Bài tập lớn Tư Tưởng HCM - Phân tích luận điểm của Hồ Chi Minh: Nước độc lập mà không được hưởng hạnh phúc | Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

Trường:

Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu

Thông tin:
16 trang 12 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Bài tập lớn Tư Tưởng HCM - Phân tích luận điểm của Hồ Chi Minh: Nước độc lập mà không được hưởng hạnh phúc | Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

91 46 lượt tải Tải xuống
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
--------***--------
BÀI TẬP LỚN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI: Phân tích luận điểm của Hồ Chi Minh: Nước độc lập
mà không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng
có nghĩa lí làm gì. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm với Việt Nam
hiện nay…..
Họ và tên SV: Nguyễn Văn Lợi
Lớp tín chỉ:
Mã SV: 11202344
GVHD:
HÀ NỘI, NĂM 2022
............................................... .
A. Mở đầu
Từ trước tới nay, độc lập dân tộc luôn là một mục tiêu hàng đầu của mọi quốc gia,
dân tộc, đặc biệt các dân tộc nhỏ hay chịu xâm lược áp bức bóc lột. kinh nghiệm lịch
sử cho thấy, sự tồn vong và phát triển của mỗi dân tộc đều gắn liền với việc giànhgiữ
gìn nền độc lập của mình. Sống trong độc lập luôn nguyện vọng thiết tha, chính đáng
của các dân tộc trên thế giới.
Chúng ta – lớp thế hệ trẻ hôm nay may mắn được sinh ra khi Đất nước không còn
chiến tranh, lớn lên khi đã bình yên tiếng súng cũng chỉ hiểu được phần nào lịch sử
dân tộc qua những thước phim, trang báo. Song, mỗi người dân Việt Nam hôm nay đã
thấu hiểu giá trị to lớn của nền độc lập dân tộc qua những tác phẩm văn học như 3 bản
tuyên ngôn nghệ thuật hay những lớp người đi trước đã ra đi, đã hoá thành những hàng
bia trắng, những bài ca đi cùng năm tháng hơn thế nữa đã hoá thành quê hương đất
nước. để rồi khi nghe Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh được
vang lên chúng ta như được tái sinh một lần nữa. Xong, liệu rằng độc lập đối với một đất
nước đã đủ hay chưa liệu phải mục đích duy nhất, cuối cùng chúng ta muốn
hướng đến. Độc lập dân tộc chủ nghĩa hội những vấn đề quan trọng được thể
hiện ràng xuyên suốt quá trình hoạt động Cách mạng của Chủ tịch, Người khẳng
định: “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng
chẳng có nghĩa lý gì.”
Em xin được phân tích luận điểm trên dựa vào cơ sở mối quan hệ giữa độc lập dân
tộc phải gắn với con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng
thời làm rõ ý nghĩa luận điểm đối với nước ta hiện nay
B. Nội Dung
I. Khái quát chung
Dân tộc Việt Nam lịch sử dựng nước giữ nước hàng nghìn năm. Các thế hệ
người Việt Nam đã không ngừng đấu tranh để bảo vệ nền độc lập của mình mỗi khi tổ
quốc bị xâm lăng. Đặc biệt cuộc đấu tranh giành độc lập dưới sự lãnh đạo của Đảng ta
trong những năm cuối của nửa đầu thế kỉ XX đỉnh cao cách mạng tháng 8 năm
1945 đx đưa Việt Nam trở thành tiên phong trong phong trào đấu tranh giải phóng dân
tộc của các nước thuộc địa. Chân “không quý hơn độc lập, tự do” không những
thể hiện một cách sinh động nhân sinh quan của dân tộc Việt Nam, mà còn góp phân thức
tỉnh nhân dân lao độngmột loạt các nước thuộc địa các châu Á, châu Phi, châu Mỹ -
La Tinh đứng lên tự giải phóng mình. Quyền hưởng độc lập quyết tâm bảo vệ quyền
thiêng liêng đó của dân tộc Việt Nam được cha ông ta khẳng định qua bài thơ của
Thường Kiệt bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của đất nước, qua khúc khải hoàn Bình
Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi. Một lần nữa quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm đó
được Hồ Chí Minh khẳng định một cách đanh thép: “Nước Việt Nam quyền hưởng tự
do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam đã
quyết đem tất cả tinh thần lực lượng, tính mạng, đánh đổi cả mấy xương để giữ vững
quyền tự do, độc lập ấy”.
Không chỉ vậy, đối với dân tộc ta ngày nay, độc lập dân tộc luôn gắn liền với chủ
nghĩa hội. Ngọn cờ độc lập dân tộc chủ nghĩa hội được Đảng nhân dân ta
giương cao trong suốt tiến trình cách mạng. Tại Đại hội lần thứ Ĩ, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã nhấn mạnh: “Đảng nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo
con đường hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác Lênin tưởng Hồ Chí
Minh”. Lựa chọn con đường đi theo chủ nghĩa xã hội sau khi đã giành được độc lập là sự
lựa chọn đúng đắn của dân tộc trong thời đại ngày nay, phù hợp với quy luật khách quan
xu thế phát triển của lịch sử hội. Bởi vì, chỉ CNXH mới hoàn toàn giải phóng
giai cấp , giải phóng dân tộc, giải phóng hội, giải phóng con người; chỉ chủ nghĩa
hội mới xóa bỏ căn nguyên sâu xa của tình trạng bóc lột người đưa dân tộc tới sự
phồn vinh về kinh tế, s phát triển phong phú về văn hóa mới thực hiện đầy đủ nhất
quyền lực của nhân dân.
II. Quan điểm của C.Mác và Lênin về độc lập dân tộc
1. Quan điểm của C.Mác:
C.Mác đã xây dựng học thuyết cách mạng, khoa học và nhân đạo để giải phóng giai cấp,
xã hội và con người. Đó là chủ nghĩa xã hội – giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản. Mục
tiêu cao nhất giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp tiến tới giải phóng con người
một cách triệt để nhất. Chủ nghĩa xã hội từng bước hiện thực hoá qua thực tiễn sự nghiệp
giải phóng con người khỏi chế độ áp bức, bóc lột giữa người người tiến tới mục
tiêu cao cả: “biến con người từ vương quốc tất yếu sang vương quốc tự do”, tạo nên một
liên hiệp trong đó “sự phát triển tự do của mỗi người điều kiện cho sự phát triển tự do
của tất cả mọi người “. Giải phóng áp bức về kinh tế là một trong những cách giải phóng
con người triệt để. thể nói, những cuộc cách mạng trước đây vốn chỉ mang tính chất
chính trị, nhằm kết thúc bằng việc lật đổ sự thống trị của giai cấp này và thay thế bằng sự
trị của giai cấp khác. Do vậy, giai cấp bị trị sẽ mãi mãi không được độc lập, tự do
luôn trong vòng xiềng xích nô lệ. Hơn hết, việc thay đổi vị trí của người lao động đối với
liệu sản xuất việc cần thiết trước mắt hơn cả hay ràng việc thay đổi chế độ
chiếm hữu tư nhân tư bản thành chủ nghĩa về tư liệu sản xuất thành chế độ sở hữu xã hội
chủ nghĩa với những phương thức thích hợp. Bên cạnh đó, Nhà nước hội chủ nghĩa
còn phát triển lực lượng sản xuất, không ngừng nâng cao năng suất lao động nhằm cải
thiện đời sống của người dân. Tóm lại, C.Mác muốn xây dựng xã hội bình đẳng về tư liệu
sản xuất, con người được giải phóng.
Quan điểm của Lênin:
Có thể nói, nếu như quan điểm của C.Mác tiếp cận từ góc độ lí luận thì Lênin tiếp
cận từ thực tiễn. Cách mạng Tháng Mười Nga cùng những chính sách kinh tế Lênin
đưa ra từ chính sách cộng sản thời chiến đến chính sách kinh tế mới, tất cả đã thể hiện
điều trên. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã mở ra con đường xây dựng chủ
nghĩa hội mới, đầu tiên Liên hệ thống hội chủ nghĩa thế giới ra đời gồm
nhiều nước và đạt nhiều thành tựu to lớn sau chiến tranh thế giới thứ hai.
3. Chủ nghĩa xã hội ở các nước phương Đông:
Theo Hồ Chí Minh, tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở phương Đông đã xuất hiện từ rất sớm
thích ứng dễ hơnphương Tây quan điểm lấy dân là gốc, quan điểm công bằng, bình
đẳng về tài sản giữa những người lao động hay tưởng về tình yêu thương giữa con
người với nhau và đặc biệt là những người lao khổ. Bên cạnh đósự liên kết, hợp nhất,
đoàn kết giữa người và người trong nền nông nghiệp lúa nước từ thời xưa. Hơn nữa, vào
thế kỉ XX hầu hết các nước Châu Á đều trở thành thuộc địa của các nước tư bản phương
Tây. Chủ nghĩa bản đã để lại những hệ quả như: tưởng cách mạng tiến bộ ban đầu,
hình thành cơ cấu giai cấp xã hội mới, nhất là sự thiết lập việc thống trị dã man tàn bạo ở
các nước thuộc địa đẩy đại đa số quần chúng nhân dân vào bước đường cùng. Chính chủ
nghĩa bản đã tạo điều kiện tiền đề cho các nước thuộc địa một sự lựa chọn đúng đắn
trên con đường đứng lên của mình.
III. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc:
1. Độc lập – Quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc:
Độc lập quyền bất khả xâm phạm của một đất nước, quốc gia bởi chính người
dân đang sinh sống, nói cách khác quyền tự chủ tối cao. Độc lập thường sự giải
phóng của một quốc gia bị thống trị, đô hộ. Hoặc thể hiểu rằng độc lập không bị
điều khiển, cai trị bởi một thế lực khác thông qua chủ nghĩa thực dân, sự bành trướng hay
chủ nghĩa đế quốc.Độc lập tự do quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của mỗi dân
tộc.“Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng quyền
sống, quyền sung sướng quyền tự do” ( Trích “ Tuyên ngôn độc lập 1945 )Có thể
nói độc lập là khát vọng lớn nhất của dân tộc thuộc địa, độc lập trên mọi lĩnh vực kinh tế,
chính trị, ngoại giao, quốc phòng.. Độc lập gắn với hòa bình độc lập gắn với toàn vẹn
lãnh thổ của một quốc gia. Với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, độc lập
dân tộc CNXH,chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế. Độc lập dân tộc gắn liền
với CNXH. Hồ Chí Minh xác định con đường cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai
đoạn: làm “Tư sản dân quyền cách mạng thổ địa cách mạng đề tới hội cộng sản”.
