Bài tập lớn - Tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

Trường:

Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu

Thông tin:
11 trang 12 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Bài tập lớn - Tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

118 59 lượt tải Tải xuống
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN, CHẤT LƯỢNG CAO VÀ POHE
====000====
BÀI TẬP LỚN
MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề bài: Phân tích Luận điểm Hồ Chí Minh “Nước độc lập mà người
dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa là gì. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với việt nam hiện nay”
Sinh viên : Đồng Anh Thơ
Mã sinh viên : 11207206
Lớp : Kinh tế đầu tư CLC 62
Hà Nội - 10/2021
MỤC LỤC:
A. PHẦN MỞ ĐẦU
B. PHẦN NỘI DUNG
I. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa
III. Ý nghĩa của quan điểm độc lập dân tộc với sự nghiệp đổi mới của Việt
Nam hiện nay
C. PHẦN KẾT LUẬN
A. MỞ ĐẦU
Đất nước Việt Nam ta đã trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước vĩ
đại. Đây một quá trình, một giai đoạn lịch sử đấu tranh đầy gian khổ, khó khăn
rất khốc liệt sự hy sinh xương máu của những người đi trước song với đó
chính sự vẻ vang, chiến thắng của dân tộc Việt Nam. Như chúng ta đã biết Việt
Nam là một đất nước nửa thuộc địa phong kiến trở thành một nước độc lập. Và vấn
đề dân tộc luôn vấn đề nổi bật, chi phối sự phát triển lịch Việt Nam, lịch sử đấu
tranh giành độc lập dân tộc, sự khát vọng lớn nhất của nhân dân ta đó chính là độc
lập tự do xuyên suốt trong quá trình tư tưởng của Hồ Chí Minh. “Muốn hạnh phúc
phải đấu tranh, xây dựng, kiến tạo". Điều đó đúng với nhân dân ta lịch sử quốc gia
dân tộc Việt Nam từ khi ra đời tới nay là lịch sử dựng nước và giữ nước gắn bó với
nhau. Trong quá trình hình thành phát triển, truyền thống đó ảnh hưởng sâu
sắc đến hệ tư tưởng và các thành quả tinh thần và vật chất của nhân dân ta. Và cách
mạng vô sản chính là cùng với sự ra đời của Đảng cộng sản“Ánh sáng của Đảng”
Việt Nam lãnh đạo dẫn đến sự thành công của Cách mạng Tháng Tám ra đời đất
nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà: Độc lập - Tự do - Hạnh phúc.
một sinh viên được học tập rèn luyện dưới ngôi trường Trường Đại
Học Kinh tế Quốc Dân năng động, sáng tạo, đặc biệt dưới sự dẫn dắt của thầy
Nguyễn Hồng Sơn đã truyền đạt cho em những kiến thức, cảm hứng về bộ môn
tưởng Hồ Chí Minh. Bởi vậy, xuất phát từ lòng yêu nước những nghiên cứu
sẵn cùng với lòng ham học hỏi, tìm hiểu về nội dung này, để tìm hiểu sâu hơn về
từng vấn đề, kiến thức nền tảng. Từ đó, luôn cảm thấy tự hào đã trở thành một
công dân Việt Nam. Nghiên cứu về đề tài, câu nói đầy giá trị được Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định: “Nước độc lập người dân không được hưởng hạnh
phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa là gì” trong Thư gửi Uỷ ban nhân dân
các kỳ, tỉnh, huyện và làng. Từ đó tìm ra các luận điểm đối với Việt Nam hiện nay.
Bài tiểu luận dưới đây sẽ làm sáng tỏ quan điểm trên qua các nội dung dưới đây.
B. PHẦN NỘI DUNG
Như chúng ta đã biết, vấn đề dân tộc vấn đề hết sức nóng trên toàn thế
giới nói chung Việt Nam nói riêng. Nếu trên thế giới các vấn đề bản về
dân tộc quyết định chi phối chiến tranh xung đột, nguyên nhân cho mọi cuộc chiến
lớn nhỏ thì Việt Nam cũng không phải là một nước ngoại lệ. Vấn đề dân tộc ở nước
ta luôn nổi bật chi phối mọi sự phát triển lịch sử Việt Nam, lịch sử đấu tranh
giành độc lập dân tộc, sự khát vọng lớn nhất là độc lập tự do. Trong suốt hàng ngàn
năm qua nước ta gắn liền với chống giặc ngoại xâm kiên cường, bất khuất, ý chí
quyết tâm giành độc lập. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Nước Việt Nam
quyền hưởng tự do độc lập, sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn
thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải
để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Điều đó thể hiện qua các nội dung bản
của tưởng Hồ Chí Minh về chân độc lập dân tộc gắn liền với sự tự do, hạnh
phúc.
I. NỘI DUNG BẢN CỦA TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC
LẬP DÂN TỘC
Độc lập, tự do quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các
dân tộc:
Độc lập quyền bất khả xâm phạm của một đất nước, một quốc gia, một
dân tộc bởi chính người dân sinh sống ở đó, nghĩa làchủ quyền tối cao. Một
khát khao to lớn của dân tộc ta là, luôn mong muốn được một nền độc lập cho
dân tộc, tự do cho nhân dân và đó cũng là một giá trị tinh thần thiêng liêng, bất hủ
của dân tộc. Với quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin “Vấn đề giai cấp quyết định
vấn đề dân tộc”. Nó là sự tiền đềlựa chọn đúng đắn phù hợp tình thế Châu Âu.
Còn đối với quan niệm Hồ Chí Minh, đó nội dung nổi bật, xuyên suốt trong
tưởng của người độc lập dân tộc. Toàn bộ lịch sử Việt Nam quá trình đấu
tranh, khẳng định quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm là quyền của tạo hoá. Lịch
sử Việt Nam đã phải trải qua hàng ngàn năm để khẳng định chân đó chống
phong kiến, nhân dân ta phải chịu sự áp bức, bần cùng hoá, sống trong chiến tranh.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 9 năm cuộc kháng chiến chống thực
dân Mỹ 21 năm bằng hy sinh xương máu, khát vọng dân tộc. Điểm nổi bật chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam cùng các nhà tưởng lớn, các tiếng nói non sông đất
nước thể hiện qua tác phẩm Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi) , Hịch tướng sĩ (..).
"Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”
Tiếng vọng non sông, tiếng nói dân tộc, sự khẳng định lịch sử hàng trăm năm của
ta. Tiếp nối đó chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định, nâng cao thời đại mới
thể hiện quyền thiêng nhiên, ý chí tự do qua các hoạt động:
Trước tình trạng “Ngàn cân treo sợi tóc" của con đường giải phóng dân tộc
Việt Nam. Rơi vào tình trạng khủng hoảng về đường lối chính trị. Bởi vậy, với
lòng yêu nước sâu sắc ngày 5/6/1911 Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm
đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đảng hội Pháp, người thay mặt
Hội những người An Nam yêu nước Pháp gửi tới Hội nghị bản Yêu sách của
nhân dân An Nam.
Giữa tháng 7-1920, Người đọc bản thảo lần thứ nhất những luận cương
về vấn đề dân tộc vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin. Những luận điểm của
V.I.Lênin về vấn đề dân tộc thuộc địa đã giải đáp những vấn đề bản chỉ
dẫn hướng phát triển của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. luận của
V.I.Lênin lập trường đúng đắn của Quốc tế Cộng sản về cách mạng giải phóng
các dân tộc thuộc địa là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc xác định thái độ ủng hộ việc gia
nhập Quốc tế Cộng sản tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp (12-1920)
tại thành phố Tua (Tour). Tại Đại hội này, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành
Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do V.I.Lênin thành lập). Với sự nỗ lực cố gắng
truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào yêu nước Việt Nam của Nguyễn Ái
Quốc những hoạt động tích cực của các cấp bộ trong tổ chức Hội Việt Nam
Cách mạng thanh niên trên cả nước đã tác dụng thúc đẩy phong trào yêu nước
Việt Nam theo khuynh hướng cách mạng sản, nâng cao ý thức giác ngộ lập
trường cách mạng của giai cấp công nhân.
Ngày 3/2/1930: Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời. Soi sáng cho con đường
giải phóng dân tộc, lãnh đạo nhân dân Việt Nam. Trong Chánh cương vắn tắt của
Đảng năm 1930: Hồ Chí Minh cũng đã xác định mục tiêu chính tr của Đảng là:
“Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được
hoàn toàn độc lập”
Trong Tuyên ngôn Độc lập Nước Việt Namquyền hưởng tự do và 1945:
độc lập, sự thực đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân Việt Nam
quyết đem tất cả tinh thần lực lượng, tính mạng của cải để giữ vững quyền
tự do và độc lập ấy”.
Trong thư gửi Liên hợp quốc năm 1946: Nhân dân chúng tôi thành thật
mong muốn hoà bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến
cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc
độc lập cho đất nước”.
Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19-12-1946: “Không! Chúng
ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu
làm nô lệ”. Không có gì quý hơn độc lập, tự doNăm 1965: “ ”.
Trong xuyên suốt quá trình hoạt động của người, ta thể thấy ràng về
mặt tư tưởng độc lập là linh hồn của một quốc gia. Không ai có quyền bất khả xâm
phạm như lời thơ hùng hậu của bản Tuyên Ngôn độc lập đầu tiên “Nam quốc sơn
hà" của Lý Thường Kiệt:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên phận định tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
Như vậy, với tầm vóc của một bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên, "Nam quốc sơn
hà" vừa khẳng định chủ quyền lãnh thổ vừa thể hiện niềm tin tất thắng dựa vào
chân lý và chính nghĩa. Đó cũng chính là sự thăng hoa của tâm hồn dân tộc được
hun đúc nên từ lịch sử của những cuộc chiến đấu chống xâm lăng. Bởi vậy, độc
lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc và “Nước
Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập, và sự thật trở thành một nước tự do và
độc lập”
Độc lập dân tộc phải gắn liền tự do, cơm no, áo ấm hạnh phúc của
nhân dân:
Với lòng quyết tâm, khao khát cả đời của chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tôi chỉ
muốn một ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học
hành". Tiếp thu từ tưởng của Tôn Trung Sơn người đánh giá cao “Chủ nghĩa
tam dân” của Tôn Trung Sơn phù hợp với nước ta, tam dân bao gồm chủ nghĩa dân
tộc, chủ nghĩa dân quyền và chủ nghĩa dân sinh và chính là lý tưởng nhiệm vụ cách
mạng.
Độc lập - tự do - hạnh phúc" tiêu ngữ xuyên suốt giành được độc lập,
xây dựng cuộc sống cho nhân dân. Ta phải hiểu được 2 chữ “độc lập” ấm no, mặc
đủ, quyền tự chủ, tự quyết, đảm bảo cuộc sống nhân dân. Như thế đất nước ta mới
thể tự do xây dựng hội mới với mục tiêu, triết phù hợp , nhân đạo
hiện thực, xu hướng phát triển cho đất nước. vậy, độc lập dân tộc phải gắn với
tự do của nhân dân. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn liền với
thống nhất, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, độc lập dân tộc bao giờ
cũng gắn với tự do, dân chủ, ấm no hạnh phúc của nhân dân lao động.
Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để:
“Giành chính quyền đã khó giữ chính quyền còn khó hơn”. Năm 1945, khi
Cách mạng tháng Tám thành công rất nhiều kẻ thù trong giặc ngoài muốn chèo
lái chính quuyền của ta lung lay sự ổn định phát triển. Bởi vậy, độc lập dân tộc
phải là độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để trên tất cả các lĩnh vực như ngoại giao,
quân đội, tài chính để thể hiện chủ thể bình đẳng, không áp đặt, phân biệt. Luôn
phải đảm bảo quyền tối cao đối nội đối ngoại, chiến lược phát triển đất nước,
phản ánh ý chí dân tộc. Năm1930, Đảng cộng sản Việt Nam tôn trọng quyền tự
quyết mỗi dân tộc “ Độc lập mà người dân không có quyền tự quyết về ngoại giao,
không quân đội riêng, không nền tài chính riêng thì độc lập chẳng ý
nghĩa gì”. Đó chính là quyền tự quyết.
Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ:
Đó chính chân lý, quy luật tồn lại không kẻ thù nào thể chia sẽ
được dân tộc ta. Nhiệm vụ của chúng ta đó chính là thống nhất nước nhà. Khi Pháp
chia thành 3 miền bắc kỳ, trung kỳ, nam kỳ, thực hiện chế độ cai trị riêng, lên án
thực dân pháp ngăn cản thống nhất nước nhà, dễ bề cai trị “chia để trị".
