoàn gia tộc. Do sự tác
động và chi phối của những tập đoàn này, nhiều chủ trương chính sách của Đảng bị
méo mó, dẫn đến tình trạng: Lợi ích quốc gia bị bộ ngành hóa, lợi ích bộ ngành bị tập
đoàn hóa, lợi ích tập đoàn bị cá nhân hóa.
Chính vì lẽ đó, văn kiện của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã gọi giai đoạn cải cách
hiện nay là “giai đoạn công kiên”, với hàm ý rằng: Các tập đoàn lợi ích trong Đảng và
xã hội đã hình thành và thâm căn cố đế. Các biện pháp cải cách phải đủ mạnh mới có
thể đột phá được các tập đoàn lợi ích giống như bức tường thành này. Bản thân Tổng
Bí thư Tập Cận Bình khi trình bày bản Thuyết minh tại hội nghị Trung ương 3 khóa
18 cũng nhấn mạnh Đảng phải có dũng khí chính trị và trí tuệ cao hơn nữa. Có như
vậy, Đảng mới có thể kích hoạt được sức sáng tạo của toàn xã hội,qua đó tập trung
được trí tuệ vượt qua khó khăn, thách thức cùng với những rủi ro từ môi trường bên
ngoài và ngay trong thể chế đưa lại. B. Về giải pháp
Một là, các biện pháp cải cách phải có tính đồng bộ và phối hợp.
Thực tiễn Trung Quốc cho thấy, thời kỳ đầu, cải cách được tiến hành theo phương
châm “dò đá qua sông”, Đảng Cộng sản Trung Quốc phải vừa làm vừa rút kinh
nghiệm. Các biện pháp cải cách đều được thực hiện theo một lộ trình thống nhất, có
tính đồng bộ và phối hợp với nhau. Cải Cách bắt đầu từ nông thôn, sau đó mở rộng ra
thành thị. Mở cửa được bắt đầu từ mở cửa bên trong, từng bước từ ven biển (đặc khu)
- đền ven sông, ven biên giới; sau đó mở cửa ra bên ngoài bằng chiến lược “đi ra
ngoài” (bao gồm thương mại, đầu tư trực tiếp nước ngoài, thầu khoán công trình, viện
trợ phát triển, mua bán sáp nhập các xí nghiệp).
Ngoài ra, các biện pháp cải cách còn được thực hiện có sự phối hợp, thời kỳ đầu là
giữa kinh tế, chính trị, văn hóa; về sau bổ sung thêm xã hội và hiện nay là môi trường
sinh thái; từ đó hình thành một bố cục được gọi là “ngũ vị nhất thể” bao gồm: Kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội và văn minh sinh thái. 
Hai là, trong hàng loạt các biện pháp cải cách khác nhau, cần lựa chọn
đúng trọng điểm và hạt nhân của cải cách.
Cải cách là một cuộc cách mạng. Các biện pháp cải cách được đưa ra thường rất
nhiều, bao quát nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, Đảng Cộng sản với tư cách như
người thiết kế công trình hệ thống, cần xác định từ đó lựa chọn đúng đắn lĩnh vực
trọngđiểm và hạt nhân cải cách.Thực tiễn Trung Quốc cho thấy, giai đoạn đầu cải
cách, Đảng Cộng sản Trung Quốc xác định lấy cải cách nông thôn làm trọng điểm và
hạt nhân là thực hiện khoán sản lượng đến hộ gia đình. Còn hiện nay khi cải cách mở
cửa đã bước vào một giai đoạn hoàn toàn mới, mặc dù gặp nhiều khó khăn và thách
thức cả bên trong lẫn bên ngoài, nhưng Đảng Cộng sản Trung Quốc trong hội nghị
Trung ương 3 khóa 18 vẫn xác định “cải cách thể chế kinh tế là trọng điểm” và vấn đề
hạt nhân là xử lý tốt mối quan hệ giữa chính phủ và thị trường.Khi đã xác định được 20
“trọng điểm” và vấn đề “hạt nhân” thì các nguồn lực - bao gồm nguồn lực cứng và
nguồn lực mềm sẽ được tập trung vào đó để thực hiện. Như vậy, Đảng vẫn nắm được
quyền chủ động và kiểm soát toàn bộ tiến trình cải cách mở cửa, trong đó có việc thiết
kế từ trên đỉnh và thành lập Ban chỉ đạo đi sâu cải cách toàn diện như đã nêu trên. 