Do đó, “giành được độc lập rồi phải tiến lên CNXH..” yêu tổ quốc yêu nhân dân phải gắn
bên với yêu chủ nghĩa hội". Bên cạnh đó, độc lập tự do khát vọng lớn nhất của các
dân tộc thuộc địa. Hồ Chí Minh nói : “tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ Quốc tôi,
đây là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”Năm 1919, vận dụng
nguyên tắc dân tộc tự quyết đã được các đồng minh thắng trận trong Chiến tranh thế giới
thứ nhất long trọng thừa nhận, thay mặt những người Việt Nam yêu nước, Nguyễn Ái
Quốc gửi tới hội nghị Vecxai, bản yêu sách gồm tám điều, đòi quyền tự do dân chủ cho
nhân dân Việt Nam .Đầu năm 1930, Nguyễn Ái Quốc soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng, một cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn sáng tạo,có tưởng cốt
lõi là độc lập tự do cho dân tộc.Người khẳng định, độc lập dân tộc cuối cùng phải đem lại
cơm no áo ấm, hạnh phúc cho người dân. Độc lập tự do mục tiêu chiến đấu, nguồn
sức mạnh làm nên chiến thắng của dân tộc Việt Nam trong thế kỉ XX, một tưởng lớn
trong thời đại giải phóng dân tộc.
2. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt đ
Độc lập phải đảm bảo quyền lực tối cao về đối nội, đối ngoại suy đến cùng
phải đảm bảo quyền tự quyết dân tộc. Độc lập dân tộc phải được thực hiện toàn diện, triệt
để trên mọi lĩnh vực. Còn nhớ khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất vừa kết thúc, lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt những người dân An Nam gửi đến Hội nghị quốc tế
Versailles, Pháp (năm 1919) Bản yêu sách 8 điểm đồi độc lập cho thuộc địa, trong đó
nhấn mạnh đến dân quyền khi nếu các điểm cụ thể: “3. Tự do báo chí và tự do ngôn luận;
4. Tự do lập hội họp hội; 5. Tự do cư trú nước ngoài tự do xuất dương; 6. Tự do
học tập và thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tình cho người bản
xứ”.
Ngay trong năm ấy, khi Bộ trưởng bộ thuộc đại Pháp hỏi mong muốn điều gì,
Nguyễn Ái Quốc trực diện đối đáp thẳng: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là: ĐỒng bào tôi
được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập” và năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa
Lênin, tìm thấy con đường cách mạng vô sản cũng từ khát khao: “ tự do cho đồng bào tôi,
độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy tất cả những điều tôi muốn, đấy tất cả những điều tôi
hiểu”.
Quan điểm của Hồ Chí Minh xây dựng Nhà Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa Nhà nước do dân lao động làm chủ; dân địa vị cao nhất, dân quyền quyết
định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước. Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định:
nước ta nước dân chủ, địa vị cao nhất dân, dân chủ; bao nhiêu quyền hạn cao
nhất của dân; quyền hành lực lượng đều nơi dân. Người ý thức rất vị trí của
mình trong bộ máy nhà nước, Bác nhiều lần nhắc nhở: nước ta từ Hồ Chủ Tịch trở
xuống là đầy tớ của dân, dân đặt đâu thì làm đó, người Chủ Tịch là nhận sự trao quyền ủy
thác của dân. Theo HCM nhà nước do dân dân làm chủ đất nước, nhà nước do dân
dân dựa vào dân. Ngoài ra, còn bao hàm nội dung khác: nhân dân quyền phê
bình, kiểm tra, giám sát các hoạt động của cơ quan nhà nước, các đại biểu do mình cử ra.
Nhà nước dân phải đem lợi ích của dân đặt lên hang đầu vì dân phục vụ. HCM
nhấn mạnh: để thực sự phục vụ tốt nhân dân, vì dân thì nhà nước phải thực sự liêm khiết,
trong sạch, tránh quan liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi, phải loại hết các “ông quan
cách mạng” ra khỏi bộ máy nhà nước. “Độc lập người dân không quyền tự quyết
về ngoại giao, không có quân đội riêng, không có tài chính kinh tế riêng thì…, thì độc lập
dân tộc chẳng có ý nghĩa gì”.
3. Độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Độc lập dân tộc thống nhất đất nước chân lý, quy luật tồn tại, phát triển
của dân tộc. “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn,
song chân đó không bao giờ thay đổi “Độc lập” Việt Nam trong cách mạng tháng
Tám năm 1945 “đã giải phóng đồng bào ta khỏi chế độ quân chủ chuyên chế xiềng
xích thực dân… xây dựng cho dân tai nền tảng Dân chủ Cộng hòa thống nhất độc
lập”. “Độc lập” ấy của toàn dân tộc sau khi giành được đã nêu cao ý chí quyết tâm “Thà
hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”; dù “Chiến tranh
thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. nội, Hải Phòng một số
thành phố, nghiệp thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! không
có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta
đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!
Lịch sử Việt Nam là lịch sử không ngừng đấu tranh trong suốt quá trình dựng nước
giữ nước. Tính thần yêu nước cội nguồn của sức mạnh dân tộc Việt Nam. Đối với
người dân mất nước, cái quý nhất trên đời độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân.
Theo Chủ Tịch Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao gồm cả nội dung dân tộc dân chủ;
độc lập dân tộc phải được gắn với hạnh phúc tự do của nhân dân; đồng thời, tự do
hạnh phúc của nhân dân cũng chính là giá trị sâu sắc của độc lập dân tộc.
4. Quan điểm của Bác về vấn đề giải phóng con người trong đấu tranh giải phóng
dân tộc- người dân được hưởng tự do, hạnh phúc:
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, để con người được giải phóng, cuộc sống ấm
no, hạnh phúc thì điều tiên quyết, đất nước phải được độc lập, con người phải được tự do.
Khi Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược, thống trị, khi nhân dân bị áp bức, bóc lột nặng
nề, thì nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng là phải giành cho được độc lập. Như vậy, cách
mạng giải phóng dân tộc điều kiện đầu tiên quyết định sự nghiệp giải phóng con
người, đưa con người từ thân phận nô lệ lên địa vị làm chủ, giải phóng con người khỏi áp
bức dân tộc. Tuy vậy, đất nước độc lập thôi chưa đủ, nếu đất nước được độc lập mà người
dân vẫn phải sống trong cảnh lầm than, vẫn bị áp bức giai cấp thì quả thực đúng như lời
Người đã nói “độc lập cũng chẳng ý nghĩa gì”. Do vậy, bước tiếp theo của giải phóng đất
nước phần khó khăn, phức tạp lâu đài hơn xây dựng hội mới - hội chủ
nghĩa, giải phóng con người khỏi áp bức giai cấp, khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Vậy tự do
đây là gì? Nếu hiểu “độc lập” theo nghĩa là “tự mình... không phụ thuộc” thì “tự do" phải
được hiểu là "tôi được làm những gì tôi muốn”. Nếu hiểu "độc lập” là "tồn tại, nương tựa,
phụ thuộc một cách ý thức” thì “tự do" nhận thức những hạn chế một cách ý
thức" Đứng trên cương vị một quốc gia, độc lập tự do cũng được hiểu theo cách
khác. Độc lập, tự do những phạm trò nền tảng của việc hình thành một quốc gia
đó con người tìm kiếm được đời sống thông thường của mình, đời sống phát triển của
mình và hạnh phúc của mình. Và hạnh phúc là gì? Hạnh phúc là khi con người được thỏa
mãn những nhu cầu chính đáng và căn bản của mình, hạnh phúc là được sống đầy đủ với
các quyền công dân của mình, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Nhà Nước. Cụm
từ độc lập -tự do-hạnh phúc gắn liền với tên nước CHXHCN Việt Nam, đó là cái Đảng ta
hướng đến, dân ta theo đuổi. Độc lập có trước là cái thiết yếu nhất, sau đó dân phải được
hưởng tự do và cái sau cùng là dân ta phải được hưởng ấm no hạnh phúc.
Chúng ta thể nhận thấy quan điểm trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh hoàn
toàn đúng đắn khi đưa ra dụ về đất nước Triều Tiên – một đất nước hoàn toàn độc lập
và toàn vẹn lãnh thổ. Xong việc người dân được tự do đi du lịch quốc tế đặc biệtHàn
Quốc là điều bất khả thi, việc dùng wifi hay mạng quốc tế cũng đều bị cấm hoặc một điều
đơn giản nhất là có một kiểu tóc sáng tạo cũng không được phép… Liệu chúng ta có thực
sự cảm thấy vui, hạnh phúc khi bị cấm những điều trên, không được đi thăm người thân
bạn một cách tự do, không được tiếp thu văn hoá tin tức bên ngoài thế giới? Đây
cũng chính là ví dụ tiêu biểu cho việc độc lập phải gắn liền với tự do và hạnh phúc.
Vậy tại sao Bác lại luôn theo đuổi giá trị của Độc lập – Tự do, giá trị của nó thực sự là gì?
Thành quảđại nhất lớn lao nhấtcách mạng tháng Tám năm 1945 đem lại
độc lập dân tộc, nền tảng của tự do ấm no hạnh phúc cho mỗi con người. Khát vọng
dân tộc độc lập là khái vọng ngàn đời nay, không chịu nô lệ, không chịu nước mất nhà tan
cho hàng vạn người Việt Nam thể hy sinh nhưng vẫn không chùn bước, phía
trước độc lập của dân tộc tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, toàn vẹn lãnh thổ
non sông, là hạnh phúc tự do của mỗi con người “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không
chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”.
Bác luôn cho rằng “độc lập theo con đường cách mạng sản tiền đề của hạnh
phúc tự do”. Bác không bao giờ chấp nhận chế độ quân chủ chuyên chế cũng như chế độ
thực dân, bởi chính chế độ đó người dân vẫn phải sống trong cảnh áp bức bóc lột, nghèo
đói lầm than, vẫn bị giam hãm, đất nước không thể phát triển được. Độc lập như vậy, thì
nào ý nghĩa gì? Cái đích đến cuối cùng của độc lập hạnh phúc, tự do. Người nhắn
mạnh chỉ có chế độ xã hội chủ nghĩa mỗi người mới có có hội phát triển cái riêng, cái tôi
của mình, đó là câu trả lời cuối cùng cho chặng đường dài Cách mạng giải phóng dân tộc.
Hồ Chí Minh cho rằng: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là thay đổi cả xã hội, thay đổi
cả thiên nhiên, làm cho hội không còn người bóc lột người, không còn đói rét, mọi
người đều được ấm no và hạnh phúc”, chủ nghĩa xã hội là “Xã hội ngày càng tiến bộ, vật
chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt”. Xây dựng chủ nghĩa hội “chống lại
những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. Chỉ khi nào xây dựng
thành công chủ nghĩa hội chủ nghĩa cộng sản thì lúc đó sự nghiệp giải phóng con
người mới được xem đã giành được thắng lợi hoàn toàn. Khi trả lời câu hỏi: “Chủ
nghĩa xã hội là gì?”. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Là mọi người được ăn no mặc ấm, sung
sướng, tự do”, “Chủ nghĩa hội làm cho mọi người dân sung sướng, ấm no”, “mục
đích của chủ nghĩa hội không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân”. “Vì vậy,
chính sách của Đảng và Chính phủphải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân.
Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân
dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng và Chính phú có lỗi”. Chỉ trong
hội hội chủ nghĩa, người dân mới được đảm bảo việc làm, được “sung sướng, tự do”,
được hưởng thụ các giá trị vật chất do chính họ làm ra. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa hội cống hiến quý giá nhất của Hồ Chí Minh cho cách mạng Việt Nam. Đó
cũng sợi chỉ đỏ xuyên suốt tưởng Hồ Chí Minh, xuyên suốt đường lối thực tiễn
cách mạng Việt Nam.Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa hội làm cho nhân
dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no
sống một đời hạnh phúc. Chủ nghĩa hội giải phóng nhân dân lao động khỏi nghèo
nàn, lạc hậu.