Thư gửi đồng bào Nam Bộ tháng 7/ 1946: “Đồng bào Nam Bộ dân nước
Việt Nam. Sông thể cạn, núi thể mòn, song chân đó không bao giờ thay
đổi”. Hồ Chí Minh cũng khẳng định “Đồng bào Nam Bộ dân nước Việt Nam,
chúng tôi nguồn cội, dòng giống tổ tiên, không do đồng bào Nam Bộ
không xác nhập Việt Nam” miền Nam bộ phận nước Việt Nam không aiquyền
và có thể chia rẽ. Xoá bỏ vĩ tuyến 17 dưới kìm kẹp, đô hộ tàn bạo của Mỹ thì miền
Nam chống giặc, miền Bắc “Hậu phương vững chắc, phát triển chủ nghĩa
hội". Năm 1958: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”. Trong di chúc
nguyện vọng cuối cùng của Người đã viết: “Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất.
Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”. Đó chính sự thể hiện niềm
tin sắt son hoà bình độc lập cùng với thống nhất non sông. Nam Bắc một nhà thì
nhân dân mới được hưởng hạnh phúc trọn vẹn!
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỘC LẬP
DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Độc lập dân tộc sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa hội: Theo Hồ Chí
Minh, độc lập dân tộc bao gồm cả nội dung dân tộc dân chủ, độc lập phải gắn
liền với thống nhất, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, hơn nữa độc lập dân tộc
cũng phải gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm, hạnh phúc cho nhân dân. Khi đề cao
mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh không coi đó mục tiêu cuối cùng của
cách mạng, mà là tiền đề cho một cuộc cách mạng tiếp theo - cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Độc lập dân tộc vì vậy không những là tiền đề mà còn là nguồn sức mạnh to
lớn cho cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa hội điều kiện để đảm bảo nền độc lập dân tộc vững chắc:
Xây dựng chủ nghĩa xã hộixây dựng tiềm lực, khả năng phát triển của đất nước
trên tất cả các lĩnh vực. Với một chế độ xã hội như trên, chủ nghĩa xã hội sẽ có khả
năng làm cho đất nước phát triển hoàn thiện, sẽ tạo nền tảng vững chắc để bảo vệ
nền độc lập dân tộc hơn thế nữa, sẽ là một tấm gương cho các quốc gia trên thế
giới, nhất các dân tộc đang phát triển đi theo con đường hội chủ nghĩa. Chủ
nghĩa xã hội hiện thực cũng sẽ góp phần hạn chế những cuộc chiến tranh phi nghĩa,
bảo vệ được nền hòa bình trên thế giới, độc lập dân tộc sẽ được giữ vững.
Tóm lại câu nói của chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa vô cùng to l
III. Ý NGHĨA CỦA QUAN ĐIỂM ĐỘC LẬP DÂN TẬP VỚI SỰ
NGHIỆP ĐỔI MỚI CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới của Việt Nam hiện nay:
Suốt cả cuộc đời của chủ tịch Hồ Chí Minh luôn mưu cầu cuộc sống tốt đẹp
cho mỗi người, quyền một cuộc sống ấm no, được học hành được phát triển.
Bác nói “Cái tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi
được độc lập”. Các quyền con người về chính trị, kinh tế, văn hóa hội được
chú trọng và hoàn thiện. Ở Người, quyền dân tộc và quyền con người là thống nhất
trong cả nhận thức hành động, trong quan điểm, đường lối, chính sách pháp
luật Người mong muốn thực hiện. Không độc lập chân chính, bền vững thì
không thể thực hiện được quyền con người thực hiện ngày càng tốt hơn các
quyền cơ bản, thiết thực của con người. Quán triệt tư tưởng của Người, những năm
qua, Đảng, Nhà nước nhân dân ta đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi
mới mục tiêu , quan“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
tâm chăm lo nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân, chú trọng phát huy nhân tố
con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Những nhiệm vụ trọng tâm đó là
sự thống nhất giữa quyền và lợi ích dân tộc với quyền, lợi ích và nghĩa vụ của con
người, của công dân, như tâm nguyện của Người.
Lênin khẳng định: “giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền càng khó
khăn phức tạp hơn nhiều”. Bởi vậy, sau nhiều năm cố gắng, phát triển đổi mới
qua các giai đoạn, Việt Nam đã đạt được rất nhiều thành tựu to lớn, toàn diện và có
ý nghĩa lịch sử, vươn tầm quốc tế, đảm bảo được nhu cầu về mọi mặt cho nhân
dân.
Trong những năm qua, hệ thống chính trị nước ta đã những đổi mới
đáng kể: Đảng đã được củng cố cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Vai trò lãnh đạo
của Đảng trong hội ngày càng tăng, Nhà nước tiếp tục được xây dựng hoàn
thiện theo hướng Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa, của dân, do dân
dân. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - hội từng bước đổi mới nội dung
phương thức hoạt động, đem lại hiệu quả thiết thực, quyền làm chủ của nhân
dân trên các lĩnh vực được phát huy.
Suốt cuộc đời đấu tranh sự nghiệp giải phóng dân tộc, độc lập, tự do
của nhân dân, Hồ Chí Minh đã giao thiệp với rất nhiều bạntrên thế giới. Phong
cách ứng xử tài tình của Người trong hoạt động đối ngoại đã góp phần không nhỏ
vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam cũng như phong trào đấu tranh cho nền hòa
bình chung của nhân loại. vậy, Việt Nam luôn quan tâm các vấn đề quốc tế. Là
một thành viên quốc tế chủ động, tích cực, sẵn sàng hợp tác, giúp đỡ làm bạn với
các dân tộc khác. Việt Nam sự nỗ lực khẳng định vị thế trong tổ chức Liên hợp
quốc vào ngày 20/9/1977, lễ thượng cờ Việt Nam được chính thức tổ chức tại trụ
sở Liên hợp quốc (LHQ), ghi dấu ấn Việt Nam trở thành thành viên thứ 149 của tổ
chức lớn nhất hành tinh này. Ngoài ra còn hội nhập quốc tế vớicách thành viên
của các tổ chức Cộng đồng Pháp ngữ (1970), Phong trào Không liên kết (1976),
ASEAN (1995), Diễn đàn Hợp tác Á-Âu (ASEM) (1996), Diễn đàn Hợp tác Kinh
tế khu vực châu Á- Thái Bình Dương (APEC) (1998), tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO) (2006)... Một loạt các thành tựu đánh giá sự thành công của Việt Nam
trên thương trường quốc tế. “Việt Nam một đất nước hoà bình không tiếng
súng, không bạo động ổn định về mặt chính trị nhất tôi từng sống” Trích lời
của một công dân nước ngoài đã nói.
