Bài tập lớn KTCT - Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin (KTCT01) | Đại học kinh tế quốc dân NEU

Bài tập lớn KTCT - Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin (KTCT01) | Đại học kinh tế quốc dân NEU được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

lOMoARcPSD| 44820939
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
ĐỀ TÀI: Trình bày lý luận của CN Mác Lênin về khủng hoảng kinh tế
liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
Họ và tên sinh viên: Trần Quỳnh An
Mã SV: 11220067
Lớp tín chỉ : Kinh tế chính trị Mác Lê Nin_QTNL CLC 64_AEP(222)_38
Số thứ tự (trong DS lớp tín chỉ) : 2
Hà Nội, tháng 4/2023
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
Lời mở dầu
3
I.Lý luận của Chủ nghĩa Mác-LêNin về khủng hoảng kinh tế
3
1. Khái niệm
3
2. Biểu hiện
4
3. Nguyên nhân
5
4. Hậu quả
6
5. Tính chu kỳ của khủng hoảng kinh tế
9
6. Giair pháp
10
lOMoARcPSD| 44820939
2
II. Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam
12
Tài liệu tham khảo
15
lOMoARcPSD| 44820939
3
LỜI MỞ ĐẦU
Trong mọi thời phát triển của nền kinh tế luôn có những lúc chỉ số kinh tế tăng vượt
bậc bên cạnh đó cũng có lúc xuống mức âm đó chính là lúc nền kinh tế bước vào giai
đoạn suy thoái, do đó với mong muốn tìm hiểu thêm về khủng hoảng kinh tế, em đã
chon đề tài Trình bày lý luận của CN Mác Lênin về khủng hoảng kinh tế và liên hệ với
thực tiễn ở Việt Nam ”.
Từ đề tài nghiên cứu này, ta sẽ tiếp tục mở rộng nghiên cứu kỹ hơn về các nguyên
nhân tạo ra khủng hoảng cùng với các hậu qunặng nề đã để lại cho nền kinh tế và
các biện pháp nhằm kích cầu kinh tế, phục hồi nền kinh tế của các ớc trên Thế giới
và nhất là các biện pháp giải quyết của nước nhà Việt Nam.
Mục đích chính của việc nghiên cứu đề tài khủng hoảng kinh tế là để có thể biết rõ hơn
nguyên nhân và hậu quả của các cuộc khủng hoảng từ đó đưa ra các biện pháp để tránh
khủng hoảng hoặc không để chịu ảnh hưởng quá nặng nề từ những cuộc suy thoái kinh
tế này. Hơn thế sau mỗi cuộc khủng hoảng kinh tế luôn nhiều biến chuyển trong chính
sách phát triển kinh tế và cơ cấu các ngành kinh tế để giúp nền kinh tế phục hồi sau bài
tiểu luận này ta sẽ thấy hơn được các bước trưởng thành của nền kinh tế riêng của
nước nhà và nền kinh tế chung của cả Thế giới.
Việc nghiên cứu và tìm hiểu về đề tài này cũngcũng là một cách để tìm hiểu quá trình
phát triển, những chuyển biến của nền kinh tế và cả những thăng trầm của mỗi nền kinh
tế trong giai đoạn khó khăn này. Từ đó tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến các nền kinh
tế, sự cạnh tranh khắc nghiệt trong hoàn cảnh đầy khó khăn này từ đây rút ra được
các bài học cho các ớc đang trên đà phát triển như nước Việt Nam từ những nền kinh
tế được coi là hùng mạnh, có uy tín và thế lực nhất Thế giới như Mỹ, Nhật, Pháp, Anh,
Nga, Trung Quốc,..
I.Trình bày lý luận của Mác LêNin về khủng hoảng kinh tế:
1. Khái niệm:
- Khủng hoảng kinh tế là một thuật ngữ có phạm trù rất rộng. Hiểu đơn giản nhất
thì: Khủng hoảng kinh tế là sự suy giảm các hoạt động kinh tế, là tình trạng rối loạn,
mất thăng bằng nghiêm trọng do có nhiều mâu thuẫn không được hoặc chưa được giải
quyết trong nền kinh tế. Đó là sự rối loạn trong sản xuất, lưu thông hàng hóa trong lĩnh
vực tài chính, ngân hàng dẫn đến rối loạn đời sống, kinh tế gây ra nạn thất nghiệp,
giảm thu nhập và cuộc sống người lao động cũng bị sụt giảm kéo theo là sự bất ổn về
chính trị.
- Theo học thuyết Kinh tế chính trị của Mác-Lênin thì thuật ngữ "Khủng hoảng
kinh tế" là tình trạng suy thoái đột ngột của nền kinh tế. Hiện tượng suy thoái này
thường diễn biến trầm trọng làm sụt giảm về tất cả các hoạt động kinh tế và có xu
hướng kéo dài.
- Mặc dù, khủng hoảng kinh tế có thể giới hạn ở phạm vi quốc gia hay một khu
vực.Nhưng với xu hướng toàn cầu hóa mạnh mẽ như hiện nay, các cuộc khủng hoảng
kinh tế dần mở rộng ra phạm vi lớn hơn và dễ lan rộng ra phạm vi toàn cầu.
-Quan điểm của Mác và Lênin về khủng hoàng kinh tế như sau: khủng hoảng là
đặc trưng của riêng chế độ tư bản chủ nghĩa do mâu thuẫn giữa tính chất xã hội
của sản xuất (được chính chủ nghĩa tư bản xã hội hóa) và phương thức chiếm
lOMoARcPSD| 44820939
4
hữu tư nhân, cá nhân về tư liệu sản xuất. Đó là sự rối loạn trong sản xuất, lưu
thông hay phân phối.
2. Biểu hiện :
- Một: trắc trở trong việc mua và bán.
Không bán được hàng hóa hoặc phải bán rẻ, không đủ tiền thanh toán nợ đến hạn.
Giá nguyên liệu lên không đủ tiền mua, nếu không vay được thì phải giảm quy
mô sản xuất, sa thải công nhân, không tận dụng được công suất của máy móc,
thiết bị,…
-Hai: mất cân đối trong sản xuất.
Mác đã phát hiện những quan hệ tỷ lệ cân đối giữa các bộ phận tổng sản phẩm
hàng năm dành cho tái sản xuất tư bản và cho tiêu dùng cá nhân. Nếu một nước
không tự đảm bảo được những tỷ lệ cân đối đó thì sẽ lâm vào khủng hoảng. Ngoại
thương có thể tạm thời góp phần giải quyết những mất cân đối đó, nhưng ngoại
thương chỉ đẩy mâu thuẫn ra một trường rộng rãi hơn, chứ không giải quyết được
mâu thuẫn, khiến cho khủng hoảng mang tính chất toàn thế giới.
-Ba: rối loạn hệ thống tín dụng.
Trong hệ thống tín dụng, các doanh nghiệp vay nợ lẫn nhau nên khả năng thanh
toán của người này lại do khả năng thanh toán của người kia quyết định. Chừng
nào quá trình tái sản xuất còn tiếp tục thì tín dụng vẫn được duy trì. Nhưng nếu do
thị trường đình trệ, giá cả giảm sút, hàng hóa tồn đọng, không còn nhu cầu buôn
bán,… thì sẽ dẫn đến tình trạng khan hiếm tín dụng. Việc không có khả năng thanh
toán không chỉ xuất hiện ở một điểm mà ở nhiều điểm, do đó nảy sinh khủng
hoảng.
-Bốn: vi phạm quy luật về lưu thông tiền tệ.
Việc phát hành giấy thông qua số lượng cần thiết để lưu thông sẽ gây ra lạm phát.
Nhưng phát hành không đủ giấy bạc cũng gây khủng hoảng. Năm 1844, Đạo luật
Ngân hàng Anh đã hạn chế số lượng giấy được phát hành vào năm 1847 và 1857.
Đến khi Chính phủ Anh xóa bỏ sự hạn chế đó vào tháng 10/1847 và tháng
11/1857, khủng hoảng đã dần được đẩy lùi. Từ đó, đạo luật đã được bãi bỏ.
-Năm: mất cân đối giữa sản xuất và nhu cầu có khả năng thanh toán. Hệ thống
tín dụng và ngoại thương ngày càng mở rộng, tình trạng đầu cơ tích trữ,… đã tạo
ra những nhu cầu giả vượt quá khả năng thanh toán thực tế, dẫn đến quy mô sản
xuất mở rộng quá mức và hiện tượng sản xuất thừa thêm trầm trọng. Mức tiêu
dùng của quần chúng nhân dân nói chung và năng suất lao động không tăng theo
cùng tỷ lệ thuận.
- Sáu: xây dựng nchạy theo thị trường mang tính chất đầu cơ. Nhà thầu
vay vốn ngân hàng thông qua việc thế chấp bất động sản. Ngân hàng chỉ giải ngân dần
dần theo tiến độ xây dựng. Nếu xảy ra sự cố nhà thầu không trả được nợ đúng hạn
thì khoản vay sẽ bị đình chỉ, còn nếu phải bán nhà theo giá thấp để thanh toán thì sẽ lỗ,
thậm chí phá sản.
-Bảy: những chứng khoán không đại biểu cho tư bản thực tế, không có bảo đảm
ngày càng được phát hành nhiều hơn.
C.Mác đã dẫn ra các tài liệu liên quan đến những khoản tín dụng giả được tạo ra
bằng phương pháp kỹ thuật. Ví dụ, một ngân hàng địa phương đã cho người môi
giới chứng khoán đem đi chiết khấu ở thị trường London sau khi chiết khấu kỳ
phiếu. Điều này hoàn toàn dựa trên mức độ tín nhiệm của ngân hàng mà không
lOMoARcPSD| 44820939
5
xem xét các phẩm chất khác của kỳ phiếu, cộng thêm những trường hợp đầu cơ
chứng khoán, cổ phiếu.
3.Nguyên nhân:
- Do tác động của quy luật cạnh tranh và sản xuất vô chính phủ, những quan hệ tỷ
lệgiữa các ngành sản xuất, các khu vực, các mặt của qtrình tái sản xuất... thường
xuyên bị gián đoạn bởi các cuộc hủng hoảng kinh tế. Khủng hoảng kinh tế biểu hiện
chỗ: Hàng hóa bị đọng, sản xuất bị thu hẹp, nghiệp thậm chí phải đóng cửa, nạn
thất nghiệp tăng lên, thị trường thì rối loạn,...
- Nguyên nhân gây ra khủng hoảng kinh tế rất đa dạng. Nhưng chủ yếu sẽ hay
gặpnăm nguyên nhân sau: Khủng hoảng tài chính; bong bóng kinh tế; lạm phát; giảm
phát sự cắt giảm chi tiêu. Mỗi nguyên nhân sẽ tác động đến một phương diện khác
nhau của nền kinh tế. Và khi đạt đến một mức độ nhất định thì sẽ gây ra khủng hoảng.
3.1. Khủng hoảng tài chính:
- Hầu hết các tường hợp dẫn đến khủng hoàng kinh tế thì nguyên nhân từ khủng
hoảngtài chính. Đókhi GPA thường giảm, thanh khoản cạn kiệt, giá bất động sản
thị trường chứng khoản giảm mạnh, suy thoái kinh tế ngày càng tồi tệ hơn.
Khủng hoảng kinh tế xảy ra khi giá trị của các tài sản sụt giảm kéo thei sự mất khả năng
thanh toán của người tiêu dùng doanh nghiệp. Trong một số trường hợp, khủng hoảng
tài chính sự sụp đổ của thị trường chứng khoán sự xuất hiện của các bong bóng
kinh tế. Các vụ vỡ nợ và tình trạng khủng hoảng tiền tệ cũng xuất hiện khi xảy ra khủng
hoảng tài chính. Khủng hoảng tài chính n gây ra khung hoảng cho hệ thống ngân hàng,
sự sụp đổ của thị trường chứng khoán các lĩnh vực tài chính khác. Khủng hoảng tài
chính trực tiếp dẫn đến mất tài sản kinh tế, thể ảnh hưởng đến vị thế kinh tế của
một quốc gia hoặc không tùy thuộc vào hậu quả khủng hoảng kinh tế quốc gia đó
phải gánh chịu.