Chủ nghĩa hội một hội không chế độ người bóc lột người, một hội
bình đẳng, nghĩa ai cũng phải lao động quyền lao động, ai làm nhiều thì hưởng
nhiều, ai làm ít thì hưởng ít, không làm không hưởng. Hạnh phúc, tự do theo quan điểm
Hồ Chí Minh là người dân phải được hưởng đầy đủ đời sống vật chất và tinh thần do chủ
nghĩa hội đem lại. Đời sống vật chất trên sở một nền kinh tế cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại, “ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành “. Người dân
từ chỗ ăn, mặc, chỗ đến chỗ ăn ngon, mặc đẹp, đời sống sung túc. Tiêu biểu
trong đời sống tinh thần là phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Bởi vì chủ nghĩa xã hội
là do quần chúng nhân dân tự xây dựng - là công trình tập thể của nhân dân lao động dưới
sự lãnh đạo của Đảng Nhà nước. Trong điều kiện đó, chỉ phát huy quyền làm chủ
của nhân dân thì mới sáng kiến động lực. Nhiều lần Hồ Chí Minh khẳng định
“nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng,
từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch một nước đều phân công làm đầy tớ cho
dân”. Đảng cầm quyền nhưng dân chủ để dân làm chủ. Theo quan điểm Hồ Chí
Minh, dân chủ là giá trị lớn nhất mà cách mạng do Đảng lãnh đạo đem lại cho người dân.
Vì vậy, dân chủ trong chế độ dân chủ nhân dân đến chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là động
lực vừa là mục tiêu của cách mạng.
Tóm lại độc lập dân tộc chỉ có đi tới chủ nghĩa xã hội thì mới có một nền độc lập dân
tộc thực sự, hoàn toàn, nhân dân mới được hưởng hạnh phúc tự do, chủ nghĩa hội chỉ
thể phát triển trên một nền độc lập dân tộc thực sự thì mới điều kiện phát triển
hoàn thiện.
IV. Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
VỚI DÂN TỘC VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Kiên định mục tiêu, con đường Cách mạng Hồ Chí Minh đã lựa chọn
Chúng ta luôn chủ động phát hiện, ngăn chặn “từ sớm, từ xa” các nguyđối với
đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa - hội, quốc phòng an ninh của đất nước. Quá
trình hội nhập sự tác động lẫn nhau giữa các nước lớn với nước vừa nhỏ, giữa các
nước thể chế chính trị - hội khác nhau nên sẽ xuất hiện những xung đột về lợi ích
hoặc các âm mưu chống phá từ bên ngoài. vậy, việc chủ động phát hiện từ khoảng
cách xa về không gian sớm về thời gian những nguy thể xảy ra yêu cầu cấp
thiết để phải làm để thể chủ động ngăn chặn, hiệu hóa, hóa giải các nguy đó
một cách kịp thời, hiệu quả. Phòng, chống một cách chủ động mọi âm mưu, hoạt động lợi
dụng hội nhập quốc tế để chuyển hóa nội bộ; phát hiện, ngăn chặn kịp thời các đối tượng
nước ngoài lợi dụng kẽ hở về luật pháp và sơ hở, yếu kém của ta để gây sức ép, trốn thuế,
thao túng thị trường trong nước. Đấu tranh với các loại tội phạm tổ chức xuyên quốc
gia như rửa tiền, buôn lậu, sản xuất tiêu dùng hàng giả, gian lận thương mại, tín dụng
đen, tội phạm công nghệ cao. Tăng cường quản lý hoạt động trên mạng xã hội và internet,
biện pháp ngăn chặn các thế lực thù địch xâm nhập vào các trang mạng nội bộ y
thiệt hại kinh tế, phá hoại tư tưởng. Ngăn chặn việc du nhập các ấn phẩm văn hóa độc hại
từ bên ngoài để đảm bảo an ninh văn hóa.
2. Phát huy sức mạnh nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa
Bước vào thời kỳ mới, trước hết yêu cầu công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng
XHCN, việc xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân phải tiếp tục quán
triệt sâu sắc tưởng học tập, làm theo tấm gương tưởng Hồ Chí Minh về quyền
làm chủ đất nước hội của nhân dân. Bởi, đây nền tảng tưởng, luận quan
trọng trong tổ chức hoạt động của Nhà nước pháp quyền mới do dân làm chủ. Xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân vàdân phải nắm vững mục tiêu là
tôn trọng bảo vệ, phát huy, quyền làm chủ của nhân dân, tất cả phải độc lập dân tộc,
dân chủ tự do, hạnh phúc của nhân dân. Điều 2 Hiến pháp 1992 khẳng định rõ: Nhà nước
Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và
dân. Tất cả quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân nền tảng liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân đội ngũ trí thức. Quan điểm trên càng ý
nghĩa quan trọng trong xây dựng một Nhà nước pháp quyền dân chủ nhân dân do dân
làm chủ, nhất khi các thế lực thù địch đang lợi dụng chiêu bài “dân chủ” “nhân
quyền” cũng như các thủ đoạn khác để vu cáo, xuyên tạc chế độ dân chủ, chống phá cách
mạng nước ta. Trong hoàn cảnh đó tưởng “Khôngquý hơn đô c p, tự do” của
Hồ Chí Minh vẫn chân của thời đại. Chúng ta càng cần đề cao cảnh giác, phát huy
thế mạnh của đất nước để có thể tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, phát triển kinh tế-
xã hô i mà vẫn giữ được đô c lâ p chủ quyền dân c, đem lại cuô c sống ấm no, tự do, hạnh
phúc cho nhân dân.
Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực cho các thế hê đời sau noi theo. tưởng của
Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tưởng, là kim chỉ nam cho
hành đông của Đảng và nhân dân ta, tiếp tục soi sáng cho sự nghiê p đổi mới của nhân dân
ta trong thời đại ngày nay. Nghiên cứu làm tưởng đô c p, tự do của Hồ Chí
Minh giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc về t khía cạnh trong tưởng chân thâ t mà vĩ
đại của Người, đồng thời có cái nhìn toàn diê n hơn về thống tưởng Hồ Chí Minh.
Để từ đó xác định mục tiêu phát triển đất nước với những chính sách xây dựng kinh tế xã
i đúng đắn, giữ vững đô c p chủ quyền, đưa nước ta trở thành quốc gia ổn định về
chính trị, phát triển về kinh tế, ngày càng có vị thế trên trường châu lục và quốc tế.
V) akhdbhkaksd ỳkùy,u
1. Thực tiễn Việt Nam sau cách mạng tháng Tám năm 1945
Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 do Đảng ta Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh
đạo, “dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để xây dựng nên nước
Việt Nam độc lập, dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ
dân chủ cộng hòa”. Thắng lợi đó đã mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam:
kỷ nguyên đất nước được độc lập, thống nhất, nhân dân lao động làm chủ xã hội và tạo ra
những tiền đề cần thiết, từng bước đưa đất nước phát triển theo con đường hội chủ
nghĩa.
Cách mạng nước ta những thuận lợi lớn. Hệ thống chính quyền cách mạng
được xây dựng từ Trung ương tới cơ sở trên cả nước. Từ hoạt động bí mật, Đảng ta đã trở
thành Đảng lãnh đạo chính quyền. Đảng, mặt trận Việt Minh và Chủ tịch Hồ Chí Minh có
uy tín lớn trong dân tộc, chính quyền cách mạng được toàn dân ủng hộ. Phong trào cách
mạng tinh thần yêu nước của nhân dân dấy lên từ cao trào giải phóng dân tộc tổng
khởi nghĩa tiếp tục phát triển với những hình thức nội dung mới nhằm xây dựng, bảo
vệ chính quyền, giữ vững thành quả cách mạng.
Bên cạnh những thuận lợi do thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đem lại, nhân
dân ta chính quyền cách mạng phải đương đầu với những khó khăn, thử thách nặng
nề.
- Về kinh tế - tài chính: Nhân dân ta chính quyền cách mạng còn phải vượt
qua những khó khăn lớn về kinh tế, đời sống hội. Nền kinh tế nước ta vốn đã nghèo
nàn, lạc hậu lại bị thực dân Pháp Phát xít Nhật vét, bị chiến tranh thiên tai tàn
phá nên lại càng nghèo nàn hơn. Năng suất lúa rất thấp, nông dân lao động chiếm hơn
95% số hộ nhưng chỉ được sử dụng không quá 40% ruộng đất. Hậu quả nạn đói cuối năm
1944 và đầu năm 1945 chưa kịp khắc phục, thì nạn lụt lớn lại xảy ra, tàn phá 9 tỉnh đồng
bằng Bắc Bộ. Công nghiệp chỉ không quá 200 nhà máy nhỏ bé, trang bị kỹ, đang
lâm vào đình đốn, hàng hóa khan hiếm. Tài chính quốc gia gần như trống rỗng, ngân
hàng Đông Dương vẫn nằm trong tay tư bản nước ngoài. Chính quyền cách mạng chỉ tiếp
quản được kho bạc với hơn một triệu đồng, trong đó có 586000 đồng tiền rách.
- Về văn hóa – hội: Hậu quả về mặt hội cũng rất nặng nề, trên 90% số dân
không biết chữ. Hầu hết sngười được đi học chỉ bậc tiểu học vỡ lòng, trên 3 vạn
dân mới một học sinh cao đẳng hoặc đại học chủ yếu học ngành luật ngành
thuốc. Số công chức có trình độ cao đẳng và đại học chỉ gồm vài trăm người. Thực tế đó
làm cho việc tổ chức, hoạt động của chính quyền mới gặp không ít khó khăn, lúng túng.
- Về chính trị - quân sự: Vào thời gian này, nhà nước ta mới được thành lập, thật
sự còn non trẻ. Bộ máy Nhà nước chưa được hoàn chỉnh. Hơn nữa, lực lượng vũ trang lại
mỏng manh, rất cần bổ sung.
Bên cạnh đó còn rất nhiều vấn đề khó khăn đất nước ta phải đối mặt. Tuy
nhiên, nhờ áp dụng tài tình tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc chủ nghĩa
hội, mọi vấn đề đã được giải quyết. Những khó khăn, thử thách to lớn cả về quân sự,
chính trị, kinh tế hội trên đây đã đặt chính quyền cách mạng vận mệnh nước ta
trong thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Tình hình trên đòi hỏi Đảng và chính quyền cách mạng
đường lối chiến lược sách lược đúng đắn, phát huy sức mạnh của toàn dân mới
thể bảo vệ và phát triển thành quả cách mạng.
- Về kinh tế - tài chính: Để giải quyết nạn đói, trước mắt Chính phủ kêu gọi toàn
dân đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau qua các phong trào “hũ gạo cứu đói”, “ngày cứu đói”,…
Ngoài ra Chính phủ còn thực hiện các biện pháp tiết kiệm lương thực, cung cấp lương
thực để nấu rượu, làm quà bánh,…Để giải quyết tận gốc nạn đói, Chính phủ đề ra phải
đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, Chính phủ có biện pháp để hỗ trợ cho nông dân như quy
định chỉ giảm 25% cho nông dân, tạm cấp ruộng đất công, ruộng của bọn Việt gian
phản động và của thực dân Pháp cho nông dân cày cấy,…Về công nghiệp, Chính phủ chủ
trương kiên quyết giữ vững chủ quyền nhưng vẫn tiếp tục duy trì quan hệ với Pháp.
