-
Thông tin
-
Quiz
Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Tư tưởng Hồ Chí Minh (LLTT1101) 326 tài liệu
Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (LLTT1101) 326 tài liệu
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:







Tài liệu khác của Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ----- ----- BÀI TẬP LỚN
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Họ và tên sinh viên: Trần Đức Anh
Mã sinh viên: 11210755
Lớp: Kế toán tiên tiến K63
Lớp tín chỉ: Kế toán tiên tiến K63
Giảng viên hướng dẫn : Ts. Nguyễn Quang Trung HÀ NỘI, NĂM 2022
Câu 1: Khái quát quan điểm của Hồ Chí Minh về quan hệ dân tộc - quốc tế. Bài làm
Quan điểm đoàn kết dân tộc, quốc tế 1:
Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,
tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng
Theo Hồ Chí Minh, thực hiện đoàn kết quốc tế để tập hợp lực lượng bên
ngoài, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh của các trào lưu cách mạng thời đại để tạo thành sức
mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt Nam. Đây là một trong những nội dung chủ
yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế và cũng là một trong những
bài học quan trọng nhất, mang tính thời sự sâu sắc nhất của cách mạng Việt Nam.
Sức mạnh dân tộc là sự tổng hợp của các yếu tố vật chất và tinh thần, song
trước hết là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và ý thức tự lực, tự cường dân tộc;
sức mạnh của tinh thần đoàn kết; của ý chí đấu tranh anh dũng, bất khuất cho độc
lập, tự do…Sức mạnh đó đã giúp cho dân tộc Việt Nam vượt qua mọi thử thách,
khó khăn trong dựng nước và giữ nước.
Sức mạnh thời đại là sức mạnh của phong trào cách mạng thế giới, đó còn là sức
mạnh của chủ nghĩa Mác – Lênin được xác lập bởi thắng lợi của Cách mạng Tháng
Mười Nga năm 1917. Trong quá trình hoạt động cách mạng, nhờ chú ý tổng kết
thực tiễn dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã từng bước phát
hiện ra sức mạnh vĩ đại tiềm ẩn trong các phong trào cách mạng thế giới mà Việt
Nam cần tranh thủ. Các phong trào đó nếu được liên kết, tập hợp trong khối đoàn
kết quốc tế sẽ tạo nên sức mạnh to lớn.
Hồ Chí Minh đã sớm xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách
mạng thế giới ngay từ khi tìm thấy con đường cứu nước, Người cho rằng, cách
mạng Việt Nam chỉ có thể thành công khi thực hiện đoàn kết chặt chẽ với phong
trào cách mạng thế giới. Thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc phải gắn liền với đoàn
kết quốc tế ; đại đoàn kết toàn dân tộc là cơ sở cho việc thực hiện đoàn kết quốc tế.
Cùng với quá trình phát triển thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong quan hệ với
quốc tế, tư tưởng đoàn kết với phong trào cách mạng thế giới đã được Hồ Chí
Minh phát triển ngày càng đầy đủ, rõ ràng và cụ thể hơn.
Quan hệ dân tộc quốc tế 2:
Đại đoàn kết toàn dân tộc phải kết hợp với đoàn kết quốc tế
Trong giai đoan cách mạng hiện nay, việc phát huy bài học kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế, lợi ích dân
tộc và nghĩa vụ quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh, phải nhất quán coi cách mạng
Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của cách mạng thế giới, tiếp tục đoàn
kết, ủng hộ các phong trào cách mạng, các xu hướng và trào lưu tiến bộ của thời
đại vì các mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Để nâng
cao hiệu quả hợp tác quốc tế, chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới,
Đảng, Nhà nước ta chủ trương nêu cao nguyên tắc độc lập tự chủ, tự lực tự cường,
chủ trương phát huy mạnh mẽ sức mạnh dân tộc- sức mạnh của chủ nghĩa yêu
nước, sức mạnh của người làm chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, trên cơ sở sức
mạnh bên trong mà tranh thủ và tận dụng sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của lực lượng bên ngoài.