Từ một đất nướcnền nông nghiệp lạc hậu đến nền kinh tế thị trường gắn
liền hội chủ nghĩa đã đem lại nhiều sự thành công lớn cho kinh tế Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo tài tình, khéo léo, nhận ra những sai lầm trong hệ thống nền kinh
tế bao cấp dựa vào Liên Xô. Sau Đại hội lần thứ 6 năm 1986, Đảng Cộng Sản Việt
Nam đã quyết định Đổi mới được xem như bước ngoặt quan trọng trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ đất nước. Vị thế của Việt Nam thay đổi đáng kể trên thế giới và
trong khu vực ASEAN. Năm 2019, Việt Nam đứng thứ 8 thế giới thứ 2 trong
khu vực ASEAN về tốc độ tăng trưởng GDP, một trong 30 nước mức tăng
trưởng xuất, nhập khẩu cao nền kinh tế quy xuất khẩu thứ 22 trên thế
giới. Việt Nam đã vượt trên các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á về thu hút
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, xếp hạng thứ 25 thế giới về hấp dẫn vốn FDI. Chỉ
số Năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) của Việt Nam năm 2019 tăng lên 10 bậc so
với năm trước, xếp thứ 67 trong số 141 quốc gia và vùng lãnh thổ; chỉ số HDI xếp
hạng 117 trong số 177 quốc gia, vùng lãnh thổ. Ở khía cạnh ngoại giao kinh tế, đến
nay đã có trên 70 nước công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường.
Thời kỳ COVID 19: Chính phủ liên tục hỗ trợ người dân gặp khó khăn,
chung tay cùng đồng bào đẩy lùi đại dịch. Tạo điều kiện kìm hãm dịch lan mạnh,
đảm bảo cho người dân tiêm chống dịch.
2. Liên hệ bản thân:
Chiến thắng trong các cuộc kháng chiến cứu quốc, tiếp đến hàn gắn vết
thương chiến tranh tìm chế, hình phát triển, đến nay Việt Nam đã đạt
được nhiều dấu ấn quan trọng trên hầu hết các lĩnh vực. Từ một quốc gia thuần
nông, đại đa số người dân sống nông thôn, trình độ phát triển thấp, Việt Nam đã
chuyển mình trở thành một quốc gia mức thu nhập trung bình trên thế giới.
Cùng với tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì, giúp cho nước
ta chủ động hơn trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế sự nỗ lực không ngừng
nghỉ.
Bác đã từng căn dặn: “Non sông Việt Nam trở nên tươi đẹp hay không,
dân tộc Việt Nam có được sánh vai các cường quốc năm châu hay không, chính là
nhờ một phần lớn công lao học tập của các cháu”. Tự hào một sinh viên
trường Đại học Kinh tế Quốc Dân nói riêng một thanh niên Việt Nam nói
chung chúng ta cần phải tích cực tham gia học tập nâng cao trình độ luận chính
trị, bồi đắp tưởng cách mạng trong sáng. Bối cảnh trong nước quốc tế đang
tác động lên tất cả các đối tượng Thanh niên, tác động một cách toàn diện lên
tưởng, tình cảm, lối sống, nhu cầu của từng Thanh niên. Do đó, Thanh niên phải
rèn luyện để lập trường tưởng vững vàng, có lòng yêu nước, niềm tin vào
sự lãnh đạo của Đảng sự nghiệp xây dựng Chủ Nghĩa Hội, sự thắng lợi tất
yếu của Chủ Nghĩa Cộng Sản Việt Nam, đạo đức trong sáng lối sống lành
mạnh, tích cực tham gia vào các cuộc đấu tranh bảo vệ Đảng, Nhà. Luôn tích cực
học tập tự học tập để nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, khoa học, kỹ
thuật và tay nghề. Trong thời kỳ phát triển kinh tế - hội trong nước hội nhập
quốc tế và tham gia xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững chắc. Xây dựng
môi trường xã hội lành mạnh và môi trường sinh thái trong lành, sạch đẹp. Mỗi bản
thân chúng ta là một cá thể sống trong một tập thể, việc xây dựng lên cuộc sống tốt
đẹp, lành mạnh của chính bản thân mình cũng là sự góp phần của việc xây dựng và
phát triển nước nhà. "Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ.
Tuổi trẻ mùa xuân của hội". Thanh niên chúng ta mùa xuân sức sống
muôn màu trường cửu của nhân gian, của đất nước anh hùng. Sinh thời Chủ Tịch
Hồ Chí Minh đã dành trọn niềm tin vào thế hệ trẻ trong sự nghiệp dựng nước
giữ nước của dân tộc, Người khẳng định: "Thanh niên người chủ tương lai
của nước nhà. Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn do thanh
niên". Vậy nên, Thanh niên chúng ta chính nguyên khí của quốc gia, vận
mệnh của dân tộc. Hãy yêu, bảo vệ Tổ Quốc như cách Tổ Quốc bảo vệ chúng ta.
C. PHẦN KẾT LUẬN
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người đã hiến dâng trọn đời mình để tranh đấu
giành lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nỗ lực phấn đấu, hy sinh vì những mục tiêu, giá trị cao cả của dân tộc và nhân
loại, trong đó đặc biệt là khát vọng độc lập, tự do, hạnh phúc. Trong trái tim mỗi
người dân Việt Nam yêu nước, Tổ quốc giản dị, thân thương là dải đất hình chữ S
là khoảng trời, vùng biển, đảo, biên giới thiêng liêng thấm đẫm máu xương của
tiền nhân, của các vị anh hùng dân tộc và các thế hệ cha anh. 76 năm đã trôi qua,
khẳng định ý chí sắt đá của dân tộc Việt Nam kiên quyết bảo vệ nền độc lập đó.
