-
Thông tin
-
Quiz
Bài tập lớn Chủ đề: Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam môn tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Tư tưởng Hồ Chí Minh (LLTT1101) 326 tài liệu
Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Bài tập lớn Chủ đề: Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam môn tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (LLTT1101) 326 tài liệu
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:























Tài liệu khác của Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
Khoa Quản trị kinh doanh BÀI TẬP LỚN
MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề bài: Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí
Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam. Sự vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong việc phát triển cơ cấu thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay.
Họ và tên: Phạm Thu Giang Mã sinh viên: 11218654
Lớp: Quản trị KD CLC 63_AEP(123)_11
Giảng viên: Nguyễn Chí Thiện Hà Nội, 10/2022 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.........................................................................2
NỘI DUNG......................................................................3
I. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta................3
II. Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần
kinh tế của Đảng ta vào thực tiễn đất nước hiện nay...............8
1. Thành tựu................................................................8
2. Hạn chế.................................................................12
3. Khuyến nghị...........................................................15
TỔNG KẾT....................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................21 1 MỞ ĐẦU
Cơ cấu thành phần kinh tế xã hội nước ta có sự thay đổi linh hoạt theo từng thời
kỳ với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và vận
dụng sáng tạo quan điểm của V.I.Lenin vào thực tiễn đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội và xác định rõ các thành phần kinh tế khác nhau trong nền kinh tế
nước ta. Lý luận về kinh tế của Người gắn liền với tình hình chính trị, đảm bảo khả
năng áp dụng vào thực tế tình hình đất nước. Có thể thấy, những nhận thức của Người
có ý nghĩa vô cùng to lớn về cả hai mặt lý luận và thực tiễn, là cơ sở để xây dựng
chính sách phù hợp với sự phát triển của đất nước.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về các thành phần kinh tế vào điều kiện, hoàn
cảnh hiện nay, Đảng và Chính phủ ta đã nhận thức được từ rất sớm sự tồn tại và tầm
quan trọng đặc thù của từng thành phần kinh tế trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
Những thành phần kinh tế này xuất hiện một cách có quy luật dựa trên các hình thức
sở hữu khác nhau, từ đó giúp bộ máy lãnh đạo và quản lý nước ta xác định xu hướng
phát triển của nền kinh tế, từ đó đề ra kế hoạch và phương hướng xây dựng hợp lý cho
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều này đã được thể hiện rõ từ Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII.
Như vậy, có thể thấy đây là một đề tài rất quan trọng và có giá trị thiết thực trong
thời điểm hiện nay. Từ việc phân tích quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về cơ cấu
thành phần kinh tế, ta có thể nhìn nhận và đánh giá cách mà Đảng và Chính phủ ta
đang vận dụng quan điểm trên vào công tác lãnh đạo và quản lý đất nước, từ đó hiểu rõ
xu hướng vận động và phát triển của kinh tế Việt Nam cũng như nhiệm vụ của công
dân trong việc phối hợp với bộ máy lãnh đạo và quản lý để hoàn thành nhiệm vụ xây
dựng và nâng tầm vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. 2 NỘI DUNG I.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Ngay từ những ngày đầu, chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định phát triển kinh tế là
một nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc xây dựng đất nước theo chủ nghĩa xã hội. Năm
1925, khi soạn thảo điều lệ của Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội (tổ chức tiền
thân của Đảng Cộng sản Việt Nam), Người khẳng định trong văn kiện lịch sử này:
"Sau này chúng ta sẽ thành lập Chính phủ Nhân dân và áp dụng nguyên tắc Tân kinh
tế". Thành lập Chính phủ Nhân dân là thực thi nền dân chủ, còn áp dụng nguyên tắc
"Tân kinh tế" là chủ trương xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần. Đây chính là hai
trụ cột của chế độ mới.
Có thể khái quát những luận điểm, tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh thành năm quan điểm lớn như sau:
- Phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng nhất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, phải quan tâm phát triển cả nông nghiệp và
công nghiệp trong thời kỳ quá độ.
- Trong thời kỳ quá độ, nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế.
- Tăng gia sản xuất phải đi đôi với thực hành tiết kiệm trong sản xuất, trong
tiêu dùng, tiết kiệm vật tư, thời gian, sức lao động.
- Trong phát triển kinh tế, phải quan tâm chống tham ô, lãng phí, quan liêu, đó
là những thứ "giặc nội xâm", đồng minh với giặc ngoại xâm.
Ta có thể thấy quan điểm thứ ba chính là lý luận của Người về cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần. Người đã có một tầm nhìn vô cùng sâu rộng, vượt thời đại. Cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần là một khách quan tất yếu mà một đất nước xuất phát với nền
kinh tế phong kiến lạc hậu, không trải qua chủ nghĩa tư bản cần phải tiếp nhận trên con
đường quá độ lên xã hội chủ nghĩa.
Vì đường lối phát triển phù hợp với đất nước mà Đảng ta đã xác định là quá độ
gián tiếp, nên ngay từ nửa đầu thế kỷ XX, trong tác phẩm “Thường thức chính trị”,
chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rõ cơ cấu nền kinh tế của nước ta gồm những thành phần như sau:
- Kinh tế địa chủ phong kiến 3
- Kinh tế quốc doanh (có tính chất chủ nghĩa xã hội)
- Hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp (có tính chất nửa chủ nghĩa xã hội)
- Kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công nghệ
- Kinh tế tư bản của tư nhân
- Kinh tế tư bản quốc gia (nhà nước hùn vốn với tư nhân để kinh doanh)
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nền kinh tế Việt Nam đã được xác định là
nền kinh tế nhiều thành phần. Bên cạnh những thành phần thuộc về nền kinh tế quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, có thể thấy còn có nền kinh tế mang tính chất phong kiến: địa
chủ sở hữu lượng lớn ruộng đất và thu địa tô. Đó là lí do cần tiếp tục cách mạng ruộng
đất để loại bỏ cách thức sở hữu lạc hậu này, nhưng lại gặp phải khó khăn khi đất nước
ta vẫn phải tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ giải phóng đất nước. Bên cạnh những
quy luật chung, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xét đến hoàn cảnh riêng của đất nước. Đây
chính là một sự vận dụng sáng tạo và linh hoạt quan điểm lý luận của V.I.Lênin, nhận
thức được thành phần kinh tế đặc thù ngoài các thành phần kinh tế phổ biến, quá độ
cùng vai trò của từng thành phần, từ đó tạo dựng cơ sở để hoạch định chính sách phát triển phù hợp.
Đến khi miền Bắc hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ nhân dân, chủ tịch Hồ
Chí Minh lại dựa theo hoàn cảnh mà thực hiện chế độ dân chủ mới. Chế độ này gồm năm thành phần như sau:
- Kinh tế quốc doanh (đại diện cho chủ nghĩa xã hội)
- Hợp tác xã (nửa chú nghĩa xã hội, và sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội)
- Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ
- Kinh tế tư bản của tư nhân
- Kinh tế tư bản của nhà nước
Và Người nhấn mạnh rằng trong năm loại trên, loại thứ nhất là kinh tế lãnh đạo
và phát triển mau hơn cả, cho nên kinh tế nước ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa
xã hội chứ không phải theo hướng chủ nghĩa tư bản. Như vậy, từ một đất nước có nền
kinh tế phát triển thấp, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, Việt Nam trực tiếp tiến vào
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tình hình đất nước khi ấy vô cùng khó khăn: đất
nước bị chia cắt làm hai miền, miền Bắc vừa phải tiến hành xây dựng xã hội mới vừa
làm hậu phương cho miền Nam chống Mĩ; phương thức sản xuất lạc hậu, phương tiện
sản xuất nghèo nàn, khoa học kỹ thuật kém phát triển, trình độ và năng suất sản xuất
đều vô cùng hạn chế. Trong lúc đó, tình hình thế giới xảy ra nhiều biến động, trong
lòng hệ thống xã hội chủ nghĩa xuất hiện mâu thuẫn, khó khăn. Con đường xây dựng
xã hội mới vẫn chưa rõ ràng. Giữa hoàn cảnh như vậy, chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác
định rõ năm thành phần kinh tế tồn tại ở Việt Nam cũng như vị trí, vai trò của chúng.
