BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN
MÔN TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
Đề tài: “Quan điểm duy vật lịch sử về mối quan hệ biện chứng giữa tồn
tại hội ý thức hội ý nghĩa của việc nghiên cứu đó trong
nghiên cứu, học tập của sinh viên”
Họ và tên: Bùi Thúy Hường
Mã số sinh viên: 25
Lớp TC: LLNL1105(121)_V1
GV hướng dẫn: TS. Lê Thị Hồng
Hà Nội - 2021
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................
CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI...................1
1.1. Khái niệm tồn tại xã hội và các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội...................1
1.1.1. Khái niệm tồn tại xã hội..............................................................................1
1.1.2. Các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội...........................................................1
1.2. Ý thức xã hội và kết cấu của ý thức xã hội......................................................2
1.2.1. Khái niệm ý thức xã hội..............................................................................2
1.2.2. Kết cấu của ý thức xã hội............................................................................2
1.2.3. Tính giai cấp của ý thức xã hội...................................................................5
CHƯƠNG 2 MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA TỒN TẠI HỘI Ý:
THỨC HỘI Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU TRONG NGHIÊN
CỨU HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN.............................................................................5
2.1. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội........................5
2.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu trong nghiên cứu học tập của sinh viên...........8
KẾT LUẬN...................................................................................................................9
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học một ngành khoa học nghiên cứu những vấn đề chung nhất của giới
tự nhiên, của hội con người, mối quan hệ của con người nói chung, của duy
con người nói riêng với thế giới xung quanh. Chính vậy triết học vai trò hạt
nhân lý luận của thế giới quan, định hướng con người tự phát triển thế giới quan, nhận
thức về những sự vật, hiện tượng xung quanh.
Logic luận của C.Mác Ph.Ăngghen đã đưa thực tiễn vào triết học. Đặc
biệt, hai ông lý giải một cách khoa học trên lập trường duy vật biện chứng mỗi quan hệ
giữa vật chất và ý thức, mối quan hệ giữa ý thức xã hội và tồn tại xã hội; luận giải được
vai trò của sản xuất vật chất chỉ ra những quy luật vận động, phát triển của hội
loài người, thực chất nó là những quy luật phản ánh hoạt động thực tiễn của con người
trong lịch sử.
Với cách một bạn sinh viên trẻ, đang trong quá trình hình thành phát
triển thế giới quan của bản thân cũng như định hướng lại hoạt động trong môi trường
đại học mới, em xin tìm hiểu đề tài: “Quan điểm duy vật lịch sử về mối quan hệ biện
chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội và ý nghĩa của việc nghiên cứu đó trong
nghiên cứu, học tập của sinh viên”.
CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI
1.1. Khái niệm tồn tại xã hội và các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội
1.1.1. Khái niệm tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất
của xã hội. Tồn tại xã hội của con ngườithực tại xã hội khách quan, là một kiểu vật
chất xã hội, là các quan hệ xã hội vật chất được ý thức xã hội phản ánh. Trong các quan
hệ xã hội vật chất ấy thì quan hệ giữa con người với giới tự nhiên và quan hệ con người
với con người là những quan hệ cơ bản nhất.
1.1.2. Các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố cơ bản là phương thức sản xuất vật chất, điều kiện tự
nhiên, hoàn cảnh địa lý, dân số mật độ dân số, v.v., trong đó phương thức sản xuất
vật chất là yếu tố cơ bản nhất.
Nghiên cứu với tính cách vừa là đời sống vật chất vừa là những quan hệtồn tại xã hội
vật chất giữa người với người, V. I. Lênin viết:
“Việc anh sống, anh hoạt động kinh tế, anh sinh con đẻ cái anh chế tạo ra các sản
phẩm, anh trao đổi sản phẩm, làm nảy sinh một chuỗi tất yếu khách quan gồm những
biến cố, những sự phát triển, không phụ thuộc ý thức hội của anh, ý thức này
không bao giờ bao quát được toàn vẹn cái chuỗi đó”.
Tồn tại xã hội không chỉ quyết định sự hình thành của ý thức xã hội mà còn quyết định
cả nội dung hình thức biểu hiện của nó. Mỗi yếu tố của tồn tại hội thể được
các hình thái ý thức hội khác nhau phản ánh từ các góc độ khác nhau theo những
cách thức khác nhau. Tuy nhiên, đến lượt mình, các hình thái ý thức này cũng sẽ tác
động, ảnh hưởng ngược trở lại tồn tại hội. Đó chính là tính độc lập tương đối của ý
thức xã hội.
1.2. Ý thức xã hội và kết cấu của ý thức xã hội
1.2.1. Khái niệm ý thức xã hội
- Cùng với phạm trù tồn tại hội, phạm trù ý thức hội phạm trù của chủ
nghĩa duy vật lịch sử được vận dụng giải quyết vấn đề bản của triết học trong lĩnh
vực hội. Nếu ý thức không bao giờ thể cái khác hơn sự tồn tại được ý
thức thì ý thức xã hội thì chính là xã hội tự nhận thức về mình, về sự tồn tại xã hội của
mình về hiện thực xung quanh mình. Nói cách khác, ý thức hội mặt tinh thần
của đời sống hội, bộ phận hợp thành của văn hóa tinh thần của hội. Văn hóa
tinh thần của xã hội mang nặng dấu ấn đặc trưng của hình thái kinh tế - xã hội, của các
giai cấp đảng tạo ra nó.