Một số nghiệp của bản Pháp nước ngoài được tiếp tục kinh doanh như các
nghiệp điện, nước,… nhưng phải tuân theo luật lệ chịu sự kiểm soát của Chính phủ.
Về tài chính, Chính phủ kêu gọi sự đóng góp tự nguyện, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân,
thông qua phong trào “Quỹ độc lập”, theo sắc lệnh của Chính phủ ngày 4/9/1945, “Tuần
lễ vàng” được tổ chức ngày 19/9/1945 nhằm thu gom số vàng trong nhân dân nhất
của các nhà giàu dùng vào việc cần gấp quan trọng nhất của chúng ta lúc nàyquốc
phòng. Ngoài ra, Chính phủ còn vận động sự giúp đỡ của nhân dân thông qua “hũ gạo
nuôi quân”, “nhận nuôi cán bộ”…
- Về văn hóa xã hội: Ngày 8/9/1945, Hồ Chí Minh ra quyết định thành lập Nha
Bình dân học vụ kêu gọi nhân dân tham gia xóa nạn chữ. Từ 8/9/1945 đến
8/9/1946, 76000 lớp học 2,5 triệu người được xóa nạn chữ. Trường phổ thông
các cấp và đại học khai giảng sớm và nội dung học và dạy đổi mới. Và như vậy đã đẩy lùi
được giặc dốt.
- Về chính trị - quân sự: Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng và thực thi nhiều biện
pháp để tập hợp, sử dụng nhân sĩ, trí thức, nhân tài phục vụ cho sự nghiệp kháng chiến và
kiến quốc. Nhiều nhân sĩ, trí thức được mời tham gia bộ máy hành chính quan
chuyên môn các cấp, nhất Trung ương. Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu để củng cố tăng cường chính quyền phải thực hiện quyền dân chủ cho quần
chúng, phải “xúc tiến việc đi đến Quốc hội để quy định Hiến pháp, bầu
Chính phủ chính thức”. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, nhân dân ta được thực
hiện quyền làm chủ, bầu những đại biểu chân chính vào các quan quyền lực cao nhất
của Nhà nước. Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên ở Việt Nam đã hoàn toàn thắng lợi. Quốc hội
đầu tiên của nước Việt Nam ra đời.
2. Thực tiễn Việt Nam những năm gần đây.
Quán triệttưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những năm qua, Đảng , Nhà nước
nhân dân ta đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, quan tâm chăm lo nâng cao đời sống mọi
mặt của nhân dân, chú trọng phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống
hội. Trong hành trình hơn 70 năm, kể từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời
vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 thì Việt Nam đã có hơn 30 năm trải qua chiến tranh bảo vệ
Tổ quốc vô cùng khốc liệt. Ngày nay, cả thế giới biết đến công cuộc đổi mới ở Việt Nam
như một bằng chứng về sự thành công chuyển đổi kinh tế - hội trong lịch sử đương
đại. Tuy vẫn một nước đang phát triển, nhưng trên hành trình tiến hành công cuộc đổi
mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
- Về kinh tế - tài chính: Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế đang đẩy mạnh. Những sản phẩm công nghiệp chủ
yếu phục vụ sản xuất tiêu dùng của dân đều tăng cả chất lượng số lượng, đáp
ứng cơ bản nhu cầu tiêu dùng trong nướctham gia xuất khẩu. Công nghiệp FDI do có
lợi thế về máy móc thiết bị và kỹ thuật hiện đại,thị trường xuất khẩu khá ổn định, lại
được Nhà nước khuyến khích bằng các chế chính sách ngày càng thông thoáng nên
trong những năm qua phát triển khá nhanh và ổn định hơn hẳn khu vực công nghiệp trong
nước. Bên cạnh đó, công nghiệp FDI còn tạo thêm hàng triệu việc làm, góp phần bổ sung
hoàn thiện các hình quản tổ chức mới phù hợp với chế thị trường Việt
Nam. cấu kinh tế cũng chuyển dịch khá rệt, điều đó được thể hiện sự giảm tỷ
trọng ở khu vực I và tăng tỷ trọng ở khu vực II và III.
- Về văn hóa – xã hội: Nhờ kinh tế đạt mức tăng trưởng cao và liên tục trong nhiều
năm liền nên đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của dânđược cải thiện rệt. Sự
nghiệp giáo dục đạt nhiều thành tựu. Tỷ lệ dân số từ 10 tuổi trở lên biết đọc đã tăng vọt,
năm 2000 Việt Nam đã hoàn thành chương trình mục tiêu chống mù chữ và phổ cập giáo
dục tiểu học. Giáo dục trung học chuyên nghiệp đại học bước mở rộng nhanh về
quy đào tạo. Tính tại thời điểm 31 tháng 12 năm 2019, cả nước gần 2,7 triệu học
sinh trung học phổ thông chuyên nghiệp, cả nước 237 trường đại học cao đẳng
theo số liệu năm 2018. Về sự nghiệp y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân cũng được quan
tâm phát triển. Hệ thống y tế đã được phát triển từ tuyến sở tới trung ương với
nhiều loại hình dịch vụ y tế đã tạo điều kiện cho người dân được lựa chọn các dịch vụ y
tế phù hợp. Theo số liệu cập nhật thì tuổi thọ trung bình của người Việt Nam năm 2020 là
73,7 một con số khá cao so với khu vực thế giới. Cùng với thành tựu trong tăng
trưởng kinh tế, Việt Nam đã đạt được những kết quả xuất sắc trong xóa đói giảm nghèo.
Theo Tổng cục Thống kê, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm nhanh, từ 14,2% năm 2010 xuống
còn 7% năm 2015 (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011 - 2015) giảm từ 9,2% năm 2016
xuống dưới 3% vào năm 2020 (theo chuẩn nghèo đa chiều).
- Về chính trị - quân sự: Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc được củng
cố tăng cường. Chính trị - hội ổn định, quốc phòng an ninh được giữ vững. Vị
thế Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc
gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt
đẹp. Mặc dù Việt Nam đã đạt được rất nhiều những thành tựu đáng tự hào trên hành trình
đổi mới, nhưng để có thể đi xa và phát triển hơn nữa thì cần phải nắm bắt được những cơ
hội và chấp nhận những thách thức cần phải vượt qua.
- Về những cơ hội cần phải nắm bắt: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cùng
với quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang là hai xu thế lớn, chi phối sâu sắc đến
tiến trình phát triển của nhân loại. Những đột phá công nghệ diễn ra nhanh chóng trong
nhiều lĩnh vực như: trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, cơ sở dữ liệu lớn, internet kết nối
vạn vật, công nghệ in 3 chiều, công nghệ nano, công nghệ sinh học, lưu trữ năng lượng,
đem đến sthay đổi vượt bậc cho chất lượng cuộc sống, việc làm sản xuất, kinh
doanh. Sự đan xen của các quá trình hội nhập đưa thế giới đến một “cấu trúc ma trận” các
hiệp định tự do thương mại (FTA) trên nhiều tuyến và nhiều cấp độ, trong đó phải kể đến
các FTA thế hệ mới. - Về những khó khăn và thách thức cần phải vượt qua: Thế giới đang
trải qua một thời kỳ nhiều biến động nhanh chóng, phức tạp khó lường. Các nước
lớn điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh kiềm chế lẫn
nhau quyết liệt, giành vị thế lợi ích gây ra tình hình phức tạp tài nhiều khu vực
nhiều nước. Những vấn đề toàn cầu và an ninh phi truyền thống như: an ninh lương thực,
an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh tài chính, an ninh mạng, biến đổi khí
hậu, thiên tai, dịch bệnh,… đang diễn biến nghiêm trọng. Đặc biệt trong hơn một năm
qua, thế giới đang bị dịch bệnh Covid tàn phá rất nặng nề cả về con người, kinh tế, xã hội
và Việt Nam cũng là một quốc gia hứng chịu không ít những khó khăn do dịch bệnh này
gây ra. Bên cạnh đó Việt Nam còn phải đối mặt với sự thiếu hụt tài nguyên thiên nhiên và
ô nhiễm môi trường đang ngày càng gia tăng nghiêm trọng.
3. Trách nhiệm của công dân Việt Nam để duy trì nền độc lập, tự do, hạnh phúc
dân tộc.
Mỗi chúng ta khi sinh ra được sống trong nền hòa bình đã một sự may mắn,
chính vì vậy mỗi công dân cần phải cống hiến nhiều hơn để phát triển nước nhà, giữ vững
nền độc lập, tự do, hạnh phúc của dân tộc. Trước hết, là một công dân, mà nòng cốt là thế
hệ trẻ, cần không ngừng nỗ lực và rèn luyện để dựng xây Tổ quốc. Thế hệ trẻ là mầm non
tương lai của đất nước, những người đóng vai trò quan trọng trong việc đưa đất nước
phát triển sau này, vậy nên việc học tập tốt và tu dưỡng đạo đức, tác phong là một điều vô
cùng cần thiết. Bên cạnh đó, một công dân, cần biết yêu thương, sẻ chia với những
người xung quanh. Một đất nước, một hội chỉ thực s phát triển hạnh phúc khi
những hạt nhân trong hội biết yêu thương, đoàn kết, gắn với nhau vượt qua bất kỳ
khó khăn, thử thách nào. Giống như khi xưa, thế hệ ông cha ta đã không tiếc thân mình,
đổ mồ hôi xương máu để đem lại nền độc lập, tự do hạnh phúc cho dân tộc như
ngày hôm nay. Ngoài ra, là một công dân, con người ta cần biết tự hào và phát huy truyền
thống của dân tộc. Hãy tự hào về những giá trị văn hóa, tinh thần của đất nước phát
huy, giữ gìn cũng như phát triển chúng, mang những nét cổ truyền ấy đi xa hơn trên thế
giới này, để bạn bè khắp năm châu đều biết đến Việt Nam.
C) KẾT THÚC
Luận điểm “Nước được độc lập n không được hưởng hạnh phúc, tự do thì
độc lập cũng không có nghĩa lý gì” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một luận điểmcùng
chính xác và nó có giá trị tới tận bây giờ và mãi về sau. Độc lập đi liền với tự do. Độc lập
dân tộc đi liền với tự do của người dân. Tự do là một tài sản quý giá và vĩnh hằng của con
người, thể coi đó cũng một quyền tự nhiên của con người. Chính trong tuyên ngôn
độc lập của mình, Người đã tiếp thu tưởng của các nhà lập quốc Hoa Kỳ để từ những
quyền cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do suy rộng ra quyền của một dân tộc.
Có lẽ Người đã mở rộng tư tưởng bác ái thành hạnh phúc. Bác ái là tình thương, lòng yêu
mến con người rộng khắp, bao trùm. Hạnh phúc là tình thương được cụ thể hóa thành “ai
cũng cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Hạnh phúc tình thương cho mọi
người được chan hòa bình đẳng trong một cộng đồng ấm no, hòa bình. Hạnh phúc là khi
con người được thỏa mãn những nhu cầu yêu cầu chính đáng của mình. Hạnh phúc
khi người dân được sống đầy đủ các quyền công dân của mình trong một đất nước độc
lập, dưới một nhà nước bảo đảm cho họ quyền tự do dân chủ, nhất tự do tưởng.