- Điển hình cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2008 bắt đầu từ khu bong bóng
nhàđất Msụp đổ. Cuộc khủng hoảng kinh tế 2008 ảnh hưởng đến Việt Nam một cách
sâu sắc.
- Nhiều nhà kinh tế đã đưa ra thuyết về cách cuộc khủng hoảng tài chính phát
triểnvà làm thế nào để ngăn chặn được. Tuy nhiên, gần như không sự đồng thuận
giữa các giải pháp và khủng hoảng tài chính là hiện tượng diễn ra theo thời gian.
3.2. Bong bóng kinh tế:
- Bong ng kinh tế hay bóng ng đầu cơ, bóng bóng tài chính: hiện tượng giá
trịhàng hóa hoặc tài sản trên thị trường tăng đột biến đến mức vô lý và không ổn định.
Giá trị nh hóa trong thị trường đạt ngưỡng cao một cách không tính bền
vững, thường chỉ kéo đài trong một khoảng thời gian ngắn. Khi bong bóng kinh tế vỡ
dẫn tới giá của các loại hàng hóa quay trở lại sụt giảm nghiêm trọng, nhà đầu mất
tiền, người lao động thì thất nghiệp và doanh nghiệp bị phá sản.
- Ví dụ như cuộc khủng hoảng hoa Tulip tại Hà Lan năm 1637 đã phá hủy toàn bộ
nềnkinh tế Lan, biến Lan từ cường quốc hàng đầu thế giới xuống hàng thứ yếu,
mở ra cơ hội vươn lên của nước Anh sau này.
- Mức giá cao quá mức của sản phẩm không phản ánh được sức tiêu dùng hoặc
nhucầu của người tiêu dùng về sản phẩm. Giai đoạn phát sinh bong bóng giai đoạn
bong bóng vỡ là kết quản của hiện tượng phản ứng thuận khi các chủ thể nền kinh tế có
phản ứng đồng nhất. Những bong bóng sẽ kéo theo một số tiền lớn đổ vào đầu tư, khiến
lOMoARcPSD| 44820939
6
thị trường xảy ra biến động lớn. và khi vỡ, bong bóng sẽ xóa sạch lợi nhuận ảo trên giấy
tờ, làm thất thoát tài sản của rất nhiều cá nhân hay tổ chức. Kéo theo các khoản nợ xấu
ảnh hưởng tới nền kinh tế.
3.3. Lạm phát:
- Theo kinh tế học vĩ mô, lạm phát là hiện tượng tăng giá liên tục của hàng hóa và
dịchvụ thị trường. Lạm phát làm suy giảm sức mua của người dân trên một đơn vị tiền
tệ. Lạm phát thường diễn ra chậm kéo dài qua nhiều năm, khiến cuộc sống người dân
bị đảo lộn. Làm gia tăng sự không chắc chắn trong quyết định đầu tư và tiết kiệm cùng
với sự khan hiếm hàng hóa.
- Trong trường hợp tăng trưởng kinh tế mức thấp tỷ lệ lạm phát cao thì
sexdaanxđến tình trạng khủng hoảng kinh tế.
3.4. Giảm phát:
- Trái ngược với lạm phát, giảm phát sự sụt giảm chung về giá cả hàng hóa
dịchvụ, thường liên quan đến sự giảm cung tiền và tín dụng của nền kinh tế. Trong thời
kỳ giảm phát, sức mua của tiền tệ tăng lên theo thời gian.
- Mặc giảm phát vmột điều tốt nhưng thể báo hiệu một cuộc suy
thoáisắp xảy ra và thời kỳ kinh tế khó khăn. Khi mọi người cảm thấy giá đang giảm, họ
sẽ trì hoãn việc mua ng hóa với hi vọng sẽ mua được với mức giá thấp hơn ngày
sau đó. Nhưng chi tiêu thấp hơn thì dẫn đến thu nhập ít hơn, điều này dẫn đến thất nghiệp
và lãi suất cao hơn.
3.5. Giảm chi tiêu:
- Với tâm lo lắng về sự biến động của nền kinh tế sau khi nhận thức được vấn
đềkhủng hoàng kinh tế, người tiêu dùng lo lắng. Vậy nên, họ cắt giảm chi tiêu và giữ lại
nhiều nhất có thể. Sự cắt giảm này ảnh hưởng đến kinh tế và làm giảm tốc độ phát triển
của nền kinh tế. Việc này sẽ khiến nền kinh tế phát triển chậm lại vì trung bình gần 60%
GDP của các nước phụ thuộc vào chi tiêu của người tiêu dùng.
- Lãi suất cao cũng khiến cho các doanh nghiệp đối mặt với khó khăn, phải cắt
giảm kếhoạch chi tiêu vì chi phí tài chính quá cao. Do vậy, việc giảm chi tiêu làm chững
lại nền tăng trưởng kinh tế GDP của quốc gia, là yếu tố GDP phần tạo nên khủng hoảng
kinh tế.
4. Hậu quả:
4.1Các hoạt động thương mại, đầu tư, tiêu dùng của mỗi quốc gia đều
sụt giảm mạnh:
-Dưới tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, các
hoạt động thương mại, đầu tư, tiêu dùng của mỗi quốc gia đều sụt giảm
mạnh, dẫn tới nguy cơ suy thoái kinh tế của mỗi nước. Thậm chí, nhiều
nước lâm vào tình trạng phá sản cấp quốc gia.
-Biểu hiện của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu thường
là gây ra những ảnh hưởng vĩ mô nghiêm trọng, các cân đối vĩ mô bị phá
vỡ, đồng tiền mất giá, tỷ giá hối đoái biến động đột biến theo hướng phá
giá, lạm phát cao và phi mã xuất hiện, gánh nặng nợ công tăng nhanh, thị
trường chứng khoán sụp đổ, tài sản ở các nước bị giảm giá mạnh, nhiều
doanh nghiệp, ngân hàng và các định chế tài chính phá sản, tình trạng mất
việc làm và thất nghiệp tăng cao, hàng triệu người bị lâm vào cảnh đói
lOMoARcPSD| 44820939
7
nghèo, rối loạn và xung đột xã hội nảy sinh, bạo loạn và chiến tranh xuất
hiện.
-Có thể thấy, các cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã
gây ra những hậu quả vô cùng kinh hoàng. Cuộc khủng hoảng và suy thoái
kinh tế toàn cầu giai đoạn 1929 - 1933 đã đẻ ra chủ nghĩa phát-xít trong thập
niên 30 của thế kỷ XX và là nguyên nhân chính dẫn đến Chiến tranh thế giới
thứ hai tàn khốc. Hậu quả của cuộc khủng hoảng này và của Chiến tranh thế
giới thứ hai là nhiều chế độ đã bị sụp đổ, nhiều nền kinh tế đã bị tan rã. Cuộc
khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 - 1998 bắt đầu từ Thái Lan đã dẫn
đến sự sụp đổ của một số nền kinh tế và một vài chế độ chính trị. Những
nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất từ cuộc khủng hoảng tài chính này là In-đô-
nê-xi-a, Hàn Quốc và Thái Lan. Bên cạnh những tác động tàn phá đến các
nền kinh tế của các nưc, khủng hoảng kinh tế giai đoạn 1997 - 1998 đã dẫn
tới xung đột xã hội, mất ổn định chính trị ở một số nước mà đỉnh điểm của
nó là sự ra đi của Tổng thống Xu-hác-tô (Suharto) ở In-đô-nê-xi-a và Thủ
tướng Chao-va-lít I-oong-chai-i-út ở Thái Lan. Các tổ chức Hồi giáo cực
đoan và phong trào ly khai phát triển mạnh ở In-đônê-xi-a khi chính quyền
trung ương của nước này suy yếu. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm
2008 xuất phát từ khủng hoảng nợ dưới chuẩn của Mỹ năm 2007, mà nguyên
nhân của nó bắt nguồn từ những chính sách tín dụng dễ dãi của các ngân
hàng và tổ chức đầu tư bất động sản, thông qua mối quan hệ kinh doanh
chằng chịt của hệ thống ngân hàng thời đại toàn cầu hoá. Cuộc khủng hoảng
này đã xuất hiện khi hàng loạt các định chế tài chính lớn lần lượt sụp đổ,
nhất là sự phá sản của Ngân hàng Lehman Brothers. Đây là ngân hàng mà
chỉ một năm trước đó còn được đánh giá là ngân hàng đầu tư bất động sản
tốt nhất nước Mỹ. Sau Ngân hàng Lehman Brothers là các ngân hàng lớn
khác, như Bradford and Bingley (Anh),
Hypo Real Estate (Đức), Fortis (Bỉ), Dexia (Pháp), Yamamoto Life (Nhật
Bản)... Năm 2008, 22 ngân hàng thương mại ở Mỹ phá sản (trong đó
đứng đầu danh sách những thể chế tài chính xấu số này là Washington
Mutual với tổng tài sản 307 tỷ USD). Riêng quý III-2008 có 171 ngân
hàng nằm trong danh sách “có vấn đề”, mức cao nhất kể từ năm 1995. 4.2
Tác động phức tạp đến an ninh, quốc phòng và bảo vệ quốc gia.
4.2.1 nguồn lực kinh tế bị giảm sút, tiềm lực an ninh, quốc phòng của
không ít quốc gia bị thu hẹp.
-Khi khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu diễn ra, các quốc
gia khó tránh khỏi bị ảnh hưởng tác động của nó, nhiều quốc gia cũng lâm
vào khủng hoảng và chịu tổn thất nặng nề. Khi lâm vào tình trạng khủng
hoảng, các quốc gia thường gặp phải tình trạng vốn bị chuyển ồ ạt ra bên
ngoài, đầu tư giảm sút mạnh, nền kinh tế hầu như bị tê liệt. Các tổ chức
kinh tế không có khả năng và điều kiện để vay vốn phát triển sản xuất, kinh
doanh. Niềm tin thị trường bị mất, giá trị tài sản của cá nhân và tổ chức, kể
cả của nhà nước giảm sút nghiêm trọng. Hậu quả của nó là các định chế tài
chính và doanh nghiệp sụp đổ, phá sản, nhà nước phải dành một lượng tài
chính để can thiệp vào nền kinh tế; nhiều vấn đề xã hội phức tạp xuất hiện
đòi hỏi phải được giải quyết, các khoản nợ bỗng chốc tăng cao, trong khi
nền kinh tế không tăng trưởng hoặc tăng trưởng thấp đã làm cho tiềm lực
kinh tế của các nước này bị cạn kiệt. Khi nguồn lực kinh tế bị cạn kiệt thì
lOMoARcPSD| 44820939
8
nguồn lực cho quốc phòng, an ninh cũng giảm theo. Các nhu cầu trang bị
khí tài sẽ không được đáp ứng, các nguồn lực để nuôi quân bị cắt giảm, các
hoạt động quốc phòng - an ninh bị thu hẹp.