1.2.2. Kết cấu của ý thức xã hội
Ý thức xã hội bao gồm tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội. Trong hệ tư trưởng xã
hội thì quan trọng nhất là các quan điểm, các học thuyết và các tư tưởng. Trong tâm
hội tình cảm, tâm trạng, truyền thống, v.v. nảy sinh từ sự tồn tại hội phản
ánh tồn tại hội những giai đoạn phát triển nhất định. V.I. Lênin viết: Ý thức
hội phản ánh tồn tại hội, đó học thuyết của Mác”. Tuy nhiên, sự phản ánh này
không phải là sự phản ánh thụ động, bất động mà là một quá trình biện chứng phức tạp,
là kết quả của mối quan hệ hoạt động, tích cực của con người đối với hiện thực.
Ý thức nhân chính thế giới tinh thân của các nhân riêng lẻ cụ thể. Ý
thức nhân khác nhau được quy định bởi những đặc điểm của cuộc sống riêng, của
việc giáo dục điều kiện hình thành nhân cách riêng của nhân. ít nhiều, ý
thức của các nhân khác nhau đều phản ánh tồn tại hội các mức độ khác nhau,
song không phải bao giờ nó cũng đại diện cho một quan điểm chung, phổ biến cho một
cộng đồng người, của một tập đoàn xã hội hay một thời đại xã hội nhất định nào đó.
Ý thức hội ý thức nhân tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ, biện chứng với
nhau, thâm nhập vào nhau và làm phong phú nhau, cùng phản ánh tồn tại hội, song
giữa ý thức cá nhân và ý thức xã hội vẫn có sự khác nhau tương đối vì chúng thuộc hai
trình độ khác nhau.
Về mặt hình thức thì ý thức hội phản ánh tồn tại dưới nhiều hình thức khác
nhau. Sự đa dạng các hình thái ý thức xã họido tính nhiều mặt, nhiều vẻđa dạng
đời sống xã hội quy định, chúng phản ánh xã hội theo những cách thức khác nhau.
Theo nội dung lĩnh vực phản ánh đời sống hội, ý thức hội bao gồm các
hình thái khác nhau: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý
thức tôn giáo, ý thức thẩm mỹ, triết học,...
Theo trình độ phản ánh có thể phân biệt ý thức xã hội thông thườngý thức
luận, tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội.
Ý thức xã hội thông thường toàn bộ những tri thức, những quan niệm...
của những con người trong một cộng đồng người nhất định, được hình thành một cách
trực tiếp từ hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hóa, khái quát hóa
thành luận. Trong ý thức hội thông thường, tâm hội bộ phận rất quan
trọng. Ý thức hội thông thường, thường phản ánh sinh động, trực tiếp nhiều mặt
cuộc sống hàng ngày của con người, thường xuyên chi phối cuộc sống đó. Ý
thức thông thường tuy trình độ thấp so với ý thức luận, nhưng những tri
thức kinh nghiệm phong phú đó có thể trở thành tiền đề quan trọng cho sự hình thành
các lý thuyết xã hội.
những tư tưởng, quan điểm đã được hệ thống hóa, khái quát hóaÝ thức lý luận
thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái niệm, phạm trù, quy
luật. Ý thức lý luận (lý luận khoa học) có khả năng phản ánh hiện thực khách quan một
cách khái quát, sâu sắc và chính xác, vạch ra các mối liên hệ bản chất của các sự vật và
hiện tượng. Ý thức luận đạt trình độ cao mang tính hệ thống tạo thành
các hệ tư tưởng.
Quan hệ giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.
Tâm lý xã hội bao gồm toàn bộ tình cảm,ước muốn, tâm trạng, tập quán...
của con người, của một bộ phận hội hoặc của toàn hội hình thành dưới ảnh
hưởng trực tiếp của đời sống hàng ngày của họ và phản ánh đời sống đó.
Đặc điểm của tâm xã hội phản ánh một cách trực tiếp điều kiện sinh
sống hàng ngày của con người, sự phản ánh tính chất tự phát, thường ghi lại
những mặt bề ngoài của tồn tại xã hội. không có khả năng vạch ra đầy đủ, ràng,
sâu sắc bản chất các mối quan hệ xã hội của con người.
Những quan niệm của con người ở trình độ tâm lý xã hội còn mang tính kinh
nghiệm, chưa được thể hiện về mặt lý luận, yếu tố trí tuệ đan xem với yếu tố tình cảm.
Tuy nhiên, không thể phủ nhận vai trò quan trọng của tâm lý xã hội trong sự phát triển
của ý thức xã hội. C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin Hồ Chí Minh rất coi trọng
việc nghiên cứu trạng thái tâm hội của nhân dân để hiểu nhân dân, giáo dục
nhân dân, đưa nhân dân tham gia tích cực, tự giác vào cuộc đấu tranh cho một hội
tốt đẹp.
Hệ tư tưởngtrình độ nhận thức lý luận về tồn tại xã hội, là hệ thống những quan
điểm, tưởng (chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo), kết quả của
sự khái quát hóa những kinh nghiệm hội. Hệ tư tưởng được hình thành một
cách tự giác nghĩa tạo ra bởi các nhà tư tưởng của những giai cấp nhất định
và được truyền bá trong xã hội.
Cần phải phân biệt hệ tưởng khoa học hệ tưởng không khoa học.
