Bài tập lớn học phần tư tưởng Hồ Chí Minh| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

 TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
--------



--------
BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI: Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “ Nước độc
lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với
Việt Nam hiện nay
Họ và tên: Nguyễn Thị Minh Thuý
Mã SV: 11226211
Lớp: 07
GVHD: Nguyễn Hồng Sơn
Hà Nội, 10/2023
LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử Việt Nam là lịch sử không ngừng đấu tranh trong suốt quá trình
dựng nước và giữ nước. Tinh thần yêu nước là cội nguồn sức mạnh của dân
tộc Việt Nam. Đối với người dân mất nước, cái quý nhất trên đời là độc lập
của Tổ quốc, tự do của nhân dân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, độc lập dân
tộc bao gồm cả nội dung dân tộc và dân chủ, độc lập dân tộc phải gắn với
hạnh phúc và tự do của nhân dân, đồng thời, tự do và hạnh phúc của nhân dân
cũng chính là giá trị sâu sắc của độc tập dân tộc. Điều đó được Người khái
quát thành chân lý sâu sắc: “Nếu nước độc lập mà người dân không được
hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì.”
Hiện nay, Việt Nam đang trải qua một giai đoạn đầy thách thức và cơ hội.
Với tốc độ phát triển kinh tế và xã hội đáng kinh ngạc, nước này đã thu hút sự
chú ý của thế giới. Tuy nhiên, câu hỏi cơ bản về mức độ mà độc lập đã mang
lại lợi ích cho người dân vẫn còn tồn tại. Điều này đòi hỏi chúng ta phải đánh
giá tỷ lệ tự do, công bằng và cơ hội của người dân trong xã hội hiện tại, và
liệu họ có được đảm bảo về quyền tự do và hạnh phúc hay không. Việc này là
quan trọng để xác định xem liệu độc lập thực sự có ý nghĩa đối với cuộc sống
của nhân dân và cách thức mà nó đóng góp vào sự phát triển bền vững của
quốc gia.
Trong bài tiểu luận này, chúng tôi sẽ tìm hiểu và phân tích sâu hơn về luận
điểm quan trọng của Hồ Chí Minh và áp dụng nó vào ngày nay. Chúng ta sẽ
thảo luận về cách mà mối quan hệ giữa độc lập, hạnh phúc và tự do đang
được thể hiện trong hiện tại và tương lai của Việt Nam. Bài viết sẽ đánh giá
những thách thức và cơ hội, và cung cấp những gợi ý về cách đảm bảo rằng
độc lập thực sự mang lại giá trị cho người dân và quốc gia.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................................2
MỤC LỤC................................................................................................................3
NỘI DUNG...............................................................................................................4
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.4
1. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với tiến lên chủ nghĩa xã hội..............4
2. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội trong quá trình cách mạng Việt Nam......................................................5
3. Sự thể hiện trên thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội..................................................................................6
II. Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh.....................................................7
1. Giải thích một số khái niệm cơ bản............................................................7
2. Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm và hạnh phúc
của nhân dân....................................................................................................8
III. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay.................................10
1. Sự cần thiết của vận dụng luận điểm vào Việt Nam hiện nay................10
2. Thực trạng việc vận dụng luận điểm của Hồ Chí Minh.........................11
3. Giải pháp....................................................................................................17
PHẦN KẾT LUẬN................................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................19
NỘI DUNG
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội
1. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với tiến lên chủ nghĩa xã hội
Theo Hồ Chí Minh độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là cơ sở
tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo Người, con đường cách mạng Việt
Nam có hai giai đoạn: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Cách mạng dân tộc dân chủ có hai nhiệm vụ chiến lược cơ bản,
trong đó giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ dân chủ được
thực hiện tiến trình từng bước và phục tùng nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Vì
thế, ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ thì độc lập dân tộc là mục tiêu
trực tiếp, trước mắt, cấp bách.
Độc lập dân tộc là khát vọng mang tính phổ biến với toàn nhân loại. Với
dân tộc Việt Nam, đó còn là một giá trị thiêng liêng, được bảo vệ và giữ gìn
bởi máu xương, sức lực của biết bao thế hệ người Việt Nam. Với Hồ Chí
Minh, độc lập dân tộc bao hàm trong đó cả nội dung dân tộc và dân chủ. Đó
là nền độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, chứ không phải là thứ độc lập giả
hiệu, độc lập nửa vời, độc lập hình thức. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc
lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
đất nước, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn với tự do, dân chủ, ấm no hạnh
phúc của nhân dân lao động.
Khi nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh không bao giờ coi
đó là mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, giành độc lập để đi tới xã hội cộng sản; độc lập dân tộc phải gắn liền
với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là mục tiêu cốt yếu, trực tiếp của cách
mạng dân tộc dân chủ, là mục tiêu trước hết của quá trình cách mạng Việt
Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo, đồng thời là điều kiện hàng đầu, quyết định
để cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang giai đoạn kế tiếp - cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, cách mạng dân tộc dân chủ càng triệt để thì
những điều kiện tiến lên chủ nghĩa xã hội càng được tạo ra đầy đủ. Độc lập
dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân lao động tự quyết định con đường
đi tới chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là con đường củng cố vững chắc độc
lập dân tộc, giải phóng dân tộc một cách hoàn toàn triệt để. Độc lập dân tộc
bao giờ cũng gắn liền với đời sống ấm no, hạnh phúc của quần chúng nhân
dân, những người đã trực tiếp làm nên thắng lợi của cách mạng dân tộc dân
chủ. Người khẳng định "Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng triệt để các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ; chỉ có cách mạng xã hội
chủ nghĩa mới bảo đảm cho một nền độc lập thật sự, chân chính".
2. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội trong quá trình cách mạng Việt Nam
Hồ Chí Minh khẳng định, xác lập, tăng cường vai trò lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng Cộng sản là điều kiện cơ bản để độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội. Không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì cách mạng
Việt Nam không thể vận động theo cách mạng vô sản và chắc chắn sự nghiệp
độc lập dân tộc sẽ đi theo vết xe đổ của các phong trào cứu nước trước đó.
Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
mang tính khách quan. Để hoàn thành sứ mệnh của mình, Đảng phải trong
sạch, vững mạnh và thường xuyên chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu, đủ trí tuệ, đủ bản lĩnh vượt qua những thử thách gay gắt nhất,
phải thực hiện xây dựng Đảng về các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, trong
đó công tác cán bộ bao giờ cũng là vấn đề cốt tử. Đảng phải xây dựng, củng
cố và tăng cường khối liên minh giai cấp công nhân, nông dân và trí thức làm
nền tảng khối đại đoàn kết dân tộc. Người xác định công - nông là gốc, là chủ
lực của cách mạng, các giai tầng, cá nhân yêu nước là bầu bạn của cách mạng.
Tất cả được tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận được xây
dựng theo tư tưởng Hồ Chí Minh có hạt nhân cốt lõi là liên minh công - nông
và trí thức để đoàn kết toàn dân thành một khối. Hạt nhân và toàn dân là mối
quan hệ biện chứng được Hồ Chí Minh quan tâm đúng mức cả hai, không coi
nhẹ hoặc thiên lệch bên nào. Mặt trận đó được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh chỉ rõ cách mạng Việt Nam là một bộ phận và có liên hệ chặt
chẽ với cách mạng thế giới. Như vậy, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội là một tất yếu khách quan. Tính tất yếu đó chỉ được hiện thực hoá khi
gắn liền với những điều kiện bảo đảm, trong đó yếu tố quan trọng nhất là xác
lập và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
3. Sự thể hiện trên thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ra
đời và phát triển ở thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi thế giới. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội được thể hiện trên thực tiễn cách mạng Việt Nam qua ba thời
kỳ:
Thời kỳ 1930-1945: Hồ Chí Minh xác định tính chất cách mạng Việt Nam
là con đường cách mạng vô sản, gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai
cấp, nhân dân lao động, với toàn thể dân tộc bị nô lệ dưới ách đế quốc Pháp
và tay sai của chúng.
Thời kỳ 1945-1954: Thời kỳ bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng những cơ
sở đầu tiên của chủ nghĩa xã hội, thực hiện "kháng chiến và kiến quốc".
Thời kỳ 1954-1975: Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn thiện, bổ sung, phát triển
tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới.
Sau năm 1975, Đảng ta tiếp tục vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh
về độc lập dân tộc gắn liền với chỉ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh của Việt Nam. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV - Đại hội thống nhất
Tổ quốc, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội đã khẳng định: "Trong quá trình
lãnh đạo cách mạng, khi cả nước làm một nhiệm vụ chiến lược hoặc làm hai
nhiệm vụ chiến lược, Đảng ta từ khi ra đời đến nay vẫn luôn luôn giương cao
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đó là đường lối, là sức mạnh, là
nguồn gốc mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam". Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII thông qua đã
khẳng định trong thời kỳ đổi mới: "Toàn Đảng, toàn dân tiếp tục nắm vững
ngọn cờ độc lập, dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ vinh quang mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và thế hệ mai sau”
Trong 91 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhờ xác định rõ nô |i dung và
cụ thể hóa mục tiêu về đô |c lâ |p dân tô |c và chủ nghĩa xã hô |i theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, Đảng đã lãnh đạo đất nước vượt qua những khó khăn, thử thách và
đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Hiện tại, dù còn nhiều khó
khăn, nhưng Ðảng ta vẫn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, vì đó là con đường đúng đắn, là quy luật và xu thế phát triển tất yếu của
thời đại; là điều kiện bảo đảm để dân tộc thực sự độc lập, nhân dân có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc; mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh trở thành hiện thực.
II. Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh
1. Giải thích một số khái niệm cơ bản
Độc lập, nghĩa hẹp nhất là “tự mình tồn tại, không nương tựa, không phụ
thuộc ai khác” (Từ điển Tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên). Rộng hơn, đó là
trạng thái của một nước hoặc một dân tộc có chủ quyền về chính trị, không
phụ thuộc vào nước khác hoặc dân tộc khác. Tự do là một khái niệm vốn có
rất nhiều định nghĩa, khái niệm này luôn không ngừng vận động và chứa dựng
thêm nhiều nội dung mới hơn. Có thể hiểu, tự do cho một dân tộc là đất nước
được độc lập, nhà nước có chủ quyền và có quyền tự do phát ngôn, hoạt động
trên trường quốc tế. Tự do với từng cá nhân là quyền tự nhiên của con người,
trong đó con người được phát triển hết năng lực vốn có của mình.
Độc lập, tự do là những phạm trù nền tảng của việc hình thành một quốc
gia mà ở đó con người tìm kiếm được đời sống thông thường của mình, đời
sống phát triển của mình và đời sống hạnh phúc của mình. Còn hạnh phúc là
một trạng thái cảm xúc của con người khi được thỏa mãn một nhu cầu nào đó
mang tính trừu tượng. Hạnh phúc là một cảm xúc bậc cao. Ở con người, nó
mang tính nhân bản sâu sắc và thường chịu tác động của lý trí. Hạnh phúc gắn
liền với quan niệm về niềm vui trong cuộc sống.
2. Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm và hạnh phúc
của nhân dân
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn với tự do, hạnh phúc của
nhân dân. Người đánh giá cao học thuyết tam dân của Tôn Trung Sơn: dân tộc
độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc. Cách mạng Tháng Tám năm
1945 thành công, dân tộc vừa thoát khỏi ách ngoại xâm, nước nhà được độc
lập, Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định độc lập phải gắn với tự do. Người đã
xác định công việc chăm lo đời sống cho nhân dân, khắc phục hậu quả của
chế độ thực dân, phong kiên, đói nghèo cùng kiệt quệ sức người, vơ vét cạn
kiệt tài nguyên, vật lực để phục vụ cuộc chiến tranh đế quốc.
Trong bối cảnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định từng công việc cụ thể,
từng bước đi thích hợp; đã đưa ra mục tiêu phấn đấu để nhân dân thoát nạn
bần cùng, mọi người có việc làm, đời sống ấm no và hạnh phúc. Người đã
viết thư gửi đồng bào toàn quốc kêu gọi ra sức cứu đói, chồng nạn đói, “coi
cuộc chống nạn đói cũng như cuộc chống ngoại xâm”. Người đã đề nghị Hội
đồng Chính phủ phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất và mở cuộc
quyên góp cứu đói.
Trong lúc tăng gia sản xuất chưa đến ngày thu hoạch, công việc khẩn cấp
là phát huy truyền thống tương thân tương ái, đùm bọc nhau. Người khởi
xướng phong trào “Hũ gạo cứu đói” và gương mẫu thực hiện. Phong trào
được thực hiện sâu rộng, chỉ trong một thời gian ngắn, nhân dân cả nước đã
quyên góp được một lượng lớn gạo cứu đói và nạn đói đã sớm được khắc
phục.
Quan điểm về chăm lo cuộc sống âm no, hạnh phúc cho nhân dân được
hun đúc trong Lời kêu gọi của Người: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Đây là lời kêu gọi toàn dân đứng lên đánh giặc ngoại xâm trong bối cảnh cách
mạng đứng trước thách thức lớn khi đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh, đưa
quân Mỹ vào miền Nam và đánh phá ra miền Bắc.
Với quan điểm đó, ngay sau khi giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đặc biệt chú trọng nhiệm vụ diệt giặc dốt và giáo dục nhân dân. Thực
hiện lời kêu gọi diệt giặc dốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào bình dân
học vụ được triển khai sâu rộng trong toàn quốc: “Những người đã biết chữ
hãy dạy cho những người chưa biết chữ,... Vợ chưa biết thì chồng bảo,... cha
mẹ không biết thì con bảo”. Học chữ trở thành phong trào rộng lớn chưa từng
có, lôi cuốn đông đảo nhân dân thuộc các giới, lứa tuổi khắp nơi trên cả nước
tích cực tham gia.
Kết quả là, chỉ trong một thời gian ngắn, cả nước có hơn hai triệu người
biết đọc, biết viết. Bên cạnh đó, công tác văn hóa, giáo dục cũng được chính
quyền mới đặc biệt quan tâm đẩy mạnh và đạt được nhiều kết quả tích cực.
Phong trào đời sống mới đã xóa bỏ những tệ nạn, hủ tục lạc hâu, tàn dư chế
độ cũ, nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí, bồi dưỡng tinh thần, ý thức công
dân của người dân một nước độc lập. Lòng dân quy tụ về một mối, đoàn kết
toàn dân tộc trở thành sức mạnh vô biên, đánh đuổi kẻ thù xâm lược.
Ngay sau khi cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
ký Sắc lệnh về Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội lập hiến, thông qua Hiến pháp,
khẳng định quyền làm chủ đất nước và các quyền tự do, dân chủ khác của
nhân dân. Đồng thời, Người xây dựng và chấn chỉnh bộ máy chính quyền các
cấp, bảo đảm là hạt nhân chính trị chế độ xã hội mới với bản chất tốt đẹp.
Như vậy, độc lập dân tộc và CNXH hay độc lập dân tộc với tự do, ấm no,
hạnh phúc cho nhân dân là tư tưởng xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngày nay, Đảng ta thể hiện quan điểm đó ở mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây là thước đo sự thành công của công cuộc
xây dựng CNXH trong thực tế
Trong những năm qua, đặc biệt là trong hơn 30 năm đổi mới, các chủ
trương chính sách về phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước luôn
hướng tới đem lại hạnh phúc cho con người, bảo đảm sự ổn định và phát triển
bền vững. Điển hình là công cuộc xóa đói giảm nghèo của nước ta đã đạt
được những thành tựu to lớn. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm mạnh từ 59% năm 1993
(theo chuẩn nghèo cũ) xuống còn 3,0% năm 2016 (theo chuẩn nghèo mới giai
đoạn 2011-2015). GDP trên đầu người đã vượt qua mức thu nhập trung bình
thấp (2.215 USD/ người/ năm) vào năm 2016.
Nơi nào người dân còn đói nghèo, cuộc sống chưa được no ấm, nơi nào
dân còn chưa được hạnh phúc, nơi nào còn để nhân dân phải lo cái ăn, cái
mặc và nơi nào chưa bảo đảm được y tế, chăm sóc sức khỏe, giáo dục và nhà
ở thì nơi đó tổ chức Đảng và chính quyền chưa hoàn thành tốt chức trách và
nhiệm vụ của mình trước nhân dân. Cần có biện pháp kiểm tra, kiểm soát và
có hình thức kỷ luật nghiêm những nơi, những địa phương không hoàn thành
nhiệm vụ đó. Chỉ có như vậy, đất nước Việt Nam mới trở nên giàu mạnh và
phồn vinh, nhân dân thực sự được ấm no, hạnh phúc.
III. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay
1. Sự cần thiết của vận dụng luận điểm vào Việt Nam hiện nay
Trước tiên, chúng ta có thể nhận thây rõ vai trò quan trọng của việc coi
trọng vấn đề độc lập dân tộc phải gắn liên tự do, cơm no, áo âm và hạnh phúc
của nhân dân trong thực tiến cách mạng nước ta.
Tiếp theo, chúng ta mới nhắc đến vai trò quan trọng của việc vận dụng
quan điểm Hồ Chí Minh: “ Nước độc lập mà người dân không được hưởng
hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” vào bối cảnh hiện nay.
Ngày nay thì các thế lực thù địch quốc tế và những kẻ phản động tay sai trong
nước dùng mọi thủ đoạn, lợi dụng toàn cầu hóa nhằm phá hoại con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong hoàn cảnh đó thì tư tưởng vê độc lập
dân tộc phải gắn liên tự do, cơm no, áo âm và hạnh phúc của nhân dân của Hồ
Chí Minh vẫn là chân lí của thời đại. Do đó mỗi chúng ta càng phải đề cao
cảnh giác, đồng thời phát huy thế mạnh của đất nước để có thể tham gia vào
quá trình toàn cầu hóa, phát triển kinh tế xã hội mà vẫn giữ được độc lập chủ
quyền dân tộc, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Qua
đó xác định mục tiêu phát triển đất nước với những chính sách xây dựng kinh
tế xã hội đúng đắn, giữ vững độc lập chủ quyền, đưa nước ta trở thành quốc
gia ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế, ngày càng có vị thế trên trường
châu lục và quốc tế.