-Bên cạnh những hệ lụy trên, nhiều quốc gia còn phải chịu gánh nặng nợ công
tăng đột biến, nên mọi nguồn lực chỉ còn tập trung vào trả nợ và giải quyết
những vấn đề phát sinh, không còn khả năng lo cho quốc phòng - an ninh. Từ
đây khả năng tác chiến bảo đảm an ninh - quốc phòng và bảo vệ đất nước gặp
khó khăn một cách rõ nét và sẽ giảm sút. Khi tiềm lực tài chính và nguồn lực
an ninh, quốc phòng bị giảm sút thì nguy cơ đe dọa sự toàn vẹn lãnh thổ sẽ
hiện hữu nếu có dã tâm xâm lược từ bên ngoài. Hơn nữa, khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế toàn cầu sẽ làm cho các quốc gia có nền kinh tế
phụ thuộc vào nước ngoài và nội lực kinh tế thấp sẽ bị ảnh hưởng khi phải
chấp nhận những điều kiện ràng buộc của các nước mạnh hơn và của các tổ
chức tài chính quốc tế. Ví dụ, để hỗ trợ hệ thống tài chính toàn cầu, Quỹ Tiền
tệ quốc tế (IMF) hay Ngân hàng Thế giới (WB) đã thiết lập hoạt động và các
chương trình cho vay khẩn cấp trị giá nhiều tỷ USD. Các quốc gia mạnh hơn
và các tổ chức tài chính quốc tế thường đưa ra các điều kiện ràng buộc phức
tạp đối với khoản vay, trong đó có việc cho phép các nước và các tổ chức
quốc tế can thiệp sâu không chỉ vào quá trình hoạch định chính sách vĩ mô
mà cả vấn đề an ninh - quốc phòng và bảo vệ tổ quốc của các nước có nền
kinh tế phụ thuộc. Ví dụ, trong cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á năm
1997, Chính phủ In-đô-nê-xi-a, Thái Lan,... đã chịu tác động của IMF. Bên
cạnh đó, một số nước lớn muốn nhân cơ hội khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế của các nước nhỏ để ràng buộc các nước nhỏ hơn phải phụ thuộc
vào mình nhiều hơn trên các mặt kinh tế, chính trị, xã hội và ngoại giao và có
khi cả lãnh thổ.
4.2.2 xã hội biến đổi phức tạp làm cho sức mạnh an ninh - quốc phòng
bị giảm sút.
-Trước thực tế tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn
cầu đã đưa đến sự phá sản của các doanh nghiệp, ngân hàng, đời sống của
người dân bị giảm sút, tình trạng không có việc làm tăng nhanh và thất
nghiệp tăng đột biến. Khi giá cả tăng cao, đồng lương và thu nhập của
người dân không bảo đảm cho cuộc sống của họ và nhiều người không có
thu nhập lâm vào cảnh cùng cực thì tất yếu sinh ra biến loạn. Xã hội biến
loạn sẽ kéo theo biểu tình, bãi công, trộm cắp xuất hiện, gây rối sẽ phát
triển..., đe dọa đến sự an bình của xã hội. Gặp phải hoàn cảnh này, không ít
chính trị gia đứng đầu nhà nước phải từ chức, các chính phủ phải ra đi và có
trường hợp cả một chính thể, bộ máy cầm quyền bị thay đổi. Khi chính thể
cầm quyền sụp đổ thì lực lượng quốc phòng - an ninh cũng từ đó xáo trộn,
sức chiến đấu vì thế giảm sút nghiêm trọng, khả năng bảo đảm an ninh,
quốc phòng và bảo vệ đất nước bị yếu đi đáng kể. Đồng thời, khi trong
nước rối ren, thù trong xuất hiện thì giặc ngoài sẽ có cơ hội nhòm ngó nên
sự toàn vẹn lãnh thổ rất dễ bị xâm phạm, chủ quyền quốc gia bị lung lay.
Thực tế cho thấy, nước lớn sẽ rất dễ xâm lược lãnh thổ của nước nhỏ hơn
khi nước đó phải gánh chịu hậu quả nặng nề từ khủng hoảng tài chính và
suy thoái kinh tế đã diễn ra trên thế giới. Nguy cơ đe dọa chủ quyền lãnh
thổ đối với những nước nhỏ là luôn hiện hữu.
lOMoARcPSD| 44820939
9
4.2.3 Rối loạn toàn cầu, xung đột xảy ra nhiều nơi sẽ tác động mạnh đến
an ninh - quốc phòng và bảo vệ tổ quốc của mỗi nước.
-Thực tế các cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu cho
thấy, trong và sau mỗi cuộc khủng hoảng đã diễn ra sự bất ổn chính trị ở
nhiều nước và xung đột vũ trang ở nhiều khu vực trên thế giới. Sự lây lan
của các cuộc xung đột vũ trang ở c khu vực kéo theo sự sụt giảm và đổ
bể của nền kinh tế thế giới. Khi kinh tế toàn cầu sụt giảm thì các quốc gia
đều bị ảnh hưởng (vì hiện nay đã toàn cầu hóa rất cao, không có một nền
kinh tế nào có thể biệt lập mà phát triển được, đồng thời cũng không có nền
kinh tế nào có thể tránh được tác động khi có biến động của nền kinh tế thế
giới). Điều này tác động rất lớn đến các nước về vấn đề an ninh - quốc
phòng và bảo vệ tổ quốc.
4.2.4 khủng bố và di chuyển dân cư làm cho quốc phòng, an ninh của
nhiều quốc gia bị đe dọa.
-Hoạt động khủng bố ngày một lan rộng cùng với làn sóng người tị nạn đến
từ Xy-ri dường như là một đại họa đối với châu Âu và tác động không tốt đến
cả thế giới. Khi khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế lên cao thì hành vi
phạm tội càng trở nên cực đoan, các tổ chức khủng bố sẽ hoạt động tàn bạo
hơn và làn sóng tị nạn sẽ tăng mạnh hơn làm cho tình hình của các quốc gia
có người tị nạn và hoạt động khủng bố hoành hành càng trở nên phức tạp.
Với lý do đó, chi phí cho an ninh, quốc phòng của các nước phải tăng đột
biến mới mong bảo đảm được trật tự.
5. Tính chu kỳ của khủng hoảng kinh tế:
- Khủng hoảng kinh tế xuất hiện làm cho quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa mangtính
chu kỳ. Chu kkinh tế của chủ nghĩa tư bản là khoảng thời gian nền kinh tế tư bản ch
nghĩa vận động từ đầu cuộc khủng hoảng này đến đầu cuộc khủng hoảng sau.
- Chu kỳ kinh tế gồm bốn giai đoạn: khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh.
- Khủng hoảng: giai đoạn khới điểm của chu kỳ kinh tế mới. giai đoạn này, hàngh
ế thừa, đọng, giá cả giảm mạnh, sản xuất đình trệ, nghiệp đóng cửa, công nhân
thất nghiệp hàng loạt, tiền công hạ xuống. Tư bản mất khả năng thanh toán các khoản
nợ, phá sản, lực lượng sản xuất bị phá hoại nghiêm trọng. Đây giai đoạn các mâu
thuẫn biểu hiện dưới hình thức xung đột dữ dội.
- Tiêu điều: đặc điểm giai đoạn này sản xuất trạng thái trì trệ, không còn tiếptục
đi xuống nhưng cũng không tăng lên, thương nghiệp vẫn đình đốn, ng hóa được đem
bán hạ giá, bản đrỗi nhiều không nơi đầu tư. Trong giai đoạn này, để thoát
khỏi tình trạng bế tắc, các nhà tư bản còn trả lại được tìm cách giảm chi phí bằng cách
hạ thấp tiền công, tăng cường độ và thời gian lao động của công nhân, đổi mới tư bản
cố định làm cho sản xuất vẫn còn có lời trong tình hình hạ giá. Việc đổi mới tư bản cố
định làm tăng nhu cầu về liệu sản xuất liệu tiêu dùng, tạo điều kiện cho sự
phục hồi chung của nền kinh tế.
lOMoARcPSD| 44820939
10
- Phục hồi; giai đoạn các nghiệp được khôi phục mở rộng sản xuất. Côngnhân
lại được thu hút o làm việc; mức sản xuất đạt đến quy cũ, vật giá tăng lên, lợi
nhuận của tư bản do đó cũng tăng lên.
- ng thịnh: là giai doạn sản xuất phát triển ợt quá điểm cao nhất mà chu kỳ trướcđã
đạt dược. Nhu cầu và khả năng tiêu thụ hàng hoá tăng, xí nghiệp được mở rộng và xây
dựng thêm. Nhu cầu tín dụng tăng, ngân hàng tung tiền cho vay, năng lực sản xuất lại
vượt quá sức mua của xã hội. Do đó, lại tạo điều kiện cho một cuộc khủng hoảng kinh
tế mới.
- Trong chủ nghĩa tư bản hiện nay, khủng hoảng kinh tế vẫn không tránh khỏi, nhưngcó
sự can thiệp tích cực của nhà nước sản vào quá tình kinh tế. Sự cần thiết này mặc
không triệt tiêu được khủng hoảng chu kỳ trong nền kinh tế nhưng đã làm cho
tác động phá hoại của khủng hoảng bị hạn chế bớt.
Nguồn ảnh: hps://cake.vn/chu-ky-kinh-te-la-gi-cac-giai-doan-cua-chu-ky-kinh-te/
6. Giai pháp:
- Thứ nhất, tiếp tục thực hiện các nhóm giải pháp chống lạm phát, nhất là tiếp tục
chíánh sách tiền tệ chặt chẽ nhưng linh hoạt, thận trọng theo cơ chế thị trường (không
đưa các giải pháp sốc). Sử dụng hiệu quả các công cụ tiền tệ với việc điều chỉnh linh
hoạt theo diễn biến của thị trường như: tỷ giá, lãi suất, hạn mức tín dụng… Tớc mắt
hạ lãi suất xuống một cách phù hợp theo tín hiệu thị trường. Xử lý nợ xấu của các
ngân hàng thương mại, bảo đảm các khoản nợ này ở mức an toàn. Rà soát và kiểm
lOMoARcPSD| 44820939
11
soát chặt chẽ các khoản vay kinh doanh bất động sản và chứng khoán. Bên cạnh đổi
mới và cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, cần đổi mới quản trị nội bộ ngân hàng nhằm
lành mạnh hoá hệ thống này tránh tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới.
- Thứ hai, tăng cường sự giám sát của Chính phủ đối với hệ thống tài chính, ngân
hàng và thị trường chứng khoán. Rà soát lại và lành mạnh hóa hệ thống tài chính, ngân
hàng. Rà soát lại các ngân hàng cho vay nhiều vào khu vực bất động sản và các dự án
có tính rủi ro cao. Kiểm tra chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại, đặc
biệt là tín dụng dành cho các lĩnh vực nhiều rủi ro như bất động sản, chứng khoán.
Xây dựng hệ thống cảnh báo sớm với các tiêu chí cụ thể để có phương án, giải pháp
dự phòng đối với biến động xấu từ hệ thống ngân hàng, tài chính.
- Thứ ba, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, có chính sách hỗ trợ nông nghiệp khắc
phục hậu quả bão lụt, hỗ trợ người dân sản xuất lương thực, thực phẩm và người dân
nghèo vùng sâu, vùng xa, tạo điều kiện thuận lợi đến các doanh nghiệp làm ăn có hiệu
quả. Có chính sách miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, nhất là đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ, giảm tiến độ thu thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá
trị gia tăng hàng nhập khẩu trong trường hợp lạm phát cao và suy thoái kinh tế. Tập
trung tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh trong
các tháng cuối năm.
- Thứ tư, tiếp tục các chính sách về chặt chẽ chi tiêu Chính phủ và đầu tư khu vực
công nhằm tránh xảy ra nguy cơ thâm hụt ngân sách. Việc thắt chặt chi tiêu Chính phủ
và chuyển các khoản đầu tư công sang cho khu vực tư nhân sẽ góp phần vào việc giảm
thuế cho khu vực doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân. Các doanh nghiệp sẽ có
thêm được nguồn vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh và thị trường. Đẩy mạnh đầu tư
cho các dự án cơ sở hạ tầng, hạ tầng kỹ thuật lớn, quan trọng mà trong các thời điểm
trước đây chưa có điều kiện đầu tư thì nay đầu tư để kích thích kinh tế phát triển.
- Thứ năm, cải cách và tháo gỡ các vướng mắc về thủ tục hành chính, về giải
phóng mặt bằng, phê duyệt dự án và về giải ngân để tạo điều kiện các dự án, chương
trình được triển khai nhanh, đặc biệt là đối với các công ty xây dựng. Đối kinh doanh
bất động sản thì bên cạnh đẩy mạnh và khuyến khích đầu tư và xây dựng nhà giá rẻ
cho người nghèo, các đối tượng chính sách, nhà ở cho người lao động ở các khu kinh
tế, khu công nghiệp tập trung, nhà ở cho sinh viên, học sinh, cần hạn chế và đánh thuế
cao vào các trường hợp đầu cơ bất động sản.