Sự thay đổi của cơ cấu kinh tế trước và sau 1954 tuy có sự thống nhất về tính khách 4
quan tất yếu của thành phần kinh tế quá độ lên xã hội chủ nghĩa, nhưng vẫn có điểm khác biệt như sau:
- Nền kinh tế trong chế độ dân chủ mới đã không còn tồn tại thành phần kinh tế
phong kiến. Cách mạng ruộng đất đã thành công xóa bỏ hình thức sở hữu
phong kiến, người nông dân trở thành chủ nhân thực sự của ruộng đất chứ
không phải địa chủ. Điều này đã khẳng định quan điểm sau của chủ tịch Hồ
Chí Minh: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới
xã hội cộng sản”, nghĩa là muốn xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa thì phải
hoàn thành cả hai nhiệm vụ cách mạng ruộng đất và giải phóng dân tộc.
- Các thành phần kinh tế thay đổi về vai trò và vị trí trong nền kinh tế:
Kinh tế quốc doanh là hình thức sở hữu toàn dân, lãnh đạo nền kinh tế
quốc dân, cần phải ưu tiên phát triển thành phần kinh tế quốc doanh để
tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội và thúc đẩy việc cải tạo xã
hội chủ nghĩa. Như vậy, vị trí, vai trò của thành phần kinh tế quốc
doanh đã có bước phát triển mới, từ chỗ có tính chất chủ nghĩa xã hội
đã trở thành thành phần kinh tế thực sự đại diện cho chủ nghĩa xã hội,
mang nhiệm vụ lãnh đạo nền kinh tế và đảm bảo định hướng sự phát
triển của nền kinh tế theo chế độ chủ nghĩa xã hội. "Kinh tế quốc
doanh là công. Nó là nền tảng và sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới.
Cho nên chúng ta phải ra sức phát triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó".
Bàn về các hợp tác xã, chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, đây là hình
thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động, nhà nước cần phải khuyến
khích, hỗ trợ để nó phát triển. Hợp tác hóa nông nghiệp là khâu chính
thúc đẩy công cuộc cải tạo chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Đề cập tới thành phần kinh tế tư bản của nhà nước, Người nhấn mạnh:
“Đối với những nhà tư sản công thương, Nhà nước không xóa bỏ
quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ; mà ra sức
hướng dẫn họ hoạt động nhằm làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp
với kế hoạch kinh tế của Nhà nước. Đồng thời Nhà nước khuyến khích
và giúp đỡ họ cải tạo theo chủ nghĩa xã hội bằng hình thức công tư hợp
doanh và những hình thức cải tạo khác.” Nhà nước cần tạo điều kiện,
khuyến khích và giúp đỡ các nhà tư bản phát triển theo hướng chủ
nghĩa xã hội và hoạt động theo một hệ thống chung nhất. Nhiệm vụ
cần làm là hướng thành phần kinh tế này quay lại phục vụ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Đối với thành phần kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ,
chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Đối với người làm thủ công và lao
động riêng lẻ khác, Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất
của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn, khuyến 5
khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo nguyên tắc tự nguyện”. “Đẩy
mạnh cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế cá thể
của nông dân, thợ thủ công, những người lao động riêng lẻ khác và đối
với thành phần kinh tế tư bản tư doanh, đồng thời nó mở mang và tăng
cường lực lượng của thành phần kinh tế quốc doanh, thúc đẩy việc
phát triển kinh tế theo chủ nghĩa xã hội”.
Những quan điểm trên đã thể hiện sự vận dụng sáng tạo của chủ tịch Hồ Chí
Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong chế độ dân chủ mới ở Việt Nam sau 1954 khi
kế thừa cơ sở lý luận của V.I.Lênin. Sự vận dụng này phù hợp với thực tiễn bối cảnh
đất nước, được thực hiện dựa trên đặc thù về kinh tế, chính trị, lịch sử, xã hội của nước
ta thời điểm đó cũng như đảm bảo tính quy luật chung, phản ánh tính đặc thù của nền
kinh tế trong thời kỳ quá độ với các thành phần kinh tế phổ biến, thành phần kinh tế
quá độ đan xen. Đây chính là cơ sở để Đảng và Chính phủ xây dựng những chính sách
phát triển phù hợp và thiết thực trên lĩnh vực kinh tế ở miền Bắc và sau đó là trên phạm vi toàn quốc.
Như vậy, Đảng cộng sản Việt Nam đã vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào
nhiệm vụ lãnh đạo đất nước từ rất sớm. Điều đó đã được thể hiện rõ từ Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VI đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) xác định: “Xuất phát từ sự đánh giá
những tiềm năng tuy phân tán nhưng rất quan trọng trong nhân dân, cả về sức lao
động, kỹ thuật, tiền vốn, khả năng tạo việc làm, chúng ta chủ trương: đi đôi với việc
phát triển kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, tăng cường nguồn tích lũy tập trung của
Nhà nước và tranh thủ vốn ngoài nước, cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn
các thành phần kinh tế khác.” Đồng thời, Đảng cũng chỉ ra các thành phần kinh tế của
nước ta bao gồm: Kinh tế xã hội chủ nghĩa; kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa; kinh tế tư
bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức mà hình thức cao là công tư
hợp doanh; kinh tế tự cấp, tự túc của một số đồng bào dân tộc thiểu số miền núi.
Đến Đại hội lần thứ VII, Đảng nêu rõ: “Trong nền kinh tế thị trường, với quyền
tự do kinh doanh được pháp luật bảo đảm, từ ba loại sở hữu cơ bản, sẽ hình thành
nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng: Kinh tế
quốc doanh được củng cố và phát triển trong những ngành và lĩnh vực then chốt; kinh
tế tập thể, với hình thức phổ biến là hợp tác xã, phát triển rộng rãi và đa dạng trong các
ngành, nghề với quy mô và mức độ tập thể hóa khác nhau, trên cơ sở tự nguyện góp
vốn, góp sức của những người lao động. Kinh tế cá thể được khuyến khích phát triển
trong các ngành nghề ở cả thành thị và nông thôn. Kinh tế tư bản tư nhân được phát
triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành, nghề mà luật
pháp không cấm. Kinh tế gia đình không phải là một thành phần kinh tế độc lập nhưng
được khuyến khích phát triển mạnh. Nhà nước nhất quán chính sách kinh tế nhiều
thành phần, không phân biệt đối xử, không tước đoạt tài sản hợp pháp, không gò ép
tập thể hoá tư liệu sản xuất, không áp đặt hình thức kinh doanh.” 6
Tiếp đó, trong Đại hội lần thứ VIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Thực hiện nhất
quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Thực hiện
chủ trương, chính sách đối với từng thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước; kinh tế hợp
tác mà nòng cốt là các hợp tác xã; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế cá chủ, tiểu chủ;
kinh tế tư bản tư nhân.”
Đại hội IX của Đảng ta ghi rõ: “Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật. Đại hội
cũng chỉ rõ các thành phần kinh tế ở nước ta trong giai đoạn này gồm: Kinh tế nhà
nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà
nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đại hội X của Đảng khẳng định, ở Việt Nam
có ba chế độ sở hữu là toàn dân, tập thể và tư nhân, trên cơ sở đó hình thành nhiều
thành phần kinh tế gồm: Kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân; kinh tế tư
bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.”