Hệ tư tưởng khoa học phản ánh chính xác, khách quan các mối quan hệ vật chất của xã
hội. Hệtư tưởng không khoa học tuy cũng phản ánh các mối quan hệ vật chất của
hội, nhưng dưới một hình thức sai lầm, hư ảo hoặc xuyên tạc.
Với tính cách là một bộ phận của ý thức xã hội, hệ tư tưởng ảnh hưởng lớn đến sự
phát triển của khoa học. Lịch sử các khoa học tự nhiên đã cho thấy tác dụng quan trọng
của hệ tư tưởng, đặc biệt là tư tưởng triết học đối với quá trình khái quát những tài liệu
khoa học.
Tâmhội và hệ tưởng xã hội tuy là hai trình độ, hai phương thức phản ánh
khác nhau của ý thức hội, nhưng mối quan hệ tác động qua lại với nhau, chúng
có cùng một nguồn gốc là tồn tại xã hội, đều phản ánh tồn tại xã hội. Nếu tâm
hội thể thúc đẩy hoắc cản trợ sự hình thành sự tiếp nhận một hệ tưởng
nào đó, có thể giảm bớt sựcứng hoặc công thức cứng nhắc của hệtưởng, thì trái
lại, hệtưởng khoa họcthể bổ sung, làm gia tăng hàm lượng trí tuệ cho tâm
hội, góp phần thúc đẩy tâm lý xã hội phát triển theo chiều hướng tích cực.
1.2.3. Tính giai cấp của ý thức xã hội
Trong những xã hội có giai cấp thì các giai cấp khác nhau có điều kiện vật chất khác
nhau, có lợi ích và địa vị xã hội khác nhau thì ý thứchội của giai cấp đó cũng khác
nhau.
Tính giai cấp của ý thứchội biểu hiện cảtâm xã hội lẫn hệ tưởng. Hệ tư
tưởng của giai cấp thống trị trong các xã hội có giai cấp đối kháng bao giờ cũng bảo vệ
địa vị và lợi ích của giai cấp thống trị, của chế độ người bóc lột người.
Ý thức của các giai cấp khác nhau có tác động qua lại lẫn nhau. Không chỉ giai cấp
bị thống trị chịu ảnh hưởng tưởng của giai cấp thống trị giai cấp thống trị cũng
chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp thống trị.
CHƯƠNG 2 MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý:
THỨC XÃ HỘI VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU TRONG NGHIÊN
CỨU HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
2.1. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
Tồn tại xã hội có mối quan hệ biện chứng với ý thức xã hội. Tồn tạihội nào thì
có ý thức xã hội ấy. Tồn tại xã hội quyết định nội dung, tính chất, đặc điểm, xu hướng
vận động, sự biến đổi sự phát triển của các hình thái ý thức hội. Nếu hội còn
tồn tại sự phân chia giai cấp thì ý thức xã hội nhất định cũng mang tính giai cấp.
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
“…không thể nhận định về một thời đại đảo lộn như thế căn cứ vào ý thức của
thời đại ấy. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật
chất, bằng sự xung đột hiện giữa các lực lượng sản xuất hội những quan hệ
sản xuất xã hội”
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t13, tr. 15
Ý thức xã hội tác động lại tồn tại xã hội
Các hình thái ý thức hội đặc điểm chung mặc bị tồn tại hội quy định,
song chúng đều có tính độc lập tương đối.
Quan điểm duy vật lịch sử khẳng định rằng, ý thức xã hội và tồn tại xã hội có mối quan
hệ biện chứng rằng, các hình thức xã hội không phải là những yếu tố thụ động, trái lại,
mỗi hình thái ý thức xã hội đều có sự tác động ngược trở lại tồn tại xã hội, trước hết
tác động lẫn nhau theo những hình thức khác nhau:
- Ý thức xã hội thưởng lạc hậu hơn tồn tại xã hội
Do tác động mạnh mẽ và nhiều mặt trong hoạt động thực tiễn của con người nên tồn
tại xã hội diễn ra với tốc độ nhanh hơn khả năng phản ánh của ý thức xã hội.
Do sức mạnh của thói quen, tập quán, truyền thống do cả tính bảo thủ của hình
thái ý thức hội. Hơn nữa, những điều kiện tồn tại hội mới cũng chưa đủ để làm
cho những thói quen, tập quán và truyền thống cũ hoàn toàn mất đi.
Ý thức xã hội gắn liền với lợi ích của những tập đoàn người, của các giai cấp nào đó
trong xã hội. Các tập đoàn hay giai cấp lạc hậu thường níu kéo, bám chặt vào những tư
tưởng lạc hậu để bảo vệduy trì quyền lợi ích kỷ của họ, để chống lại các lực lượng
tiến bộ trong xã hội.
- Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Lịch sử đã cho thấy nhiều dự báo của các nhàtưởng lớn phải sau một thời gian, có
thể ngắn hoặc rất dài, mới được thực tiễn xác nhận. Nhiều dự báo của C.Mác đang trở
thành sự thật trong thời đại chúng ta đã hoàn toàn khẳng định điều đó.
vậy trong thời đại chúng ta, chủ nghĩa Mác- Lênin vẫn đang thế giới quan
phương pháp luận chung nhất cho sự nhận thức và cho công cuộc cải tạo hiện thực.
- Ý thức xã hội có tính kế thừa
Tiến trình phát triển đời sống tinh thần của hội loài người cho thấy rằng các quan
điểm lý luận, các tư tưởng lớn của thời đại sau bao giờ cũng dựa vào những tiền đề đã
có từ các giai đoạn lịch sử trước đó.