Tinh thần và khí phách dân tộc kết tinh trong “Lời thề giữ nước” mãi mãi là kim
chỉ nam cho các thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau thể hiện trong trách thiêng
liêng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kế thừa và phát huy tinh thần
và khí phách ấy. Đảng ta khẳng định: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển”. Đây cũng chính là vấn đề cốt lõi
để Đảng và nhân ta tiếp tục thực hiện khát vọng Việt Nam hùng cường. Bởi vậy
mới xứng đáng lời căn dặn của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại: “Nước độc lập mà
người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa
là gì.
| 1/11

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN, CHẤT LƯỢNG CAO VÀ POHE ====000==== BÀI TẬP LỚN
MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề bài: Phân tích Luận điểm Hồ Chí Minh “Nước độc lập mà người
dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa là gì. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với việt nam hiện nay”

Sinh viên : Đồng Anh Thơ
Mã sinh viên : 11207206
Lớp : Kinh tế đầu tư CLC 62 Hà Nội - 10/2021 MỤC LỤC: A. PHẦN MỞ ĐẦU B. PHẦN NỘI DUNG I.
Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc II.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã III.
Ý nghĩa của quan điểm độc lập dân tộc với sự nghiệp đổi mới của Việt Nam hiện nay C. PHẦN KẾT LUẬN A. MỞ ĐẦU
Đất nước Việt Nam ta đã trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước vĩ
đại. Đây là một quá trình, một giai đoạn lịch sử đấu tranh đầy gian khổ, khó khăn
rất khốc liệt và có sự hy sinh xương máu của những người đi trước song với đó
chính là sự vẻ vang, chiến thắng của dân tộc Việt Nam. Như chúng ta đã biết Việt
Nam là một đất nước nửa thuộc địa phong kiến trở thành một nước độc lập. Và vấn
đề dân tộc luôn là vấn đề nổi bật, chi phối sự phát triển lịch Việt Nam, lịch sử đấu
tranh giành độc lập dân tộc, sự khát vọng lớn nhất của nhân dân ta đó chính là độc
lập tự do xuyên suốt trong quá trình tư tưởng của Hồ Chí Minh. “Muốn hạnh phúc
phải đấu tranh, xây dựng, kiến tạo".
Điều đó đúng với nhân dân ta lịch sử quốc gia
dân tộc Việt Nam từ khi ra đời tới nay là lịch sử dựng nước và giữ nước gắn bó với
nhau. Trong quá trình hình thành và phát triển, truyền thống đó có ảnh hưởng sâu
sắc đến hệ tư tưởng và các thành quả tinh thần và vật chất của nhân dân ta. Và cách
mạng vô sản chính là “Ánh sáng của Đảng” cùng với sự ra đời của Đảng cộng sản
Việt Nam lãnh đạo dẫn đến sự thành công của Cách mạng Tháng Tám ra đời đất
nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà: Độc lập - Tự do - Hạnh phúc.
Là một sinh viên được học tập và rèn luyện dưới ngôi trường Trường Đại
Học Kinh tế Quốc Dân năng động, sáng tạo, đặc biệt dưới sự dẫn dắt của thầy
Nguyễn Hồng Sơn đã truyền đạt cho em những kiến thức, cảm hứng về bộ môn Tư
tưởng Hồ Chí Minh. Bởi vậy, xuất phát từ lòng yêu nước và những nghiên cứu có
sẵn cùng với lòng ham học hỏi, tìm hiểu về nội dung này, để tìm hiểu sâu hơn về
từng vấn đề, kiến thức nền tảng. Từ đó, luôn cảm thấy tự hào vì đã trở thành một
công dân Việt Nam. Nghiên cứu về đề tài, câu nói đầy giá trị được Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định: “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh
phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa là gì”
trong Thư gửi Uỷ ban nhân dân
các kỳ, tỉnh, huyện và làng. Từ đó tìm ra các luận điểm đối với Việt Nam hiện nay.
Bài tiểu luận dưới đây sẽ làm sáng tỏ quan điểm trên qua các nội dung dưới đây. B. PHẦN NỘI DUNG
Như chúng ta đã biết, vấn đề dân tộc là vấn đề hết sức nóng trên toàn thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Nếu trên thế giới có các vấn đề cơ bản về
dân tộc quyết định chi phối chiến tranh xung đột, nguyên nhân cho mọi cuộc chiến
lớn nhỏ thì Việt Nam cũng không phải là một nước ngoại lệ. Vấn đề dân tộc ở nước
ta luôn nổi bật và chi phối mọi sự phát triển lịch sử Việt Nam, lịch sử đấu tranh
giành độc lập dân tộc, sự khát vọng lớn nhất là độc lập tự do. Trong suốt hàng ngàn
năm qua nước ta gắn liền với chống giặc ngoại xâm kiên cường, bất khuất, ý chí
quyết tâm giành độc lập. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Nước Việt Nam có
quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn
thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải
để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Điều đó thể hiện qua các nội dung cơ bản
của tư tưởng Hồ Chí Minh về chân lý độc lập dân tộc gắn liền với sự tự do, hạnh phúc.
I. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc:
Độc lập là quyền bất khả xâm phạm của một đất nước, một quốc gia, một
dân tộc bởi chính người dân sinh sống ở đó, có nghĩa là có chủ quyền tối cao. Một
khát khao to lớn của dân tộc ta là, luôn mong muốn có được một nền độc lập cho
dân tộc, tự do cho nhân dân và đó cũng là một giá trị tinh thần thiêng liêng, bất hủ
của dân tộc. Với quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin “Vấn đề giai cấp quyết định
vấn đề dân tộc”.
Nó là sự tiền đề là lựa chọn đúng đắn phù hợp tình thế Châu Âu.
Còn đối với quan niệm Hồ Chí Minh, đó là nội dung nổi bật, xuyên suốt trong tư
tưởng của người là độc lập dân tộc. Toàn bộ lịch sử Việt Nam là quá trình đấu
tranh, khẳng định quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm là quyền của tạo hoá. Lịch
sử Việt Nam đã phải trải qua hàng ngàn năm để khẳng định chân lý đó chống
phong kiến, nhân dân ta phải chịu sự áp bức, bần cùng hoá, sống trong chiến tranh.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 9 năm và cuộc kháng chiến chống thực
dân Mỹ 21 năm bằng hy sinh xương máu, khát vọng dân tộc. Điểm nổi bật chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam cùng các nhà tư tưởng lớn, các tiếng nói non sông đất
nước thể hiện qua tác phẩm Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi) , Hịch tướng sĩ (..).
"Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”

Tiếng vọng non sông, tiếng nói dân tộc, sự khẳng định lịch sử hàng trăm năm của
ta. Tiếp nối đó chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định, nâng cao thời đại mới
thể hiện quyền thiêng nhiên, ý chí tự do qua các hoạt động:
Trước tình trạng “Ngàn cân treo sợi tóc" của con đường giải phóng dân tộc
Việt Nam. Rơi vào tình trạng khủng hoảng về đường lối chính trị. Bởi vậy, với
lòng yêu nước sâu sắc ngày 5/6/1911 Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm
đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đảng Xã hội Pháp, người thay mặt
Hội những người An Nam yêu nước ở Pháp gửi tới Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam.
Giữa tháng 7-1920, Người đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương
về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin. Những luận điểm của
V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã giải đáp những vấn đề cơ bản và chỉ
dẫn hướng phát triển của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Lý luận của
V.I.Lênin và lập trường đúng đắn của Quốc tế Cộng sản về cách mạng giải phóng
các dân tộc thuộc địa là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc xác định thái độ ủng hộ việc gia
nhập Quốc tế Cộng sản tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp (12-1920)
tại thành phố Tua (Tour). Tại Đại hội này, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành
Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do V.I.Lênin thành lập). Với sự nỗ lực cố gắng
truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào yêu nước Việt Nam của Nguyễn Ái
Quốc và những hoạt động tích cực của các cấp bộ trong tổ chức Hội Việt Nam
Cách mạng thanh niên trên cả nước đã có tác dụng thúc đẩy phong trào yêu nước
Việt Nam theo khuynh hướng cách mạng vô sản, nâng cao ý thức giác ngộ và lập
trường cách mạng của giai cấp công nhân.
Ngày 3/2/1930: Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời. Soi sáng cho con đường
giải phóng dân tộc, lãnh đạo nhân dân Việt Nam. Trong Chánh cương vắn tắt của
Đảng năm 1930: Hồ Chí Minh cũng đã xác định mục tiêu chính trị của Đảng là:
“Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được
hoàn toàn độc lập”

Trong Tuyên ngôn Độc lập 1945: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và
độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam
quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền
tự do và độc lập ấy”.

Trong thư gửi Liên hợp quốc năm 1946: “Nhân dân chúng tôi thành thật
mong muốn hoà bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến
cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và
độc lập cho đất nước”.

Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19-12-1946: “Không! Chúng
ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu
làm nô lệ”.
Năm 1965: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Trong xuyên suốt quá trình hoạt động của người, ta có thể thấy rõ ràng về
mặt tư tưởng độc lập là linh hồn của một quốc gia. Không ai có quyền bất khả xâm
phạm như lời thơ hùng hậu của bản Tuyên Ngôn độc lập đầu tiên “Nam quốc sơn
hà" của Lý Thường Kiệt:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên phận định tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
Như vậy, với tầm vóc của một bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên, "Nam quốc sơn
hà" vừa khẳng định chủ quyền lãnh thổ vừa thể hiện niềm tin tất thắng dựa vào
chân lý và chính nghĩa. Đó cũng chính là sự thăng hoa của tâm hồn dân tộc được
hun đúc nên từ lịch sử của những cuộc chiến đấu chống xâm lăng. Bởi vậy, độc
lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc và “Nước
Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập, và sự thật trở thành một nước tự do và độc lập”

Độc lập dân tộc phải gắn liền tự do, cơm no, áo ấm và hạnh phúc của nhân dân:
Với lòng quyết tâm, khao khát cả đời của chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tôi chỉ
muốn có một ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học
hành".
Tiếp thu từ tư tưởng của Tôn Trung Sơn người đánh giá cao “Chủ nghĩa
tam dân”
của Tôn Trung Sơn phù hợp với nước ta, tam dân bao gồm chủ nghĩa dân
tộc, chủ nghĩa dân quyền và chủ nghĩa dân sinh và chính là lý tưởng nhiệm vụ cách mạng.
“ Độc lập - tự do - hạnh phúc" là tiêu ngữ xuyên suốt giành được độc lập,
xây dựng cuộc sống cho nhân dân. Ta phải hiểu được 2 chữ “độc lập” ấm no, mặc
đủ, quyền tự chủ, tự quyết, đảm bảo cuộc sống nhân dân. Như thế đất nước ta mới
có thể tự do và xây dựng xã hội mới với mục tiêu, triết lý phù hợp , nhân đạo và
hiện thực, xu hướng phát triển cho đất nước. Vì vậy, độc lập dân tộc phải gắn với
tự do của nhân dân. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn liền với
thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, độc lập dân tộc bao giờ
cũng gắn với tự do, dân chủ, ấm no hạnh phúc của nhân dân lao động.
Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để:
“Giành chính quyền đã khó giữ chính quyền còn khó hơn”. Năm 1945, khi
Cách mạng tháng Tám thành công có rất nhiều kẻ thù trong giặc ngoài muốn chèo
lái chính quuyền của ta lung lay sự ổn định và phát triển. Bởi vậy, độc lập dân tộc
phải là độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để trên tất cả các lĩnh vực như ngoại giao,
quân đội, tài chính để thể hiện chủ thể bình đẳng, không áp đặt, phân biệt. Luôn
phải đảm bảo quyền tối cao đối nội và đối ngoại, chiến lược phát triển đất nước,
phản ánh ý chí dân tộc. Năm1930, Đảng cộng sản Việt Nam tôn trọng quyền tự
quyết mỗi dân tộc “ Độc lập mà người dân không có quyền tự quyết về ngoại giao,
không có quân đội riêng, không có nền tài chính riêng thì độc lập chẳng có ý
nghĩa gì”
. Đó chính là quyền tự quyết.
Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ:
Đó chính là chân lý, quy luật tồn lại mà không kẻ thù nào có thể chia sẽ
được dân tộc ta. Nhiệm vụ của chúng ta đó chính là thống nhất nước nhà. Khi Pháp
chia thành 3 miền bắc kỳ, trung kỳ, nam kỳ, thực hiện chế độ cai trị riêng, lên án
thực dân pháp ngăn cản thống nhất nước nhà, dễ bề cai trị “chia để trị".