Trước thách thức hội nhập quốc tế, Đại hội lần thứ XI năm 2011 tiếp tục khẳng
định: Phát triển nhanh, hài hòa các thành phần kinh tế. Kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo. Phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã. Hoàn thiện cơ chế, chính
sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền
kinh tế. Khuyến khích kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển theo quy hoạch.” Cơ
cấu thành phần kinh tế đã thu gọn lại còn bốn loại: Kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể;
kinh tế tư nhân; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đây cũng chính là cơ cấu kinh tế
vẫn được duy trì đến bây giờ.
Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: “Nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động
lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng,
hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động
và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức
sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phù hợp với cơ chế thị trường”.
Với mục tiêu đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, kế thừa Đại hội XII,
Đại hội XIII của Đảng năm 2021 đã nhấn mạnh: “Nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong
đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng
được củng cố, phát triển, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế;
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển.”
Như vậy, tổng kết lại, ngay từ những ngày đầu lãnh đạo Đảng và dân tộc giữa
những năm tháng kháng chiến giành độc lập, chủ tịch Hồ Chí Minh đã có tầm nhìn vô
cùng sáng suốt về cơ cấu thành phần nền kinh tế của Việt Nam cũng như vai trò, vị trí
của chúng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Sự vận dụng sáng tạo này 7
vừa dựa trên quan điểm, lý luận của V.I.Lênin về những quy luật chung nhất, vừa
chiếu theo tình hình thực tiễn, bối cảnh đặc thù về kinh tế, chính trị, lịch sử, xã hội,
văn hóa của nước ta trong từng giai đoạn. Và Đảng ta vẫn luôn lấy tư tưởng Hồ Chí
Minh làm cơ sở để xác định từng thành phần kinh tế đang tồn tại trong từng thời kỳ, từ
đó đưa ra những chính sách, kế hoạch phù hợp để hoàn thành mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh”, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. II.
Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế của
Đảng ta vào thực tiễn đất nước hiện nay
Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào nhiệm vụ lãnh đạo đất nước được thể
hiện rõ ràng qua các văn kiện Đại hội toàn quốc của Đảng lần thứ XIII. Đảng đã chỉ rõ
vai trò, vị trí của từng thành phần kinh tế.
Kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước giữ
vững ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế,
xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường. Các nguồn lực kinh tế của Nhà
nước được sử dụng phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đất nước
và cơ bản được phân bổ theo cơ chế thị trường.
Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng,
quốc phòng, an ninh; hoạt động theo cơ chế thị trường, quản trị hiện đại theo chuẩn
mực quốc tế; lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, cạnh tranh bình đẳng
với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Khu vực kinh tế tập thể có vai trò cung cấp dịch vụ cho các thành viên; liên kết,
phối hợp sản xuất kinh doanh, bảo vệ lợi ích và tạo điều kiện để các thành viên nâng
cao năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát triển bền vững. Tăng cường liên kết
giữa các hợp tác xã, hình thành các hiệp hội, liên hiệp hợp tác xã.
Kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà
pháp luật không cấm, nhất là trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ, được hỗ trợ
phát triển thành các công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao.
Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân hợp tác, liên kết với doanh nghiệp nhà nước, hợp
tác xã, kinh tế hộ; phát triển các công ty cổ phần có sự tham gia rộng rãi của các chủ
thể xã hội, nhất là người lao động.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của kinh tế quốc
dân, có vai trò lớn trong huy động nguồn vốn đầu tư, công nghệ, phương thức quản lý
hiện đại, mở rộng thị trường xuất khẩu.
Và cũng nhờ sự lãnh đạo tài tình của Đảng mà Việt Nam đã đạt được rất nhiều
thành tựu đột phá. Tuy nhiên, bên cạnh đó, không thể không kể đến một vài hạn chế nhất định. 8 1. Thành tựu
Kết quả của 37 năm đổi mới là GDP bình quân nước ta đã phát triển khá cao: từ
14,09 tỷ USD năm 1985 đến 368 tỷ USD, và ước tính sẽ đạt được 391,92 tỷ USD vào
năm 2022. Những cải cách kinh tế từ năm 1986 kết hợp với những xu hướng toàn cầu
thuận lợi đã nhanh chóng giúp Việt Nam phát triển từ một trong những quốc gia nghèo
nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp chỉ trong vòng một thế
hệ. Tỉ lệ nghèo (theo chuẩn 1,9 USD/ngày) giảm mạnh từ hơn 32% năm 2011 xuống còn dưới 2%.
Trong năm 2019, cho dù phải đương đầu với dịch Covid – 19, Việt Nam vẫn là
một trong số ít nước có thể giữ được kinh tế tăng trưởng dương (7,02%). Tuy tăng
trưởng GDP giảm xuống mức 2,91% vào năm 2021 do sự xuất hiện của biến thể Delta,
nhưng đã phục hồi trở lại vào năm 2022. Đây là một minh chứng cho khả năng lãnh
đạo và quản lý tốt của bộ máy chính quyền.
Năm 2021, Việt Nam xếp thứ 41 trong top 50 nền kinh tế có quy mô GDP lớn
nhất thế giới và xếp thứ 5 trong các nước thuộc khu vực Đông Nam Á. GDP bình quân
đầu người của Việt Nam trong năm 2021 đạt khoảng 3.743 USD, đứng thứ 6 trong khu
vực và thứ 124 trên thế giới.
Việt Nam hiện đang là một trong những nước hướng đến xuất khẩu nhiều nhất
ASEAN. Theo số liệu thống kê, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa 9 tháng năm
2022 đã vượt mốc 500 tỷ USD, ước đạt 558,52 tỷ USD, tăng 15,1% so với cùng kỳ
năm trước. Cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu 6,52 tỷ USD với 32 mặt
hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 92,8% tổng kim ngạch xuất khẩu,
duy trì chuỗi xuất siêu liên tục nhiều năm.
Bên cạnh đó, không thể không kể đến thành công trên con đường công nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước. Theo Tổng cục Thống kê, năm 1986, nông nghiệp vẫn
chiếm tỷ trọng cao nhất với 38,1%, tỷ trọng ngành dịch vụ là 33%, còn công nghiệp
chiếm tỷ trọng thấp nhất với 28,9%. Năm 2021, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản
chiếm tỷ trọng 12,36% trong GDP của toàn nền kinh tế; khu vực công nghiệp và xây
dựng chiếm 37,86%; khu vực dịch vụ chiếm 40,95%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,83%.
Có được kết quả này là nhờ những thay đổi sáng suốt và tích cực trong chính
sách của Đảng và Chính phủ. Từ chỗ xác định lực lượng chủ yếu thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhà nước và doanh nghiệp nhà nước, Đảng và Chính phủ ta
đã xác định, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của toàn xã hội.
Nhà nước phải có chính sách để khơi dậy, phát huy các nguồn lực của nhân dân, của
mọi thành phần kinh tế, đồng thời huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực từ
bên ngoài để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do đó, từ chỗ chủ yếu là cơ chế
kế hoạch hóa tập trung của nhà nước và giao cho doanh nghiệp nhà nước làm, đã dần
dần chuyển sang phân bổ nguồn lực theo cơ chế thị trường, lấy tiêu chuẩn trước hết là
hiệu quả kinh tế để đầu tư. 9
Khu vực kinh tế nhà nước
Có thể khẳng định rằng vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước đang ngày
càng được củng cố. Nhà nước sử dụng các nguồn lực của mình, cùng các công cụ,
chính sách để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất - kinh doanh, thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Các doanh nghiệp, tập đoàn kinh
tế nhà nước nắm giữ tỷ trọng đa số hoặc có vị trí chi phối một số ngành, lĩnh vực nền
tảng của nền kinh tế, như: 25% vốn điều lệ, 48% thị phần huy động vốn và 50% thị
phần cho vay của toàn hệ thống tín dụng; 86% sản lượng điện phát vào mạng lưới,
97% sản lượng than sạch, 100% sản lượng dầu thô, 85% thị phần bán lẻ xăng dầu,...