Trong sự phát triển của mình ý thức xã hội có tính kế thừa nên không thể giải thích một
tưởng nào đó nếu chỉ dựa vào trình độ, hiện trạng phát triển kinh tế các quan hệ
kinh tế - hội. Tuy nhiên cần lưu ý rằng, trong các hội có các giai cấp thì các giai
cấp khác nhau sẽ kế thừa các di sản khác nhau của những giai đoạn trước. Giai cấp tiến
bộ đang lên sẽ chọn kế thừa tư tưởng tiến bộ của thời đại trước, trái lại giai cấp lỗi thời,
đi xuống bao giờ cũng chọn tiếp thu những tư tưởnglý thuyết bảo thủ, phản tiến bộ
để cố gắng duy trì sự tiến bộ của mình
Quan điểm của triết học Mac Lenin về tính kế thừa của ý thức hội ý nghĩa to
lớn đối với sự nghiệp xây dựng văn hóa tinh thần của dân tộc ta hiện nay
- Sự tác động qua lại giữa hình thái ý thức xã hội
Các hình thái ý thức hội phản ánh tồn tại hội theo những cách khác nhau, có vai
trò khác nhau trong xã hội trong đời sống của con người. Tuy nhiên, các thời đại
lịch sử khác nhau, trong những hoàn cảnh khác nhau dù vai trò của các hình thái ý thức
xã hội không giống nhau nhưng chúng vẫn có sự tác động qua lại với nhau.
- Ý thức xã hội tác động trở lại sự tồn tại xã hội
Tồn tạihội chịu sự tác động trở lại của ý thức hội biểu hiện khác của tính độc
lập tương đối của ý thức xã hội.
Quan niệm duy vật về lịch sử thừa nhận biểu hiện này về tính độc lập tương đối của ý
thức hội đối lập hoàn toàn đối với chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối hóa vai trò của ý
thức xã hội lẫn chủ nghĩa duy vật tầm thường chỉ coi trọng vai trò của kinh tế còn phủ
nhận hoàn toàn vai trò của ý thức xã hội.
Sự tác động trở lại đối với tồn tại xã hội của các hình thái ý thức xã hội mạnh hay yếu
còn phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể, vào các quan hệ kinh tế vốn là cơ sở
hình thành các hình thái ý thức xã hội; vào trình độ phản ánh và sức lan tỏa của ý thức
đối với các nhu cầu khác nhau của sự phát triển hội; đặc biệt vào vai trò lịch sử
của giai cấp đại diện cho ngọn cờ tư tưởng đó. Vì vậy, cần phân biệt ý thức xã hội tiến
bộ với ý thức xã hội lạc hậu, cản trở sự tiến bộ xã hội
2.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu trong nghiên cứu học tập của sinh viên
Nước ta đang trong quá trình phát triển, hội nhập chuyển từ hội truyền thống
sang xã hội hiện đại. Xã hội mới tất yếu dẫn đến thay đổi to lớn đời sống tinh thần của
xã hội mà ngược lại, những tác động của đời sống tinh thần xã hội với những điều kiện
xác định cũng có thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ trong tồn tại xã hội.
Trong điều kiện phát triển của hội, sinh viên phải biết phát huy vai trò tích cực
của đời sống tinh thần xã hội để lĩnh hội các tri thức, những quan điểm, những tư tưởng
sâu sắc và phong phú.
hội hiện nay, sinh viên được tiếp xúc, học hỏi với nhiều nền văn hóa về chủ
nghĩa nhân, giá trị về năng lực bản thân được ưu tiên coi trọng do đó những
tưởng táo bạo, dám nghĩ dám làm. Trong khi đó, sự tồn tại xã hội cũ vẫn còn nhiều đặc
điểm như sự khiêm nhường, hành xử kính trọng theo chủ ý của các bậc tiền bối, cấp
trên. Vì vậy đã tạo ra sự thay đổi lớn về tư tưởng của lớp trẻ.
Nhưng khi chưa được trang bị đầy đủ về mặt tưởng luận rất dễ gây nên tình
trạng bi quan hay cái nhìn tiêu cực về xã hội.Vì vậy sinh viên phải nắm bắt chặt chẽ dư
luận xã hội thể hiện trạng thái tâm lý và nhu cầu xã hội đa dạng trong những hoàn cảnh
điều kiện khác nhau. Đưa ra hệ tưởng khoa học để phản ánh khách quan, chính
xác các quan hệ, các quá trình và hiện tượng xã hội.
KẾT LUẬN
Khi mà tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất thay đổi thì những tư tưởng
quan điểm về chính trị, pháp luật, triết học cả quan điểm thẩm mỹ lẫn đạo đức
sớm hay muộn cũng sẽ những sự thay đổi nhất định. Việc xác định ý thức hội
một cách đúng đắn, sâu sắc, bao quát tránh các tư tưởng lệch lạc, tiêu cực thì xã hội sẽ
ngày một phát triển.
hội luôn vận động, biến đổi, phát triển thể ảnh hưởng đến rất nhiều
thành phần trong xã hội. Sống trong một môi trường như vậy, đòi hỏi sinh viên phải có
một thế giới quan, sự tự nhận thức vững chắc tránh hệ tư tưởng không khoa học. Từ đó
có thể đóng góp một phần sức mạnh vào sự phát triển toàn cầu

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN BÀI TẬP LỚN
MÔN TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
Đề tài: “Quan điểm duy vật lịch sử về mối quan hệ biện chứng giữa tồn
tại xã hội và ý thức xã hội và ý nghĩa của việc nghiên cứu đó trong
nghiên cứu, học tập của sinh viên”

Họ và tên: Bùi Thúy Hường Mã số sinh viên: 25 Lớp TC: LLNL1105(121)_V1
GV hướng dẫn: TS. Lê Thị Hồng Hà Nội - 2021 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................
CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI...................1
1.1. Khái niệm tồn tại xã hội và các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội...................1
1.1.1. Khái niệm tồn tại xã hội..............................................................................1
1.1.2. Các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội...........................................................1
1.2. Ý thức xã hội và kết cấu của ý thức xã hội......................................................2
1.2.1. Khái niệm ý thức xã hội..............................................................................2
1.2.2. Kết cấu của ý thức xã hội............................................................................2
1.2.3. Tính giai cấp của ý thức xã hội...................................................................5
CHƯƠNG 2: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý
THỨC XÃ HỘI VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU TRONG NGHIÊN
CỨU HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
.............................................................................5
2.1. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội........................5
2.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu trong nghiên cứu học tập của sinh viên...........8
KẾT LUẬN...................................................................................................................9 LỜI MỞ ĐẦU
Triết học là một ngành khoa học nghiên cứu những vấn đề chung nhất của giới
tự nhiên, của xã hội và con người, mối quan hệ của con người nói chung, của tư duy
con người nói riêng với thế giới xung quanh. Chính vì vậy triết học có vai trò là hạt
nhân lý luận của thế giới quan, định hướng con người tự phát triển thế giới quan, nhận
thức về những sự vật, hiện tượng xung quanh.
Logic lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa thực tiễn vào triết học. Đặc
biệt, hai ông lý giải một cách khoa học trên lập trường duy vật biện chứng mỗi quan hệ
giữa vật chất và ý thức, mối quan hệ giữa ý thức xã hội và tồn tại xã hội; luận giải được
vai trò của sản xuất vật chất và chỉ ra những quy luật vận động, phát triển của xã hội
loài người, thực chất nó là những quy luật phản ánh hoạt động thực tiễn của con người trong lịch sử.
Với tư cách là một bạn sinh viên trẻ, đang trong quá trình hình thành và phát
triển thế giới quan của bản thân cũng như định hướng lại hoạt động trong môi trường
đại học mới, em xin tìm hiểu đề tài: “Quan điểm duy vật lịch sử về mối quan hệ biện
chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội và ý nghĩa của việc nghiên cứu đó trong
nghiên cứu, học tập của sinh viên”.

CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI
1.1. Khái niệm tồn tại xã hội và các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội
1.1.1. Khái niệm tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất
của xã hội. Tồn tại xã hội của con người là thực tại xã hội khách quan, là một kiểu vật
chất xã hội, là các quan hệ xã hội vật chất được ý thức xã hội phản ánh. Trong các quan
hệ xã hội vật chất ấy thì quan hệ giữa con người với giới tự nhiên và quan hệ con người
với con người là những quan hệ cơ bản nhất.
1.1.2. Các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố cơ bản là phương thức sản xuất vật chất, điều kiện tự
nhiên, hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số, v.v., trong đó phương thức sản xuất
vật chất là yếu tố cơ bản nhất.
Nghiên cứu tồn tại xã hội với tính cách vừa là đời sống vật chất vừa là những quan hệ
vật chất giữa người với người, V. I. Lênin viết:
“Việc anh sống, anh hoạt động kinh tế, anh sinh con đẻ cái và anh chế tạo ra các sản
phẩm, anh trao đổi sản phẩm, làm nảy sinh một chuỗi tất yếu khách quan gồm những
biến cố, những sự phát triển, không phụ thuộc và ý thức xã hội của anh, và ý thức này
không bao giờ bao quát được toàn vẹn cái chuỗi đó”.
Tồn tại xã hội không chỉ quyết định sự hình thành của ý thức xã hội mà còn quyết định
cả nội dung và hình thức biểu hiện của nó. Mỗi yếu tố của tồn tại xã hội có thể được
các hình thái ý thức xã hội khác nhau phản ánh từ các góc độ khác nhau theo những
cách thức khác nhau. Tuy nhiên, đến lượt mình, các hình thái ý thức này cũng sẽ tác
động, ảnh hưởng ngược trở lại tồn tại xã hội. Đó chính là tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.
1.2. Ý thức xã hội và kết cấu của ý thức xã hội
1.2.1. Khái niệm ý thức xã hội
- Cùng với phạm trù tồn tại xã hội, phạm trù ý thức xã hội là phạm trù của chủ
nghĩa duy vật lịch sử được vận dụng giải quyết vấn đề cơ bản của triết học trong lĩnh
vực xã hội. Nếu ý thức không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý
thức thì ý thức xã hội thì chính là xã hội tự nhận thức về mình, về sự tồn tại xã hội của
mình và về hiện thực xung quanh mình. Nói cách khác, ý thức xã hội là mặt tinh thần
của đời sống xã hội, là bộ phận hợp thành của văn hóa tinh thần của xã hội. Văn hóa
tinh thần của xã hội mang nặng dấu ấn đặc trưng của hình thái kinh tế - xã hội, của các
giai cấp đảng tạo ra nó.