Mặt khác thì hiện nay những cuộc nội chiến diễn ra đã khiến cho người
dân không nơi nương tựa, phải chạy trốn khỏi đất nước nơi mình sinh ra. một
số quốc gia khác dù đã có độc lập nhưng vẫn luôn bất ổn bởi sự cạnh tranh
giữa các lực lượng, các đảng phái, phe nhóm chính trị, người dân cũng không
được hưởng cuộc sống yên bình. Thực tế đó chính là cơ sở để chúng ta tin
rằng sự lựa chọn con đường của chủ tịch Hồ Chí Minh là dúng đắn. Đó cũng
là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh, xuyên suốt đường lối và thực
tiễn cách mạng Việt Nam.
2. Thực trạng việc vận dụng luận điểm của Hồ Chí Minh
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn đi lên CNXH ở nước ta giai
đoạn hiện nay, Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định:
Trước tình hình hiện nay, mặc dù CNXH đang ở vào giai đoạn thoái trào
tuy nhiên CNXH vẫn là sự phát triển tất yếu của lịch sử xã hội loài người và
sự lựa chọn đi theo con đườg XHCN của Hồ Chí Minh và nhân dân là sự lựa
chọn duy nhất đúng đắn. Đất nước đang đứng trước những thử thách lớn lao
của thời đại, hoàn cảnh lịch sử đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải kiên định
con đường mục tiêu của mình và phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động .
Với sự soi đường của tư tưởng HCM, Đảng đã xác định cụ thể những bước
đi như sau : Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa,
nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế
độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học công nghệ, để phát triển nhanh lực
lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Ngày nay, để giữ vững độc lập
dân tộc trong xây dựng CNXH giai đoạn hiện nay là bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ,
giữ vững định hướng XHCN, tự chủ về kinh tế và giữ gìn phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc. Nhân tố quyết định và đảm bảo cho sự phát triển đất nước
đúng định hướng đó là tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý hiệu
quả của Nhà nước, sự đoàn kết thống nhất của các tổ chức chính trị và đội ngũ
cán bộ đảng viên.
Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính
sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó
chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo;
kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc. Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất -
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực
lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp
trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối.
Tóm lại, tư tưởng HCM về CNXH về con đường quá độ lên CNXH ở VN
thực sự là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho sự nghiệp đổi mới của chúng
ta hiện nay. Vấn đề là phải tiếp tục làm quá triệt những tư tưởng ấy trong cơ
chế, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước. Trong tổ chức và hành
động của mỗi cán bộ, Đảng viên, chỉ có bằng hiệu quả thực tế trong đổi mới
KT và chính trị, đem lại sự cải thiện vật chất và tinh thần cho nhân dân, chúng
ta mới củng cố được trong quần chúng niềm tin mà HCM đã khẳng định :”
con đường tiến tới của CNXH của các dân tộc là con đường chung của thời
đại, của lịch sử, không ai ngăn cản nổi”
2.1. Những thành tựu
Trong những xu thế lớn trên thế giới hiện nay thì hòa bình, đô |c lâ |p dân
|c, dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế lớn và tạo cơ hội cho Việt Nam
mở rộng hợp tác, tập hợp lực lượng tiến bộ vì hòa bình, dân chủ và chủ nghĩa
xã hội. Xu thế hướng đến hòa bình và phát triển thúc đẩy các quốc gia xích lại
gần nhau, cùng nhau hợp tác nhằm tìm kiếm những cơ chế kiểm soát, kiềm
chế xung đột, giảm thiểu nguy cơ chiến tranh. Vì vậy, vấn đề quan trọng đặt
ra hiện nay chính là việc nhận thức sâu sắc và tận dụng có hiệu quả những
thời cơ ấy trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, giữ vững
hòa bình và ổn định để phát triển, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của các lực
lượng tiến bộ vì hòa bình, dân chủ trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Do tác động mang tính hai mặt, nên toàn cầu hóa không chỉ đặt ra những
thách thức, nguy cơ mà còn tạo ra những cơ hội lớn để các nước xã hội chủ
nghĩa thực hiện chiến lược “hội nhập” vào nền kinh tế thế giới, qua đó, một
mặt, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội ở trong nước; mặt khác, thông
qua hợp tác quốc tế mà tranh thủ được các nguồn vốn đầu tư, khoa học công
nghệ và quản lý từ các nước phát triển.
Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam có cơ hội kế thừa, tiếp thu, sử dụng
những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại,
nhất là những thành quả của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đây rõ
ràng là lợi thế của những nước đi sau. Toàn cầu hóa làm cho thị trường thế
giới ngày nay càng rộng lớn về quy mô, hoàn thiện về cơ chế hoạt động.
Chúng ta có điều kiện để học hỏi, tiếp thu, trao đổi, nâng cao trình độ, kinh
nghiệm quản lý, nguồn vốn của thế giới, đặc biệt là những tri thức để phát
triển nền kinh tế số, tham gia chuỗi cung ứng sản phẩm toàn cầu. Qua đó,
chúng ta có cơ hội mở rộng sản xuất, giải quyết việc làm, ổn định và cải thiện
đời sống nhân dân, tham gia quá trình hợp tác và phân công lao động quốc tế.
Trải qua hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa. Công cuộc xóa đói, giảm nghèo đạt được nhiều thành quả quan trọng,
được bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao; đời sống nhân dân được cải thiện
rõ rệt. Công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu, sức
mạnh tổng hợp và uy tín quốc tế của Việt Nam ngày càng được nâng cao, tạo
tiền đề để đất nước phát triển nhanh và bền vững. Tốc độ tăng trưởng GDP
năm 2018 rất ấn tượng, đạt 7,08% và trong năm qua, chúng ta đạt và vượt
toàn bộ 12 chỉ tiêu đã đề ra. Thế và lực của nước ta tiếp tục được nâng cao
trên trường quốc tế, mở ra những vận hội chưa từng có và đã góp phần củng
cố niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước. Điển hình
là sự kiện Việt Nam được bầu là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an
Liên hợp quốc sau phiên bỏ phiếu vào ngày 7-6-2019, với số phiếu rất cao
(192/193 phiếu). Kết quả này phản ánh sự tín nhiệm của cộng đồng quốc tế
dành cho Việt Nam; đồng thời cũng là thành quả xứng đáng của Việt Nam sau
những nỗ lực đóng góp vào hòa bình, an ninh thế giới.
Giá trị truyền thống có vai trò rất quan trọng đối với việc xây dựng và phát
triển nhân cách con người Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay trên
nhiều phương diện, là “bộ lọc”, “kháng thể” chống lại tác động tiêu cực của
toàn cầu hóa và kinh tế thị trường; góp phần xây dựng nhân cách mới, gắn lý
tưởng, ước mơ hoài bão với hành động của con người hiện nay, nhất là thế hệ
trẻ. Bối cảnh mới đang tạo ra cho Việt Nam cơ hội phát huy những giá trị
truyền thống, tiếp thu có chọn lọc những giá trị tinh hoa của nhân loại trong
xây dựng con người mới vì sự nghiệp đổi mới và phát triển.
2.2. Những thách thức
Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994),
Đảng ta đã chỉ ra những thách thức, những nguy cơ lớn đối với sự nghiệp đổi
mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. “Những thách thức là: nguy cơ
tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới…;
nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa…; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ
quan liêu; nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Các nguy cơ
đó có liên quan mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau” và hiện vẫn đang đe
dọa sự tồn vong của chủ nghĩa xã hô |i ở Viê |t Nam như Báo cáo chính trị tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (năm 2016) vạch rõ: “Bốn nguy cơ mà
Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với
các nước trong khu vực và trên thế giới, nguy cơ “diễn biến hòa bình” của thế
lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong
một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; sự tồn tại và những
diễn biến phức tạp của tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí…”. Vượt qua bốn
nguy cơ để tiếp tục phát triển nhanh và bền vững, giữ vững định hướng xã hô |i
chủ nghĩa, giữ vững thành quả cách mạng mà nhân dân ta dưới sự lãnh đạo
của Đảng phải hy sinh biết bao nhiêu xương máu mới có được, vẫn đang và sẽ
là những thách thức thực sự, đòi hỏi phải có những nỗ lực vượt bậc, sự đoàn
kết cao độ, cùng chung sức, đồng lòng của cả dân tộc nhằm bảo vệ và phát
huy những thành quả cách mạng trong bối cảnh mới.
- Tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới vẫn
là nguy cơ thường trực và khó khắc phục
Toàn cầu hóa tạo ra những thách thức không nhỏ đối với những nước đang
xây dựng chủ nghĩa xã hội, như Việt Nam, Trung Quốc, Cu-ba, Lào. Vì toàn
cầu hóa hiện nay, về bản chất, là toàn cầu hóa do chủ nghĩa tư bản độc quyền
chi phối, hơn nữa lại diễn ra trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội hiện thực đang
lâm vào thoái trào, nên tác động tiêu cực của nó đến các nước phát triển theo
con đường xã hội chủ nghĩa lại càng rõ rệt. Hai thách thức lớn nhất về kinh tế
là: Nguy cơ mất độc lập tự chủ về kinh tế và nguy cơ tụt hậu trong cuộc cạnh
tranh quốc tế đang diễn ra hết sức quyết liệt hiện nay.
- Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn tiềm ẩn
Trong cơ chế thị trường, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay,
ngoài phân phối theo lao động còn phân phối theo vốn đóng góp, theo hiệu
quả kinh tế… nên dẫn tới thực tế là phân hóa xã hội ngày càng gia tăng, bất
công xã hội vẫn đang diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, gây căng thẳng,
xung đột xã hội và nhất là xuất hiện nguy cơ đẩy các quan hệ xã hội tới chỗ
xa rời bản chất công bằng, dân chủ, nhân đạo, nhân văn tốt đẹp của chủ nghĩa
xã hội. Các bất công ấy cùng với những vấn đề xã hội, tiêu cực xã hội nhức
nhối khác tiềm ẩn nguy cơ làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Nguy cơ chệch
hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện ở một số biểu hiện như sự giảm sút vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản và hiệu lực quản lý của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, sự gia tăng của tình trạng vi phạm quyền làm chủ của nhân
dân; sự yếu kém của doanh nghiệp nhà nước và kinh tế tập thể; gia tăng sự
suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống, sự băng hoại các giá trị tinh
thần truyền thống của dân tộc;...
- Âm mưu thực hiện “diễn biến hòa bình” của thế lực thù địch nhằm chống
phá
Bản chất thật sự của “diễn biến hòa bình” hiện nay là hoạt động của các
thế lực đế quốc tư bản lớn và cường quyền nhằm vào các nước có chế độ
chính trị mà họ coi là không phù hợp với lợi ích của họ, bằng tổng hợp các
biện pháp chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao, an ninh… để
chuyển hóa chế độ chính trị của các nước này theo quỹ đạo có lợi cho họ.
Hiện nay, “diễn biến hòa bình” đã có những biểu hiện mới cả về chủ thể tiến
hành, phương thức, nội dung, mục tiêu… đã phát triển đến đỉnh cao, đến mức
có thể coi là một “công nghệ”, đó là “công nghệ lật đổ”, với rất nhiều kịch
bản khác nhau. Đặc biệt là sự phát triển của công nghệ số, các trang mạng,
ứng dụng xã hội đã được các thế lực thù địch ráo riết tận dụng triệt để trong
thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Đây là nguy cơ không thể xem thường, thực tế đó đòi hỏi
chúng ta cần phải có những biện pháp, cách thức, đối phó và khắc chế cho
phù hợp, không để rơi vào tình trạng bị động, bất ngờ.
- Nguy cơ từ tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, trong đó có tệ quan liêu,
tham nhũng, lãng phí ở bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn chưa được ngăn chặn
triệt để
- Nguy cơ phân liệt, xuyên tạc, hạ thấp ý nghĩa chủ nghĩa quốc tế trong sáng
của giai cấp công nhân, cùng với những biểu hiện dân tộc cực đoan gia tăng
- Bối cảnh hiện nay đang đặt ra thách thức rất lớn đối với sự bảo đảm vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững
hòa bình, ổn định để phát triển
Đây thực sự là một thách thức rất lớn đối với Việt Nam, trong bối cảnh
kinh tế - chính trị thế giới phát triển nhanh chóng, khó lường như hiện nay.
Nguyên tắc “bất biến” là độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
của đất nước, là mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, còn cách thức bảo đảm những nguyên
tắc bất di, bất dịch ấy thì có thể ứng biến tùy thuộc từng giai đoạn phát triển.
Thêm vào đó, quá trình hội nhập quốc tế hiện nay là quá trình vừa hợp tác,
vừa đấu tranh, vậy cho nên cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý cấp chiến lược cần nắm vững phương châm: Hòa nhập nhưng
không hòa tan, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân
tộc trong môi trường làm việc quốc tế, cảnh giác với những âm mưu thông
qua hội nhập để thực hiện “diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam.
3. Giải pháp
1. Phát Triển Kinh Tế Bền Vững:
Việc đầu tư mạnh vào nghiên cứu và phát triển công nghệ xanh và nguồn
năng lượng tái tạo là điểm đầu. Quá trình chuyển đổi này không chỉ giảm tác
động xấu đến môi trường mà còn tạo ra cơ hội cho sự phát triển bền vững và
tạo ra nguồn việc làm mới. Khuyến khích doanh nghiệp áp dụng công nghệ
sạch và hiệu quả thông qua các khuyến mãi thuế và cơ chế khuyến khích đầu
tư sẽ góp phần tạo ra một nền kinh tế xanh hơn.
2. Cải Thiện Quản Lý Tài Nguyên và Môi Trường:
Tăng cường quản lý tài nguyên và môi trường là một nhiệm vụ quan trọng.
Điều này bao gồm việc thúc đẩy thực thi luật pháp về môi trường và tài
nguyên, xem xét lại các chuẩn môi trường và xây dựng cơ sở hạ tầng quản lý
môi trường. Khuyến khích các ngành công nghiệp thực hiện công nghệ sạch
và tiết kiệm tài nguyên thông qua chính sách khuyến khích.
3. Tạo Cơ Hội cho Quyền Lợi Xã Hội:
Đầu tư vào chính sách xã hội như bảo hiểm xã hội, chăm sóc y tế, và giáo
dục là cách đảm bảo rằng mọi người đều có quyền truy cập vào dịch vụ và cơ
hội phát triển. Khuyến khích sự đa dạng và tôn trọng quyền của lớp dân tộc
thiểu số và người có thu nhập thấp.
4. Đổi Mới Giáo Dục và Đào Tạo:
Đầu tư vào giáo dục và đào tạo là quan trọng để tạo ra một lực lượng lao
động có kỹ năng, có khả năng thích ứng với thị trường lao động đang thay
đổi. Khuyến khích sự học tập liên tục và đào tạo nghề nghiệp để cung cấp cho
người dân cơ hội phát triển sự nghiệp và cống hiến vào xã hội.
5. Tăng Cường Quyền Tự Do và Quyền Con Người:
Đảm bảo tự do báo chí và tự do ngôn luận là cơ sở quan trọng cho chính trị
minh bạch và quản lý trung thực của chính phủ. Đảm bảo tôn trọng quyền con
người và quyền tự do của mọi người là quan trọng để xây dựng xã hội dân
chủ và công bằng.
6. Ứng Phó với Biến Đổi Khí Hậu:
Đầu tư vào các biện pháp thích ứng và giảm thiểu tác động của biến đổi
khí hậu là cách đảm bảo an toàn cho nền kinh tế và môi trường. Xây dựng hệ
thống hạ tầng chống ngập, quản lý tài nguyên nước một cách hiệu quả và
khuyến khích tiết kiệm năng lượng sẽ giúp đối phó với biến đổi khí hậu một
cách hiệu quả.
PHẦN KẾT LUẬN
Phân tích luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa độc lập
dân tộc và hạnh phúc, tự do cho nhân dân, ta thấy ý nghĩa của luận điểm này
không chỉ là một phần của quá khứ lịch sử, mà nó còn có ý nghĩa to lớn đối
với Việt Nam hiện nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ra tầm nhìn rằng độc lập của một quốc gia
không thể bị cô lập khỏi hạnh phúc và tự do của nhân dân. Điều này có nghĩa
rằng không đơn thuần việc giành lại quyền tự quyết định đối với quốc gia mà
còn bao gồm việc đảm bảo cho mọi người có cuộc sống đầy đủ và tự do để
tham gia vào quyết định về tương lai của họ.
Với Việt Nam hiện nay, luận điểm này là một bài học quý báu. Chúng ta đang
đối mặt với những thách thức phức tạp, từ việc phát triển kinh tế bền vững
đến quản lý tài nguyên và môi trường, và đảm bảo quyền tự do và quyền con
người. Luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở chúng ta rằng những
mục tiêu này không thể bị cô lập. Để thực sự đạt được độc lập dân tộc, chúng
ta phải đảm bảo rằng mọi người có quyền tự do cá nhân, cơ hội để phát triển,
và cuộc sống đầy đủ.