Trong thời đại ngày nay với biết bao nhiêu khó khăn và thử thách thì độc lập càng đòi hỏi
được bảo vệ và củng cố, tự do càng được yêu cầu đảm bảo và hạnh phúc càng được khát
khao đạt tới.
| 1/16

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN --------***-------- BÀI TẬP LỚN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI: Phân tích luận điểm của Hồ Chi Minh: Nước độc lập
mà không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng
có nghĩa lí làm gì. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm với Việt Nam hiện nay…..
Họ và tên SV: Nguyễn Văn Lợi Lớp tín chỉ: Mã SV: 11202344 GVHD: HÀ NỘI, NĂM 2022
............................................... . A. Mở đầu
Từ trước tới nay, độc lập dân tộc luôn là một mục tiêu hàng đầu của mọi quốc gia,
dân tộc, đặc biệt là các dân tộc nhỏ hay chịu xâm lược áp bức bóc lột. kinh nghiệm lịch
sử cho thấy, sự tồn vong và phát triển của mỗi dân tộc đều gắn liền với việc giành và giữ
gìn nền độc lập của mình. Sống trong độc lập luôn là nguyện vọng thiết tha, chính đáng
của các dân tộc trên thế giới.
Chúng ta – lớp thế hệ trẻ hôm nay may mắn được sinh ra khi Đất nước không còn
chiến tranh, lớn lên khi đã bình yên tiếng súng và cũng chỉ hiểu được phần nào lịch sử
dân tộc qua những thước phim, trang báo. Song, mỗi người dân Việt Nam hôm nay đã
thấu hiểu giá trị to lớn của nền độc lập dân tộc qua những tác phẩm văn học như 3 bản
tuyên ngôn nghệ thuật hay những lớp người đi trước đã ra đi, đã hoá thành những hàng
bia trắng, những bài ca đi cùng năm tháng và hơn thế nữa đã hoá thành quê hương đất
nước. Và để rồi khi nghe Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh được
vang lên chúng ta như được tái sinh một lần nữa. Xong, liệu rằng độc lập đối với một đất
nước đã đủ hay chưa và liệu có phải là mục đích duy nhất, cuối cùng mà chúng ta muốn
hướng đến. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là những vấn đề quan trọng được thể
hiện rõ ràng và xuyên suốt quá trình hoạt động Cách mạng của Chủ tịch, Người khẳng
định: “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì.”
Em xin được phân tích luận điểm trên dựa vào cơ sở mối quan hệ giữa độc lập dân
tộc phải gắn với con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng
thời làm rõ ý nghĩa luận điểm đối với nước ta hiện nay B. Nội Dung I. Khái quát chung
Dân tộc Việt Nam có lịch sử dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm. Các thế hệ
người Việt Nam đã không ngừng đấu tranh để bảo vệ nền độc lập của mình mỗi khi tổ
quốc bị xâm lăng. Đặc biệt cuộc đấu tranh giành độc lập dưới sự lãnh đạo của Đảng ta
trong những năm cuối của nửa đầu thế kỉ XX mà đỉnh cao là cách mạng tháng 8 năm
1945 đx đưa Việt Nam trở thành tiên phong trong phong trào đấu tranh giải phóng dân
tộc của các nước thuộc địa. Chân lý “không có gì quý hơn độc lập, tự do” không những
thể hiện một cách sinh động nhân sinh quan của dân tộc Việt Nam, mà còn góp phân thức
tỉnh nhân dân lao động ở một loạt các nước thuộc địa ở các châu Á, châu Phi, châu Mỹ -
La Tinh đứng lên tự giải phóng mình. Quyền hưởng độc lập và quyết tâm bảo vệ quyền
thiêng liêng đó của dân tộc Việt Nam được cha ông ta khẳng định qua bài thơ của Lý
Thường Kiệt – bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của đất nước, qua khúc khải hoàn Bình
Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi. Một lần nữa quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm đó
được Hồ Chí Minh khẳng định một cách đanh thép: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự
do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam đã
quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng, đánh đổi cả mấy xương để giữ vững
quyền tự do, độc lập ấy”.
Không chỉ có vậy, đối với dân tộc ta ngày nay, độc lập dân tộc luôn gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được Đảng và nhân dân ta
giương cao trong suốt tiến trình cách mạng. Tại Đại hội lần thứ Ĩ, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã nhấn mạnh: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo
con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh”. Lựa chọn con đường đi theo chủ nghĩa xã hội sau khi đã giành được độc lập là sự
lựa chọn đúng đắn của dân tộc trong thời đại ngày nay, phù hợp với quy luật khách quan
và xu thế phát triển của lịch sử xã hội. Bởi vì, chỉ có CNXH mới hoàn toàn giải phóng
giai cấp , giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người; chỉ có chủ nghĩa
xã hội mới xóa bỏ căn nguyên sâu xa của tình trạng bóc lột người và đưa dân tộc tới sự
phồn vinh về kinh tế, sự phát triển phong phú về văn hóa mới thực hiện đầy đủ nhất
quyền lực của nhân dân.
II. Quan điểm của C.Mác và Lênin về độc lập dân tộc 1. Quan điểm của C.Mác:
C.Mác đã xây dựng học thuyết cách mạng, khoa học và nhân đạo để giải phóng giai cấp,
xã hội và con người. Đó là chủ nghĩa xã hội – giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản. Mục
tiêu cao nhất là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và tiến tới giải phóng con người
một cách triệt để nhất. Chủ nghĩa xã hội từng bước hiện thực hoá qua thực tiễn sự nghiệp
giải phóng con người khỏi chế độ áp bức, bóc lột giữa người và người và tiến tới mục
tiêu cao cả: “biến con người từ vương quốc tất yếu sang vương quốc tự do”, tạo nên một
liên hiệp trong đó “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do
của tất cả mọi người “. Giải phóng áp bức về kinh tế là một trong những cách giải phóng
con người triệt để. Có thể nói, những cuộc cách mạng trước đây vốn chỉ mang tính chất
chính trị, nhằm kết thúc bằng việc lật đổ sự thống trị của giai cấp này và thay thế bằng sự
trị vì của giai cấp khác. Do vậy, giai cấp bị trị sẽ mãi mãi không được độc lập, tự do và
luôn trong vòng xiềng xích nô lệ. Hơn hết, việc thay đổi vị trí của người lao động đối với
tư liệu sản xuất là việc cần thiết trước mắt hơn cả hay rõ ràng là việc thay đổi chế độ
chiếm hữu tư nhân tư bản thành chủ nghĩa về tư liệu sản xuất thành chế độ sở hữu xã hội
chủ nghĩa với những phương thức thích hợp. Bên cạnh đó, Nhà nước xã hội chủ nghĩa
còn phát triển lực lượng sản xuất, không ngừng nâng cao năng suất lao động nhằm cải
thiện đời sống của người dân. Tóm lại, C.Mác muốn xây dựng xã hội bình đẳng về tư liệu
sản xuất, con người được giải phóng. Quan điểm của Lênin:
Có thể nói, nếu như quan điểm của C.Mác tiếp cận từ góc độ lí luận thì Lênin tiếp
cận từ thực tiễn. Cách mạng Tháng Mười Nga cùng những chính sách kinh tế mà Lênin
đưa ra từ chính sách cộng sản thời chiến đến chính sách kinh tế mới, tất cả đã thể hiện rõ
điều trên. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã mở ra con đường xây dựng chủ
nghĩa xã hội mới, đầu tiên ở Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới ra đời gồm
nhiều nước và đạt nhiều thành tựu to lớn sau chiến tranh thế giới thứ hai.
3. Chủ nghĩa xã hội ở các nước phương Đông:
Theo Hồ Chí Minh, tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở phương Đông đã xuất hiện từ rất sớm và
thích ứng dễ hơn ở phương Tây là quan điểm lấy dân là gốc, quan điểm công bằng, bình
đẳng về tài sản giữa những người lao động hay tư tưởng về tình yêu thương giữa con
người với nhau và đặc biệt là những người lao khổ. Bên cạnh đó là sự liên kết, hợp nhất,
đoàn kết giữa người và người trong nền nông nghiệp lúa nước từ thời xưa. Hơn nữa, vào
thế kỉ XX hầu hết các nước Châu Á đều trở thành thuộc địa của các nước tư bản phương
Tây. Chủ nghĩa tư bản đã để lại những hệ quả như: tư tưởng cách mạng tiến bộ ban đầu,
hình thành cơ cấu giai cấp xã hội mới, nhất là sự thiết lập việc thống trị dã man tàn bạo ở
các nước thuộc địa đẩy đại đa số quần chúng nhân dân vào bước đường cùng. Chính chủ
nghĩa tư bản đã tạo điều kiện tiền đề cho các nước thuộc địa một sự lựa chọn đúng đắn
trên con đường đứng lên của mình.
III. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc:
1. Độc lập – Quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc:
Độc lập là quyền bất khả xâm phạm của một đất nước, quốc gia bởi chính người
dân đang sinh sống, nói cách khác là có quyền tự chủ tối cao. Độc lập thường là sự giải
phóng của một quốc gia bị thống trị, đô hộ. Hoặc có thể hiểu rằng độc lập là không bị
điều khiển, cai trị bởi một thế lực khác thông qua chủ nghĩa thực dân, sự bành trướng hay
chủ nghĩa đế quốc.Độc lập tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của mỗi dân
tộc.“Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền
sống, quyền sung sướng và quyền tự do” ( Trích “ Tuyên ngôn độc lập “ – 1945 )Có thể
nói độc lập là khát vọng lớn nhất của dân tộc thuộc địa, độc lập trên mọi lĩnh vực kinh tế,
chính trị, ngoại giao, quốc phòng.. Độc lập gắn với hòa bình và độc lập gắn với toàn vẹn
lãnh thổ của một quốc gia. Với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, độc lập
dân tộc và CNXH,chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế. Độc lập dân tộc gắn liền
với CNXH. Hồ Chí Minh xác định con đường cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai
đoạn: làm “Tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng đề tới xã hội cộng sản”.
Do đó, “giành được độc lập rồi phải tiến lên CNXH..” yêu tổ quốc yêu nhân dân phải gắn
bên với yêu chủ nghĩa xã hội". Bên cạnh đó, độc lập tự do là khát vọng lớn nhất của các
dân tộc thuộc địa. Hồ Chí Minh nói : “tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ Quốc tôi,
đây là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”Năm 1919, vận dụng
nguyên tắc dân tộc tự quyết đã được các đồng minh thắng trận trong Chiến tranh thế giới
thứ nhất long trọng thừa nhận, thay mặt những người Việt Nam yêu nước, Nguyễn Ái
Quốc gửi tới hội nghị Vecxai, bản yêu sách gồm tám điều, đòi quyền tự do dân chủ cho
nhân dân Việt Nam .Đầu năm 1930, Nguyễn Ái Quốc soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng, một cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo,có tư tưởng cốt
lõi là độc lập tự do cho dân tộc.Người khẳng định, độc lập dân tộc cuối cùng phải đem lại
cơm no áo ấm, hạnh phúc cho người dân. Độc lập tự do là mục tiêu chiến đấu, là nguồn
sức mạnh làm nên chiến thắng của dân tộc Việt Nam trong thế kỉ XX, một tư tưởng lớn
trong thời đại giải phóng dân tộc.
2. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để
Độc lập phải đảm bảo quyền lực tối cao về đối nội, đối ngoại và suy đến cùng là
phải đảm bảo quyền tự quyết dân tộc. Độc lập dân tộc phải được thực hiện toàn diện, triệt
để trên mọi lĩnh vực. Còn nhớ khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất vừa kết thúc, lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt những người dân An Nam gửi đến Hội nghị quốc tế ở
Versailles, Pháp (năm 1919) Bản yêu sách 8 điểm đồi độc lập cho thuộc địa, trong đó
nhấn mạnh đến dân quyền khi nếu các điểm cụ thể: “3. Tự do báo chí và tự do ngôn luận;
4. Tự do lập hội và họp hội; 5. Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương; 6. Tự do
học tập và thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tình cho người bản xứ”.
Ngay trong năm ấy, khi Bộ trưởng bộ thuộc đại Pháp hỏi mong muốn điều gì,
Nguyễn Ái Quốc trực diện đối đáp thẳng: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là: ĐỒng bào tôi
được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập” và năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa
Lênin, tìm thấy con đường cách mạng vô sản cũng từ khát khao: “ tự do cho đồng bào tôi,
độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”.
Quan điểm của Hồ Chí Minh là xây dựng Nhà Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa là Nhà nước do dân lao động làm chủ; dân có địa vị cao nhất, dân có quyền quyết
định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước. Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định:
nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ; bao nhiêu quyền hạn cao
nhất là của dân; quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Người ý thức rất rõ vị trí của
mình trong bộ máy nhà nước, Bác nhiều lần nhắc nhở: ở nước ta từ Hồ Chủ Tịch trở
xuống là đầy tớ của dân, dân đặt đâu thì làm đó, người Chủ Tịch là nhận sự trao quyền ủy
thác của dân. Theo HCM nhà nước do dân là dân làm chủ đất nước, nhà nước do dân và
vì dân dựa vào dân. Ngoài ra, nó còn bao hàm nội dung khác: nhân dân có quyền phê
bình, kiểm tra, giám sát các hoạt động của cơ quan nhà nước, các đại biểu do mình cử ra.
Nhà nước vì dân phải đem lợi ích của dân đặt lên hang đầu và vì dân mà phục vụ. HCM
nhấn mạnh: để thực sự phục vụ tốt nhân dân, vì dân thì nhà nước phải thực sự liêm khiết,
trong sạch, tránh quan liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi, phải loại hết các “ông quan
cách mạng” ra khỏi bộ máy nhà nước. “Độc lập mà người dân không có quyền tự quyết
về ngoại giao, không có quân đội riêng, không có tài chính kinh tế riêng thì…, thì độc lập
dân tộc chẳng có ý nghĩa gì”.
3. Độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Độc lập dân tộc và thống nhất đất nước là chân lý, là quy luật tồn tại, phát triển
của dân tộc. “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn,
song chân lý đó không bao giờ thay đổi “Độc lập” ở Việt Nam trong cách mạng tháng
Tám năm 1945 “đã giải phóng đồng bào ta khỏi chế độ quân chủ chuyên chế và xiềng
xích thực dân… xây dựng cho dân ta cái nền tảng Dân chủ Cộng hòa và thống nhất độc
lập”. “Độc lập” ấy của toàn dân tộc sau khi giành được đã nêu cao ý chí quyết tâm “Thà
hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”; dù “Chiến tranh
có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà nội, Hải Phòng và một số
thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! không
có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta
đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!
Lịch sử Việt Nam là lịch sử không ngừng đấu tranh trong suốt quá trình dựng nước
và giữ nước. Tính thần yêu nước là cội nguồn của sức mạnh dân tộc Việt Nam. Đối với
người dân mất nước, cái quý nhất trên đời là độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân.
Theo Chủ Tịch Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao gồm cả nội dung dân tộc và dân chủ;
độc lập dân tộc phải được gắn với hạnh phúc và tự do của nhân dân; đồng thời, tự do và
hạnh phúc của nhân dân cũng chính là giá trị sâu sắc của độc lập dân tộc.
4. Quan điểm của Bác về vấn đề giải phóng con người trong đấu tranh giải phóng
dân tộc- người dân được hưởng tự do, hạnh phúc:
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, để con người được giải phóng, có cuộc sống ấm
no, hạnh phúc thì điều tiên quyết, đất nước phải được độc lập, con người phải được tự do.
Khi Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược, thống trị, khi nhân dân bị áp bức, bóc lột nặng
nề, thì nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng là phải giành cho được độc lập. Như vậy, cách
mạng giải phóng dân tộc là điều kiện đầu tiên và quyết định sự nghiệp giải phóng con
người, đưa con người từ thân phận nô lệ lên địa vị làm chủ, giải phóng con người khỏi áp
bức dân tộc. Tuy vậy, đất nước độc lập thôi chưa đủ, nếu đất nước được độc lập mà người
dân vẫn phải sống trong cảnh lầm than, vẫn bị áp bức giai cấp thì quả thực đúng như lời
Người đã nói “độc lập cũng chẳng ý nghĩa gì”. Do vậy, bước tiếp theo của giải phóng đất
nước có phần khó khăn, phức tạp và lâu đài hơn là xây dựng xã hội mới - xã hội chủ
nghĩa, giải phóng con người khỏi áp bức giai cấp, khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Vậy tự do ở
đây là gì? Nếu hiểu “độc lập” theo nghĩa là “tự mình... không phụ thuộc” thì “tự do" phải
được hiểu là "tôi được làm những gì tôi muốn”. Nếu hiểu "độc lập” là "tồn tại, nương tựa,
phụ thuộc một cách có ý thức” thì “tự do" là nhận thức những hạn chế một cách có ý
thức" Đứng trên cương vị là một quốc gia, độc lập và tự do cũng được hiểu theo cách
khác. Độc lập, tự do là những phạm trò nền tảng của việc hình thành một quốc gia mà ở
đó con người tìm kiếm được đời sống thông thường của mình, đời sống phát triển của
mình và hạnh phúc của mình. Và hạnh phúc là gì? Hạnh phúc là khi con người được thỏa
mãn những nhu cầu chính đáng và căn bản của mình, hạnh phúc là được sống đầy đủ với
các quyền công dân của mình, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà Nước. Cụm
từ độc lập -tự do-hạnh phúc gắn liền với tên nước CHXHCN Việt Nam, đó là cái Đảng ta
hướng đến, dân ta theo đuổi. Độc lập có trước là cái thiết yếu nhất, sau đó dân phải được
hưởng tự do và cái sau cùng là dân ta phải được hưởng ấm no hạnh phúc.
Chúng ta có thể nhận thấy rõ quan điểm trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh là hoàn
toàn đúng đắn khi đưa ra ví dụ về đất nước Triều Tiên – một đất nước hoàn toàn độc lập
và toàn vẹn lãnh thổ. Xong việc người dân được tự do đi du lịch quốc tế đặc biệt là Hàn
Quốc là điều bất khả thi, việc dùng wifi hay mạng quốc tế cũng đều bị cấm hoặc một điều
đơn giản nhất là có một kiểu tóc sáng tạo cũng không được phép… Liệu chúng ta có thực
sự cảm thấy vui, hạnh phúc khi bị cấm những điều trên, không được đi thăm người thân
bạn bè một cách tự do, không được tiếp thu văn hoá và tin tức bên ngoài thế giới? Đây
cũng chính là ví dụ tiêu biểu cho việc độc lập phải gắn liền với tự do và hạnh phúc.
Vậy tại sao Bác lại luôn theo đuổi giá trị của Độc lập – Tự do, giá trị của nó thực sự là gì?
Thành quả vĩ đại nhất lớn lao nhất mà cách mạng tháng Tám năm 1945 đem lại là
độc lập dân tộc, là nền tảng của tự do ấm no hạnh phúc cho mỗi con người. Khát vọng
dân tộc độc lập là khái vọng ngàn đời nay, không chịu nô lệ, không chịu nước mất nhà tan
cho dù hàng vạn người Việt Nam có thể hy sinh nhưng vẫn không chùn bước, vì phía
trước là độc lập của dân tộc là tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, là toàn vẹn lãnh thổ
non sông, là hạnh phúc tự do của mỗi con người “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không
chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”.
Bác luôn cho rằng “độc lập theo con đường cách mạng vô sản là tiền đề của hạnh
phúc tự do”. Bác không bao giờ chấp nhận chế độ quân chủ chuyên chế cũng như chế độ
thực dân, bởi chính chế độ đó người dân vẫn phải sống trong cảnh áp bức bóc lột, nghèo
đói lầm than, vẫn bị giam hãm, đất nước không thể phát triển được. Độc lập như vậy, thì
nào có ý nghĩa gì? Cái đích đến cuối cùng của độc lập là hạnh phúc, tự do. Người nhắn
mạnh chỉ có chế độ xã hội chủ nghĩa mỗi người mới có có hội phát triển cái riêng, cái tôi
của mình, đó là câu trả lời cuối cùng cho chặng đường dài Cách mạng giải phóng dân tộc.
Hồ Chí Minh cho rằng: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là thay đổi cả xã hội, thay đổi
cả thiên nhiên, làm cho xã hội không còn người bóc lột người, không còn đói rét, mọi
người đều được ấm no và hạnh phúc”, chủ nghĩa xã hội là “Xã hội ngày càng tiến bộ, vật
chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt”. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là “chống lại
những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. Chỉ khi nào xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản thì lúc đó sự nghiệp giải phóng con
người mới được xem là đã giành được thắng lợi hoàn toàn. Khi trả lời câu hỏi: “Chủ
nghĩa xã hội là gì?”. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Là mọi người được ăn no mặc ấm, sung
sướng, tự do”, “Chủ nghĩa xã hội là làm cho mọi người dân sung sướng, ấm no”, “mục
đích của chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân”. “Vì vậy,
chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân.
Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân
dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng và Chính phú có lỗi”. Chỉ trong xã
hội xã hội chủ nghĩa, người dân mới được đảm bảo việc làm, được “sung sướng, tự do”,
được hưởng thụ các giá trị vật chất do chính họ làm ra. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội là cống hiến quý giá nhất của Hồ Chí Minh cho cách mạng Việt Nam. Đó
cũng là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh, xuyên suốt đường lối và thực tiễn
cách mạng Việt Nam.Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội làm cho nhân
dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và
sống một đời hạnh phúc. Chủ nghĩa xã hội là giải phóng nhân dân lao động khỏi nghèo nàn, lạc hậu.