Thư gửi đồng bào Nam Bộ tháng 7/ 1946: “Đồng bào Nam Bộ là dân nước
Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay
đổi”. Hồ Chí Minh cũng khẳng định “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam,
chúng tôi nguồn cội, dòng giống tổ tiên, không có lý do gì đồng bào Nam Bộ
không xác nhập Việt Nam” miền Nam bộ phận nước Việt Nam không ai có quyền
và có thể chia rẽ. Xoá bỏ vĩ tuyến 17 dưới kìm kẹp, đô hộ tàn bạo của Mỹ thì miền
Nam chống giặc, miền Bắc là “Hậu phương vững chắc, phát triển chủ nghĩa xã
hội". Năm 1958: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”. Trong di chúc
nguyện vọng cuối cùng của Người đã viết: “Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất.
Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”. Đó chính là sự thể hiện niềm
tin sắt son hoà bình độc lập cùng với thống nhất non sông. Nam Bắc một nhà thì
nhân dân mới được hưởng hạnh phúc trọn vẹn!
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỘC LẬP
DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Độc lập dân tộc là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội: Theo Hồ Chí
Minh, độc lập dân tộc bao gồm cả nội dung dân tộc và dân chủ, độc lập phải gắn
liền với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, và hơn nữa độc lập dân tộc
cũng phải gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm, hạnh phúc cho nhân dân. Khi đề cao
mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh không coi đó là mục tiêu cuối cùng của
cách mạng, mà là tiền đề cho một cuộc cách mạng tiếp theo - cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Độc lập dân tộc vì vậy không những là tiền đề mà còn là nguồn sức mạnh to
lớn cho cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội là điều kiện để đảm bảo nền độc lập dân tộc vững chắc:
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng tiềm lực, khả năng phát triển của đất nước
trên tất cả các lĩnh vực. Với một chế độ xã hội như trên, chủ nghĩa xã hội sẽ có khả
năng làm cho đất nước phát triển hoàn thiện, sẽ tạo nền tảng vững chắc để bảo vệ
nền độc lập dân tộc và hơn thế nữa, sẽ là một tấm gương cho các quốc gia trên thế
giới, nhất là các dân tộc đang phát triển đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Chủ
nghĩa xã hội hiện thực cũng sẽ góp phần hạn chế những cuộc chiến tranh phi nghĩa,
bảo vệ được nền hòa bình trên thế giới, độc lập dân tộc sẽ được giữ vững.
Tóm lại câu nói của chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa vô cùng to l
III. Ý NGHĨA CỦA QUAN ĐIỂM ĐỘC LẬP DÂN TẬP VỚI SỰ
NGHIỆP ĐỔI MỚI CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới của Việt Nam hiện nay:
Suốt cả cuộc đời của chủ tịch Hồ Chí Minh luôn mưu cầu cuộc sống tốt đẹp
cho mỗi người, quyền có một cuộc sống ấm no, được học hành được phát triển.
Bác nói “Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi
được độc lập”
. Các quyền con người về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội được
chú trọng và hoàn thiện. Ở Người, quyền dân tộc và quyền con người là thống nhất
trong cả nhận thức và hành động, trong quan điểm, đường lối, chính sách và pháp
luật mà Người mong muốn thực hiện. Không có độc lập chân chính, bền vững thì
không thể thực hiện được quyền con người và thực hiện ngày càng tốt hơn các
quyền cơ bản, thiết thực của con người. Quán triệt tư tưởng của Người, những năm
qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi
mới vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, quan
tâm chăm lo nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân, chú trọng phát huy nhân tố
con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Những nhiệm vụ trọng tâm đó là
sự thống nhất giữa quyền và lợi ích dân tộc với quyền, lợi ích và nghĩa vụ của con
người, của công dân, như tâm nguyện của Người.
Lênin khẳng định: “giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền càng khó
khăn phức tạp hơn nhiều”. Bởi vậy, sau nhiều năm cố gắng, phát triển và đổi mới
qua các giai đoạn, Việt Nam đã đạt được rất nhiều thành tựu to lớn, toàn diện và có
ý nghĩa lịch sử, vươn tầm quốc tế, đảm bảo được nhu cầu về mọi mặt cho nhân dân.
Trong những năm qua, hệ thống chính trị ở nước ta đã có những đổi mới
đáng kể: Đảng đã được củng cố cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Vai trò lãnh đạo
của Đảng trong xã hội ngày càng tăng, Nhà nước tiếp tục được xây dựng và hoàn
thiện theo hướng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì
dân. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội từng bước đổi mới nội dung
và phương thức hoạt động, đem lại hiệu quả thiết thực, quyền làm chủ của nhân
dân trên các lĩnh vực được phát huy.
Suốt cuộc đời đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì độc lập, tự do
của nhân dân, Hồ Chí Minh đã giao thiệp với rất nhiều bạn bè trên thế giới. Phong
cách ứng xử tài tình của Người trong hoạt động đối ngoại đã góp phần không nhỏ
vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam cũng như phong trào đấu tranh cho nền hòa
bình chung của nhân loại. Vì vậy, Việt Nam luôn quan tâm các vấn đề quốc tế. Là
một thành viên quốc tế chủ động, tích cực, sẵn sàng hợp tác, giúp đỡ làm bạn với
các dân tộc khác. Việt Nam và sự nỗ lực khẳng định vị thế trong tổ chức Liên hợp
quốc vào ngày 20/9/1977, lễ thượng cờ Việt Nam được chính thức tổ chức tại trụ
sở Liên hợp quốc (LHQ), ghi dấu ấn Việt Nam trở thành thành viên thứ 149 của tổ
chức lớn nhất hành tinh này. Ngoài ra còn hội nhập quốc tế với tư cách thành viên
của các tổ chức Cộng đồng Pháp ngữ (1970), Phong trào Không liên kết (1976),
ASEAN (1995), Diễn đàn Hợp tác Á-Âu (ASEM) (1996), Diễn đàn Hợp tác Kinh
tế khu vực châu Á- Thái Bình Dương (APEC) (1998), tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO) (2006)... Một loạt các thành tựu đánh giá sự thành công của Việt Nam
trên thương trường quốc tế. “Việt Nam là một đất nước hoà bình không có tiếng
súng, không bạo động ổn định về mặt chính trị nhất mà tôi từng sống”
Trích lời
của một công dân nước ngoài đã nói.