Trước tình hình quốc tế và trong nước hiện nay biến chuyển nhanh chóng và sâu
sắc đặt ra những điều kiện mới đòi hỏi phải rút ra những bài học trong chiến lược
đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh để vận dụng cho phù hợp. Trước hết, làm rõ
đoàn kết để thực hiện mục tiêu cách mạng trong giai đoạn hiện nay là dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, xã hội công bằng văn minh. Hai là, mở cửa, hội nhập quốc tế,
là bạn của tất cả các nước, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển, đồng thời
phải tham gia những vấn đề toàn cầu hiện nay của quốc tế. Ba là, phải nêu cao tinh
thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế để công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Bốn là, xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh làm hạt nhân đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế, tiếp
tục đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng cho ngang tầm nhiệm vụ của dân tộc và của thời đại.
Những quan điểm cơ bản cùng những giá trị thực tiễn của tư tưởng đoàn kết
quốc tế Hồ Chí Minh là những bài học quý báu cần được nhận thức và vận dụng
sáng tạo cho phù hợp với cách mạng Việt Nam và thế giới tiến bộ trong giai đoạn hiện nay.
Câu 2: Liên hệ với thực tế hiện nay, trong quan hệ quốc tế, nội dung hiến pháp của
một nước và hành vi của chính phủ nước đó nên như thế nào? Hãy củng cố nội
dung phần liên hệ bằng tư liệu thời sự về tình hình căng thẳng giữa Ukraine và Nga hiện nay. Bài làm
Trong quan hệ quốc tế hiện nay, nội dung hiến pháp của một nước và hành vi của
chính phủ đó nên phù hợp với những điều ước quốc tế mà nước đó tham gia. Bởi
vì, mặc dù hiến pháp có giá trị pháp lý tối cao so với các công ước quốc tế mà các
nước tham gia, nhưng để phù hợp với nguyên tắc tận tâm thực hiện điều ước quốc
tế, các quốc gia cần có trách nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh các điều ước quốc tế
đã kí kết và chấp nhận sự ràng buộc.
Câu 3: Hãy củng cố nội dung phần liên hệ bằng tư liệu thời sự về tình hình căng thẳng giữa Ukraine và Nga hiện nay.
VỀ CUỘC XUNG ĐỘT NGA - UKRAINE HIỆN NAY
Cuộc khủng hoảng chính trị Nga - Ukraine hiện nay bắt nguồn từ sau khi kết thúc Chiến tranh
lạnh đến nay, gần hơn là năm 2014 khi Nga sáp nhập bán đảo Crimea, tiếp theo là một số bất ổn
ở khu vực Donbass, phía đông của Ukraine - nơi có hai nước Cộng hòa tự xưng là Donetsk (DPR) và Luhansk (LPR).
Gần đây nhất là từ cuối năm 2021 đến nay, tình hình trở nên đặc biệt căng thẳng vào thời điểm
tháng 12/2021, Nga gửi đến Mỹ và Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) bản đề nghị
an ninh gồm 8 điểm, trong đó nêu rõ các quan ngại về an ninh được coi như những “lằn ranh
đỏ”, đó là: 1) Ukraine không thể trở thành thành viên của NATO; 2) NATO không tiếp tục mở
rộng sang phía đông; 3) NATO quay trở lại điểm xuất phát năm 1997, nghĩa là trước khi mở rộng
sang phía đông, kết nạp các nước Đông Âu và ba nước Cộng hòa Baltic làm thành viên mới mà
Nga cho là đe dọa nghiêm trọng đến an ninh và lợi ích chiến lược của Nga. Sau khoảng 1 tháng
rưỡi, Mỹ và NATO gửi lại bản phản hồi tới Nga kèm theo các đề nghị không được đáp ứng thỏa
đáng. Theo Mỹ và NATO, tất cả quốc gia có chủ quyền như Ukraine nếu có yêu cầu về an ninh,
có thể làm đơn xin gia nhập không chỉ NATO mà bất kỳ tổ chức nào khác phù hợp với lợi ích
quốc gia của Ukraine. Bản phản hồi cũng nhấn mạnh, việc Nga yêu cầu NATO quay trở lại điểm
xuất phát năm 1997 là không hợp lý. Điều này khiến Nga cho rằng, những đề nghị chính đáng
của mình không được Mỹ và NATO coi trọng.