Chủ nghĩa xã hội là một xã hội không có chế độ người bóc lột người, một xã hội
bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền lao động, ai làm nhiều thì hưởng
nhiều, ai làm ít thì hưởng ít, không làm không hưởng. Hạnh phúc, tự do theo quan điểm
Hồ Chí Minh là người dân phải được hưởng đầy đủ đời sống vật chất và tinh thần do chủ
nghĩa xã hội đem lại. Đời sống vật chất là trên cơ sở một nền kinh tế cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại, “ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành “. Người dân
từ chỗ có ăn, có mặc, có chỗ ở đến chỗ ăn ngon, mặc đẹp, đời sống sung túc. Tiêu biểu
trong đời sống tinh thần là phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Bởi vì chủ nghĩa xã hội
là do quần chúng nhân dân tự xây dựng - là công trình tập thể của nhân dân lao động dưới
sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Trong điều kiện đó, chỉ có phát huy quyền làm chủ
của nhân dân thì mới có sáng kiến và động lực. Nhiều lần Hồ Chí Minh khẳng định
“nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng,
từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch một nước đều là phân công làm đầy tớ cho
dân”. Đảng cầm quyền nhưng dân là chủ và để dân làm chủ. Theo quan điểm Hồ Chí
Minh, dân chủ là giá trị lớn nhất mà cách mạng do Đảng lãnh đạo đem lại cho người dân.
Vì vậy, dân chủ trong chế độ dân chủ nhân dân đến chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là động
lực vừa là mục tiêu của cách mạng.
Tóm lại độc lập dân tộc chỉ có đi tới chủ nghĩa xã hội thì mới có một nền độc lập dân
tộc thực sự, hoàn toàn, nhân dân mới được hưởng hạnh phúc tự do, chủ nghĩa xã hội chỉ
có thể phát triển trên một nền độc lập dân tộc thực sự thì mới có điều kiện phát triển và hoàn thiện.
IV. Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
VỚI DÂN TỘC VIỆT NAM HIỆN NAY 1.
Kiên định mục tiêu, con đường Cách mạng Hồ Chí Minh đã lựa chọn
Chúng ta luôn chủ động phát hiện, ngăn chặn “từ sớm, từ xa” các nguy cơ đối với
đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng – an ninh của đất nước. Quá
trình hội nhập có sự tác động lẫn nhau giữa các nước lớn với nước vừa nhỏ, giữa các
nước có thể chế chính trị - xã hội khác nhau nên sẽ xuất hiện những xung đột về lợi ích
hoặc các âm mưu chống phá từ bên ngoài. Vì vậy, việc chủ động phát hiện từ khoảng
cách xa về không gian và sớm về thời gian những nguy cơ có thể xảy ra là yêu cầu cấp
thiết để phải làm để có thể chủ động ngăn chặn, vô hiệu hóa, hóa giải các nguy cơ đó là
một cách kịp thời, hiệu quả. Phòng, chống một cách chủ động mọi âm mưu, hoạt động lợi
dụng hội nhập quốc tế để chuyển hóa nội bộ; phát hiện, ngăn chặn kịp thời các đối tượng
nước ngoài lợi dụng kẽ hở về luật pháp và sơ hở, yếu kém của ta để gây sức ép, trốn thuế,
thao túng thị trường trong nước. Đấu tranh với các loại tội phạm có tổ chức xuyên quốc
gia như rửa tiền, buôn lậu, sản xuất và tiêu dùng hàng giả, gian lận thương mại, tín dụng
đen, tội phạm công nghệ cao. Tăng cường quản lý hoạt động trên mạng xã hội và internet,
có biện pháp ngăn chặn các thế lực thù địch xâm nhập vào các trang mạng nội bộ gây
thiệt hại kinh tế, phá hoại tư tưởng. Ngăn chặn việc du nhập các ấn phẩm văn hóa độc hại
từ bên ngoài để đảm bảo an ninh văn hóa. 2.
Phát huy sức mạnh nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa
Bước vào thời kỳ mới, trước hết yêu cầu công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng
XHCN, việc xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân phải tiếp tục quán
triệt sâu sắc tư tưởng và học tập, làm theo tấm gương tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền
làm chủ đất nước và xã hội của nhân dân. Bởi, đây là nền tảng tư tưởng, lý luận quan
trọng trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền mới do dân làm chủ. Xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân phải nắm vững mục tiêu là
tôn trọng bảo vệ, phát huy, quyền làm chủ của nhân dân, tất cả phải vì độc lập dân tộc,
dân chủ tự do, hạnh phúc của nhân dân. Điều 2 Hiến pháp 1992 khẳng định rõ: Nhà nước
Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và
vì dân. Tất cả quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quan điểm trên càng có ý
nghĩa quan trọng trong xây dựng một Nhà nước pháp quyền dân chủ nhân dân – do dân
làm chủ, nhất là khi các thế lực thù địch đang lợi dụng chiêu bài “dân chủ” và “nhân
quyền” cũng như các thủ đoạn khác để vu cáo, xuyên tạc chế độ dân chủ, chống phá cách
mạng nước ta. Trong hoàn cảnh đó tư tưởng “Không có gì quý hơn đô “ c lâ “ p, tự do” của
Hồ Chí Minh vẫn là chân lí của thời đại. Chúng ta càng cần đề cao cảnh giác, phát huy
thế mạnh của đất nước để có thể tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, phát triển kinh tế- xã hô “
i mà vẫn giữ được đô “ c lâ “ p chủ quyền dân tô “ c, đem lại cuô “
c sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực cho các thế hê “ đời sau noi theo. Tư tưởng của
Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho
hành đô “ng của Đảng và nhân dân ta, tiếp tục soi sáng cho sự nghiê “
p đổi mới của nhân dân
ta trong thời đại ngày nay. Nghiên cứu và làm rõ tư tưởng đô “c lâ “ p, tự do của Hồ Chí
Minh giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc về mô “t khía cạnh trong tư tưởng chân thâ “ t mà vĩ
đại của Người, đồng thời có cái nhìn toàn diê “n hơn về hê “
thống tư tưởng Hồ Chí Minh.
Để từ đó xác định mục tiêu phát triển đất nước với những chính sách xây dựng kinh tế xã hô “
i đúng đắn, giữ vững đô “
c lâ “p chủ quyền, đưa nước ta trở thành quốc gia ổn định về
chính trị, phát triển về kinh tế, ngày càng có vị thế trên trường châu lục và quốc tế. V) akhdbhkaksd ỳkùy,u
1. Thực tiễn Việt Nam sau cách mạng tháng Tám năm 1945
Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh
đạo, “dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để xây dựng nên nước
Việt Nam độc lập, dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ
dân chủ cộng hòa”. Thắng lợi đó đã mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam:
kỷ nguyên đất nước được độc lập, thống nhất, nhân dân lao động làm chủ xã hội và tạo ra
những tiền đề cần thiết, từng bước đưa đất nước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Cách mạng nước ta có những thuận lợi lớn. Hệ thống chính quyền cách mạng
được xây dựng từ Trung ương tới cơ sở trên cả nước. Từ hoạt động bí mật, Đảng ta đã trở
thành Đảng lãnh đạo chính quyền. Đảng, mặt trận Việt Minh và Chủ tịch Hồ Chí Minh có
uy tín lớn trong dân tộc, chính quyền cách mạng được toàn dân ủng hộ. Phong trào cách
mạng tinh thần yêu nước của nhân dân dấy lên từ cao trào giải phóng dân tộc và tổng
khởi nghĩa tiếp tục phát triển với những hình thức và nội dung mới nhằm xây dựng, bảo
vệ chính quyền, giữ vững thành quả cách mạng.
Bên cạnh những thuận lợi do thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đem lại, nhân
dân ta và chính quyền cách mạng phải đương đầu với những khó khăn, thử thách nặng nề.
- Về kinh tế - tài chính: Nhân dân ta và chính quyền cách mạng còn phải vượt
qua những khó khăn lớn về kinh tế, đời sống xã hội. Nền kinh tế nước ta vốn đã nghèo
nàn, lạc hậu lại bị thực dân Pháp và Phát xít Nhật vơ vét, bị chiến tranh và thiên tai tàn
phá nên lại càng nghèo nàn hơn. Năng suất lúa rất thấp, nông dân lao động chiếm hơn
95% số hộ nhưng chỉ được sử dụng không quá 40% ruộng đất. Hậu quả nạn đói cuối năm
1944 và đầu năm 1945 chưa kịp khắc phục, thì nạn lụt lớn lại xảy ra, tàn phá 9 tỉnh đồng
bằng Bắc Bộ. Công nghiệp chỉ có không quá 200 nhà máy nhỏ bé, trang bị cũ kỹ, đang
lâm vào đình đốn, hàng hóa khan hiếm. Tài chính quốc gia gần như trống rỗng, ngân
hàng Đông Dương vẫn nằm trong tay tư bản nước ngoài. Chính quyền cách mạng chỉ tiếp
quản được kho bạc với hơn một triệu đồng, trong đó có 586000 đồng tiền rách.
- Về văn hóa – xã hội: Hậu quả về mặt xã hội cũng rất nặng nề, trên 90% số dân
không biết chữ. Hầu hết số người được đi học chỉ ở bậc tiểu học và vỡ lòng, trên 3 vạn
dân mới có một học sinh cao đẳng hoặc đại học và chủ yếu học ở ngành luật và ngành
thuốc. Số công chức có trình độ cao đẳng và đại học chỉ gồm vài trăm người. Thực tế đó
làm cho việc tổ chức, hoạt động của chính quyền mới gặp không ít khó khăn, lúng túng.
- Về chính trị - quân sự: Vào thời gian này, nhà nước ta mới được thành lập, thật
sự còn non trẻ. Bộ máy Nhà nước chưa được hoàn chỉnh. Hơn nữa, lực lượng vũ trang lại
mỏng manh, rất cần bổ sung.
Bên cạnh đó còn rất nhiều vấn đề khó khăn mà đất nước ta phải đối mặt. Tuy
nhiên, nhờ áp dụng tài tình Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, mọi vấn đề đã được giải quyết. Những khó khăn, thử thách to lớn cả về quân sự,
chính trị, kinh tế và xã hội trên đây đã đặt chính quyền cách mạng và vận mệnh nước ta
trong thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Tình hình trên đòi hỏi Đảng và chính quyền cách mạng
có đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn, phát huy sức mạnh của toàn dân mới có
thể bảo vệ và phát triển thành quả cách mạng.
- Về kinh tế - tài chính: Để giải quyết nạn đói, trước mắt Chính phủ kêu gọi toàn
dân đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau qua các phong trào “hũ gạo cứu đói”, “ngày cứu đói”,…
Ngoài ra Chính phủ còn thực hiện các biện pháp tiết kiệm lương thực, cung cấp lương
thực để nấu rượu, làm quà bánh,…Để giải quyết tận gốc nạn đói, Chính phủ đề ra phải
đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, Chính phủ có biện pháp để hỗ trợ cho nông dân như quy
định chỉ giảm tô 25% cho nông dân, tạm cấp ruộng đất công, ruộng của bọn Việt gian
phản động và của thực dân Pháp cho nông dân cày cấy,…Về công nghiệp, Chính phủ chủ
trương là kiên quyết giữ vững chủ quyền nhưng vẫn tiếp tục duy trì quan hệ với Pháp.
Một số xí nghiệp của tư bản Pháp và nước ngoài được tiếp tục kinh doanh như các xí
nghiệp điện, nước,… nhưng phải tuân theo luật lệ và chịu sự kiểm soát của Chính phủ.