1.2.2. Kết cấu của ý thức xã hội
Ý thức xã hội bao gồm tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội. Trong hệ tư trưởng xã
hội thì quan trọng nhất là các quan điểm, các học thuyết và các tư tưởng. Trong tâm lý
xã hội có tình cảm, tâm trạng, truyền thống, v.v. nảy sinh từ sự tồn tại xã hội và phản
ánh tồn tại xã hội ở những giai đoạn phát triển nhất định. V.I. Lênin viết: “ Ý thức xã
hội phản ánh tồn tại xã hội, đó là học thuyết của Mác”. Tuy nhiên, sự phản ánh này
không phải là sự phản ánh thụ động, bất động mà là một quá trình biện chứng phức tạp,
là kết quả của mối quan hệ hoạt động, tích cực của con người đối với hiện thực.
Ý thức cá nhân chính là thế giới tinh thân của các cá nhân riêng lẻ và cụ thể. Ý
thức cá nhân khác nhau được quy định bởi những đặc điểm của cuộc sống riêng, của
việc giáo dục và điều kiện hình thành nhân cách riêng của cá nhân. Dù ít dù nhiều, ý
thức của các cá nhân khác nhau đều phản ánh tồn tại xã hội ở các mức độ khác nhau,
song không phải bao giờ nó cũng đại diện cho một quan điểm chung, phổ biến cho một
cộng đồng người, của một tập đoàn xã hội hay một thời đại xã hội nhất định nào đó.
Ý thức xã hội và ý thức cá nhân tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ, biện chứng với
nhau, thâm nhập vào nhau và làm phong phú nhau, cùng phản ánh tồn tại xã hội, song
giữa ý thức cá nhân và ý thức xã hội vẫn có sự khác nhau tương đối vì chúng thuộc hai trình độ khác nhau.
Về mặt hình thức thì ý thức xã hội phản ánh tồn tại dưới nhiều hình thức khác
nhau. Sự đa dạng các hình thái ý thức xã họi là do tính nhiều mặt, nhiều vẻ và đa dạng
đời sống xã hội quy định, chúng phản ánh xã hội theo những cách thức khác nhau.
Theo nội dung và lĩnh vực phản ánh đời sống xã hội, ý thức xã hội bao gồm các
hình thái khác nhau: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý
thức tôn giáo, ý thức thẩm mỹ, triết học,...
Theo trình độ phản ánh có thể phân biệt ý thức xã hội thông thường và ý thức lý
luận, tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội.
Ý thức xã hội thông thường là toàn bộ những tri thức, những quan niệm...
của những con người trong một cộng đồng người nhất định, được hình thành một cách
trực tiếp từ hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hóa, khái quát hóa
thành lý luận. Trong ý thức xã hội thông thường, tâm lý xã hội là bộ phận rất quan
trọng. Ý thức xã hội thông thường, thường phản ánh sinh động, trực tiếp nhiều mặt
cuộc sống hàng ngày của con người, thường xuyên chi phối cuộc sống đó. Ý
thức thông thường tuy là trình độ thấp so với ý thức lý luận, nhưng những tri
thức kinh nghiệm phong phú đó có thể trở thành tiền đề quan trọng cho sự hình thành các lý thuyết xã hội.
Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm đã được hệ thống hóa, khái quát hóa
thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái niệm, phạm trù, quy
luật. Ý thức lý luận (lý luận khoa học) có khả năng phản ánh hiện thực khách quan một
cách khái quát, sâu sắc và chính xác, vạch ra các mối liên hệ bản chất của các sự vật và
hiện tượng. Ý thức lý luận đạt trình độ cao và mang tính hệ thống tạo thành các hệ tư tưởng.
Quan hệ giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.
Tâm lý xã hội bao gồm toàn bộ tình cảm,ước muốn, tâm trạng, tập quán...
của con người, của một bộ phận xã hội hoặc của toàn xã hội hình thành dưới ảnh
hưởng trực tiếp của đời sống hàng ngày của họ và phản ánh đời sống đó.
Đặc điểm của tâm lý xã hội là phản ánh một cách trực tiếp điều kiện sinh
sống hàng ngày của con người, là sự phản ánh có tính chất tự phát, thường ghi lại
những mặt bề ngoài của tồn tại xã hội. Nó không có khả năng vạch ra đầy đủ, rõ ràng,
sâu sắc bản chất các mối quan hệ xã hội của con người.
Những quan niệm của con người ở trình độ tâm lý xã hội còn mang tính kinh
nghiệm, chưa được thể hiện về mặt lý luận, yếu tố trí tuệ đan xem với yếu tố tình cảm.
Tuy nhiên, không thể phủ nhận vai trò quan trọng của tâm lý xã hội trong sự phát triển
của ý thức xã hội. C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh rất coi trọng
việc nghiên cứu trạng thái tâm lý xã hội của nhân dân để hiểu nhân dân, giáo dục
nhân dân, đưa nhân dân tham gia tích cực, tự giác vào cuộc đấu tranh cho một xã hội tốt đẹp.
Hệ tư tưởng là trình độ nhận thức lý luận về tồn tại xã hội, là hệ thống những quan
điểm, tư tưởng (chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo), kết quả của
sự khái quát hóa những kinh nghiệm xã hội. Hệ tư tưởng được hình thành một
cách tự giác nghĩa là tạo ra bởi các nhà tư tưởng của những giai cấp nhất định
và được truyền bá trong xã hội.
Cần phải phân biệt hệ tư tưởng khoa học và hệ tư tưởng không khoa học.