Bên cạnh đó, doanh nghiệp nhà nước đã tham gia vào những lĩnh vực, ngành có tính
chiến lược quốc gia, đầu tư ở những lĩnh vực đòi hỏi vốn lớn và thu hồi vốn chậm;
tham gia vào những lĩnh vực mới, có hệ số rủi ro cao, thể hiện chức năng mở đường,
dẫn dắt nền kinh tế, thúc đẩy quá trình ứng dụng khoa học - công nghệ.
Khu vực kinh tế tư nhân
Khu vực kinh tế tư nhân là động lực của nền kinh tế. Ngay từ kỳ họp Quốc hội
lần thứ 3, khóa XI, Đảng ta đã khẳng định: “Doanh nghiệp là lực lượng chủ lực, xung
kích trong sự nghiệp phát triển kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất
nước”. Cùng với những điều chỉnh nhận thức và cải thiện thể chế kinh tế thị trường,
thừa nhận và bảo hộ quyền sở hữu tư nhân, quyền tự do kinh doanh, quyền bình đẳng
giữa các doanh nghiệp, không phân biệt thành phần kinh tế, khu vực kinh tế tư nhân từ
bị phủ định và kiểm soát chặt chẽ trong mô hình kinh tế tập trung bao cấp, đã và đang
từng bước phát triển mạnh mẽ, ngày càng gia tăng về lượng, mở rộng về quy mô, đa
dạng về loại hình tổ chức và lan tỏa ngày càng sâu, rộng về phạm vi, lĩnh vực kinh
doanh, nâng cao sức cạnh tranh và ngày càng trở thành động lực quan trọng, đóng góp
vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khẳng định tính tự chủ của nền kinh tế
và phát triển bền vững đất nước.
Theo số liệu thống kê 9 tháng đầu năm 2022, số doanh nghiệp đăng ký thành lập
mới và quay trở lại hoạt động đạt 163,3 nghìn doanh nghiệp, tăng 38,6% so với cùng
kỳ năm trước. Tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 9 tháng năm nay là
3.908,2 nghìn tỷ đồng, tăng 36% so với cùng kỳ năm trước. Theo kết quả điều tra xu
hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cho thấy
doanh nghiệp lạc quan về tình hình sản xuất kinh doanh trong quý IV/2022 với 82,6%
doanh nghiệp đánh giá sẽ ổn định và tốt hơn so với quý III/2022. Tổng số lao động
đăng ký là 758,1 nghìn lao động, tăng 16,8% so với cùng kỳ năm trước.
Đứng trước thời đại toàn cầu hóa với nhiều cơ hội và thách thức, trong quá trình
hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực, Việt Nam đã ưu tiên hội nhập thương
mại quốc tế, trong đó, khu vực kinh tế tư nhân là một mục tiêu quan trọng. Bên cạnh
đó, Việt Nam đang theo đuổi chiến lược tạo lập thị trường thương mại, tích cực tìm 10
cách tham gia các hiệp định thương mại tự do ưu đãi với các thị trường kinh tế quan
trọng ngoài khu vực ASEAN như Mỹ và EU.
Từ năm 2015, Việt Nam đã chủ động và tích cực tham gia vào tiến trình liên kết
kinh tế ASEAN trong các lĩnh vực thương mại, đầu tư, tài chính, tiền tệ,… Hội đồng tư
vấn kinh doanh ASEAN Việt Nam – ASEAN BAC Việt Nam hỗ trợ cho các doanh
nghiệp Việt Nam hội nhập khu vực ASEAN, gần đây nhất là thông qua triển khai dự án
mạng lưới khởi nghiệp công nghệ số ASEAN 2020. Dự án quan trọng này với mục
đích tạo dựng một mạng lưới kinh tế số trong khu vực ASEAN nhằm thúc đẩy quá
trình khởi nghiệp sáng tạo từ khu vực kinh tế tư nhân đồng thời thuận lợi hóa cho quá
trình chuyển đổi số cho các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa vốn là các động lực
phát triển kinh tế của cộng đồng kinh tế ASEAN.
Theo những khảo sát trong thời gian gần đây, nền kinh tế Việt Nam được thế giới
biết đến qua những tên tuổi các tập đoàn tư nhân như: Vingroup, Sun Group, T&T
Group, Thaco, Vietjet, TH True Milk, Masan... Có thể thấy, khu vực kinh tế tư nhân
không những là động lực mà còn đóng vai trò như tấm đệm giảm xóc để giúp nền kinh
tế Việt Nam duy trì sự ổn đinh trước những biến động lớn trên toàn thế giới hiện nay.
Khu vực kinh tế tập thể
Kinh tế tập thể luôn là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm trong
quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Kinh tế tập thể mà nòng cốt là các hợp tác
xã, các tổ hợp nông nghiệp gắn liền với ngành sản xuất vật chất chủ yếu nuôi sống đất
nước và đóng góp kim ngạch xuất khẩu quan trọng. Với gần 63 triệu người, chiếm
65,4% tổng dân số sống ở nông thôn và 40% lực lượng lao động làm nông nghiệp, có
thể thấy kinh tế tập thể, hợp tác xã, có vị trí hết sức quan trọng về phát triển kinh tế,
giữ vững ổn định chính trị, an ninh - quốc phòng và tham gia xây dựng nông thôn mới,
giảm nghèo bền vững. Sau 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW, ngày 18-3-
2002, của Hội nghị Trung ương 5 khóa IX, “Về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng
cao hiệu quả kinh tế tập thể” và hai năm thực hiện Kết luận số 70-KL/TW, ngày 9-3-
2020, của Bộ Chính trị khóa XII, “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5
khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể”, khu vực
này đã có sự phát triển đáng ghi nhận.
Việc thực thi Luật Hợp tác xã năm 2012 đã tác động nhiều đến sự phát triển kinh
tế tập thể. Theo đó, kể từ khi Luật được ban hành, quy định về thủ tục hành chính từng
bước được hoàn thiện. Các hợp tác xã từng bước nâng cao chất lượng thành viên, thu
hút số lượng lớn các hộ gia đình, cá nhân tham gia thành viên hợp tác xã. Hiện nay,
doanh thu các hợp tác xã ước đạt 74.669 tỷ đồng (tăng 16.173 tỷ đồng so với năm
2013), bình quân doanh thu đạt 8 tỷ đồng/hợp tác xã.
Theo số liệu của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, giai đoạn 2016 - 2020, kinh tế
tập thể, hợp tác xã tiếp tục phát triển cả về số lượng và chất lượng. Cuối năm 2020, cả
nước có 26.040 hợp tác xã. Đặc biệt, cả nước có 1.700 hợp tác xã ứng dụng công nghệ
cao trong sản xuất, 3.219 hợp tác xã sản xuất gắn với chuỗi giá trị, tăng 6,8 lần so với 11
năm 2015. Số lượng hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có quy mô vừa và lớn ngày càng
tăng; đến cuối năm 2020, cả nước có hơn 500 hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có quy
mô hơn 300 thành viên, tổng nguồn vốn từ 5 tỷ đồng trở lên.