Xoay quanh việc Nga triển khai lực lượng quân sự lớn tới khu vực giáp biên giới với Ukraine từ
cuối tháng 11/2021, ngày 22/2/2022, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã công bố quyết định
công nhận độc lập của hai nước DPR và LPR, đồng thời điều quân đến đây để thực hiện “nhiệm
vụ gìn giữ hòa bình”. Trước nguy cơ an ninh ngày càng hiện hữu sau khi Ukraine dự kiến ký kết
một hiệp định quân sự chiến lược với Anh và Ba Lan, vào ngày 24/2/2022, Tổng thống Nga V.
Putin tiếp tục tuyên bố mở “chiến dịch quân sự đặc biệt” ở miền Đông Ukraine, nhằm đáp lại lời
đề nghị hỗ trợ bảo đảm an ninh của lãnh đạo hai nước DPR và LPR.
TÍNH TOÁN CỦA CÁC BÊN
Đối với Nga, “chiến dịch quân sự đặc biệt” năm 2022 được xem là “trận đánh chiến lược” của
Tổng thống Nga V. Putin, do đó Nga chấp nhận đối mặt với nhiều vấn đề, bao gồm cả việc sẵn
sàng chuẩn bị đối phó với các lệnh trừng phạt kinh tế ngặt nghèo, kéo dài của Mỹ và phương
Tây. Nga cũng hiểu rất rõ, chiến tranh sẽ tạo thêm một gánh nặng mới đối với nền kinh tế Nga
vốn bị ảnh hưởng nhiều do Nga là một trong những nước chịu tác động nặng nề nhất của đại dịch
COVID-19. Tuy nhiên, Chính phủ Nga đã đưa ra thông báo, Nga có đủ nguồn lực tài chính cho
sự ổn định của hệ thống trước các lệnh trừng phạt và các mối đe dọa từ bên ngoài.
Mục tiêu của Nga khi phát động chiến dịch quân sự lần này, bao gồm: 1) Ngăn chặn phương Tây
giành lại bán đảo Crimea; 2) Tạo sức ép đối với phương Tây và Ukraine thực hiện Thỏa thuận
Minsk 2 theo cách của Nga; 3) Cơ cấu lại an ninh khu vực châu Âu, trong đó an ninh của Nga
phải được tôn trọng và bảo đảm; 4) Thúc đẩy Đức và Liên minh châu Âu (EU) phê chuẩn dự án
“Dòng chảy phương Bắc 2”; 5) Củng cố nhà nước liên minh giữa Nga và Belarus vừa được khởi
động sau 20 năm không có nhiều tiến triển.