Tầm nhìn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn đúng và có giá trị đối với Việt Nam
hiện nay, và nó nên được xem xét trong mọi quyết định và hành động của
chính phủ và xã hội để đảm bảo rằng độc lập dân tộc thực sự mang lại hạnh
phúc và tự do cho nhân dân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Chủ biên Mạnh Quang Thắng, năm
2019
[2] Sách “ Hồ Chí Minh – Một cốt cách văn hoá Việt Nam”, Lê Đình Cúc
[3] Sách "Hồ Chí Minh - Biểu tượng của thời đại", David Halberstam
[4] Việt Nam kiên trì thực hiện lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, phấn đấu trở thành nước phát triển, đóng góp tích cực cho hoà bình,
hữu nghị, hợp tác và phát triển trên thế giới , tapchicongsan.org.vn
[5] Nội dung, ý nghĩa tư tưởng về độc lập, tự do của Hồ Chí Minh,
luatduonggia.vn
| 1/20

Preview text:

 TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
---------------- BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI: Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “ Nước độc
lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay
Họ và tên: Nguyễn Thị Minh Thuý Mã SV: 11226211 Lớp: 07 GVHD: Nguyễn Hồng Sơn Hà Nội, 10/2023 LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử Việt Nam là lịch sử không ngừng đấu tranh trong suốt quá trình
dựng nước và giữ nước. Tinh thần yêu nước là cội nguồn sức mạnh của dân
tộc Việt Nam. Đối với người dân mất nước, cái quý nhất trên đời là độc lập
của Tổ quốc, tự do của nhân dân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, độc lập dân
tộc bao gồm cả nội dung dân tộc và dân chủ, độc lập dân tộc phải gắn với
hạnh phúc và tự do của nhân dân, đồng thời, tự do và hạnh phúc của nhân dân
cũng chính là giá trị sâu sắc của độc tập dân tộc. Điều đó được Người khái
quát thành chân lý sâu sắc: “Nếu nước độc lập mà người dân không được
hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì.”
Hiện nay, Việt Nam đang trải qua một giai đoạn đầy thách thức và cơ hội.
Với tốc độ phát triển kinh tế và xã hội đáng kinh ngạc, nước này đã thu hút sự
chú ý của thế giới. Tuy nhiên, câu hỏi cơ bản về mức độ mà độc lập đã mang
lại lợi ích cho người dân vẫn còn tồn tại. Điều này đòi hỏi chúng ta phải đánh
giá tỷ lệ tự do, công bằng và cơ hội của người dân trong xã hội hiện tại, và
liệu họ có được đảm bảo về quyền tự do và hạnh phúc hay không. Việc này là
quan trọng để xác định xem liệu độc lập thực sự có ý nghĩa đối với cuộc sống
của nhân dân và cách thức mà nó đóng góp vào sự phát triển bền vững của quốc gia.
Trong bài tiểu luận này, chúng tôi sẽ tìm hiểu và phân tích sâu hơn về luận
điểm quan trọng của Hồ Chí Minh và áp dụng nó vào ngày nay. Chúng ta sẽ
thảo luận về cách mà mối quan hệ giữa độc lập, hạnh phúc và tự do đang
được thể hiện trong hiện tại và tương lai của Việt Nam. Bài viết sẽ đánh giá
những thách thức và cơ hội, và cung cấp những gợi ý về cách đảm bảo rằng
độc lập thực sự mang lại giá trị cho người dân và quốc gia. MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................................2
MỤC LỤC................................................................................................................3
NỘI DUNG...............................................................................................................4
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. 4
1. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với tiến lên chủ nghĩa xã hội..............4
2. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội trong quá trình cách mạng Việt Nam......................................................5
3. Sự thể hiện trên thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội..................................................................................6 II.
Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh.....................................................7
1. Giải thích một số khái niệm cơ bản............................................................7
2. Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm và hạnh phúc
của nhân dân....................................................................................................8
III. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay.................................10
1. Sự cần thiết của vận dụng luận điểm vào Việt Nam hiện nay................10
2. Thực trạng việc vận dụng luận điểm của Hồ Chí Minh.........................11
3. Giải pháp....................................................................................................17
PHẦN KẾT LUẬN................................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................19 NỘI DUNG I.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
1. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với tiến lên chủ nghĩa xã hội
Theo Hồ Chí Minh độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là cơ sở
tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo Người, con đường cách mạng Việt
Nam có hai giai đoạn: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Cách mạng dân tộc dân chủ có hai nhiệm vụ chiến lược cơ bản,
trong đó giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ dân chủ được
thực hiện tiến trình từng bước và phục tùng nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Vì
thế, ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ thì độc lập dân tộc là mục tiêu
trực tiếp, trước mắt, cấp bách.
Độc lập dân tộc là khát vọng mang tính phổ biến với toàn nhân loại. Với
dân tộc Việt Nam, đó còn là một giá trị thiêng liêng, được bảo vệ và giữ gìn
bởi máu xương, sức lực của biết bao thế hệ người Việt Nam. Với Hồ Chí
Minh, độc lập dân tộc bao hàm trong đó cả nội dung dân tộc và dân chủ. Đó
là nền độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, chứ không phải là thứ độc lập giả
hiệu, độc lập nửa vời, độc lập hình thức. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc
lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
đất nước, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn với tự do, dân chủ, ấm no hạnh
phúc của nhân dân lao động.
Khi nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh không bao giờ coi
đó là mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, giành độc lập để đi tới xã hội cộng sản; độc lập dân tộc phải gắn liền
với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là mục tiêu cốt yếu, trực tiếp của cách
mạng dân tộc dân chủ, là mục tiêu trước hết của quá trình cách mạng Việt
Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo, đồng thời là điều kiện hàng đầu, quyết định
để cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang giai đoạn kế tiếp - cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, cách mạng dân tộc dân chủ càng triệt để thì
những điều kiện tiến lên chủ nghĩa xã hội càng được tạo ra đầy đủ. Độc lập
dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân lao động tự quyết định con đường
đi tới chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là con đường củng cố vững chắc độc
lập dân tộc, giải phóng dân tộc một cách hoàn toàn triệt để. Độc lập dân tộc
bao giờ cũng gắn liền với đời sống ấm no, hạnh phúc của quần chúng nhân
dân, những người đã trực tiếp làm nên thắng lợi của cách mạng dân tộc dân
chủ. Người khẳng định "Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng triệt để các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ; chỉ có cách mạng xã hội
chủ nghĩa mới bảo đảm cho một nền độc lập thật sự, chân chính".
2. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội trong quá trình cách mạng Việt Nam
Hồ Chí Minh khẳng định, xác lập, tăng cường vai trò lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng Cộng sản là điều kiện cơ bản để độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội. Không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì cách mạng
Việt Nam không thể vận động theo cách mạng vô sản và chắc chắn sự nghiệp
độc lập dân tộc sẽ đi theo vết xe đổ của các phong trào cứu nước trước đó.
Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
mang tính khách quan. Để hoàn thành sứ mệnh của mình, Đảng phải trong
sạch, vững mạnh và thường xuyên chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu, đủ trí tuệ, đủ bản lĩnh vượt qua những thử thách gay gắt nhất,
phải thực hiện xây dựng Đảng về các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, trong
đó công tác cán bộ bao giờ cũng là vấn đề cốt tử. Đảng phải xây dựng, củng
cố và tăng cường khối liên minh giai cấp công nhân, nông dân và trí thức làm
nền tảng khối đại đoàn kết dân tộc. Người xác định công - nông là gốc, là chủ
lực của cách mạng, các giai tầng, cá nhân yêu nước là bầu bạn của cách mạng.
Tất cả được tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận được xây
dựng theo tư tưởng Hồ Chí Minh có hạt nhân cốt lõi là liên minh công - nông
và trí thức để đoàn kết toàn dân thành một khối. Hạt nhân và toàn dân là mối
quan hệ biện chứng được Hồ Chí Minh quan tâm đúng mức cả hai, không coi
nhẹ hoặc thiên lệch bên nào. Mặt trận đó được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh chỉ rõ cách mạng Việt Nam là một bộ phận và có liên hệ chặt
chẽ với cách mạng thế giới. Như vậy, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội là một tất yếu khách quan. Tính tất yếu đó chỉ được hiện thực hoá khi
gắn liền với những điều kiện bảo đảm, trong đó yếu tố quan trọng nhất là xác
lập và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
3. Sự thể hiện trên thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ra
đời và phát triển ở thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi thế giới. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội được thể hiện trên thực tiễn cách mạng Việt Nam qua ba thời kỳ:
Thời kỳ 1930-1945: Hồ Chí Minh xác định tính chất cách mạng Việt Nam
là con đường cách mạng vô sản, gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai
cấp, nhân dân lao động, với toàn thể dân tộc bị nô lệ dưới ách đế quốc Pháp và tay sai của chúng.
Thời kỳ 1945-1954: Thời kỳ bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng những cơ
sở đầu tiên của chủ nghĩa xã hội, thực hiện "kháng chiến và kiến quốc".
Thời kỳ 1954-1975: Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn thiện, bổ sung, phát triển
tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới.
Sau năm 1975, Đảng ta tiếp tục vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh
về độc lập dân tộc gắn liền với chỉ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh của Việt Nam. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV - Đại hội thống nhất
Tổ quốc, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội đã khẳng định: "Trong quá trình
lãnh đạo cách mạng, khi cả nước làm một nhiệm vụ chiến lược hoặc làm hai
nhiệm vụ chiến lược, Đảng ta từ khi ra đời đến nay vẫn luôn luôn giương cao
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đó là đường lối, là sức mạnh, là
nguồn gốc mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam". Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII thông qua đã
khẳng định trong thời kỳ đổi mới: "Toàn Đảng, toàn dân tiếp tục nắm vững
ngọn cờ độc lập, dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ vinh quang mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và thế hệ mai sau”
Trong 91 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhờ xác định rõ nô |i dung và
cụ thể hóa mục tiêu về đô |c lâ |p dân tô |c và chủ nghĩa xã hô |i theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, Đảng đã lãnh đạo đất nước vượt qua những khó khăn, thử thách và
đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Hiện tại, dù còn nhiều khó
khăn, nhưng Ðảng ta vẫn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, vì đó là con đường đúng đắn, là quy luật và xu thế phát triển tất yếu của
thời đại; là điều kiện bảo đảm để dân tộc thực sự độc lập, nhân dân có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc; mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh trở thành hiện thực. II.
Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh
1. Giải thích một số khái niệm cơ bản
Độc lập, nghĩa hẹp nhất là “tự mình tồn tại, không nương tựa, không phụ
thuộc ai khác” (Từ điển Tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên). Rộng hơn, đó là
trạng thái của một nước hoặc một dân tộc có chủ quyền về chính trị, không
phụ thuộc vào nước khác hoặc dân tộc khác. Tự do là một khái niệm vốn có
rất nhiều định nghĩa, khái niệm này luôn không ngừng vận động và chứa dựng
thêm nhiều nội dung mới hơn. Có thể hiểu, tự do cho một dân tộc là đất nước
được độc lập, nhà nước có chủ quyền và có quyền tự do phát ngôn, hoạt động
trên trường quốc tế. Tự do với từng cá nhân là quyền tự nhiên của con người,
trong đó con người được phát triển hết năng lực vốn có của mình.
Độc lập, tự do là những phạm trù nền tảng của việc hình thành một quốc
gia mà ở đó con người tìm kiếm được đời sống thông thường của mình, đời
sống phát triển của mình và đời sống hạnh phúc của mình. Còn hạnh phúc là
một trạng thái cảm xúc của con người khi được thỏa mãn một nhu cầu nào đó
mang tính trừu tượng. Hạnh phúc là một cảm xúc bậc cao. Ở con người, nó
mang tính nhân bản sâu sắc và thường chịu tác động của lý trí. Hạnh phúc gắn
liền với quan niệm về niềm vui trong cuộc sống.
2. Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm và hạnh phúc của nhân dân
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn với tự do, hạnh phúc của
nhân dân. Người đánh giá cao học thuyết tam dân của Tôn Trung Sơn: dân tộc
độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc. Cách mạng Tháng Tám năm
1945 thành công, dân tộc vừa thoát khỏi ách ngoại xâm, nước nhà được độc
lập, Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định độc lập phải gắn với tự do. Người đã
xác định công việc chăm lo đời sống cho nhân dân, khắc phục hậu quả của
chế độ thực dân, phong kiên, đói nghèo cùng kiệt quệ sức người, vơ vét cạn
kiệt tài nguyên, vật lực để phục vụ cuộc chiến tranh đế quốc.
Trong bối cảnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định từng công việc cụ thể,
từng bước đi thích hợp; đã đưa ra mục tiêu phấn đấu để nhân dân thoát nạn
bần cùng, mọi người có việc làm, đời sống ấm no và hạnh phúc. Người đã
viết thư gửi đồng bào toàn quốc kêu gọi ra sức cứu đói, chồng nạn đói, “coi
cuộc chống nạn đói cũng như cuộc chống ngoại xâm”. Người đã đề nghị Hội
đồng Chính phủ phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất và mở cuộc quyên góp cứu đói.
Trong lúc tăng gia sản xuất chưa đến ngày thu hoạch, công việc khẩn cấp
là phát huy truyền thống tương thân tương ái, đùm bọc nhau. Người khởi
xướng phong trào “Hũ gạo cứu đói” và gương mẫu thực hiện. Phong trào
được thực hiện sâu rộng, chỉ trong một thời gian ngắn, nhân dân cả nước đã
quyên góp được một lượng lớn gạo cứu đói và nạn đói đã sớm được khắc phục.
Quan điểm về chăm lo cuộc sống âm no, hạnh phúc cho nhân dân được
hun đúc trong Lời kêu gọi của Người: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Đây là lời kêu gọi toàn dân đứng lên đánh giặc ngoại xâm trong bối cảnh cách
mạng đứng trước thách thức lớn khi đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh, đưa
quân Mỹ vào miền Nam và đánh phá ra miền Bắc.
Với quan điểm đó, ngay sau khi giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đặc biệt chú trọng nhiệm vụ diệt giặc dốt và giáo dục nhân dân. Thực
hiện lời kêu gọi diệt giặc dốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào bình dân
học vụ được triển khai sâu rộng trong toàn quốc: “Những người đã biết chữ
hãy dạy cho những người chưa biết chữ,... Vợ chưa biết thì chồng bảo,... cha
mẹ không biết thì con bảo”. Học chữ trở thành phong trào rộng lớn chưa từng
có, lôi cuốn đông đảo nhân dân thuộc các giới, lứa tuổi khắp nơi trên cả nước tích cực tham gia.
Kết quả là, chỉ trong một thời gian ngắn, cả nước có hơn hai triệu người
biết đọc, biết viết. Bên cạnh đó, công tác văn hóa, giáo dục cũng được chính
quyền mới đặc biệt quan tâm đẩy mạnh và đạt được nhiều kết quả tích cực.
Phong trào đời sống mới đã xóa bỏ những tệ nạn, hủ tục lạc hâu, tàn dư chế
độ cũ, nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí, bồi dưỡng tinh thần, ý thức công
dân của người dân một nước độc lập. Lòng dân quy tụ về một mối, đoàn kết
toàn dân tộc trở thành sức mạnh vô biên, đánh đuổi kẻ thù xâm lược.
Ngay sau khi cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
ký Sắc lệnh về Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội lập hiến, thông qua Hiến pháp,
khẳng định quyền làm chủ đất nước và các quyền tự do, dân chủ khác của
nhân dân. Đồng thời, Người xây dựng và chấn chỉnh bộ máy chính quyền các
cấp, bảo đảm là hạt nhân chính trị chế độ xã hội mới với bản chất tốt đẹp.
Như vậy, độc lập dân tộc và CNXH hay độc lập dân tộc với tự do, ấm no,
hạnh phúc cho nhân dân là tư tưởng xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngày nay, Đảng ta thể hiện quan điểm đó ở mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây là thước đo sự thành công của công cuộc
xây dựng CNXH trong thực tế
Trong những năm qua, đặc biệt là trong hơn 30 năm đổi mới, các chủ
trương chính sách về phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước luôn
hướng tới đem lại hạnh phúc cho con người, bảo đảm sự ổn định và phát triển
bền vững. Điển hình là công cuộc xóa đói giảm nghèo của nước ta đã đạt
được những thành tựu to lớn. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm mạnh từ 59% năm 1993
(theo chuẩn nghèo cũ) xuống còn 3,0% năm 2016 (theo chuẩn nghèo mới giai
đoạn 2011-2015). GDP trên đầu người đã vượt qua mức thu nhập trung bình
thấp (2.215 USD/ người/ năm) vào năm 2016.
Nơi nào người dân còn đói nghèo, cuộc sống chưa được no ấm, nơi nào
dân còn chưa được hạnh phúc, nơi nào còn để nhân dân phải lo cái ăn, cái
mặc và nơi nào chưa bảo đảm được y tế, chăm sóc sức khỏe, giáo dục và nhà
ở thì nơi đó tổ chức Đảng và chính quyền chưa hoàn thành tốt chức trách và
nhiệm vụ của mình trước nhân dân. Cần có biện pháp kiểm tra, kiểm soát và
có hình thức kỷ luật nghiêm những nơi, những địa phương không hoàn thành
nhiệm vụ đó. Chỉ có như vậy, đất nước Việt Nam mới trở nên giàu mạnh và
phồn vinh, nhân dân thực sự được ấm no, hạnh phúc. III.
Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay
1. Sự cần thiết của vận dụng luận điểm vào Việt Nam hiện nay
Trước tiên, chúng ta có thể nhận thây rõ vai trò quan trọng của việc coi
trọng vấn đề độc lập dân tộc phải gắn liên tự do, cơm no, áo âm và hạnh phúc
của nhân dân trong thực tiến cách mạng nước ta.
Tiếp theo, chúng ta mới nhắc đến vai trò quan trọng của việc vận dụng
quan điểm Hồ Chí Minh: “ Nước độc lập mà người dân không được hưởng
hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” vào bối cảnh hiện nay.
Ngày nay thì các thế lực thù địch quốc tế và những kẻ phản động tay sai trong
nước dùng mọi thủ đoạn, lợi dụng toàn cầu hóa nhằm phá hoại con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong hoàn cảnh đó thì tư tưởng vê độc lập
dân tộc phải gắn liên tự do, cơm no, áo âm và hạnh phúc của nhân dân của Hồ
Chí Minh vẫn là chân lí của thời đại. Do đó mỗi chúng ta càng phải đề cao
cảnh giác, đồng thời phát huy thế mạnh của đất nước để có thể tham gia vào
quá trình toàn cầu hóa, phát triển kinh tế xã hội mà vẫn giữ được độc lập chủ
quyền dân tộc, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Qua
đó xác định mục tiêu phát triển đất nước với những chính sách xây dựng kinh
tế xã hội đúng đắn, giữ vững độc lập chủ quyền, đưa nước ta trở thành quốc
gia ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế, ngày càng có vị thế trên trường châu lục và quốc tế.