- Thứ sáu, đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu, để tránh bớt tác động từ việc
giảm nhập khẩu của Mỹ và một số nước chịu nhiều tác động từ cuộc khủng hoảng tài
chính, tín dụng thế giới và tăng cường các thị trường mới, chuyển hướng tới mở rộng
thị trường trong nước. Áp dụng các biện pháp chính sách để khuyến khích phát triển
sản xuất hàng xuất khẩu, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu và giảm bớt nhập siêu. Thực
hiện chế độ tỷ giá linh hoạt hỗ trợ xuất khẩu và tăng mức tín dụng ưu đãi cho sản xuất
hàng xuất khẩu.
Tăng cường và đẩy mạnh phát triển thị trường trong nước, nhất là trong các khâu thu
mua nguyên liệu nông sản bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa phát triển vùng sản xuất
nguyên liệu với công nghiệp chế biến và xuất khẩu, phát triển hệ thống phân phối các
lOMoARcPSD| 44820939
12
vật tư quan trọng và hệ thống bán lẻ, nâng cao chất lượng dịch vụ và bảo đảm vệ sinh
an toàn thực phẩm.
-Thứ bảy, theo dõi chặt chẽ các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta, tiếp tục cải
thiện môi trường đầu tư, đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư nước ngoài, trong đó theo
dõi việc triển khai các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Mỹ và các nước Châu Âu
để có thể hỗ trợ khi cần thiết.
- Thứ tám, tổ chức, điều hành và giám sát tốt việc bảo đảm sự thông suốt của cơ
sở bán lẻ trong nước, không gây đầu cơ, ách tắc, khan hiếm hàng hoá. Đồng thời
khuyến khích tiêu dùng hợp lý và nâng lương tối thiểu sớm cho cán bộ, công chức n
nước và công nhân ở các doanh nghiệp.
- Thứ chín, tăng cường công tác thông tin, quan hệ công chúng. Bám sát thường
xuyên, cập nhật thông tin trong và ngoài nước để có đánh giá đúng diễn biến tình hình;
qua đó có được phản ứng chính sách thích hợp và kịp thời nhất.
II. Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam:
- Các chuyên gia trong lĩnh vực bất động sản chỉ rõ, năm 1999, khủng hoảng nổ ra vớisự
sụp đổ của loạt ngân hàng thương mại.
- Thời điểm đó, nhiều chính sách cởi mở cho thị trường bất động sản, nhất khinhiều
Tập đoàn nước ngoài đổ làn sóng đầu tư vào Việt Nam sau khi lệnh cấm vận được dỡ
bỏ.
- Cơn "sốt đất" cộng thêm cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997 - 1998 đãchâm
ngòi cho khủng hoảng của thị trường bất động sản năm 1999.
- Để rồi 10 năm sau đó, năm 2009 thời điểm chỉ số chứng khoán đẩy cao và thịtrường
đầu tư bất động sản tiếp tục “bùng nổ.”
- Cùng chịu tác động chung của khủng hoảng tài chính thế giới từ 2008, thời điểm2009
thị trường bất động sản Việt Nam một lần nữa rơi vào khủng hoảng nặng nề và dư âm
của nó kéo dài cả mấy năm sau đó.
Bởi vậy, khi năm 2019 cận kề, những lo ngại về tính chu kỳ lặp lại 10 năm một lần tiếp
tục được các chuyên gia cảnh báo.
- Tuy nhiên, theo phân ch nhận xét của một số chuyên gia ng như nhà quản lý,chu
kỳ này sẽ khó lặp lại bởi Chính phủ hiện đã có những cải thiện mạnh mẽ về thủ tục
hành chính, giảm bộ máy hành chính công, GDP cũng có bước tăng trưởng mạnh nhất
suốt trong vòng 1 thập kỷ qua.
- Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản Thành phố Hồ Chí Minh Lê Hoàng Châu cho rằng,việc
thị trường bất động sản có “bong bóng” hay không còn phụ thuộc ở nhiều yếu tố như:
kinh tế phát triển nóng; buông lỏng chính sách tín dụng; lệch pha cung cầu; gia tăng
nhà đầu tư thứ cấp và đầu cơ; sự kiểm soát của Nhà nước.
lOMoARcPSD| 44820939
13
- Về đợt khủng hoảng thị trường bất động sản m 2009, ông Châu phân tích, năm2006
- 2007, tăng trưởng tín dụng của Việt Nam lên đến 37,8% là rất “nóng.” Trong khi đó,
tăng trưởng tín dụng 2017 chỉ được 18,17%, chỉ bằng nửa của năm 2007.
- Hiện nay, do sự nỗ lực của Ngân hàng Nhà nước nên không chuyện buông lỏngtín
dụng, không chuyện ngân hàng cho vay dưới chuẩn nên dòng tiền hoàn toàn chịu
kiểm soát.
- Cùng đó, nhà đầuthứ cấp và đầu cơ ở Việt Nam có dấu hiệu gia tăng nhưng chủyếu
mua đi bán lại nên không đủ để tạo nên “bong bóng.” Trong khi đó, Nhà nước đã
kịp thời sử dụng những công cụ về hành chính để điều chỉnh thị trường rất rõ. Bởi vậy,
theo ông Châu, Nhà nước đã kiểm soát được các yếu tliên quan nên không thể
“bong bóng” xảy ra với thị trường ở thời điểm này cũng như năm 2019. Theo đại diện
Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh, bài học tín dụng tăng nóng
vào lĩnh vực bất động sản hơn 10 năm trước vẫn còn đó nên ngay tđầu năm 2018,
Ngân hàng Nhà nước đưa ra mục tiêu tăng trưởng tín dụng ở mức 17%.
- Thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện giảm tăng trưởng tín dụng nhưngcơ
bản vẫn hỗ trợ nền kinh tế phát triển. Việc khuyến nghị các ngân hàng kiểm soát tín
dụng vào bất động sản không những giúp ngân hàng phát triển bền vững cả thị
trường bất động sản cũng ổn định.
- Một số doanh nghiệp cho rằng, bất động sản vẫn là kênh đầu tư an toàn cho cả nhàđầu
trong ngoài nước. Nguyễn Thị Thanh Hương - Tổng giám đốc Công ty cổ
phần Bất động sản Đại Phúc Land nhận xét, các nhà đầu nước ngoài cũng tỏ ra tin
tưởng vào kinh tế, môi trường đầu của Việt Nam quan tâm đến đầu vào các
dự án bất động sản trong thời gian tới, nhất là các dự án do chủ đầu uy tín thực hiện
và cung cấp sản phẩm chất lượng, đáp ứng nhu cầu của thị trường.
- Nguyễn Hoài An - Giám đốc CBRE Hà Nội, cho biết chưa có cơ sở để khẳngđịnh
điều này. Tiếp đà tăng trưởng ấn tượng của quý I, GDP trong quý II của Việt Nam đạt
mức tăng trưởng 6,79% so với cùng kỳ năm ngoái, nâng mức tăng trưởng của 6 tháng
đầu năm lên 7,08%, cao nhất trong 8 năm qua. Chỉ số giá tiêu dùng (lạm phát) đang ở
mức vừa phải là 4% (10 năm trước - thời kì khủng hoảng, lạm phát lên tới 15%).
- Cùng đó, nguồn vốn FDI chảy vào Việt Nam cũng tăng mạnh. Nhà đầu tư quốc tếđến
Việt Nam ngày một nhiều. Tổng vốn đầu trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đạt
20,3 tỷ USD, bao gồm vốn từ các dự án cấp phép mới, tăng thêm góp vốn mua cổ
phần của các nhà đầu tư nước ngoài, tăng 5,7% so với cùng kỳ năm ngoái. Ngành bất
động sản thu hút 5,4 tỷ USD, chiếm 27,3% tổng nguồn vốn FDI trong 6 tháng đầu
năm.
- Ngoài ra, các chỉ số phát triển của doanh nghiệp vẫn đang trên đà tăng, doanh số bánlẻ
tăng, giá nhà ở cả thị trường sơ cấp và thứ cấp ở mức tăng dưới 5% trên bình diện thị
trường. Yếu tố cho thấy, hiện tại chưa dấu hiệu cụ thể để nói thị trường bất
động sản đang có nguy cơ đối diện với khủng hoảng vào năm 2019 - An phân tích.
lOMoARcPSD| 44820939
14
- Mới đây, trong cuộc họp báo thường kỳ, By dựng cho biết trong 2 quý đầu củanăm
2018 đã xuất hiện tình trạng sốt cục bộ đất nền, giá tăng cao bất thường ở một số khu
vực vùng ven Thành phố Hồ Chí Minh, huyện Long Thành (Đồng Nai), Vân Đồn
(Quảng Ninh), Phú Quốc (Kiên Giang), Bắc Vân Phong (Khánh Hòa)… Tuy nhiên,
nguyên nhân chính là do một số đối tượng lợi dụng chủ trương thành lập các đặc khu,
đầu tư một số dự án đầu tư lớn về giao thông (sân bay Long Thành, tuyến Metro số 1
của thành phố Hồ CMinh, một số đường cao tốc…) để tung tin thất thiệt, thổi giá,
đầu cơ.
- Trong khi đó, các cơ quan chức năng lại chưa làm tốt việc truyền thông, công khai
thông tin về quy hoạch, chủ trương tiến độ của các dự án đầu lớn, kiểm soát chuyển
nhượng đất nền chưa chặt chẽ.
Bộ Xây dựng khẳng định sốt đất đã ổn định bước đầu được kiểm soát. Hiện những
“điểm nóng” về tăng giá tại 2 đô thị lớn Nội thành phHồ Chí Minh thì giao
dịch cũng đã bị “hãm phanh” trong mấy tháng gần đây. Nguyên nhân lớn nhất được dự
đoán do các nhà đầu tư, người mua nhà đang căng mình nghe ngóng cảnh giác
trước thời điểm bản lề của lời nguyền chu kỳ khủng hoảng.
- Cục trưởng Cục quản lý nhà và thị trường bất động sản (Bộ Xây dựng) NguyễnTrọng
Ninh khẳng định, năm 2018 sẽ không xảy ra tình trạng bong bóng bất động sản như
nhiều người lo ngại; hiện Bộ Xây dựng cũng đang m đề án, dự báo tình hình thị
trường về trung hạn (2018-2025) để trình Chính phủ.
Ông Ninh chia sẻ thêm, Bộ Xây dựng đang tiến hành xây dựng đề án an ninh kinh tế
trong lĩnh vực bất động sản. Trong đề án này, Bộ sẽ đánh giá tình hình an ninh trong
nhiều vấn đề liên quan đến bất động sản như: Lĩnh vực đầu nước ngoài, cho người
nước ngoài mua nhà, tín dụng - bong bóng bất động sản, quản vận hành, tranh chấp
nhà chung cư… trước khi trình Chính phủ vào tháng 12.
lOMoARcPSD| 44820939
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình Kinh tế chính trị Mác-LêNin
2. https://luatminhkhue.vn/khung-hoang-kinh-te-la-gi-nguyen-nhan-ban-chat-
khunghoang-kinh-te.aspx
3. https://cake.vn/chu-ky-kinh-te-la-gi-cac-giai-doan-cua-chu-ky-kinh-te/
4. https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/fm/ddnhnn/nctd/nctd_chitiet?
leftWidth=20%25&showFooter=false&showHeader=false&dDocName=CNTHWE
B
AP01162524528&rightWidth=0%25&centerWidth=80%25&_afrLoop=178187499
98
056466#%40%3F_afrLoop%3D17818749998056466%26centerWidth
%3D80%2525%26dDocName%3DCNTHWEBAP01162524528%26leftWidth
%3D20%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader
%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3D18ejd8jaes_51
5. https://mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/pages_r/l/chi-tiet-tin?
dDocName=UCMTMP129395
| 1/15

Preview text:

lOMoAR cPSD| 44820939
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
ĐỀ TÀI: Trình bày lý luận của CN Mác Lênin về khủng hoảng kinh tế và
liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
Họ và tên sinh viên: Trần Quỳnh An Mã SV: 11220067
Lớp tín chỉ : Kinh tế chính trị Mác Lê Nin_QTNL CLC 64_AEP(222)_38
Số thứ tự (trong DS lớp tín chỉ) : 2
Hà Nội, tháng 4/2023 MỤC LỤC Nội dung Trang Lời mở dầu 3
I.Lý luận của Chủ nghĩa Mác-LêNin về khủng hoảng kinh tế 3 1. Khái niệm 3 2. Biểu hiện 4 3. Nguyên nhân 5 4. Hậu quả 6
5. Tính chu kỳ của khủng hoảng kinh tế 9 6. Giair pháp 10 1 lOMoAR cPSD| 44820939
II. Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam 12 Tài liệu tham khảo 15 2 lOMoAR cPSD| 44820939 LỜI MỞ ĐẦU
Trong mọi thời kì phát triển của nền kinh tế luôn có những lúc chỉ số kinh tế tăng vượt
bậc bên cạnh đó cũng có lúc nó xuống mức âm đó chính là lúc nền kinh tế bước vào giai
đoạn suy thoái, do đó với mong muốn tìm hiểu thêm về khủng hoảng kinh tế, em đã
chon đề tài “ Trình bày lý luận của CN Mác Lênin về khủng hoảng kinh tế và liên hệ với
thực tiễn ở Việt Nam ”.