Nhìn khái lược, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã là xu thế chung của nền sản
xuất hàng hóa. Đây là một thành phần kinh tế có vai trò to lớn, ý nghĩa toàn diện về
mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước. Loại hình này đã đóng góp vào
tăng trưởng kinh tế, góp phần ổn định giá cả và kiềm chế lạm phát, tăng kim ngạch
xuất khẩu, cơ cấu lại nền kinh tế, nhất là kinh tế nông nghiệp, nông thôn; tạo việc làm,
xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, tăng cường hệ thống chính trị ở cơ sở;
xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, nhất là địa bàn dân tộc thiểu số và
miền núi; góp phần phát triển kinh tế bền vững. Qua đó, khu vực kinh tế tập thể đang
từng bước khẳng định vị trí, vai trò của mình trong nền kinh tế quốc dân, nâng cao
nhận thức của xã hội và hệ thống chính trị đối với hợp tác xã kiểu mới.
Đồng thời, mô hình này đang dần trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội
bền vững, cùng với kinh tế nhà nước dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân;
đóng góp trực tiếp khoảng 4,8%, gián tiếp trên 30% GDP cả nước trên cơ sở giá trị gia
tăng của kinh tế hộ thành viên; thu hút hơn 3 triệu lao động, tạo hơn 40 nghìn việc làm
mới hằng năm. Việc sản xuất, kinh doanh gắn với chuỗi giá trị, áp dụng công nghệ cao,
đạt tiêu chuẩn vệ sinh, an toàn thực phẩm, ký kết hoạt động tiêu thụ sản phẩm dài hạn
với doanh nghiệp. Có thể thấy, hợp tác xã là “hạt nhân” quan trọng góp phần phát triển
kinh tế - xã hội bền vững.
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
Ước tính trong 9 tháng đầu năm 2022, khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài đạt 358,3 nghìn tỷ đồng, bằng 16,8% tổng vốn đầu tư toàn nền kinh tế và tăng
16,3%. Nếu nhìn vào số dự án đăng ký đầu tư nước ngoài 9 tháng năm 2022 cũng thấy
rõ những tín hiệu tích cực: Cả nước có 1.355 dự án mới được cấp giấy chứng nhận
đăng ký đầu tư, tăng 11,8% so với cùng kỳ năm 2021; 769 lượt dự án đăng ký điều
chỉnh vốn đầu tư, tăng 13,4%.
Trong số 63 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại
Việt Nam 9 tháng năm 2022, Singapore là nhà đầu tư lớn nhất với 1,45 tỷ USD, chiếm
20,4% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Đan Mạch 1,32 tỷ USD, chiếm 18,5%;
Nhật Bản 927,5 triệu USD, chiếm 13%; Hàn Quốc 749,1 triệu USD, chiếm 10,5%;
Trung Quốc 735,3 triệu USD, chiếm 10,3%. Vốn đầu tư FDI thực hiện tại Việt Nam 9
tháng năm 2022 ước tính đạt 15,43 tỷ USD, tăng 16,3% so với cùng kỳ năm trước.
Đây là số vốn FDI thực hiện cao nhất của 9 tháng trong 5 năm qua. Tỷ lệ vốn FDI thực
hiện trên vốn đăng ký so sánh trong giai đoạn 2018-2022 cho thấy xu hướng rất tích
cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam: Tỷ lệ vốn thực hiện trên vốn đăng ký
9 tháng năm 2022 đạt 82,3%, là tỷ lệ đạt cao kỷ lục.
Điều này khẳng định rõ niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào môi trường
đầu tư kinh doanh của Việt Nam, coi Việt Nam là điểm đến đầu tư an toàn, hấp dẫn, và 12
tiếp tục mở rộng đầu tư khi Việt Nam thực hiện các chính sách thu hút đầu tư hấp dẫn
và chủ trương mở cửa trở lại nền kinh tế sau gần hai năm hạn chế bởi dịch bệnh
Covid-19. Đặc biệt, Luật Đầu tư năm 2020 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021, có
thể coi là một bước đột phá trong vấn đề điều chỉnh hoạt động đầu tư tại Việt Nam,
cho tới nay đã phản ánh kết quả tích cực từ thực hiện Luật mới. Các quy định đã dần
loại bỏ các thủ tục hành chính rườm rà không cần thiết, từ đó khuyến khích các dự án đầu tư. 2. Hạn chế
Thành phần kinh tế nhà nước
Khi nhà nước nắm trong tay một khối lượng sở hữu khổng lồ thì chính những bất
lợi (khuyết tật) của sở hữu nhà nước bắt nguồn từ đặc điểm của hình thức sở hữu này
ngày càng bộc lộ và tạo nên xu hướng làm giảm tính hiệu, kéo theo sự sụt giảm hiệu
quả của toàn bộ nền kinh tế. Thực tế cho thấy, việc cơ cấu lại, đổi mới, nhất là cổ phần
hoá, thoái vốn nhà nước và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước
còn chậm, chưa đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra. Năng suất lao động, hiệu quả kinh
doanh, quy mô hoạt động, tiềm lực tài chính, năng lực quản trị, trình độ công nghệ và
khả năng cạnh tranh còn hạn chế, chưa tương xứng với nguồn lực rất lớn đang nắm giữ
và sự hỗ trợ, ưu tiên của nhà nước dành cho khu vực kinh tế này. Nhiều doanh nghiệp
nhà nước hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài, khó khăn tài chính, bên bờ vực phá
sản, gây lãng phí, thất thoát vốn và tài sản của nhà nước. Chỉ có khoảng 78% số doanh
nghiệp nhà nước kinh doanh có lãi.
Trên thực tế, quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế
hơn nhiều so với khu vực tư nhân do bị ràng buộc bởi nhiều quy định pháp luật và cơ
chế quản lý rất phức tạp, cồng kềnh về quản lý ngân sách, đầu tư, tài sản công, vốn nhà
nước, công tác cán bộ, lao động, tiền lương… Việc phân cấp, phân quyền, trách nhiệm
còn thiếu sự rõ ràng và minh bạch. Khi quyền tự chủ của doanh nghiệp nhà nước
không được bảo đảm và phát huy thì khu vực này sẽ gặp khó khăn hơn trong hoạt
động; năng lực đổi mới sáng tạo, tính năng động, quyết đoán của doanh nghiệp cũng bị hạn chế.
Thành phần kinh tế tư nhân
Khu vực kinh tế tư nhân thiếu sự liên kết, khó tạo ra tiếng nói chung để nâng cao
năng lực cạnh tranh. Hiện chỉ có khoảng 20% doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia một
số chuỗi giá trị toàn cầu, 14% thành công trong việc liên kết với đối tác nước ngoài.
Trình độ quản lý của các chủ doanh nghiệp còn thấp. Các chủ doanh nghiệp tư
nhân trưởng thành qua học hỏi, qua bạn hàng, ước tính khoảng trên 80% trưởng thành
từ kinh nghiệm thực tiễn, chỉ có một số được đào tạo qua trường lớp chính quy về
quản trị doanh nghiệp hay quản lý về kinh tế chung. Chính vì quản lý và điều hành dựa
vào kinh nghiệm được tích lũy, chưa qua đào tạo và không có bằng cấp chuyên môn 13
nên các chủ doanh nghiệp tư nhân gặp khó khăn trong việc cạnh tranh. Hơn nữa trong
điều kiện hội nhập như hiện nay, kiểu kinh doanh như trên sẽ không còn phù hợp. Bên
cạnh đó, vẫn còn tình trạng doanh nghiệp “ma” tiến hành đăng ký, nhận giấy đăng ký,
mã số thuế nhận hóa đơn, không tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, biến mất khỏi địa bàn.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân còn hạn chế. Do quy mô nhỏ nên
rất nhiều doanh nghiệp trong nước chưa đủ năng lực cạnh tranh để xuất khẩu sang thị
trường nước ngoài, hoặc tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu. Bên cạnh đó, năng lực
công nghệ của các doanh nghiệp còn lạc hậu, đầu tư của doanh nghiệp cho đổi mới
công nghệ chỉ chiếm 0,3% doanh thu, thấp hơn nhiều so với các nước như Ấn Độ
(5%), Hàn Quốc (10%),… Công nghệ lạc hậu dẫn đến năng suất lao động không cao,
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường thấp, kể cả thị trường trong và ngoài nước.