Theo đánh giá chung, hiện nay, Nga có nhiều thuận lợi trong việc mở chiến dịch quân sự: 1) Mặc
dù bị ảnh hưởng nghiêm trọng từ các lệnh trừng phạt của Mỹ và phương Tây, song kinh tế Nga
đã tăng cường được tính tự chủ, chủ động thích ứng, vượt qua thời điểm khó khăn nhất và đang
trên đà hồi phục. Tính đến tháng 8/2021, Quỹ Tài sản quốc gia Nga có nguồn vốn vào khoảng
185 tỷ USD và dự trữ ngoại tệ ở mức 615 tỷ USD. Bên cạnh đó, Nga cũng được dự báo là quốc
gia sẽ hồi phục nhanh hơn các nước lớn khác sau đại dịch COVID-19 do đã thích nghi tốt với
tình trạng bị cấm vận, cô lập từ năm 2014 đến nay; 2) Căng thẳng leo thang đẩy giá dầu mỏ tăng
cao, đang tạo lợi thế cho Nga; 3) Cán cân quyền lực và cục diện thế giới tiếp tục có sự dịch
chuyển nhanh từ Tây sang Đông, nhất là cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung Quốc gia tăng mạnh
mẽ cùng với việc Nga đẩy mạnh chính sách đối ngoại ưu tiên hơn trong quan hệ với Trung Quốc,
đã góp phần củng cố vị thế của Nga với vai trò là một trong những nhân tố “cân bằng chiến
lược” quan trọng hàng đầu mà cả Mỹ và Trung Quốc đều cần tranh thủ; 4) Cuộc khủng hoảng
Ukraine buộc các nước phải quay trở lại Thỏa thuận Minsk 2; 5) Cuộc khủng hoảng Ukraine
cũng tiếp tục làm bộc lộ rõ những mâu thuẫn trong nội bộ NATO và EU hiện nay (3); đồng thời,
tạo sức ép buộc Mỹ và phương Tây phải đàm phán với Nga về những vấn đề lớn hơn liên quan đến an ninh châu Âu.
Trên cơ sở đó, Tổng thống Nga V. Putin đã triển khai được 5 bước đi lớn: 1) Gia tăng sự hiện
diện quân sự tại Ukraine và gây ảnh hưởng lên các nước vùng Baltic; 2) Phô trương được sức
mạnh quân sự cùng một lúc trên tất cả các mặt trận; 3) Cộng hưởng với Trung Quốc trong cuộc
đua với Mỹ tiến tới vị trí trung tâm của vũ đài quốc tế; 4) Gửi tới Mỹ và NATO bản đề nghị an
ninh gồm 8 điểm với các điều kiện tiên quyết, trong đó nêu rõ những quan ngại về an ninh của
Nga; 5) Đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao con thoi để trao đổi với các nước. Những động thái
này góp phần bảo vệ và củng cố thể chế của nước Nga, nhất là vị thế, uy tín của Tổng thống Nga
V. Putin. Trong khi đó, thực tế cho thấy, các nước phương Tây và NATO thiếu sự quyết đoán khi
đối mặt với những mối đe dọa hiện hữu.
Đối với Mỹ, chính quyền của Tổng thống Mỹ Joe Biden đang gặp không ít khó khăn, thách thức
cả trong nước và ngoài nước. Ở trong nước, chính trị nội bộ Mỹ mâu thuẫn và chia rẽ sâu sắc,
nhất là sau cuộc bạo loạn xảy ra ở tòa nhà Quốc hội vào ngày 6/1/2021 (4). Bên cạnh đó, dịch
bệnh COVID-19 tiếp tục kéo dài và diễn biến phức tạp, tác động đến mọi mặt đời sống của nước
Mỹ. Ở ngoài nước, mặc dù vẫn là siêu cường số 1 thế giới với sức mạnh vượt trội song khoảng
cách sức mạnh của Mỹ so với Trung Quốc đang tiếp tục bị thu hẹp. Nhiều lợi ích chiến lược của
Mỹ đang bị thách thức. Hệ thống đồng minh, đối tác có sự rạn nứt nhất định sau nhiệm kỳ của
chính quyền Tổng thống Mỹ Donal Trump khiến các nỗ lực của Mỹ trong xử lý những vấn đề
toàn cầu gặp nhiều khó khăn…
Tuy nhiên, việc thúc đẩy leo thang một cuộc khủng hoảng mới được cho là sẽ giúp Mỹ trở lại vị
thế chi phối và vai trò lãnh đạo thế giới, ngăn chặn, đối phó với thách thức gia tăng từ các đối thủ
chiến lược và các thách thức an ninh khác; khôi phục và củng cố hệ thống đồng minh, đối tác;
định hình trật tự thế giới mới dựa trên các nguyên tắc, chuẩn mực, giá trị chung.