Từ đề tài nghiên cứu này, ta sẽ tiếp tục mở rộng và nghiên cứu kỹ hơn về các nguyên
nhân tạo ra khủng hoảng cùng với các hậu quả nặng nề nó đã để lại cho nền kinh tế và
các biện pháp nhằm kích cầu kinh tế, phục hồi nền kinh tế của các nước trên Thế giới
và nhất là các biện pháp giải quyết của nước nhà Việt Nam.
Mục đích chính của việc nghiên cứu đề tài khủng hoảng kinh tế là để có thể biết rõ hơn
nguyên nhân và hậu quả của các cuộc khủng hoảng từ đó đưa ra các biện pháp để tránh
khủng hoảng hoặc không để chịu ảnh hưởng quá nặng nề từ những cuộc suy thoái kinh
tế này. Hơn thế sau mỗi cuộc khủng hoảng kinh tế luôn có nhiều biến chuyển trong chính
sách phát triển kinh tế và cơ cấu các ngành kinh tế để giúp nền kinh tế phục hồi sau bài
tiểu luận này ta sẽ thấy rõ hơn được các bước trưởng thành của nền kinh tế riêng của
nước nhà và nền kinh tế chung của cả Thế giới.
Việc nghiên cứu và tìm hiểu về đề tài này cũng là cũng là một cách để tìm hiểu quá trình
phát triển, những chuyển biến của nền kinh tế và cả những thăng trầm của mỗi nền kinh
tế trong giai đoạn khó khăn này. Từ đó tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến các nền kinh
tế, sự cạnh tranh khắc nghiệt trong hoàn cảnh đầy khó khăn này và từ đây rút ra được
các bài học cho các nước đang trên đà phát triển như nước Việt Nam từ những nền kinh
tế được coi là hùng mạnh, có uy tín và thế lực nhất Thế giới như Mỹ, Nhật, Pháp, Anh, Nga, Trung Quốc,..
I.Trình bày lý luận của Mác LêNin về khủng hoảng kinh tế: 1. Khái niệm: -
Khủng hoảng kinh tế là một thuật ngữ có phạm trù rất rộng. Hiểu đơn giản nhất
thì: Khủng hoảng kinh tế là sự suy giảm các hoạt động kinh tế, là tình trạng rối loạn,
mất thăng bằng nghiêm trọng do có nhiều mâu thuẫn không được hoặc chưa được giải
quyết trong nền kinh tế. Đó là sự rối loạn trong sản xuất, lưu thông hàng hóa trong lĩnh
vực tài chính, ngân hàng dẫn đến rối loạn đời sống, kinh tế gây ra nạn thất nghiệp,
giảm thu nhập và cuộc sống người lao động cũng bị sụt giảm kéo theo là sự bất ổn về chính trị. -
Theo học thuyết Kinh tế chính trị của Mác-Lênin thì thuật ngữ "Khủng hoảng
kinh tế" là tình trạng suy thoái đột ngột của nền kinh tế. Hiện tượng suy thoái này
thường diễn biến trầm trọng làm sụt giảm về tất cả các hoạt động kinh tế và có xu hướng kéo dài. -
Mặc dù, khủng hoảng kinh tế có thể giới hạn ở phạm vi quốc gia hay một khu
vực.Nhưng với xu hướng toàn cầu hóa mạnh mẽ như hiện nay, các cuộc khủng hoảng
kinh tế dần mở rộng ra phạm vi lớn hơn và dễ lan rộng ra phạm vi toàn cầu.
-Quan điểm của Mác và Lênin về khủng hoàng kinh tế như sau: khủng hoảng là
đặc trưng của riêng chế độ tư bản chủ nghĩa do mâu thuẫn giữa tính chất xã hội
của sản xuất (được chính chủ nghĩa tư bản xã hội hóa) và phương thức chiếm 3 lOMoAR cPSD| 44820939
hữu tư nhân, cá nhân về tư liệu sản xuất. Đó là sự rối loạn trong sản xuất, lưu thông hay phân phối. 2. Biểu hiện :
- Một: trắc trở trong việc mua và bán.
Không bán được hàng hóa hoặc phải bán rẻ, không đủ tiền thanh toán nợ đến hạn.
Giá nguyên liệu lên không đủ tiền mua, nếu không vay được thì phải giảm quy
mô sản xuất, sa thải công nhân, không tận dụng được công suất của máy móc, thiết bị,…
-Hai: mất cân đối trong sản xuất.
Mác đã phát hiện những quan hệ tỷ lệ cân đối giữa các bộ phận tổng sản phẩm
hàng năm dành cho tái sản xuất tư bản và cho tiêu dùng cá nhân. Nếu một nước
không tự đảm bảo được những tỷ lệ cân đối đó thì sẽ lâm vào khủng hoảng. Ngoại
thương có thể tạm thời góp phần giải quyết những mất cân đối đó, nhưng ngoại
thương chỉ đẩy mâu thuẫn ra một trường rộng rãi hơn, chứ không giải quyết được
mâu thuẫn, khiến cho khủng hoảng mang tính chất toàn thế giới.
-Ba: rối loạn hệ thống tín dụng.
Trong hệ thống tín dụng, các doanh nghiệp vay nợ lẫn nhau nên khả năng thanh
toán của người này lại do khả năng thanh toán của người kia quyết định. Chừng
nào quá trình tái sản xuất còn tiếp tục thì tín dụng vẫn được duy trì. Nhưng nếu do
thị trường đình trệ, giá cả giảm sút, hàng hóa tồn đọng, không còn nhu cầu buôn
bán,… thì sẽ dẫn đến tình trạng khan hiếm tín dụng. Việc không có khả năng thanh
toán không chỉ xuất hiện ở một điểm mà ở nhiều điểm, do đó nảy sinh khủng hoảng.
-Bốn: vi phạm quy luật về lưu thông tiền tệ.
Việc phát hành giấy thông qua số lượng cần thiết để lưu thông sẽ gây ra lạm phát.
Nhưng phát hành không đủ giấy bạc cũng gây khủng hoảng. Năm 1844, Đạo luật
Ngân hàng Anh đã hạn chế số lượng giấy được phát hành vào năm 1847 và 1857.
Đến khi Chính phủ Anh xóa bỏ sự hạn chế đó vào tháng 10/1847 và tháng
11/1857, khủng hoảng đã dần được đẩy lùi. Từ đó, đạo luật đã được bãi bỏ.
-Năm: mất cân đối giữa sản xuất và nhu cầu có khả năng thanh toán. Hệ thống
tín dụng và ngoại thương ngày càng mở rộng, tình trạng đầu cơ tích trữ,… đã tạo
ra những nhu cầu giả vượt quá khả năng thanh toán thực tế, dẫn đến quy mô sản
xuất mở rộng quá mức và hiện tượng sản xuất thừa thêm trầm trọng. Mức tiêu
dùng của quần chúng nhân dân nói chung và năng suất lao động không tăng theo cùng tỷ lệ thuận. -
Sáu: xây dựng nhà ở chạy theo thị trường và mang tính chất đầu cơ. Nhà thầu
vay vốn ngân hàng thông qua việc thế chấp bất động sản. Ngân hàng chỉ giải ngân dần
dần theo tiến độ xây dựng. Nếu xảy ra sự cố mà nhà thầu không trả được nợ đúng hạn
thì khoản vay sẽ bị đình chỉ, còn nếu phải bán nhà theo giá thấp để thanh toán thì sẽ lỗ, thậm chí phá sản.
-Bảy: những chứng khoán không đại biểu cho tư bản thực tế, không có bảo đảm
ngày càng được phát hành nhiều hơn.
C.Mác đã dẫn ra các tài liệu liên quan đến những khoản tín dụng giả được tạo ra
bằng phương pháp kỹ thuật. Ví dụ, một ngân hàng địa phương đã cho người môi
giới chứng khoán đem đi chiết khấu ở thị trường London sau khi chiết khấu kỳ
phiếu. Điều này hoàn toàn dựa trên mức độ tín nhiệm của ngân hàng mà không 4 lOMoAR cPSD| 44820939
xem xét các phẩm chất khác của kỳ phiếu, cộng thêm những trường hợp đầu cơ chứng khoán, cổ phiếu. 3.Nguyên nhân: -
Do tác động của quy luật cạnh tranh và sản xuất vô chính phủ, những quan hệ tỷ
lệgiữa các ngành sản xuất, các khu vực, các mặt của quá trình tái sản xuất... thường
xuyên bị gián đoạn bởi các cuộc hủng hoảng kinh tế. Khủng hoảng kinh tế biểu hiện ở
chỗ: Hàng hóa bị ứ đọng, sản xuất bị thu hẹp, xí nghiệp thậm chí phải đóng cửa, nạn
thất nghiệp tăng lên, thị trường thì rối loạn,... -
Nguyên nhân gây ra khủng hoảng kinh tế rất đa dạng. Nhưng chủ yếu sẽ hay
gặpnăm nguyên nhân sau: Khủng hoảng tài chính; bong bóng kinh tế; lạm phát; giảm
phát và sự cắt giảm chi tiêu. Mỗi nguyên nhân sẽ tác động đến một phương diện khác
nhau của nền kinh tế. Và khi đạt đến một mức độ nhất định thì sẽ gây ra khủng hoảng.
3.1. Khủng hoảng tài chính: -
Hầu hết các tường hợp dẫn đến khủng hoàng kinh tế thì nguyên nhân từ khủng
hoảngtài chính. Đó là khi GPA thường giảm, thanh khoản cạn kiệt, giá bất động sản và
thị trường chứng khoản giảm mạnh, suy thoái kinh tế ngày càng tồi tệ hơn.
Khủng hoảng kinh tế xảy ra khi giá trị của các tài sản sụt giảm kéo thei sự mất khả năng
thanh toán của người tiêu dùng và doanh nghiệp. Trong một số trường hợp, khủng hoảng
tài chính là sự sụp đổ của thị trường chứng khoán và sự xuất hiện của các bong bóng
kinh tế. Các vụ vỡ nợ và tình trạng khủng hoảng tiền tệ cũng xuất hiện khi xảy ra khủng
hoảng tài chính. Khủng hoảng tài chính còn gây ra khung hoảng cho hệ thống ngân hàng,
sự sụp đổ của thị trường chứng khoán và các lĩnh vực tài chính khác. Khủng hoảng tài
chính trực tiếp dẫn đến mất tài sản kinh tế, nó có thể ảnh hưởng đến vị thế kinh tế của
một quốc gia hoặc không tùy thuộc vào hậu quả khủng hoảng kinh tế mà quốc gia đó phải gánh chịu. -
Điển hình là cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2008 bắt đầu từ khu bong bóng
nhàđất ở Mỹ sụp đổ. Cuộc khủng hoảng kinh tế 2008 ảnh hưởng đến Việt Nam một cách sâu sắc. -
Nhiều nhà kinh tế đã đưa ra lý thuyết về cách cuộc khủng hoảng tài chính phát
triểnvà làm thế nào để ngăn chặn được. Tuy nhiên, gần như không có sự đồng thuận
giữa các giải pháp và khủng hoảng tài chính là hiện tượng diễn ra theo thời gian.