Trình độ lao động của các doanh nghiệp chủ yếu còn thấp, thiếu nhân lực giỏi,
thường thì lao động không được đào tạo bài bản, kỹ năng thấp. Do đó, doanh nghiệp
khó tiếp thu được những tiến bộ khoa học, dẫn đến năng suất lao động không cao.
Cuối cùng, doanh nghiệp tư nhân luôn ở trong tình trạng thiếu hụt nguồn vốn và
dòng tiền kinh doanh, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp ở quy mô vừa, nhỏ và siêu
nhỏ. Nhiều doanh nghiệp khó tiếp cận gói chính sách hỗ trợ giảm lãi suất ngân hàng và
giãn thời gian cho vay. Trong khi nguồn lực hỗ trợ từ nhà nước ngặt nghèo thì việc tự
lực để tiếp cận nguồn tài chính ngân hàng cũng không thuận lợi và dễ dàng.
Thành phần kinh tế tập thể
Số lượng hợp tác xã tuy tăng, nhưng số lượng thành viên có xu hướng giảm; sự
gắn kết lợi ích giữa thành viên và hợp tác xã chưa cao, thiếu tính bền vững... Sự liên
kết, hợp tác giữa các tổ chức kinh tế tập thể, hợp tác xã với các loại hình kinh tế khác
còn yếu. Phát triển hợp tác xã không đồng đều giữa các vùng, miền, giữa khu vực
nông nghiệp và phi nông nghiệp. Một số hợp tác xã chưa tuân thủ nghiêm túc các quy
định của pháp luật, còn có biểu hiện hình thức, xa rời bản chất các nguyên tắc và giá
trị. Phần lớn tổ chức kinh tế tập thể, hợp tác xã có quy mô nhỏ, sức cạnh tranh yếu,
hạn chế về khả năng huy động nguồn lực từ thị trường để đầu tư sản xuất, kinh doanh.
Năng lực nội tại, trong đó có năng lực tài chính của các hợp tác xã còn hạn chế, chủ
yếu dựa vào vốn tự có, chưa tiếp cận được vốn vay từ các tổ chức tín dụng.
Tốc độ tăng trưởng còn thấp so với các khu vực kinh tế khác, tỷ lệ đóng góp
vào GDP chưa được như kỳ vọng.
Công tác quản lý nhà nước về kinh tế tập thể, hợp tác xã còn nhiều bất cập; sự
phối hợp hoạt động giữa các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, hội
quần chúng trong phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã còn thiếu chặt chẽ, chưa hiệu
quả. Việc thực thi Luật Hợp tác xã năm 2012 đã và đang bộc lộ không ít vấn đề cần tháo gỡ. 14
Niềm tin của các thành viên với sự hoạt động và phát triển của hợp tác xã chưa
cao. Các hợp tác xã thường gặp khó khăn trong việc kết nối đầu ra cho sản phẩm. Việc
quản trị kinh doanh còn nhiều hạn chế, khó tiếp cận với các nguồn vốn hỗ trợ. Đa số
thành viên quản trị hợp tác xã đã nhiều tuổi, khó tiếp cận công nghệ thông tin trong xu
thế cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ như hiện nay. Ngoài
ra, kỹ năng quản lý của hội đồng quản trị trong các hợp tác xã của Việt Nam còn khá yếu.
Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Công nghệ lạc hậu, việc chuyển giao công nghệ không được như kỳ vọng; tác
động đến chất lượng nguồn nhân lực không nhiều; khả năng kết nối giữa khu vực kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài với các doanh nghiệp trong nước không cao.
Mặc dù khu vực doanh nghiệp có vốn FDI đang tạo việc làm cho gần 10 triệu
lao động nhưng một tình trạng khá phổ biến diễn ra ở nhiều doanh nghiệp FDI là sa
thải người lao động trên 35 tuổi... Điều này dẫn đến nhiều hệ lụy, nhất là vấn đề an
sinh xã hội, tìm kiếm, bố trí việc làm mới cho người lao động, tạo tâm lý bất an và các vấn đề tiêu cực khác.
Nhiều dự án FDI không tuân thủ nghiêm các quy định về bảo vệ môi trường,
dẫn đến những tác động tiêu cực đến môi trường như gia tăng ô nhiễm, xói mòn và suy
kiệt tài nguyên thiên nhiên.
Để chạy đua về số lượng FDI, nhiều khi các địa phương và ngay cả Chính phủ
đã có lúc “trải thảm đỏ” quá mức với những ưu đãi về thuế, giá thuê đất, giá điện,…
bóp méo thị trường cạnh tranh, tạo bất lợi cho các doanh nghiệp trong nước, chưa kể
còn có tình trạng một bộ phận doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển giá, trốn
thuế VAT, khai thấp lợi nhuận để trốn thuế doanh nghiệp.
3. Khuyến nghị
Đối với thành phần kinh tế nhà nước
Đổi mới cơ chế, chính sách để doanh nghiệp nhà nước thật sự vận hành theo cơ
chế thị trường. Xác định và xử lý hài hoà mối quan hệ nhà nước, thị trường và xã hội.
Bảo đảm quyền tự chủ hoạt động của doanh nghiệp theo nguyên tắc thị trường. Doanh
nghiệp nhà nước phải tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh bình đẳng với doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Nhà nước thực hiện đầy đủ trách nhiệm của
chủ sở hữu, thực sự đóng vai trò là nhà đầu tư, chủ sở hữu bình đẳng với các nhà đầu
tư khác trong doanh nghiệp. Xóa bỏ các cơ chế can thiệp hành chính trực tiếp, bao cấp
dành cho khu vực này. Tách bạch nhiệm vụ kinh doanh với nhiệm vụ công ích và
nhiệm vụ chính trị, xã hội do Nhà nước giao. Quan hệ kinh tế, tài chính giữa Nhà nước
và doanh nghiệp nhà nước, nhất là các quyền và nghĩa vụ của nhà nước phải được thực
hiện sòng phẳng, đầy đủ, minh bạch theo quy định của pháp luật, phù hợp với cơ chế thị trường. 15
Cần nâng cao chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh. Đẩy mạnh cơ cấu lại
doanh nghiệp nhà nước theo hướng kiên quyết cổ phần hóa, bán vốn tại những doanh
nghiệp mà nhà nước không cần nắm hoặc không cần giữ cổ phần, vốn góp chi phối (kể
cả những doanh nghiệp đang kinh doanh có hiệu quả); tăng cường quy mô, năng lực
tài chính lành mạnh, nâng cao trình độ công nghệ, năng lực đổi mới sáng tạo. Tập
trung xử lý nhanh, dứt điểm các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, các dự án,
công trình đầu tư của những doanh nghiệp kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài, kể cả áp
dụng biện pháp phá sản.
Thêm vào đó, phải đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống quản trị
và nâng cao năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước.
Hiện đại hoá hệ thống công nghệ, tận dụng cơ hội của Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư. Áp dụng các chuẩn mực quốc tế về quản trị doanh nghiệp. Bảo đảm tính minh
bạch, công khai của doanh nghiệp và trách nhiệm giải trình của người quản lý cùng cơ
quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước. Xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ
lãnh đạo của doanh nghiệp nhà nước ngang tầm nhiệm vụ. Thiết lập các hệ thống quản
trị, kiểm soát nội bộ có hiệu quả trong việc kiểm soát quyền lực, phòng ngừa, phát
hiện, ngăn chặn và xử lý các rủi ro, hành vi tiêu cực, tham nhũng, vi phạm pháp luật,
xung đột lợi ích. Thực hiện chế độ tiền lương, tiền thưởng, thù lao của người lao động
và người quản lý phù hợp với cơ chế thị trường.