Mục tiêu của Mỹ trong cuộc khủng hoảng chính trị Ukraine là: 1) Làm suy giảm sức mạnh tổng
hợp quốc gia của Nga; 2) “Phương Tây hóa Ukraine”, lôi kéo các nước có xu hướng thân Nga
“đoạn tuyệt” với Nga và dựa hẳn vào Mỹ và phương Tây; 3) Củng cố mối quan hệ xuyên Đại
Tây Dương; 4) Tranh thủ cuộc khủng hoảng chính trị tại Ukraine leo thang để khiến các nước
châu Âu phụ thuộc hơn nữa vào Mỹ về mặt quân sự, an ninh, kinh tế và năng lượng; 5) Có lý do
chính đáng để ngăn chặn Đức phê duyệt dự án “Dòng chảy phương Bắc 2”.
Đối với Ukraine, nước này vốn được coi là “nạn nhân” trong cuộc khủng hoảng chính trị hiện
nay, nhưng lại mong muốn gia nhập NATO và EU. Ukraine cho rằng, việc gia nhập NATO
“không gây ảnh hưởng đến an ninh của Nga”. Chính vì vậy, ngay sau khi lên nắm quyền, chính
quyền của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky tiếp tục: 1) Khẳng định quyết tâm gia nhập
NATO và đẩy mạnh cải cách lực lượng vũ trang theo tiêu chuẩn NATO; 2) Tăng cường củng cố
tiềm lực quốc phòng - an ninh, với việc gia tăng chi phí và đẩy mạnh thử nghiệm các loại tên lửa
mới (5); 3) Duy trì các cuộc tập trận quân sự chung với NATO nhằm nâng cao khả năng tác chiến
hiệp đồng giữa quân đội Ukraine với quân đội các nước thành viên NATO; 4) Tiến hành sửa
chữa, cải tiến và hiện đại hóa các loại vũ khí, khí tài cũ để trang bị cho lực lượng quân đội; 5)
Mua vũ khí sát thương của các nước phương Tây.
Trong khi đó, NATO lại tỏ ra khá thận trọng trước viễn cảnh Ukraine gia nhập tổ chức này. Theo
Tổng Thư ký NATO Jens Stoltenberg, Ukraine đã xin gia nhập NATO từ năm 2008 và NATO
đang xem xét, chưa kết nạp Ukraine, với lý do theo Điều 6 Hiến chương NATO, về mặt kỹ thuật,
Ukraine hiện chưa đủ điều kiện để gia nhập NATO (6). Tuy nhiên, cũng như Mỹ và các nước
phương Tây, NATO cho rằng, tất cả quốc gia độc lập, có chủ quyền như Ukraine, có thể xin gia
nhập không chỉ NATO mà bất kỳ tổ chức kinh tế, chính trị, quân sự hay ngoại giao nào phù hợp
với lợi ích quốc gia của Ukraine.
Thế nhưng, theo Điều 5 Hiến chương NATO - một nguyên tắc sáng lập của NATO về phòng thủ
tập thể - bất kỳ cuộc tấn công vũ trang nào nhằm vào một hay một số thành viên của liên minh
đều được coi là cuộc tấn công vào toàn bộ liên minh… Mỗi thành viên, với quyền tự vệ cá thể
hay tập thể chính đáng theo Điều 51 Hiến chương Liên hợp quốc, sẽ hỗ trợ một bên hoặc các
bên. Như vậy, nếu Ukraine trở thành một phần của NATO, các nước thành viên có nguy cơ phải
tham gia đối đầu trực tiếp với Nga. Đây là điều mà dường như không một quốc gia nào trong NATO mong muốn.
Triển khai chính sách đối ngoại thân phương Tây, Ukraine đặt mục tiêu có thể gia nhập NATO và
EU, giúp Ukraine bảo toàn lãnh thổ, lấy lại bán đảo Crimea và các vùng ly khai ở khu vực
Donbass. Tuy nhiên, cả Ukraine và phương Tây đều bất ngờ khi cho rằng, khả năng Nga sẽ tiến
hành “một cuộc chiến tranh toàn diện” như hiện nay là không cao.