3.2. Bong bóng kinh tế: -
Bong bóng kinh tế hay bóng bóng đầu cơ, bóng bóng tài chính: là hiện tượng giá
trịhàng hóa hoặc tài sản trên thị trường tăng đột biến đến mức vô lý và không ổn định.
Giá trị hành hóa trong thị trường đạt ngưỡng cao một cách vô lý và không có tính bền
vững, thường chỉ kéo đài trong một khoảng thời gian ngắn. Khi bong bóng kinh tế vỡ
dẫn tới giá của các loại hàng hóa quay trở lại sụt giảm nghiêm trọng, nhà đầu tư mất
tiền, người lao động thì thất nghiệp và doanh nghiệp bị phá sản. -
Ví dụ như cuộc khủng hoảng hoa Tulip tại Hà Lan năm 1637 đã phá hủy toàn bộ
nềnkinh tế Hà Lan, biến Hà Lan từ cường quốc hàng đầu thế giới xuống hàng thứ yếu,
mở ra cơ hội vươn lên của nước Anh sau này. -
Mức giá cao quá mức của sản phẩm không phản ánh được sức tiêu dùng hoặc
nhucầu của người tiêu dùng về sản phẩm. Giai đoạn phát sinh bong bóng và giai đoạn
bong bóng vỡ là kết quản của hiện tượng phản ứng thuận khi các chủ thể nền kinh tế có
phản ứng đồng nhất. Những bong bóng sẽ kéo theo một số tiền lớn đổ vào đầu tư, khiến 5 lOMoAR cPSD| 44820939
thị trường xảy ra biến động lớn. và khi vỡ, bong bóng sẽ xóa sạch lợi nhuận ảo trên giấy
tờ, làm thất thoát tài sản của rất nhiều cá nhân hay tổ chức. Kéo theo các khoản nợ xấu
ảnh hưởng tới nền kinh tế. 3.3. Lạm phát: -
Theo kinh tế học vĩ mô, lạm phát là hiện tượng tăng giá liên tục của hàng hóa và
dịchvụ thị trường. Lạm phát làm suy giảm sức mua của người dân trên một đơn vị tiền
tệ. Lạm phát thường diễn ra chậm và kéo dài qua nhiều năm, khiến cuộc sống người dân
bị đảo lộn. Làm gia tăng sự không chắc chắn trong quyết định đầu tư và tiết kiệm cùng
với sự khan hiếm hàng hóa. -
Trong trường hợp tăng trưởng kinh tế ở mức thấp mà tỷ lệ lạm phát cao thì
sexdaanxđến tình trạng khủng hoảng kinh tế. 3.4. Giảm phát: -
Trái ngược với lạm phát, giảm phát là sự sụt giảm chung về giá cả hàng hóa và
dịchvụ, thường liên quan đến sự giảm cung tiền và tín dụng của nền kinh tế. Trong thời
kỳ giảm phát, sức mua của tiền tệ tăng lên theo thời gian. -
Mặc dù giảm phát có vẻ là một điều tốt nhưng nó có thể báo hiệu một cuộc suy
thoáisắp xảy ra và thời kỳ kinh tế khó khăn. Khi mọi người cảm thấy giá đang giảm, họ
sẽ trì hoãn việc mua hàng hóa với hi vọng sẽ mua được với mức giá thấp hơn và ngày
sau đó. Nhưng chi tiêu thấp hơn thì dẫn đến thu nhập ít hơn, điều này dẫn đến thất nghiệp và lãi suất cao hơn. 3.5. Giảm chi tiêu: -
Với tâm lý lo lắng về sự biến động của nền kinh tế sau khi nhận thức được vấn
đềkhủng hoàng kinh tế, người tiêu dùng lo lắng. Vậy nên, họ cắt giảm chi tiêu và giữ lại
nhiều nhất có thể. Sự cắt giảm này ảnh hưởng đến kinh tế và làm giảm tốc độ phát triển
của nền kinh tế. Việc này sẽ khiến nền kinh tế phát triển chậm lại vì trung bình gần 60%
GDP của các nước phụ thuộc vào chi tiêu của người tiêu dùng. -
Lãi suất cao cũng khiến cho các doanh nghiệp đối mặt với khó khăn, phải cắt
giảm kếhoạch chi tiêu vì chi phí tài chính quá cao. Do vậy, việc giảm chi tiêu làm chững
lại nền tăng trưởng kinh tế GDP của quốc gia, là yếu tố GDP phần tạo nên khủng hoảng kinh tế. 4. Hậu quả:
4.1Các hoạt động thương mại, đầu tư, tiêu dùng của mỗi quốc gia đều sụt giảm mạnh:
-Dưới tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, các
hoạt động thương mại, đầu tư, tiêu dùng của mỗi quốc gia đều sụt giảm
mạnh, dẫn tới nguy cơ suy thoái kinh tế của mỗi nước. Thậm chí, nhiều
nước lâm vào tình trạng phá sản cấp quốc gia.
-Biểu hiện của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu thường
là gây ra những ảnh hưởng vĩ mô nghiêm trọng, các cân đối vĩ mô bị phá
vỡ, đồng tiền mất giá, tỷ giá hối đoái biến động đột biến theo hướng phá
giá, lạm phát cao và phi mã xuất hiện, gánh nặng nợ công tăng nhanh, thị
trường chứng khoán sụp đổ, tài sản ở các nước bị giảm giá mạnh, nhiều
doanh nghiệp, ngân hàng và các định chế tài chính phá sản, tình trạng mất
việc làm và thất nghiệp tăng cao, hàng triệu người bị lâm vào cảnh đói 6 lOMoAR cPSD| 44820939
nghèo, rối loạn và xung đột xã hội nảy sinh, bạo loạn và chiến tranh xuất hiện.
-Có thể thấy, các cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã
gây ra những hậu quả vô cùng kinh hoàng. Cuộc khủng hoảng và suy thoái
kinh tế toàn cầu giai đoạn 1929 - 1933 đã đẻ ra chủ nghĩa phát-xít trong thập
niên 30 của thế kỷ XX và là nguyên nhân chính dẫn đến Chiến tranh thế giới
thứ hai tàn khốc. Hậu quả của cuộc khủng hoảng này và của Chiến tranh thế
giới thứ hai là nhiều chế độ đã bị sụp đổ, nhiều nền kinh tế đã bị tan rã. Cuộc
khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 - 1998 bắt đầu từ Thái Lan đã dẫn
đến sự sụp đổ của một số nền kinh tế và một vài chế độ chính trị. Những
nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất từ cuộc khủng hoảng tài chính này là In-đô-
nê-xi-a, Hàn Quốc và Thái Lan. Bên cạnh những tác động tàn phá đến các
nền kinh tế của các nước, khủng hoảng kinh tế giai đoạn 1997 - 1998 đã dẫn
tới xung đột xã hội, mất ổn định chính trị ở một số nước mà đỉnh điểm của
nó là sự ra đi của Tổng thống Xu-hác-tô (Suharto) ở In-đô-nê-xi-a và Thủ
tướng Chao-va-lít I-oong-chai-i-út ở Thái Lan. Các tổ chức Hồi giáo cực
đoan và phong trào ly khai phát triển mạnh ở In-đônê-xi-a khi chính quyền
trung ương của nước này suy yếu. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm
2008 xuất phát từ khủng hoảng nợ dưới chuẩn của Mỹ năm 2007, mà nguyên
nhân của nó bắt nguồn từ những chính sách tín dụng dễ dãi của các ngân
hàng và tổ chức đầu tư bất động sản, thông qua mối quan hệ kinh doanh
chằng chịt của hệ thống ngân hàng thời đại toàn cầu hoá. Cuộc khủng hoảng
này đã xuất hiện khi hàng loạt các định chế tài chính lớn lần lượt sụp đổ,
nhất là sự phá sản của Ngân hàng Lehman Brothers. Đây là ngân hàng mà
chỉ một năm trước đó còn được đánh giá là ngân hàng đầu tư bất động sản
tốt nhất nước Mỹ. Sau Ngân hàng Lehman Brothers là các ngân hàng lớn
khác, như Bradford and Bingley (Anh),
Hypo Real Estate (Đức), Fortis (Bỉ), Dexia (Pháp), Yamamoto Life (Nhật
Bản)... Năm 2008, 22 ngân hàng thương mại ở Mỹ phá sản (trong đó
đứng đầu danh sách những thể chế tài chính xấu số này là Washington
Mutual với tổng tài sản 307 tỷ USD). Riêng quý III-2008 có 171 ngân
hàng nằm trong danh sách “có vấn đề”, mức cao nhất kể từ năm 1995. 4.2
Tác động phức tạp đến an ninh, quốc phòng và bảo vệ quốc gia.

4.2.1 nguồn lực kinh tế bị giảm sút, tiềm lực an ninh, quốc phòng của
không ít quốc gia bị thu hẹp.
-Khi khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu diễn ra, các quốc
gia khó tránh khỏi bị ảnh hưởng tác động của nó, nhiều quốc gia cũng lâm
vào khủng hoảng và chịu tổn thất nặng nề. Khi lâm vào tình trạng khủng
hoảng, các quốc gia thường gặp phải tình trạng vốn bị chuyển ồ ạt ra bên
ngoài, đầu tư giảm sút mạnh, nền kinh tế hầu như bị tê liệt. Các tổ chức
kinh tế không có khả năng và điều kiện để vay vốn phát triển sản xuất, kinh
doanh. Niềm tin thị trường bị mất, giá trị tài sản của cá nhân và tổ chức, kể
cả của nhà nước giảm sút nghiêm trọng. Hậu quả của nó là các định chế tài
chính và doanh nghiệp sụp đổ, phá sản, nhà nước phải dành một lượng tài
chính để can thiệp vào nền kinh tế; nhiều vấn đề xã hội phức tạp xuất hiện
đòi hỏi phải được giải quyết, các khoản nợ bỗng chốc tăng cao, trong khi
nền kinh tế không tăng trưởng hoặc tăng trưởng thấp đã làm cho tiềm lực
kinh tế của các nước này bị cạn kiệt. Khi nguồn lực kinh tế bị cạn kiệt thì 7 lOMoAR cPSD| 44820939
nguồn lực cho quốc phòng, an ninh cũng giảm theo. Các nhu cầu trang bị
khí tài sẽ không được đáp ứng, các nguồn lực để nuôi quân bị cắt giảm, các
hoạt động quốc phòng - an ninh bị thu hẹp.