Thứ tư, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý doanh nghiệp nhà nước. Hoàn thiện
mô hình quản lý doanh nghiệp và vốn, tài sản của nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp.
Rà soát, hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách về khu vực nhà nước, đặc
biệt là các cơ chế, chính sách về tập đoàn kinh tế, quản lý vốn, tài sản nhà nước tại
doanh nghiệp. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm
toán, giám sát đối với doanh nghiệp nhà nước.
Cuối cùng, phải phát triển một số tập đoàn kinh tế nhà nước có quy mô lớn, hoạt
động hiệu quả, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh
vực then chốt của nền kinh tế.
Đối với thành phần kinh tế tư nhân
Việt Nam cần tiếp tục cải cách cơ cấu và pháp luật mạnh mẽ hơn nữa để tạo nền
tảng vững chắc hơn cho cạnh tranh và đổi mới trong nền kinh tế, từ đó thúc đẩy sự
phát triển hơn nữa của khu vực tư nhân trong lộ trình chuyển dịch sang một mô trình
tăng trưởng kinh tế cac-bon thấp do khu vực kinh tế tư nhân dẫn dắt để đạt mục tiêu
trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045. Việt Nam cần phải tiếp tục đẩy
mạnh cải cách để tạo điều kiện cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển và dẫn dắt nền
kinh tế dịch chuyển sang lộ trình tăng trưởng dựa trên đổi mới sáng tạo, chất lượng cao, bền vững.
Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng
tạo và chuyển đổi số; đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận
dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với quá trình 16
hội nhập quốc tế để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, xã hội số; nâng cao
năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh.
Thực hiện phân bổ nguồn lực phát triển hiệu quả, đảm bảo cho kinh tế tư nhân
được tiếp cận bình đẳng đến các nguồn lực phát triển.
Khuyến khích và hỗ trợ phát triển khu vực kinh tế tư nhân, đặc biệt chú trọng đến
hai đối tượng doanh nghiệp khởi nghiệp và doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để các hộ kinh doanh tự nguyện liên kết
hình thành các hình thức tổ chức hợp tác hoặc hoạt động theo mô hình doanh nghiệp.
Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu, tham gia góp vốn,
mua cổ phần của các doanh nghiệp nhà nước khi cổ phần hóa hoặc nhà nước thoái
vốn. Thúc đẩy phát triển mọi hình thức liên kết sản xuất, kinh doanh, cung cấp hàng
hóa, dịch vụ theo mạng sản xuất, chuỗi giá trị thị trường giữa kinh tế tư nhân với kinh
tế nhà nước, kinh tế tập thể và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhằm tiếp
nhận, chuyển giao, tạo sự lan tỏa rộng rãi về công nghệ tiên tiến và quản trị hiện đại,
nâng cao giá trị gia tăng và mở rộng thị trường tiêu thụ.
Đối với thành phần kinh tế tập thể
Xác định kinh tế tập thể, nòng cốt là hợp tác xã, là một trong những thành phần
kinh tế quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta;
đặt mục tiêu phát triển kinh tế tập thể năng động, hiệu quả, bền vững, thực sự là thành
phần quan trọng trong nền kinh tế với nhiều mô hình liên kết, hợp tác trên cơ sở tôn
trọng bản chất, các giá trị và nguyên tắc của kinh tế tập thể, thu hút nông dân, hộ kinh
tế cá thể, cá nhân và nhiều tổ chức tham gia kinh tế tập thể, hợp tác xã. Không ngừng
nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của các thành viên, góp phần thực hiện tiến
bộ, công bằng xã hội và thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững đất nước. Phát triển kinh
tế tập thể nhanh và bền vững, bảo đảm nguyên tắc tự nguyện, xuất phát từ nhu cầu, lợi
ích của người dân và tổ chức tham gia với nhiều hình thức liên kết, hợp tác đa dạng,
phát huy tối đa lợi thế các vùng, miền. Phát triển hài hòa giữa kinh tế với văn hóa, xã
hội, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu; phù hợp với điều kiện, đặc
điểm, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương và của cả nước.
Cần tiếp tục rà soát, nghiên cứu hoàn thiện cơ chế, chính sách về phát triển kinh
tế tập thể, hợp tác xã nhằm phát triển kinh tế tập thể nhanh và bền vững, bảo đảm
nguyên tắc tự nguyện, xuất phát từ nhu cầu, lợi ích của người dân và tổ chức tham. Rà
soát, hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc,
tạo điều kiện để kinh tế tập thể, hợp tác xã phát triển bền vững phù hợp với tình hình
thực tế của Việt Nam trong mỗi giai đoạn phát triển. Có chính sách khuyến khích phát
triển mô hình hợp tác xã tại các tỉnh miền núi có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.
Nghiên cứu, đề xuất giải pháp hoàn thiện các quy định còn bất cập tại Luật Hợp tác xã
năm 2012 theo hướng đơn giản hóa các thủ tục hành chính trong thành lập, đăng ký và giải thể hợp tác xã... 17
Sử dụng hiệu quả nguồn vốn ngân sách nhà nước cấp cho Quỹ Hỗ trợ phát triển
hợp tác xã; nghiên cứu, đề xuất đổi mới mô hình Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã của
Liên minh Hợp tác xã Việt Nam để tăng khả năng huy động nguồn lực từ thị trường.
Huy động mọi nguồn lực cho phát triển hợp tác xã. Ưu tiên bố trí các nguồn lực để hỗ
trợ, khuyến khích, tạo điều kiện cho các hợp tác xã tham gia liên kết sản xuất theo
chuỗi giá trị và ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất; gắn kết chặt chẽ hơn việc liên
kết giữa doanh nghiệp và hợp tác xã theo hợp đồng.
Ưu tiên đầu tư cho hoạt động chế biến, bảo quản nông sản sau thu hoạch để nâng
cao chất lượng sản phẩm. Xây dựng một số mô hình điểm, mang tính đột phá để nhân
rộng. Đẩy mạnh hỗ trợ xây dựng các mô hình hợp tác xã, tổ hợp tác liên kết sản xuất,
chế biến, tiêu thụ nông, lâm, thủy sản hàng hóa theo chuỗi giá trị và ứng dụng công
nghệ cao ở những vùng sản xuất hàng hóa tập trung; các xã có sản phẩm chủ lực mang lợi thế cạnh tranh.
Đổi mới phương thức sản xuất, kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh, hiệu quả
hoạt động của kinh tế tập thể, hợp tác xã. Phát huy vai trò tự chủ, tự chịu trách nhiệm,
bảo vệ lợi ích của thành viên trong hợp tác xã; vận động hợp tác xã thu hút thêm thành
viên mới; quan tâm phát triển cả hợp tác xã nông nghiệp và phi nông nghiệp; tháo gỡ
những rào cản, vướng mắc nhằm nâng cao khả năng huy động và tiếp cận nguồn lực
cho các hợp tác xã. Phối hợp chặt chẽ với cơ quan quản lý nhà nước thực hiện giải thể
các hợp tác xã ngừng hoạt động hoặc hoạt động kém hiệu quả kéo dài không có khả
năng củng cố, tổ chức lại. Khuyến khích mở rộng quy mô, số lượng thành viên, tỷ lệ
vốn góp của thành viên, tài sản chung không chia.