Ba là, để sự nghiệp cải cách mở cửa thành công, Đảng phải coi trọng đào
tạo bồi dưỡng đội ngũ cốt cán cầm quyền có trình độ cao.
Sự nghiệp cải cách mở cửa ở Trung Quốc và đổi mới ở Việt Nam đều do Đảng
Cộng sản của hai nước khởi xướng và lãnh đạo. Xây dựng thể chế kinh tế thị trường
Xã hội Chủ Nghĩa (Trung Quốc) và kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ Nghĩa
(Việt Nam) đều là những sự việc hoàn toàn mới.Đảng muốn lãnh đạo cải cách hay đổi
mới thành công, khâu then chốt là đội ngũ cốt cán cầm quyền. Thực tiễn Trung Quốc
cho thấy, mặc dù ngay từ năm 1993 Hội nghị Trung ương 3 Đại hội 14 của Đảng
Cộng sản Trung Quốc đã ban hành bản Quyết định về xây dựng thể chế kinh tế thị
trường Xã hội Chủ Nghĩa, nhưng 10 năm sau - năm 2003 kết quả cuộc điều tra xã hội
học cho thấy có tới 65% cán bộ từ cấp huyện trở lên không hiểu kinh tế thị trường Xã
hội Chủ Nghĩa là thế nào. Vì vậy, sau Đại hội 16, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã dành
hẳn một hội nghị Trung ương - tức hội nghị Trung ương 4, để thảo luận nghiên cứu và
thông qua Nghị quyết về nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng, gồm 4 nội dung,
trong đó nội dung đầu tiên là nâng cao năng lực điều hành kinh tế thị trường Xã hội Chủ Nghĩa.
Còn văn kiện Đại hội 18 Đảng Cộng sản Trung Quốc gần đây, trong 6 nhóm giải
pháp về xây dựng Đảng, đã dành hẳn một nhóm giải pháp nói về“đi sâu cải cách chế
độ nhân sự cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ cốt cán cầm quyền có tố chất cao”. Bởi
lẽ, khi Đảng đã có đường lối đúng, giải pháp đúng thì khâu then chốt là cán bộ. Cán
bộ trong điều kiện Đảng Cầm quyền hoàn toàn khác với trước khi Đảng giành được
chính quyền.Hơn nữa, hoàn cảnh cầm quyền của Đảng hiện nay hoàn toàn khác với
trước đây. Đảng Cộng sản Trung Quốc trên cơ sở rút kinh nghiệm từ sự mất đi địa vị
cầm quyền của Đảng Cộng sản Liên Xô và Đông Âu cho rằng, các chính đảng này
thất bại và mất đi địa vị cầm quyền là do không thích ứng với hoàn cảnh cầm quyền
mới.Để có thể xây dựng được đội ngũ cán bộ cốt cán cầm quyền có trình độ cao,
Đảng Cộng sản Trung Quốc đã có nhiều chủ trương chính sách và biện pháp khác
nhau, trong đó có việc hoàn thiện cơ chế bình xét đánh giá cán bộ, kiện toàn thể chế
quản lý cán bộ, hoàn thiện chế độ công chức, tăng cường và cải tiến công tác đào tạo
bồi dưỡng qua đó nâng cao năng lực và trình độ cho cán bộ cầm quyền v.v… 21 KẾT LUẬN
Công cuộc cải cách, mở cửa nền kinh tế của Trung Quốc đã đi qua hơn 50 năm và
đang tiếp tục ngày càng trở nên hoàn thiện, thích ứng với những bối cảnh bên ngoài
và nội tại đặt ra, với mục đích phát triển quốc gia một cách toàn diện. Dù thời gian cải