-Bên cạnh những hệ lụy trên, nhiều quốc gia còn phải chịu gánh nặng nợ công
tăng đột biến, nên mọi nguồn lực chỉ còn tập trung vào trả nợ và giải quyết
những vấn đề phát sinh, không còn khả năng lo cho quốc phòng - an ninh. Từ
đây khả năng tác chiến bảo đảm an ninh - quốc phòng và bảo vệ đất nước gặp
khó khăn một cách rõ nét và sẽ giảm sút. Khi tiềm lực tài chính và nguồn lực
an ninh, quốc phòng bị giảm sút thì nguy cơ đe dọa sự toàn vẹn lãnh thổ sẽ
hiện hữu nếu có dã tâm xâm lược từ bên ngoài. Hơn nữa, khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế toàn cầu sẽ làm cho các quốc gia có nền kinh tế
phụ thuộc vào nước ngoài và nội lực kinh tế thấp sẽ bị ảnh hưởng khi phải
chấp nhận những điều kiện ràng buộc của các nước mạnh hơn và của các tổ
chức tài chính quốc tế. Ví dụ, để hỗ trợ hệ thống tài chính toàn cầu, Quỹ Tiền
tệ quốc tế (IMF) hay Ngân hàng Thế giới (WB) đã thiết lập hoạt động và các
chương trình cho vay khẩn cấp trị giá nhiều tỷ USD. Các quốc gia mạnh hơn
và các tổ chức tài chính quốc tế thường đưa ra các điều kiện ràng buộc phức
tạp đối với khoản vay, trong đó có việc cho phép các nước và các tổ chức
quốc tế can thiệp sâu không chỉ vào quá trình hoạch định chính sách vĩ mô
mà cả vấn đề an ninh - quốc phòng và bảo vệ tổ quốc của các nước có nền
kinh tế phụ thuộc. Ví dụ, trong cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á năm
1997, Chính phủ In-đô-nê-xi-a, Thái Lan,... đã chịu tác động của IMF. Bên
cạnh đó, một số nước lớn muốn nhân cơ hội khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế của các nước nhỏ để ràng buộc các nước nhỏ hơn phải phụ thuộc
vào mình nhiều hơn trên các mặt kinh tế, chính trị, xã hội và ngoại giao và có khi cả lãnh thổ.
4.2.2 xã hội biến đổi phức tạp làm cho sức mạnh an ninh - quốc phòng bị giảm sút.
-Trước thực tế tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn
cầu đã đưa đến sự phá sản của các doanh nghiệp, ngân hàng, đời sống của
người dân bị giảm sút, tình trạng không có việc làm tăng nhanh và thất
nghiệp tăng đột biến. Khi giá cả tăng cao, đồng lương và thu nhập của
người dân không bảo đảm cho cuộc sống của họ và nhiều người không có
thu nhập lâm vào cảnh cùng cực thì tất yếu sinh ra biến loạn. Xã hội biến
loạn sẽ kéo theo biểu tình, bãi công, trộm cắp xuất hiện, gây rối sẽ phát
triển..., đe dọa đến sự an bình của xã hội. Gặp phải hoàn cảnh này, không ít
chính trị gia đứng đầu nhà nước phải từ chức, các chính phủ phải ra đi và có
trường hợp cả một chính thể, bộ máy cầm quyền bị thay đổi. Khi chính thể
cầm quyền sụp đổ thì lực lượng quốc phòng - an ninh cũng từ đó xáo trộn,
sức chiến đấu vì thế giảm sút nghiêm trọng, khả năng bảo đảm an ninh,
quốc phòng và bảo vệ đất nước bị yếu đi đáng kể. Đồng thời, khi trong
nước rối ren, thù trong xuất hiện thì giặc ngoài sẽ có cơ hội nhòm ngó nên
sự toàn vẹn lãnh thổ rất dễ bị xâm phạm, chủ quyền quốc gia bị lung lay.
Thực tế cho thấy, nước lớn sẽ rất dễ xâm lược lãnh thổ của nước nhỏ hơn
khi nước đó phải gánh chịu hậu quả nặng nề từ khủng hoảng tài chính và
suy thoái kinh tế đã diễn ra trên thế giới. Nguy cơ đe dọa chủ quyền lãnh
thổ đối với những nước nhỏ là luôn hiện hữu. 8 lOMoAR cPSD| 44820939
4.2.3 Rối loạn toàn cầu, xung đột xảy ra nhiều nơi sẽ tác động mạnh đến
an ninh - quốc phòng và bảo vệ tổ quốc của mỗi nước.
-Thực tế các cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu cho
thấy, trong và sau mỗi cuộc khủng hoảng đã diễn ra sự bất ổn chính trị ở
nhiều nước và xung đột vũ trang ở nhiều khu vực trên thế giới. Sự lây lan
của các cuộc xung đột vũ trang ở các khu vực kéo theo sự sụt giảm và đổ
bể của nền kinh tế thế giới. Khi kinh tế toàn cầu sụt giảm thì các quốc gia
đều bị ảnh hưởng (vì hiện nay đã toàn cầu hóa rất cao, không có một nền
kinh tế nào có thể biệt lập mà phát triển được, đồng thời cũng không có nền
kinh tế nào có thể tránh được tác động khi có biến động của nền kinh tế thế
giới). Điều này tác động rất lớn đến các nước về vấn đề an ninh - quốc
phòng và bảo vệ tổ quốc.
4.2.4 khủng bố và di chuyển dân cư làm cho quốc phòng, an ninh của
nhiều quốc gia bị đe dọa.
-Hoạt động khủng bố ngày một lan rộng cùng với làn sóng người tị nạn đến
từ Xy-ri dường như là một đại họa đối với châu Âu và tác động không tốt đến
cả thế giới. Khi khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế lên cao thì hành vi
phạm tội càng trở nên cực đoan, các tổ chức khủng bố sẽ hoạt động tàn bạo
hơn và làn sóng tị nạn sẽ tăng mạnh hơn làm cho tình hình của các quốc gia
có người tị nạn và hoạt động khủng bố hoành hành càng trở nên phức tạp.
Với lý do đó, chi phí cho an ninh, quốc phòng của các nước phải tăng đột
biến mới mong bảo đảm được trật tự.
5. Tính chu kỳ của khủng hoảng kinh tế:
- Khủng hoảng kinh tế xuất hiện làm cho quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa mangtính
chu kỳ. Chu kỳ kinh tế của chủ nghĩa tư bản là khoảng thời gian nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa vận động từ đầu cuộc khủng hoảng này đến đầu cuộc khủng hoảng sau.
- Chu kỳ kinh tế gồm bốn giai đoạn: khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh.
- Khủng hoảng: là giai đoạn khới điểm của chu kỳ kinh tế mới. Ở giai đoạn này, hànghoá
ế thừa, ứ đọng, giá cả giảm mạnh, sản xuất đình trệ, xí nghiệp đóng cửa, công nhân
thất nghiệp hàng loạt, tiền công hạ xuống. Tư bản mất khả năng thanh toán các khoản
nợ, phá sản, lực lượng sản xuất bị phá hoại nghiêm trọng. Đây là giai đoạn mà các mâu
thuẫn biểu hiện dưới hình thức xung đột dữ dội.
- Tiêu điều: đặc điểm ở giai đoạn này là sản xuất ở trạng thái trì trệ, không còn tiếptục
đi xuống nhưng cũng không tăng lên, thương nghiệp vẫn đình đốn, hàng hóa được đem
bán hạ giá, tư bản để rỗi nhiều vì không có nơi đầu tư. Trong giai đoạn này, để thoát
khỏi tình trạng bế tắc, các nhà tư bản còn trả lại được tìm cách giảm chi phí bằng cách
hạ thấp tiền công, tăng cường độ và thời gian lao động của công nhân, đổi mới tư bản
cố định làm cho sản xuất vẫn còn có lời trong tình hình hạ giá. Việc đổi mới tư bản cố
định làm tăng nhu cầu về tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, tạo điều kiện cho sự
phục hồi chung của nền kinh tế. 9 lOMoAR cPSD| 44820939
- Phục hồi; là giai đoạn mà các xí nghiệp được khôi phục và mở rộng sản xuất. Côngnhân
lại được thu hút vào làm việc; mức sản xuất đạt đến quy mô cũ, vật giá tăng lên, lợi
nhuận của tư bản do đó cũng tăng lên.
- Hưng thịnh: là giai doạn sản xuất phát triển vượt quá điểm cao nhất mà chu kỳ trướcđã
đạt dược. Nhu cầu và khả năng tiêu thụ hàng hoá tăng, xí nghiệp được mở rộng và xây
dựng thêm. Nhu cầu tín dụng tăng, ngân hàng tung tiền cho vay, năng lực sản xuất lại
vượt quá sức mua của xã hội. Do đó, lại tạo điều kiện cho một cuộc khủng hoảng kinh tế mới.
- Trong chủ nghĩa tư bản hiện nay, khủng hoảng kinh tế vẫn không tránh khỏi, nhưngcó
sự can thiệp tích cực của nhà nước tư sản vào quá tình kinh tế. Sự cần thiết này mặc
dù không triệt tiêu được khủng hoảng và chu kỳ trong nền kinh tế nhưng đã làm cho
tác động phá hoại của khủng hoảng bị hạn chế bớt.
Nguồn ảnh: https://cake.vn/chu-ky-kinh-te-la-gi-cac-giai-doan-cua-chu-ky-kinh-te/ 6. Giai pháp: -
Thứ nhất, tiếp tục thực hiện các nhóm giải pháp chống lạm phát, nhất là tiếp tục
chíánh sách tiền tệ chặt chẽ nhưng linh hoạt, thận trọng theo cơ chế thị trường (không
đưa các giải pháp sốc). Sử dụng hiệu quả các công cụ tiền tệ với việc điều chỉnh linh
hoạt theo diễn biến của thị trường như: tỷ giá, lãi suất, hạn mức tín dụng… Trước mắt
hạ lãi suất xuống một cách phù hợp theo tín hiệu thị trường. Xử lý nợ xấu của các
ngân hàng thương mại, bảo đảm các khoản nợ này ở mức an toàn. Rà soát và kiểm 10 lOMoAR cPSD| 44820939
soát chặt chẽ các khoản vay kinh doanh bất động sản và chứng khoán. Bên cạnh đổi
mới và cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, cần đổi mới quản trị nội bộ ngân hàng nhằm
lành mạnh hoá hệ thống này tránh tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới. -
Thứ hai, tăng cường sự giám sát của Chính phủ đối với hệ thống tài chính, ngân
hàng và thị trường chứng khoán. Rà soát lại và lành mạnh hóa hệ thống tài chính, ngân
hàng. Rà soát lại các ngân hàng cho vay nhiều vào khu vực bất động sản và các dự án
có tính rủi ro cao. Kiểm tra chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại, đặc
biệt là tín dụng dành cho các lĩnh vực nhiều rủi ro như bất động sản, chứng khoán.
Xây dựng hệ thống cảnh báo sớm với các tiêu chí cụ thể để có phương án, giải pháp
dự phòng đối với biến động xấu từ hệ thống ngân hàng, tài chính. -
Thứ ba, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, có chính sách hỗ trợ nông nghiệp khắc
phục hậu quả bão lụt, hỗ trợ người dân sản xuất lương thực, thực phẩm và người dân
nghèo vùng sâu, vùng xa, tạo điều kiện thuận lợi đến các doanh nghiệp làm ăn có hiệu
quả. Có chính sách miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, nhất là đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ, giảm tiến độ thu thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá
trị gia tăng hàng nhập khẩu trong trường hợp lạm phát cao và suy thoái kinh tế. Tập
trung tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh trong các tháng cuối năm. -
Thứ tư, tiếp tục các chính sách về chặt chẽ chi tiêu Chính phủ và đầu tư khu vực
công nhằm tránh xảy ra nguy cơ thâm hụt ngân sách. Việc thắt chặt chi tiêu Chính phủ
và chuyển các khoản đầu tư công sang cho khu vực tư nhân sẽ góp phần vào việc giảm
thuế cho khu vực doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân. Các doanh nghiệp sẽ có
thêm được nguồn vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh và thị trường. Đẩy mạnh đầu tư
cho các dự án cơ sở hạ tầng, hạ tầng kỹ thuật lớn, quan trọng mà trong các thời điểm
trước đây chưa có điều kiện đầu tư thì nay đầu tư để kích thích kinh tế phát triển. -
Thứ năm, cải cách và tháo gỡ các vướng mắc về thủ tục hành chính, về giải
phóng mặt bằng, phê duyệt dự án và về giải ngân để tạo điều kiện các dự án, chương
trình được triển khai nhanh, đặc biệt là đối với các công ty xây dựng. Đối kinh doanh
bất động sản thì bên cạnh đẩy mạnh và khuyến khích đầu tư và xây dựng nhà giá rẻ
cho người nghèo, các đối tượng chính sách, nhà ở cho người lao động ở các khu kinh
tế, khu công nghiệp tập trung, nhà ở cho sinh viên, học sinh, cần hạn chế và đánh thuế
cao vào các trường hợp đầu cơ bất động sản. -
Thứ sáu, đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu, để tránh bớt tác động từ việc
giảm nhập khẩu của Mỹ và một số nước chịu nhiều tác động từ cuộc khủng hoảng tài
chính, tín dụng thế giới và tăng cường các thị trường mới, chuyển hướng tới mở rộng
thị trường trong nước. Áp dụng các biện pháp chính sách để khuyến khích phát triển
sản xuất hàng xuất khẩu, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu và giảm bớt nhập siêu. Thực
hiện chế độ tỷ giá linh hoạt hỗ trợ xuất khẩu và tăng mức tín dụng ưu đãi cho sản xuất hàng xuất khẩu.