Về tài chính, Chính phủ kêu gọi sự đóng góp tự nguyện, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân,
thông qua phong trào “Quỹ độc lập”, theo sắc lệnh của Chính phủ ngày 4/9/1945, “Tuần
lễ vàng” được tổ chức ngày 19/9/1945 nhằm thu gom số vàng trong nhân dân và nhất là
của các nhà giàu dùng vào việc cần gấp và quan trọng nhất của chúng ta lúc này là quốc
phòng. Ngoài ra, Chính phủ còn vận động sự giúp đỡ của nhân dân thông qua “hũ gạo
nuôi quân”, “nhận nuôi cán bộ”…
- Về văn hóa – xã hội: Ngày 8/9/1945, Hồ Chí Minh ra quyết định thành lập Nha
Bình dân học vụ và kêu gọi nhân dân tham gia xóa nạn mù chữ. Từ 8/9/1945 đến
8/9/1946, có 76000 lớp học và 2,5 triệu người được xóa nạn mù chữ. Trường phổ thông
các cấp và đại học khai giảng sớm và nội dung học và dạy đổi mới. Và như vậy đã đẩy lùi được giặc dốt.
- Về chính trị - quân sự: Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng và thực thi nhiều biện
pháp để tập hợp, sử dụng nhân sĩ, trí thức, nhân tài phục vụ cho sự nghiệp kháng chiến và
kiến quốc. Nhiều nhân sĩ, trí thức được mời tham gia bộ máy hành chính và cơ quan
chuyên môn ở các cấp, nhất là Trung ương. Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu để củng cố và tăng cường chính quyền là phải thực hiện quyền dân chủ cho quần
chúng, phải “xúc tiến việc đi đến Quốc hội để quy định Hiến pháp, bầu
Chính phủ chính thức”. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, nhân dân ta được thực
hiện quyền làm chủ, bầu những đại biểu chân chính vào các cơ quan quyền lực cao nhất
của Nhà nước. Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên ở Việt Nam đã hoàn toàn thắng lợi. Quốc hội
đầu tiên của nước Việt Nam ra đời.
2. Thực tiễn Việt Nam những năm gần đây.
Quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những năm qua, Đảng , Nhà nước
và nhân dân ta đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới vì mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, quan tâm chăm lo nâng cao đời sống mọi
mặt của nhân dân, chú trọng phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội. Trong hành trình hơn 70 năm, kể từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời
vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 thì Việt Nam đã có hơn 30 năm trải qua chiến tranh bảo vệ
Tổ quốc vô cùng khốc liệt. Ngày nay, cả thế giới biết đến công cuộc đổi mới ở Việt Nam
như một bằng chứng về sự thành công chuyển đổi kinh tế - xã hội trong lịch sử đương
đại. Tuy vẫn là một nước đang phát triển, nhưng trên hành trình tiến hành công cuộc đổi
mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
- Về kinh tế - tài chính: Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế đang đẩy mạnh. Những sản phẩm công nghiệp chủ
yếu phục vụ sản xuất và tiêu dùng của dân cư đều tăng cả chất lượng và số lượng, đáp
ứng cơ bản nhu cầu tiêu dùng trong nước và tham gia xuất khẩu. Công nghiệp FDI do có
lợi thế về máy móc thiết bị và kỹ thuật hiện đại, có thị trường xuất khẩu khá ổn định, lại
được Nhà nước khuyến khích bằng các cơ chế chính sách ngày càng thông thoáng nên
trong những năm qua phát triển khá nhanh và ổn định hơn hẳn khu vực công nghiệp trong
nước. Bên cạnh đó, công nghiệp FDI còn tạo thêm hàng triệu việc làm, góp phần bổ sung
và hoàn thiện các mô hình quản lý và tổ chức mới phù hợp với cơ chế thị trường ở Việt
Nam. Cơ cấu kinh tế cũng chuyển dịch khá rõ rệt, điều đó được thể hiện ở sự giảm tỷ
trọng ở khu vực I và tăng tỷ trọng ở khu vực II và III.
- Về văn hóa – xã hội: Nhờ kinh tế đạt mức tăng trưởng cao và liên tục trong nhiều
năm liền nên đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của dân cư được cải thiện rõ rệt. Sự
nghiệp giáo dục đạt nhiều thành tựu. Tỷ lệ dân số từ 10 tuổi trở lên biết đọc đã tăng vọt,
năm 2000 Việt Nam đã hoàn thành chương trình mục tiêu chống mù chữ và phổ cập giáo
dục tiểu học. Giáo dục trung học chuyên nghiệp và đại học có bước mở rộng nhanh về
quy mô đào tạo. Tính tại thời điểm 31 tháng 12 năm 2019, cả nước có gần 2,7 triệu học
sinh trung học phổ thông chuyên nghiệp, và cả nước có 237 trường đại học và cao đẳng
theo số liệu năm 2018. Về sự nghiệp y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân cũng được quan
tâm và phát triển. Hệ thống y tế đã được phát triển từ tuyến cơ sở tới trung ương với
nhiều loại hình dịch vụ y tế đã tạo điều kiện cho người dân được lựa chọn các dịch vụ y
tế phù hợp. Theo số liệu cập nhật thì tuổi thọ trung bình của người Việt Nam năm 2020 là
73,7 – một con số khá cao so với khu vực và thế giới. Cùng với thành tựu trong tăng
trưởng kinh tế, Việt Nam đã đạt được những kết quả xuất sắc trong xóa đói giảm nghèo.
Theo Tổng cục Thống kê, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm nhanh, từ 14,2% năm 2010 xuống
còn 7% năm 2015 (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011 - 2015) và giảm từ 9,2% năm 2016
xuống dưới 3% vào năm 2020 (theo chuẩn nghèo đa chiều).
- Về chính trị - quân sự: Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc được củng
cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị
thế Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc
gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt
đẹp. Mặc dù Việt Nam đã đạt được rất nhiều những thành tựu đáng tự hào trên hành trình
đổi mới, nhưng để có thể đi xa và phát triển hơn nữa thì cần phải nắm bắt được những cơ
hội và chấp nhận những thách thức cần phải vượt qua.
- Về những cơ hội cần phải nắm bắt: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cùng
với quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang là hai xu thế lớn, chi phối sâu sắc đến
tiến trình phát triển của nhân loại. Những đột phá công nghệ diễn ra nhanh chóng trong
nhiều lĩnh vực như: trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, cơ sở dữ liệu lớn, internet kết nối
vạn vật, công nghệ in 3 chiều, công nghệ nano, công nghệ sinh học, lưu trữ năng lượng,
… đem đến sự thay đổi vượt bậc cho chất lượng cuộc sống, việc làm và sản xuất, kinh
doanh. Sự đan xen của các quá trình hội nhập đưa thế giới đến một “cấu trúc ma trận” các
hiệp định tự do thương mại (FTA) trên nhiều tuyến và nhiều cấp độ, trong đó phải kể đến
các FTA thế hệ mới. - Về những khó khăn và thách thức cần phải vượt qua: Thế giới đang
trải qua một thời kỳ có nhiều biến động nhanh chóng, phức tạp và khó lường. Các nước
lớn điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh kiềm chế lẫn
nhau quyết liệt, giành vị thế và lợi ích gây ra tình hình phức tạp tài nhiều khu vực và
nhiều nước. Những vấn đề toàn cầu và an ninh phi truyền thống như: an ninh lương thực,
an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh tài chính, an ninh mạng, biến đổi khí
hậu, thiên tai, dịch bệnh,… đang diễn biến nghiêm trọng. Đặc biệt trong hơn một năm
qua, thế giới đang bị dịch bệnh Covid tàn phá rất nặng nề cả về con người, kinh tế, xã hội
và Việt Nam cũng là một quốc gia hứng chịu không ít những khó khăn do dịch bệnh này
gây ra. Bên cạnh đó Việt Nam còn phải đối mặt với sự thiếu hụt tài nguyên thiên nhiên và
ô nhiễm môi trường đang ngày càng gia tăng nghiêm trọng.
3. Trách nhiệm của công dân Việt Nam để duy trì nền độc lập, tự do, hạnh phúc dân tộc.
Mỗi chúng ta khi sinh ra được sống trong nền hòa bình đã là một sự may mắn,
chính vì vậy mỗi công dân cần phải cống hiến nhiều hơn để phát triển nước nhà, giữ vững
nền độc lập, tự do, hạnh phúc của dân tộc. Trước hết, là một công dân, mà nòng cốt là thế
hệ trẻ, cần không ngừng nỗ lực và rèn luyện để dựng xây Tổ quốc. Thế hệ trẻ là mầm non
tương lai của đất nước, là những người đóng vai trò quan trọng trong việc đưa đất nước
phát triển sau này, vậy nên việc học tập tốt và tu dưỡng đạo đức, tác phong là một điều vô
cùng cần thiết. Bên cạnh đó, là một công dân, cần biết yêu thương, sẻ chia với những
người xung quanh. Một đất nước, một xã hội chỉ thực sự phát triển và hạnh phúc khi
những hạt nhân trong xã hội biết yêu thương, đoàn kết, gắn bó với nhau vượt qua bất kỳ
khó khăn, thử thách nào. Giống như khi xưa, thế hệ ông cha ta đã không tiếc thân mình,
đổ mồ hôi và xương máu để đem lại nền độc lập, tự do và hạnh phúc cho dân tộc như
ngày hôm nay. Ngoài ra, là một công dân, con người ta cần biết tự hào và phát huy truyền
thống của dân tộc. Hãy tự hào về những giá trị văn hóa, tinh thần của đất nước và phát
huy, giữ gìn cũng như phát triển chúng, mang những nét cổ truyền ấy đi xa hơn trên thế
giới này, để bạn bè khắp năm châu đều biết đến Việt Nam. C) KẾT THÚC
Luận điểm “Nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì
độc lập cũng không có nghĩa lý gì” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một luận điểm vô cùng
chính xác và nó có giá trị tới tận bây giờ và mãi về sau. Độc lập đi liền với tự do. Độc lập
dân tộc đi liền với tự do của người dân. Tự do là một tài sản quý giá và vĩnh hằng của con
người, có thể coi đó cũng là một quyền tự nhiên của con người. Chính trong tuyên ngôn
độc lập của mình, Người đã tiếp thu tư tưởng của các nhà lập quốc Hoa Kỳ để từ những
quyền cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do suy rộng ra quyền của một dân tộc.
Có lẽ Người đã mở rộng tư tưởng bác ái thành hạnh phúc. Bác ái là tình thương, lòng yêu
mến con người rộng khắp, bao trùm. Hạnh phúc là tình thương được cụ thể hóa thành “ai
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Hạnh phúc là tình thương cho mọi
người được chan hòa bình đẳng trong một cộng đồng ấm no, hòa bình. Hạnh phúc là khi
con người được thỏa mãn những nhu cầu và yêu cầu chính đáng của mình. Hạnh phúc là
khi người dân được sống đầy đủ các quyền công dân của mình trong một đất nước độc
lập, dưới một nhà nước bảo đảm cho họ quyền tự do dân chủ, nhất là tự do tư tưởng.
Trong thời đại ngày nay với biết bao nhiêu khó khăn và thử thách thì độc lập càng đòi hỏi
được bảo vệ và củng cố, tự do càng được yêu cầu đảm bảo và hạnh phúc càng được khát khao đạt tới.