cách chưa dài, Trung Quốc vẫn đang trong thời kỳ xây dựng khuôn khổ pháp lý và đi
lên chủ nghĩa xã hội mang “đặc sắc Trung Quốc”, nhưng giải phóng tư tưởng khỏi sự
lạc hậu trong chế độ cũ, đi kèm với tinh thần cầu thị, tìm kiếm phương thức cải cách
phù hợp. Từ đấy, bằng phương tiện cải cách - mở cửa nền kinh tế, Trung Quốc xuất
phát từ chỗ nghèo nàn, lạc hậu, đứng trên bờ vực sụp đổ của cả một chế độ, đã vươn
lên thành một trong những cường quốc kinh tế của thế giới với đời sống của nhân dân
được cải thiện rõ rệt. Vị thế của Trung Quốc từ đó ngày càng được nâng cao, chủ động
trong việc tham gia quản trị các công việc hợp tác quốc tế.
Công cuộc Đổi mới ở Việt Nam do ĐCS Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đến nay
cũng đã được 28 năm. Nhân dịp năm mới, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng
trong bài viết của mình đã chuyển đi một Thông điệp về hoàn thiện thể chế, trong đó
ông nhắc đến “một thế chế chất lượng cao và một nền quản trị quốc gia hiện đại”,
đồng thời nhấn mạnh nguồn động lực để lấy lại đà tăng trưởng nhanh và phát triển bền
vững, “phải đến từ Đổi mới thể chế và phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của Nhân dân”.
Vì vậy, những kinh nghiệm rút ra từ cải cách thể chế của Trung Quốc trong 35 năm
cải cách mở cửa, có giá trị tham khảo nhất định cho Việt Nam. Việc trao đổi kinh
nghiệm giữa hai Đảng, hai nước trong quản lý đất nước và xây dựng Đảng, trong đó
có cải cách và đổi mới thể chế là rất cần thiết và quan trọng, góp phần làm phong phú
nội dung của mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện mà lãnh đạo cấp cao
hai nước đã thỏa thuận. 22 TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo của Hồ Cẩm Đào tại Đại hội đại biểu toàn quốc ĐảngCộng sản Trung
Quốc lần thứ 18, Nhà xuất bản Nhân dân, Bắc Kinh,2012.
2. “Quyết định của Trung ương ĐCS Trung Quốc về một số vấn đềtrọng đại đi sâu
cải cách toàn diện”, Nhà xuất bản Nhân dân Bắc Kinh,2013.
3. Tập Cận Bình, Thuyết minh về “Quyết định của Trung ươngĐCS Trung Quốc về
một số vấn đề trọng đại đi sâu cải cách toàn
diện”,http://news.xinhuanet.com/politics/2013-11/15/c_118164294.htm
4. Sách phụ đạo về “Quyết định của Trung ương ĐCS Trung Quốcvề một số vấn đề
trọng đại đi sâu cải cách toàn diện”, Nhà xuất bản Nhân dân, Bắc Kinh, 2013.
5. Chuyên gia học giả trường Đảng Trung ương, “Giải thích sâu sắcmột số vấn đề
trọng đại của việc đi sâu cải cách mở cửa”, Nhà xuất bảntrường Đảng Trung ương
Đảng Cộng sản Trung Quốc, Bắc Kinh, 2013.
6. Đặng Xuân Thanh, Hoàng Thế Anh, “Hội nghị Trung ương 3khóa 18 ĐCS
Trung Quốc: Một số điểm nhấn thúc đẩy cải cách mở cửatrong giai đoạn mới”, Tạp
chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 12 năm 2013,tr. 22-31. 23