Tăng cường và đẩy mạnh phát triển thị trường trong nước, nhất là trong các khâu thu
mua nguyên liệu nông sản bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa phát triển vùng sản xuất
nguyên liệu với công nghiệp chế biến và xuất khẩu, phát triển hệ thống phân phối các 11 lOMoAR cPSD| 44820939
vật tư quan trọng và hệ thống bán lẻ, nâng cao chất lượng dịch vụ và bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm.
-Thứ bảy, theo dõi chặt chẽ các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta, tiếp tục cải
thiện môi trường đầu tư, đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư nước ngoài, trong đó theo
dõi việc triển khai các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Mỹ và các nước Châu Âu
để có thể hỗ trợ khi cần thiết. -
Thứ tám, tổ chức, điều hành và giám sát tốt việc bảo đảm sự thông suốt của cơ
sở bán lẻ trong nước, không gây đầu cơ, ách tắc, khan hiếm hàng hoá. Đồng thời
khuyến khích tiêu dùng hợp lý và nâng lương tối thiểu sớm cho cán bộ, công chức nhà
nước và công nhân ở các doanh nghiệp. -
Thứ chín, tăng cường công tác thông tin, quan hệ công chúng. Bám sát thường
xuyên, cập nhật thông tin trong và ngoài nước để có đánh giá đúng diễn biến tình hình;
qua đó có được phản ứng chính sách thích hợp và kịp thời nhất.
II. Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam:
- Các chuyên gia trong lĩnh vực bất động sản chỉ rõ, năm 1999, khủng hoảng nổ ra vớisự
sụp đổ của loạt ngân hàng thương mại.
- Thời điểm đó, có nhiều chính sách cởi mở cho thị trường bất động sản, nhất là khinhiều
Tập đoàn nước ngoài đổ làn sóng đầu tư vào Việt Nam sau khi lệnh cấm vận được dỡ bỏ.
- Cơn "sốt đất" cộng thêm cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997 - 1998 đãchâm
ngòi cho khủng hoảng của thị trường bất động sản năm 1999.
- Để rồi 10 năm sau đó, năm 2009 là thời điểm chỉ số chứng khoán đẩy cao và thịtrường
đầu tư bất động sản tiếp tục “bùng nổ.”
- Cùng chịu tác động chung của khủng hoảng tài chính thế giới từ 2008, thời điểm2009
thị trường bất động sản Việt Nam một lần nữa rơi vào khủng hoảng nặng nề và dư âm
của nó kéo dài cả mấy năm sau đó.
Bởi vậy, khi năm 2019 cận kề, những lo ngại về tính chu kỳ lặp lại 10 năm một lần tiếp
tục được các chuyên gia cảnh báo.
- Tuy nhiên, theo phân tích và nhận xét của một số chuyên gia cũng như nhà quản lý,chu
kỳ này sẽ khó lặp lại bởi Chính phủ hiện đã có những cải thiện mạnh mẽ về thủ tục
hành chính, giảm bộ máy hành chính công, GDP cũng có bước tăng trưởng mạnh nhất
suốt trong vòng 1 thập kỷ qua.
- Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản Thành phố Hồ Chí Minh Lê Hoàng Châu cho rằng,việc
thị trường bất động sản có “bong bóng” hay không còn phụ thuộc ở nhiều yếu tố như:
kinh tế phát triển nóng; buông lỏng chính sách tín dụng; lệch pha cung cầu; gia tăng
nhà đầu tư thứ cấp và đầu cơ; sự kiểm soát của Nhà nước. 12 lOMoAR cPSD| 44820939
- Về đợt khủng hoảng thị trường bất động sản năm 2009, ông Châu phân tích, năm2006
- 2007, tăng trưởng tín dụng của Việt Nam lên đến 37,8% là rất “nóng.” Trong khi đó,
tăng trưởng tín dụng 2017 chỉ được 18,17%, chỉ bằng nửa của năm 2007.
- Hiện nay, do có sự nỗ lực của Ngân hàng Nhà nước nên không có chuyện buông lỏngtín
dụng, không có chuyện ngân hàng cho vay dưới chuẩn nên dòng tiền hoàn toàn chịu kiểm soát.
- Cùng đó, nhà đầu tư thứ cấp và đầu cơ ở Việt Nam có dấu hiệu gia tăng nhưng chủyếu
là mua đi bán lại nên không đủ để tạo nên “bong bóng.” Trong khi đó, Nhà nước đã
kịp thời sử dụng những công cụ về hành chính để điều chỉnh thị trường rất rõ. Bởi vậy,
theo ông Châu, Nhà nước đã kiểm soát được các yếu tố liên quan nên không thể có
“bong bóng” xảy ra với thị trường ở thời điểm này cũng như năm 2019. Theo đại diện
Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh, bài học tín dụng tăng nóng
vào lĩnh vực bất động sản hơn 10 năm trước vẫn còn đó nên ngay từ đầu năm 2018,
Ngân hàng Nhà nước đưa ra mục tiêu tăng trưởng tín dụng ở mức 17%.
- Thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện giảm tăng trưởng tín dụng nhưngcơ
bản vẫn hỗ trợ nền kinh tế phát triển. Việc khuyến nghị các ngân hàng kiểm soát tín
dụng vào bất động sản không những giúp ngân hàng phát triển bền vững mà cả thị
trường bất động sản cũng ổn định.
- Một số doanh nghiệp cho rằng, bất động sản vẫn là kênh đầu tư an toàn cho cả nhàđầu
tư trong và ngoài nước. Bà Nguyễn Thị Thanh Hương - Tổng giám đốc Công ty cổ
phần Bất động sản Đại Phúc Land nhận xét, các nhà đầu tư nước ngoài cũng tỏ ra tin
tưởng vào kinh tế, môi trường đầu tư của Việt Nam và quan tâm đến đầu tư vào các
dự án bất động sản trong thời gian tới, nhất là các dự án do chủ đầu tư uy tín thực hiện
và cung cấp sản phẩm chất lượng, đáp ứng nhu cầu của thị trường.
- Bà Nguyễn Hoài An - Giám đốc CBRE Hà Nội, cho biết chưa có cơ sở để khẳngđịnh
điều này. Tiếp đà tăng trưởng ấn tượng của quý I, GDP trong quý II của Việt Nam đạt
mức tăng trưởng 6,79% so với cùng kỳ năm ngoái, nâng mức tăng trưởng của 6 tháng
đầu năm lên 7,08%, cao nhất trong 8 năm qua. Chỉ số giá tiêu dùng (lạm phát) đang ở
mức vừa phải là 4% (10 năm trước - thời kì khủng hoảng, lạm phát lên tới 15%).
- Cùng đó, nguồn vốn FDI chảy vào Việt Nam cũng tăng mạnh. Nhà đầu tư quốc tếđến
Việt Nam ngày một nhiều. Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đạt
20,3 tỷ USD, bao gồm vốn từ các dự án cấp phép mới, tăng thêm và góp vốn mua cổ
phần của các nhà đầu tư nước ngoài, tăng 5,7% so với cùng kỳ năm ngoái. Ngành bất
động sản thu hút 5,4 tỷ USD, chiếm 27,3% tổng nguồn vốn FDI trong 6 tháng đầu năm.
- Ngoài ra, các chỉ số phát triển của doanh nghiệp vẫn đang trên đà tăng, doanh số bánlẻ
tăng, giá nhà ở cả thị trường sơ cấp và thứ cấp ở mức tăng dưới 5% trên bình diện thị
trường. Yếu tố vĩ mô cho thấy, hiện tại chưa có dấu hiệu cụ thể để nói thị trường bất
động sản đang có nguy cơ đối diện với khủng hoảng vào năm 2019 - bà An phân tích. 13 lOMoAR cPSD| 44820939
- Mới đây, trong cuộc họp báo thường kỳ, Bộ Xây dựng cho biết trong 2 quý đầu củanăm
2018 đã xuất hiện tình trạng sốt cục bộ đất nền, giá tăng cao bất thường ở một số khu
vực vùng ven Thành phố Hồ Chí Minh, huyện Long Thành (Đồng Nai), Vân Đồn
(Quảng Ninh), Phú Quốc (Kiên Giang), Bắc Vân Phong (Khánh Hòa)… Tuy nhiên,
nguyên nhân chính là do một số đối tượng lợi dụng chủ trương thành lập các đặc khu,
đầu tư một số dự án đầu tư lớn về giao thông (sân bay Long Thành, tuyến Metro số 1
của thành phố Hồ Chí Minh, một số đường cao tốc…) để tung tin thất thiệt, thổi giá, đầu cơ.
- Trong khi đó, các cơ quan chức năng lại chưa làm tốt việc truyền thông, công khai
thông tin về quy hoạch, chủ trương và tiến độ của các dự án đầu tư lớn, kiểm soát chuyển
nhượng đất nền chưa chặt chẽ.
Bộ Xây dựng khẳng định sốt đất đã ổn định và bước đầu được kiểm soát. Hiện những
“điểm nóng” về tăng giá tại 2 đô thị lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh thì giao
dịch cũng đã bị “hãm phanh” trong mấy tháng gần đây. Nguyên nhân lớn nhất được dự
đoán là do các nhà đầu tư, người mua nhà đang căng mình nghe ngóng và cảnh giác
trước thời điểm bản lề của lời nguyền chu kỳ khủng hoảng.
- Cục trưởng Cục quản lý nhà và thị trường bất động sản (Bộ Xây dựng) NguyễnTrọng
Ninh khẳng định, năm 2018 sẽ không xảy ra tình trạng bong bóng bất động sản như
nhiều người lo ngại; hiện Bộ Xây dựng cũng đang làm đề án, dự báo tình hình thị
trường về trung hạn (2018-2025) để trình Chính phủ.
Ông Ninh chia sẻ thêm, Bộ Xây dựng đang tiến hành xây dựng đề án an ninh kinh tế
trong lĩnh vực bất động sản. Trong đề án này, Bộ sẽ đánh giá tình hình an ninh trong
nhiều vấn đề liên quan đến bất động sản như: Lĩnh vực đầu tư nước ngoài, cho người
nước ngoài mua nhà, tín dụng - bong bóng bất động sản, quản lý vận hành, tranh chấp
nhà chung cư… trước khi trình Chính phủ vào tháng 12. 14 lOMoAR cPSD| 44820939
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình Kinh tế chính trị Mác-LêNin
2. https://luatminhkhue.vn/khung-hoang-kinh-te-la-gi-nguyen-nhan-ban-chat- khunghoang-kinh-te.aspx
3. https://cake.vn/chu-ky-kinh-te-la-gi-cac-giai-doan-cua-chu-ky-kinh-te/
4. https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/fm/ddnhnn/nctd/nctd_chitiet?
leftWidth=20%25&showFooter=false&showHeader=false&dDocName=CNTHWE B
AP01162524528&rightWidth=0%25&centerWidth=80%25&_afrLoop=178187499 98
056466#%40%3F_afrLoop%3D17818749998056466%26centerWidth
%3D80%2525%26dDocName%3DCNTHWEBAP01162524528%26leftWidth
%3D20%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader
%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3D18ejd8jaes_51
5. https://mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/pages_r/l/chi-tiet-tin? dDocName=UCMTMP129395 15