Từ một đất nước có nền nông nghiệp lạc hậu đến nền kinh tế thị trường gắn
liền xã hội chủ nghĩa đã đem lại nhiều sự thành công lớn cho kinh tế Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo tài tình, khéo léo, nhận ra những sai lầm trong hệ thống nền kinh
tế bao cấp dựa vào Liên Xô. Sau Đại hội lần thứ 6 năm 1986, Đảng Cộng Sản Việt
Nam đã quyết định Đổi mới được xem như bước ngoặt quan trọng trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ đất nước. Vị thế của Việt Nam thay đổi đáng kể trên thế giới và
trong khu vực ASEAN. Năm 2019, Việt Nam đứng thứ 8 thế giới và thứ 2 trong
khu vực ASEAN về tốc độ tăng trưởng GDP, là một trong 30 nước có mức tăng
trưởng xuất, nhập khẩu cao và là nền kinh tế có quy mô xuất khẩu thứ 22 trên thế
giới. Việt Nam đã vượt trên các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á về thu hút
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, xếp hạng thứ 25 thế giới về hấp dẫn vốn FDI. Chỉ
số Năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) của Việt Nam năm 2019 tăng lên 10 bậc so
với năm trước, xếp thứ 67 trong số 141 quốc gia và vùng lãnh thổ; chỉ số HDI xếp
hạng 117 trong số 177 quốc gia, vùng lãnh thổ. Ở khía cạnh ngoại giao kinh tế, đến
nay đã có trên 70 nước công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường.
Thời kỳ COVID 19: Chính phủ liên tục hỗ trợ người dân gặp khó khăn,
chung tay cùng đồng bào đẩy lùi đại dịch. Tạo điều kiện kìm hãm dịch lan mạnh,
đảm bảo cho người dân tiêm chống dịch. 2. Liên hệ bản thân:
Chiến thắng trong các cuộc kháng chiến cứu quốc, tiếp đến là hàn gắn vết
thương chiến tranh và tìm cơ chế, mô hình phát triển, đến nay Việt Nam đã đạt
được nhiều dấu ấn quan trọng trên hầu hết các lĩnh vực. Từ một quốc gia thuần
nông, đại đa số người dân sống ở nông thôn, trình độ phát triển thấp, Việt Nam đã
chuyển mình trở thành một quốc gia có mức thu nhập trung bình trên thế giới.
Cùng với tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì, giúp cho nước
ta chủ động hơn trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế là sự nỗ lực không ngừng nghỉ.
Bác đã từng căn dặn: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không,
dân tộc Việt Nam có được sánh vai các cường quốc năm châu hay không, chính là
nhờ một phần lớn ở công lao học tập của các cháu”.
Tự hào là một sinh viên
trường Đại học Kinh tế Quốc Dân nói riêng và là một thanh niên Việt Nam nói
chung chúng ta cần phải tích cực tham gia học tập nâng cao trình độ lý luận chính
trị, bồi đắp lý tưởng cách mạng trong sáng. Bối cảnh trong nước và quốc tế đang
tác động lên tất cả các đối tượng Thanh niên, tác động một cách toàn diện lên tư
tưởng, tình cảm, lối sống, nhu cầu của từng Thanh niên. Do đó, Thanh niên phải
rèn luyện để có lập trường tư tưởng vững vàng, có lòng yêu nước, có niềm tin vào
sự lãnh đạo của Đảng và sự nghiệp xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội, sự thắng lợi tất
yếu của Chủ Nghĩa Cộng Sản ở Việt Nam, có đạo đức trong sáng và lối sống lành
mạnh, tích cực tham gia vào các cuộc đấu tranh bảo vệ Đảng, Nhà. Luôn tích cực
học tập và tự học tập để nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, khoa học, kỹ
thuật và tay nghề. Trong thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội trong nước và hội nhập
quốc tế và tham gia xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững chắc. Xây dựng
môi trường xã hội lành mạnh và môi trường sinh thái trong lành, sạch đẹp. Mỗi bản
thân chúng ta là một cá thể sống trong một tập thể, việc xây dựng lên cuộc sống tốt
đẹp, lành mạnh của chính bản thân mình cũng là sự góp phần của việc xây dựng và
phát triển nước nhà. "Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ.
Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội"
. Thanh niên chúng ta là mùa xuân là sức sống
muôn màu trường cửu của nhân gian, của đất nước anh hùng. Sinh thời Chủ Tịch
Hồ Chí Minh đã dành trọn niềm tin vào thế hệ trẻ trong sự nghiệp dựng nước
và giữ nước của dân tộc, Người khẳng định: "Thanh niên là người chủ tương lai
của nước nhà. Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do thanh
niên"
. Vậy nên, Thanh niên chúng ta chính là nguyên khí của quốc gia, là vận
mệnh của dân tộc. Hãy yêu, bảo vệ Tổ Quốc như cách Tổ Quốc bảo vệ chúng ta. C. PHẦN KẾT LUẬN
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người đã hiến dâng trọn đời mình để tranh đấu
giành lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nỗ lực phấn đấu, hy sinh vì những mục tiêu, giá trị cao cả của dân tộc và nhân
loại, trong đó đặc biệt là khát vọng độc lập, tự do, hạnh phúc. Trong trái tim mỗi
người dân Việt Nam yêu nước, Tổ quốc giản dị, thân thương là dải đất hình chữ S
là khoảng trời, vùng biển, đảo, biên giới thiêng liêng thấm đẫm máu xương của
tiền nhân, của các vị anh hùng dân tộc và các thế hệ cha anh. 76 năm đã trôi qua,
khẳng định ý chí sắt đá của dân tộc Việt Nam kiên quyết bảo vệ nền độc lập đó.
Tinh thần và khí phách dân tộc kết tinh trong “Lời thề giữ nước” mãi mãi là kim
chỉ nam cho các thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau thể hiện trong trách thiêng
liêng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kế thừa và phát huy tinh thần
và khí phách ấy. Đảng ta khẳng định: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển”. Đây cũng chính là vấn đề cốt lõi
để Đảng và nhân ta tiếp tục thực hiện khát vọng Việt Nam hùng cường. Bởi vậy
mới xứng đáng lời căn dặn của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại: “Nước độc lập mà
người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa là gì.