Hệ tư tưởng khoa học phản ánh chính xác, khách quan các mối quan hệ vật chất của xã
hội. Hệtư tưởng không khoa học tuy cũng phản ánh các mối quan hệ vật chất của xã
hội, nhưng dưới một hình thức sai lầm, hư ảo hoặc xuyên tạc.
Với tính cách là một bộ phận của ý thức xã hội, hệ tư tưởng ảnh hưởng lớn đến sự
phát triển của khoa học. Lịch sử các khoa học tự nhiên đã cho thấy tác dụng quan trọng
của hệ tư tưởng, đặc biệt là tư tưởng triết học đối với quá trình khái quát những tài liệu khoa học.
Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội tuy là hai trình độ, hai phương thức phản ánh
khác nhau của ý thức xã hội, nhưng có mối quan hệ tác động qua lại với nhau, chúng
có cùng một nguồn gốc là tồn tại xã hội, đều phản ánh tồn tại xã hội. Nếu tâm
lý xã hội có thể thúc đẩy hoắc cản trợ sự hình thành và sự tiếp nhận một hệ tư tưởng
nào đó, có thể giảm bớt sự xơ cứng hoặc công thức cứng nhắc của hệ tư tưởng, thì trái
lại, hệ tư tưởng khoa học có thể bổ sung, làm gia tăng hàm lượng trí tuệ cho tâm lý xã
hội, góp phần thúc đẩy tâm lý xã hội phát triển theo chiều hướng tích cực.
1.2.3. Tính giai cấp của ý thức xã hội
Trong những xã hội có giai cấp thì các giai cấp khác nhau có điều kiện vật chất khác
nhau, có lợi ích và địa vị xã hội khác nhau thì ý thức xã hội của giai cấp đó cũng khác nhau.
Tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện cả ở tâm lý xã hội lẫn hệ tư tưởng. Hệ tư
tưởng của giai cấp thống trị trong các xã hội có giai cấp đối kháng bao giờ cũng bảo vệ
địa vị và lợi ích của giai cấp thống trị, của chế độ người bóc lột người.
Ý thức của các giai cấp khác nhau có tác động qua lại lẫn nhau. Không chỉ giai cấp
bị thống trị chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp thống trị mà giai cấp thống trị cũng
chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp thống trị.
CHƯƠNG 2: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý
THỨC XÃ HỘI VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU TRONG NGHIÊN
CỨU HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
2.1. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
Tồn tại xã hội có mối quan hệ biện chứng với ý thức xã hội. Tồn tại xã hội nào thì
có ý thức xã hội ấy. Tồn tại xã hội quyết định nội dung, tính chất, đặc điểm, xu hướng
vận động, sự biến đổi và sự phát triển của các hình thái ý thức xã hội. Nếu xã hội còn
tồn tại sự phân chia giai cấp thì ý thức xã hội nhất định cũng mang tính giai cấp.
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
“…không thể nhận định về một thời đại đảo lộn như thế căn cứ vào ý thức của
thời đại ấy. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật
chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ sản xuất xã hội”
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t13, tr. 15
Ý thức xã hội tác động lại tồn tại xã hội
Các hình thái ý thức xã hội có đặc điểm chung là mặc dù bị tồn tại xã hội quy định,
song chúng đều có tính độc lập tương đối.
Quan điểm duy vật lịch sử khẳng định rằng, ý thức xã hội và tồn tại xã hội có mối quan
hệ biện chứng rằng, các hình thức xã hội không phải là những yếu tố thụ động, trái lại,
mỗi hình thái ý thức xã hội đều có sự tác động ngược trở lại tồn tại xã hội, trước hết là
tác động lẫn nhau theo những hình thức khác nhau:
- Ý thức xã hội thưởng lạc hậu hơn tồn tại xã hội
Do tác động mạnh mẽ và nhiều mặt trong hoạt động thực tiễn của con người nên tồn
tại xã hội diễn ra với tốc độ nhanh hơn khả năng phản ánh của ý thức xã hội.
Do sức mạnh của thói quen, tập quán, truyền thống và do cả tính bảo thủ của hình
thái ý thức xã hội. Hơn nữa, những điều kiện tồn tại xã hội mới cũng chưa đủ để làm
cho những thói quen, tập quán và truyền thống cũ hoàn toàn mất đi.
Ý thức xã hội gắn liền với lợi ích của những tập đoàn người, của các giai cấp nào đó
trong xã hội. Các tập đoàn hay giai cấp lạc hậu thường níu kéo, bám chặt vào những tư
tưởng lạc hậu để bảo vệ và duy trì quyền lợi ích kỷ của họ, để chống lại các lực lượng tiến bộ trong xã hội.
- Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Lịch sử đã cho thấy nhiều dự báo của các nhà tư tưởng lớn phải sau một thời gian, có
thể ngắn hoặc rất dài, mới được thực tiễn xác nhận. Nhiều dự báo của C.Mác đang trở
thành sự thật trong thời đại chúng ta đã hoàn toàn khẳng định điều đó.
Vì vậy trong thời đại chúng ta, chủ nghĩa Mác- Lênin vẫn đang là thế giới quan và
phương pháp luận chung nhất cho sự nhận thức và cho công cuộc cải tạo hiện thực. -
Ý thức xã hội có tính kế thừa
Tiến trình phát triển đời sống tinh thần của xã hội loài người cho thấy rằng các quan
điểm lý luận, các tư tưởng lớn của thời đại sau bao giờ cũng dựa vào những tiền đề đã
có từ các giai đoạn lịch sử trước đó.