Mặt khác thì hiện nay những cuộc nội chiến diễn ra đã khiến cho người
dân không nơi nương tựa, phải chạy trốn khỏi đất nước nơi mình sinh ra. một
số quốc gia khác dù đã có độc lập nhưng vẫn luôn bất ổn bởi sự cạnh tranh
giữa các lực lượng, các đảng phái, phe nhóm chính trị, người dân cũng không
được hưởng cuộc sống yên bình. Thực tế đó chính là cơ sở để chúng ta tin
rằng sự lựa chọn con đường của chủ tịch Hồ Chí Minh là dúng đắn. Đó cũng
là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh, xuyên suốt đường lối và thực
tiễn cách mạng Việt Nam.
2. Thực trạng việc vận dụng luận điểm của Hồ Chí Minh
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn đi lên CNXH ở nước ta giai
đoạn hiện nay, Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định:
Trước tình hình hiện nay, mặc dù CNXH đang ở vào giai đoạn thoái trào
tuy nhiên CNXH vẫn là sự phát triển tất yếu của lịch sử xã hội loài người và
sự lựa chọn đi theo con đườg XHCN của Hồ Chí Minh và nhân dân là sự lựa
chọn duy nhất đúng đắn. Đất nước đang đứng trước những thử thách lớn lao
của thời đại, hoàn cảnh lịch sử đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải kiên định
con đường mục tiêu của mình và phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động .
Với sự soi đường của tư tưởng HCM, Đảng đã xác định cụ thể những bước
đi như sau : Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa,
nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế
độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học công nghệ, để phát triển nhanh lực
lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Ngày nay, để giữ vững độc lập
dân tộc trong xây dựng CNXH giai đoạn hiện nay là bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ,
giữ vững định hướng XHCN, tự chủ về kinh tế và giữ gìn phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc. Nhân tố quyết định và đảm bảo cho sự phát triển đất nước
đúng định hướng đó là tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý hiệu
quả của Nhà nước, sự đoàn kết thống nhất của các tổ chức chính trị và đội ngũ cán bộ đảng viên.
Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính
sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó
chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo;
kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc. Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất -
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực
lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp
trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối.
Tóm lại, tư tưởng HCM về CNXH về con đường quá độ lên CNXH ở VN
thực sự là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho sự nghiệp đổi mới của chúng
ta hiện nay. Vấn đề là phải tiếp tục làm quá triệt những tư tưởng ấy trong cơ
chế, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước. Trong tổ chức và hành
động của mỗi cán bộ, Đảng viên, chỉ có bằng hiệu quả thực tế trong đổi mới
KT và chính trị, đem lại sự cải thiện vật chất và tinh thần cho nhân dân, chúng
ta mới củng cố được trong quần chúng niềm tin mà HCM đã khẳng định :”
con đường tiến tới của CNXH của các dân tộc là con đường chung của thời
đại, của lịch sử, không ai ngăn cản nổi” 2.1. Những thành tựu
Trong những xu thế lớn trên thế giới hiện nay thì hòa bình, đô |c lâ |p dân
tô |c, dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế lớn và tạo cơ hội cho Việt Nam
mở rộng hợp tác, tập hợp lực lượng tiến bộ vì hòa bình, dân chủ và chủ nghĩa
xã hội. Xu thế hướng đến hòa bình và phát triển thúc đẩy các quốc gia xích lại
gần nhau, cùng nhau hợp tác nhằm tìm kiếm những cơ chế kiểm soát, kiềm
chế xung đột, giảm thiểu nguy cơ chiến tranh. Vì vậy, vấn đề quan trọng đặt
ra hiện nay chính là việc nhận thức sâu sắc và tận dụng có hiệu quả những
thời cơ ấy trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, giữ vững
hòa bình và ổn định để phát triển, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của các lực
lượng tiến bộ vì hòa bình, dân chủ trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Do tác động mang tính hai mặt, nên toàn cầu hóa không chỉ đặt ra những
thách thức, nguy cơ mà còn tạo ra những cơ hội lớn để các nước xã hội chủ
nghĩa thực hiện chiến lược “hội nhập” vào nền kinh tế thế giới, qua đó, một
mặt, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội ở trong nước; mặt khác, thông
qua hợp tác quốc tế mà tranh thủ được các nguồn vốn đầu tư, khoa học công
nghệ và quản lý từ các nước phát triển.
Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam có cơ hội kế thừa, tiếp thu, sử dụng
những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại,
nhất là những thành quả của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đây rõ
ràng là lợi thế của những nước đi sau. Toàn cầu hóa làm cho thị trường thế
giới ngày nay càng rộng lớn về quy mô, hoàn thiện về cơ chế hoạt động.
Chúng ta có điều kiện để học hỏi, tiếp thu, trao đổi, nâng cao trình độ, kinh
nghiệm quản lý, nguồn vốn của thế giới, đặc biệt là những tri thức để phát
triển nền kinh tế số, tham gia chuỗi cung ứng sản phẩm toàn cầu. Qua đó,
chúng ta có cơ hội mở rộng sản xuất, giải quyết việc làm, ổn định và cải thiện
đời sống nhân dân, tham gia quá trình hợp tác và phân công lao động quốc tế.
Trải qua hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa. Công cuộc xóa đói, giảm nghèo đạt được nhiều thành quả quan trọng,
được bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao; đời sống nhân dân được cải thiện
rõ rệt. Công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu, sức
mạnh tổng hợp và uy tín quốc tế của Việt Nam ngày càng được nâng cao, tạo
tiền đề để đất nước phát triển nhanh và bền vững. Tốc độ tăng trưởng GDP
năm 2018 rất ấn tượng, đạt 7,08% và trong năm qua, chúng ta đạt và vượt
toàn bộ 12 chỉ tiêu đã đề ra. Thế và lực của nước ta tiếp tục được nâng cao
trên trường quốc tế, mở ra những vận hội chưa từng có và đã góp phần củng
cố niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước. Điển hình
là sự kiện Việt Nam được bầu là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an
Liên hợp quốc sau phiên bỏ phiếu vào ngày 7-6-2019, với số phiếu rất cao
(192/193 phiếu). Kết quả này phản ánh sự tín nhiệm của cộng đồng quốc tế
dành cho Việt Nam; đồng thời cũng là thành quả xứng đáng của Việt Nam sau
những nỗ lực đóng góp vào hòa bình, an ninh thế giới.
Giá trị truyền thống có vai trò rất quan trọng đối với việc xây dựng và phát
triển nhân cách con người Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay trên
nhiều phương diện, là “bộ lọc”, “kháng thể” chống lại tác động tiêu cực của
toàn cầu hóa và kinh tế thị trường; góp phần xây dựng nhân cách mới, gắn lý
tưởng, ước mơ hoài bão với hành động của con người hiện nay, nhất là thế hệ
trẻ. Bối cảnh mới đang tạo ra cho Việt Nam cơ hội phát huy những giá trị
truyền thống, tiếp thu có chọn lọc những giá trị tinh hoa của nhân loại trong
xây dựng con người mới vì sự nghiệp đổi mới và phát triển. 2.2. Những thách thức
Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994),
Đảng ta đã chỉ ra những thách thức, những nguy cơ lớn đối với sự nghiệp đổi
mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. “Những thách thức là: nguy cơ
tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới…;
nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa…; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ
quan liêu; nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Các nguy cơ
đó có liên quan mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau” và hiện vẫn đang đe
dọa sự tồn vong của chủ nghĩa xã hô |i ở Viê |t Nam như Báo cáo chính trị tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (năm 2016) vạch rõ: “Bốn nguy cơ mà
Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với
các nước trong khu vực và trên thế giới, nguy cơ “diễn biến hòa bình” của thế
lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong
một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; sự tồn tại và những
diễn biến phức tạp của tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí…”. Vượt qua bốn
nguy cơ để tiếp tục phát triển nhanh và bền vững, giữ vững định hướng xã hô |i
chủ nghĩa, giữ vững thành quả cách mạng mà nhân dân ta dưới sự lãnh đạo
của Đảng phải hy sinh biết bao nhiêu xương máu mới có được, vẫn đang và sẽ
là những thách thức thực sự, đòi hỏi phải có những nỗ lực vượt bậc, sự đoàn
kết cao độ, cùng chung sức, đồng lòng của cả dân tộc nhằm bảo vệ và phát
huy những thành quả cách mạng trong bối cảnh mới.
- Tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới vẫn
là nguy cơ thường trực và khó khắc phục
Toàn cầu hóa tạo ra những thách thức không nhỏ đối với những nước đang
xây dựng chủ nghĩa xã hội, như Việt Nam, Trung Quốc, Cu-ba, Lào. Vì toàn
cầu hóa hiện nay, về bản chất, là toàn cầu hóa do chủ nghĩa tư bản độc quyền
chi phối, hơn nữa lại diễn ra trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội hiện thực đang
lâm vào thoái trào, nên tác động tiêu cực của nó đến các nước phát triển theo
con đường xã hội chủ nghĩa lại càng rõ rệt. Hai thách thức lớn nhất về kinh tế
là: Nguy cơ mất độc lập tự chủ về kinh tế và nguy cơ tụt hậu trong cuộc cạnh
tranh quốc tế đang diễn ra hết sức quyết liệt hiện nay.
- Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn tiềm ẩn
Trong cơ chế thị trường, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay,
ngoài phân phối theo lao động còn phân phối theo vốn đóng góp, theo hiệu
quả kinh tế… nên dẫn tới thực tế là phân hóa xã hội ngày càng gia tăng, bất
công xã hội vẫn đang diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, gây căng thẳng,
xung đột xã hội và nhất là xuất hiện nguy cơ đẩy các quan hệ xã hội tới chỗ
xa rời bản chất công bằng, dân chủ, nhân đạo, nhân văn tốt đẹp của chủ nghĩa
xã hội. Các bất công ấy cùng với những vấn đề xã hội, tiêu cực xã hội nhức
nhối khác tiềm ẩn nguy cơ làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Nguy cơ chệch
hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện ở một số biểu hiện như sự giảm sút vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản và hiệu lực quản lý của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, sự gia tăng của tình trạng vi phạm quyền làm chủ của nhân
dân; sự yếu kém của doanh nghiệp nhà nước và kinh tế tập thể; gia tăng sự
suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống, sự băng hoại các giá trị tinh
thần truyền thống của dân tộc;...
- Âm mưu thực hiện “diễn biến hòa bình” của thế lực thù địch nhằm chống phá
Bản chất thật sự của “diễn biến hòa bình” hiện nay là hoạt động của các
thế lực đế quốc tư bản lớn và cường quyền nhằm vào các nước có chế độ
chính trị mà họ coi là không phù hợp với lợi ích của họ, bằng tổng hợp các
biện pháp chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao, an ninh… để
chuyển hóa chế độ chính trị của các nước này theo quỹ đạo có lợi cho họ.
Hiện nay, “diễn biến hòa bình” đã có những biểu hiện mới cả về chủ thể tiến
hành, phương thức, nội dung, mục tiêu… đã phát triển đến đỉnh cao, đến mức
có thể coi là một “công nghệ”, đó là “công nghệ lật đổ”, với rất nhiều kịch
bản khác nhau. Đặc biệt là sự phát triển của công nghệ số, các trang mạng,
ứng dụng xã hội đã được các thế lực thù địch ráo riết tận dụng triệt để trong
thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Đây là nguy cơ không thể xem thường, thực tế đó đòi hỏi
chúng ta cần phải có những biện pháp, cách thức, đối phó và khắc chế cho
phù hợp, không để rơi vào tình trạng bị động, bất ngờ.
- Nguy cơ từ tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, trong đó có tệ quan liêu,
tham nhũng, lãng phí ở bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn chưa được ngăn chặn triệt để
- Nguy cơ phân liệt, xuyên tạc, hạ thấp ý nghĩa chủ nghĩa quốc tế trong sáng
của giai cấp công nhân, cùng với những biểu hiện dân tộc cực đoan gia tăng
- Bối cảnh hiện nay đang đặt ra thách thức rất lớn đối với sự bảo đảm vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững
hòa bình, ổn định để phát triển
Đây thực sự là một thách thức rất lớn đối với Việt Nam, trong bối cảnh
kinh tế - chính trị thế giới phát triển nhanh chóng, khó lường như hiện nay.
Nguyên tắc “bất biến” là độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
của đất nước, là mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, còn cách thức bảo đảm những nguyên
tắc bất di, bất dịch ấy thì có thể ứng biến tùy thuộc từng giai đoạn phát triển.
Thêm vào đó, quá trình hội nhập quốc tế hiện nay là quá trình vừa hợp tác,
vừa đấu tranh, vậy cho nên cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý cấp chiến lược cần nắm vững phương châm: Hòa nhập nhưng
không hòa tan, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân
tộc trong môi trường làm việc quốc tế, cảnh giác với những âm mưu thông
qua hội nhập để thực hiện “diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam. 3. Giải pháp
1. Phát Triển Kinh Tế Bền Vững:
Việc đầu tư mạnh vào nghiên cứu và phát triển công nghệ xanh và nguồn
năng lượng tái tạo là điểm đầu. Quá trình chuyển đổi này không chỉ giảm tác
động xấu đến môi trường mà còn tạo ra cơ hội cho sự phát triển bền vững và
tạo ra nguồn việc làm mới. Khuyến khích doanh nghiệp áp dụng công nghệ
sạch và hiệu quả thông qua các khuyến mãi thuế và cơ chế khuyến khích đầu
tư sẽ góp phần tạo ra một nền kinh tế xanh hơn.
2. Cải Thiện Quản Lý Tài Nguyên và Môi Trường:
Tăng cường quản lý tài nguyên và môi trường là một nhiệm vụ quan trọng.
Điều này bao gồm việc thúc đẩy thực thi luật pháp về môi trường và tài
nguyên, xem xét lại các chuẩn môi trường và xây dựng cơ sở hạ tầng quản lý
môi trường. Khuyến khích các ngành công nghiệp thực hiện công nghệ sạch
và tiết kiệm tài nguyên thông qua chính sách khuyến khích.
3. Tạo Cơ Hội cho Quyền Lợi Xã Hội:
Đầu tư vào chính sách xã hội như bảo hiểm xã hội, chăm sóc y tế, và giáo
dục là cách đảm bảo rằng mọi người đều có quyền truy cập vào dịch vụ và cơ
hội phát triển. Khuyến khích sự đa dạng và tôn trọng quyền của lớp dân tộc
thiểu số và người có thu nhập thấp.
4. Đổi Mới Giáo Dục và Đào Tạo:
Đầu tư vào giáo dục và đào tạo là quan trọng để tạo ra một lực lượng lao
động có kỹ năng, có khả năng thích ứng với thị trường lao động đang thay
đổi. Khuyến khích sự học tập liên tục và đào tạo nghề nghiệp để cung cấp cho
người dân cơ hội phát triển sự nghiệp và cống hiến vào xã hội.
5. Tăng Cường Quyền Tự Do và Quyền Con Người:
Đảm bảo tự do báo chí và tự do ngôn luận là cơ sở quan trọng cho chính trị
minh bạch và quản lý trung thực của chính phủ. Đảm bảo tôn trọng quyền con
người và quyền tự do của mọi người là quan trọng để xây dựng xã hội dân chủ và công bằng.
6. Ứng Phó với Biến Đổi Khí Hậu:
Đầu tư vào các biện pháp thích ứng và giảm thiểu tác động của biến đổi
khí hậu là cách đảm bảo an toàn cho nền kinh tế và môi trường. Xây dựng hệ
thống hạ tầng chống ngập, quản lý tài nguyên nước một cách hiệu quả và
khuyến khích tiết kiệm năng lượng sẽ giúp đối phó với biến đổi khí hậu một cách hiệu quả. PHẦN KẾT LUẬN
Phân tích luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa độc lập
dân tộc và hạnh phúc, tự do cho nhân dân, ta thấy ý nghĩa của luận điểm này
không chỉ là một phần của quá khứ lịch sử, mà nó còn có ý nghĩa to lớn đối với Việt Nam hiện nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ra tầm nhìn rằng độc lập của một quốc gia
không thể bị cô lập khỏi hạnh phúc và tự do của nhân dân. Điều này có nghĩa
rằng không đơn thuần việc giành lại quyền tự quyết định đối với quốc gia mà
còn bao gồm việc đảm bảo cho mọi người có cuộc sống đầy đủ và tự do để
tham gia vào quyết định về tương lai của họ.
Với Việt Nam hiện nay, luận điểm này là một bài học quý báu. Chúng ta đang
đối mặt với những thách thức phức tạp, từ việc phát triển kinh tế bền vững
đến quản lý tài nguyên và môi trường, và đảm bảo quyền tự do và quyền con
người. Luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở chúng ta rằng những
mục tiêu này không thể bị cô lập. Để thực sự đạt được độc lập dân tộc, chúng
ta phải đảm bảo rằng mọi người có quyền tự do cá nhân, cơ hội để phát triển,
và cuộc sống đầy đủ.
Tầm nhìn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn đúng và có giá trị đối với Việt Nam
hiện nay, và nó nên được xem xét trong mọi quyết định và hành động của
chính phủ và xã hội để đảm bảo rằng độc lập dân tộc thực sự mang lại hạnh
phúc và tự do cho nhân dân. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Chủ biên Mạnh Quang Thắng, năm 2019
[2] Sách “ Hồ Chí Minh – Một cốt cách văn hoá Việt Nam”, Lê Đình Cúc
[3] Sách "Hồ Chí Minh - Biểu tượng của thời đại", David Halberstam
[4] Việt Nam kiên trì thực hiện lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, phấn đấu trở thành nước phát triển, đóng góp tích cực cho hoà bình,
hữu nghị, hợp tác và phát triển trên thế giới
, tapchicongsan.org.vn
[5] Nội dung, ý nghĩa tư tưởng về độc lập, tự do của Hồ Chí Minh, luatduonggia.vn