Cần xác định rõ phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã là nội hàm của cơ cấu lại
nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. Hợp tác xã chính là liên kết của các hộ nông
dân, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã không làm mất đi vai trò của kinh tế hộ mà
còn nâng đỡ, phát huy sức mạnh cho kinh tế hộ phát triển, là nội hàm của cơ cấu lại
nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. Theo đó, tăng cường năng lực quản trị hợp tác
xã theo hướng công khai, minh bạch thông qua các chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà
nước; bồi dưỡng, nâng cao trình độ, năng lực quản lý, kinh tế, thương mại, công nghệ
cho thành viên, những người tham gia kinh tế tập thể, hợp tác xã.
Đồng thời, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, nghiệp vụ cho cán bộ, nhân
viên và người lao động trong hợp tác xã, nhất là cán bộ quản lý hợp tác xã trên cơ sở
đổi mới phương thức hoạt động. Phối hợp liên kết, hợp tác đào tạo với các trường trực
thuộc Liên minh Hợp tác xã Việt Nam để đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ quản lý hợp
tác xã và đào tạo nghề cho thành viên phù hợp với tình hình mới. Tiếp tục thực hiện
chính sách đưa cán bộ trẻ tốt nghiệp đại học, cao đẳng về làm việc có thời hạn tại hợp
tác xã nông nghiệp, trên các địa bàn; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, tham quan học tập
kinh nghiệm cho cán bộ hợp tác xã và cán bộ quản lý nhà nước về hợp tác xã. Đổi mới
và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, năng lực hoạt động để tham gia thực hiện có
hiệu quả các chương trình, dự án, dịch vụ công và một số nhiệm vụ khác do Chính 18
phủ, bộ, ngành, địa phương giao theo quy định của pháp luật và phù hợp với tình hình thực tiễn.
Tăng cường tuyên truyền nâng cao nhận thức về kinh tế tập thể, hợp tác xã. Để
làm tốt nội dung này cần tiếp tục vận động, tuyên truyền về vị trí, vai trò và tầm quan
trọng của hợp tác xã trong bối cảnh mới; xác định rõ phát triển kinh tế tập thể, hợp tác
xã là xu thế tất yếu và coi đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng, thường xuyên của các
bộ, ngành, địa phương. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy; nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với kinh tế hợp tác xã. Tiếp tục đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, phổ biến quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của nhà nước về kinh tế tập thể.
Liên minh hợp tác xã các cấp chủ động nghiên cứu, phối hợp với các bộ, ngành,
địa phương tham mưu, đề xuất và triển khai có hiệu quả các chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã; đẩy mạnh
tuyên truyền, đào tạo, cung ứng dịch vụ; tư vấn hỗ trợ tổ chức lại, thành lập mới hợp
tác xã, xây dựng nhiều hợp tác xã sản xuất gắn với chuỗi giá trị, nhất là chuỗi giá trị
nông sản. Với phương châm “Hợp tác - Đổi mới - Phát triển - Hiệu quả” và mục tiêu
phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã nhanh, hiệu quả và bền vững, liên minh hợp tác xã
các cấp với vai trò nòng cốt trong phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã, là tổ chức đại
diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên.
Đối với thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Việt Nam chủ trương thu hút, hợp tác đầu tư có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu
quả, công nghệ và bảo vệ môi trường là tiêu chí đánh giá chủ yếu. Đồng thời, ưu tiên
thu hút các dự án thuộc lĩnh vực công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, nghiên cứu phát
triển; tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị; thúc đẩy
kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và đóng góp tích cực vào sự phát triển bền vững.
Nhanh chóng khắc phục các chồng chéo của hệ thống luật pháp, chính sách hiện
hành liên quan đến đầu tư nước ngoài; tiếp tục hoàn thiện thủ tục hành chính “một
cửa” nhằm xử lý được nhanh các nhu cầu phát triển, các vướng mắc phát sinh của các
doanh nghiệp FDI trong quá trình sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam.
Về dài hạn cần xây dựng chiến lược xúc tiến đầu tư dựa trên quy hoạch phát triển
FDI trong tổng thể quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Cùng với đó là đẩy nhanh
công tác đào tạo, nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ xúc tiến đầu tư từ trung ương đến các địa phương.
Cùng với việc hoàn thiện thể chế, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho
FDI cũng là yêu cầu quan trọng. Đã đến lúc Việt Nam cần có chiến lược về lao động
để tối đa hóa những lợi ích từ nguồn vốn FDI, đặc biệt là đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao để có thể tiếp thu được công nghệ cao. Hệ thống giáo dục nghề nghiệp cần
tiếp tục được đổi mới mạnh mẽ theo hướng tăng cường tự chủ, nâng cao chất lượng 19
đào tạo bám sát xu hướng cách mạng công nghiệp 4.0, gắn đào tạo với nhu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp. 20 TỔNG KẾT
Tổng kết lại, ta có thể thấy chủ tịch Hồ Chí Minh đã có quan điểm vô cùng sáng
suốt và đúng đắn về cơ cấu thành phần kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ lên xã hội
chủ nghĩa. Trên cơ sở lý luận của V.I.Lênin và thực tiễn hoàn cảnh của Việt Nam,
Người đã nhận thức được từng thành phần đặc thù và vai trò, vị trí của chúng trong
công cuộc xây dựng xã hội mới và phát triển nền kinh tế.
Từ tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng cộng sản Việt Nam đã đưa ra sự phân loại cũng
như các chính sách phát triển hợp lí cho từng thành phần kinh tế. Qua các kỳ Đại hội,
đến nay, Đảng đã xác định được bốn thành phần trong nền kinh tế, bao gồm: kinh tế
nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể, và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Những
Nghị quyết, chính sách phát triển cho từng thành phần kinh tế đã mang lại những hiệu
quả tích cực cho cả nền kinh tế nói chung và từng khu vực nói riêng. Tuy nhiên, không
thể phủ nhận rằng còn có những hạn chế nhất định cần phải khắc phục để đạt được các
mục tiêu dài hạn được đề ra trong tương lai. Những vấn đề này yêu cầu cần có các giải
pháp hiệu quả để có thể giải quyết một cách tối ưu.
Một trong những biện pháp cần thiết nhất là phát triển nguồn nhân lực. Hệ thống
giáo dục cần bám sát thực tiễn để có thể đào tạo ra những con người có năng lực và
phẩm chất cần thiết để phát triển một cách phù hợp, có hệ thống từng thành phần của
nền kinh tế. Cần tìm ra những lỗ hổng để bù đắp và tạo sự liên kết chặt chẽ giữa giáo
dục với nền kinh tế, từ đó đảm bảo chất lượng lao động để đáp ứng nhu cầu phát triển
của đất nước trong hiện tại và tương lai. 21 TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam – Tư liệu văn kiện Đảng
2. Tổng cục thống kê – Báo cáo tình hình kinh tế xã hội quý III và 9 tháng năm 2022
3. Trang thông tin điện tử CafeF
4. “Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về những thành phần kinh tế trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta” – Thạc sĩ
Trần Hữu Hòa, trường chính trị Lê Duẩn
5. Tạp chí Quốc phòng toàn dân – “Không thể phủ nhận vai trò của kinh tế nhà
nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta”
6. Cổng thông tin điện tử Bộ Tài chính – “Kinh tế tư nhân – Động lực tăng trưởng kinh tế Việt Nam”
7. Tạp chí Tài chính – “Để khu vực kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân khẳng định
vai trò trong nền kinh tế”; “Thực trạng và giải pháp phát triển thành phần kinh tế tư nhân”
8. Tạp chí Cộng sản – “Phát triển kinh tế tập thể và hợp tác xã: Con đường của
thế giới và nhu cầu tất yếu với Việt Nam 9.
Thời báo Tài chính Việt Nam – “Hợp tác đầu tư nước ngoài giai đoạn 2022 -
2030: Hạn chế mặt trái của đồng tiền FDI” 22