Trong sự phát triển của mình ý thức xã hội có tính kế thừa nên không thể giải thích một
tư tưởng nào đó nếu chỉ dựa vào trình độ, hiện trạng phát triển kinh tế và các quan hệ
kinh tế - xã hội. Tuy nhiên cần lưu ý rằng, trong các xã hội có các giai cấp thì các giai
cấp khác nhau sẽ kế thừa các di sản khác nhau của những giai đoạn trước. Giai cấp tiến
bộ đang lên sẽ chọn kế thừa tư tưởng tiến bộ của thời đại trước, trái lại giai cấp lỗi thời,
đi xuống bao giờ cũng chọn tiếp thu những tư tưởng và lý thuyết bảo thủ, phản tiến bộ
để cố gắng duy trì sự tiến bộ của mình
Quan điểm của triết học Mac – Lenin về tính kế thừa của ý thức xã hội có ý nghĩa to
lớn đối với sự nghiệp xây dựng văn hóa tinh thần của dân tộc ta hiện nay
- Sự tác động qua lại giữa hình thái ý thức xã hội
Các hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội theo những cách khác nhau, có vai
trò khác nhau trong xã hội và trong đời sống của con người. Tuy nhiên, ở các thời đại
lịch sử khác nhau, trong những hoàn cảnh khác nhau dù vai trò của các hình thái ý thức
xã hội không giống nhau nhưng chúng vẫn có sự tác động qua lại với nhau.
- Ý thức xã hội tác động trở lại sự tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội chịu sự tác động trở lại của ý thức xã hội là biểu hiện khác của tính độc
lập tương đối của ý thức xã hội.
Quan niệm duy vật về lịch sử thừa nhận biểu hiện này về tính độc lập tương đối của ý
thức xã hội đối lập hoàn toàn đối với chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối hóa vai trò của ý
thức xã hội lẫn chủ nghĩa duy vật tầm thường chỉ coi trọng vai trò của kinh tế còn phủ
nhận hoàn toàn vai trò của ý thức xã hội.
Sự tác động trở lại đối với tồn tại xã hội của các hình thái ý thức xã hội mạnh hay yếu
còn phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể, vào các quan hệ kinh tế vốn là cơ sở
hình thành các hình thái ý thức xã hội; vào trình độ phản ánh và sức lan tỏa của ý thức
đối với các nhu cầu khác nhau của sự phát triển xã hội; đặc biệt là vào vai trò lịch sử
của giai cấp đại diện cho ngọn cờ tư tưởng đó. Vì vậy, cần phân biệt ý thức xã hội tiến
bộ với ý thức xã hội lạc hậu, cản trở sự tiến bộ xã hội
2.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu trong nghiên cứu học tập của sinh viên
Nước ta đang trong quá trình phát triển, hội nhập chuyển từ xã hội truyền thống
sang xã hội hiện đại. Xã hội mới tất yếu dẫn đến thay đổi to lớn đời sống tinh thần của
xã hội mà ngược lại, những tác động của đời sống tinh thần xã hội với những điều kiện
xác định cũng có thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ trong tồn tại xã hội.
Trong điều kiện phát triển của xã hội, sinh viên phải biết phát huy vai trò tích cực
của đời sống tinh thần xã hội để lĩnh hội các tri thức, những quan điểm, những tư tưởng sâu sắc và phong phú.
Xã hội hiện nay, sinh viên được tiếp xúc, học hỏi với nhiều nền văn hóa về chủ
nghĩa cá nhân, giá trị về năng lực bản thân được ưu tiên coi trọng do đó có những tư
tưởng táo bạo, dám nghĩ dám làm. Trong khi đó, sự tồn tại xã hội cũ vẫn còn nhiều đặc
điểm như sự khiêm nhường, hành xử kính trọng theo chủ ý của các bậc tiền bối, cấp
trên. Vì vậy đã tạo ra sự thay đổi lớn về tư tưởng của lớp trẻ.
Nhưng khi chưa được trang bị đầy đủ về mặt tư tưởng lý luận rất dễ gây nên tình
trạng bi quan hay cái nhìn tiêu cực về xã hội.Vì vậy sinh viên phải nắm bắt chặt chẽ dư
luận xã hội thể hiện trạng thái tâm lý và nhu cầu xã hội đa dạng trong những hoàn cảnh
và điều kiện khác nhau. Đưa ra hệ tư tưởng khoa học để phản ánh khách quan, chính
xác các quan hệ, các quá trình và hiện tượng xã hội. KẾT LUẬN
Khi mà tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất thay đổi thì những tư tưởng
quan điểm về chính trị, pháp luật, triết học và cả quan điểm thẩm mỹ lẫn đạo đức dù
sớm hay muộn cũng sẽ có những sự thay đổi nhất định. Việc xác định ý thức xã hội
một cách đúng đắn, sâu sắc, bao quát tránh các tư tưởng lệch lạc, tiêu cực thì xã hội sẽ ngày một phát triển.
Xã hội luôn vận động, biến đổi, và phát triển có thể ảnh hưởng đến rất nhiều
thành phần trong xã hội. Sống trong một môi trường như vậy, đòi hỏi sinh viên phải có
một thế giới quan, sự tự nhận thức vững chắc tránh hệ tư tưởng không khoa học. Từ đó
có thể đóng góp một phần sức mạnh vào sự phát triển toàn cầu