Bài tập lớn - Tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

Trường:

Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu

Thông tin:
26 trang 1 năm trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Bài tập lớn - Tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

132 66 lượt tải Tải xuống
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-- --
BÀI TẬP LỚN
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Đề bài: Chứng minh tính tất yếu độc lập dân tộc
gắn liền với CNXH trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Sinh viên thực hiện:
Mã sinh viên:
Lớp học phần: LLTT1101(221)_22
Giảng viên hướng dẫn: Lê Thị Hoa
HÀ NỘI _02/2022
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................................................................2
I, SỰ TIẾP CẬN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN
LIỀN..................................................................................................................................................... 3
VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI THEO QUAN ĐIỂM MÁC LÊNIN.........................................3
1.1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - Con đường tất yếu
của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới......................................3
1.2. Sự tiếp cận của Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội theo quan điểm Mác Lênin.................................4
1.3. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - nội dung cốt lõi
xuyên suốt toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh.........................................6
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI............................................................................................................................... 7
2.1. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với tiến lên chủ nghĩa xã hội....7
2.2. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội trong quá trình cách mạng Việt Nam.............................9
III. THỰC HIỆN ĐỘC LẬP DÂN TỘC Ở VIỆT NAM, TIẾN LÊN CON ĐƯỜNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA.......................................................................................................................... 10
3.1. Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội............................................................................10
3.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội trong sự nghiệp đổi mới........................................13
3.2.1. Quan điểm và các chính sách của Đảng về độc lập dân tộc gắn liền với
xã hội chủ nghĩa.................................................................................................................... 13
3.2.2. Gi v ng đ nh h ng xã h i ch nghĩa trong tếến trình đ i m i………………..…15 ướ
IV. KẾT LUẬN QUAN ĐIỂM CỦA BẢN THÂN VỀ VẤN ĐỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI................................................................................... 16
4.1.Tổng quát................................................................................16
4. 2. Liên hệ bản thân....................................................................17
4.3. Liên hệ thực tiễn.....................................................................18
KẾT LUẬN....................................................................................................................................... 20
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................................................21
1
LỜI MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh tụ thiên tài muôn vàn kính yêu của
nhân dân Việt Nam; Người anh hùng giải phóng dân tộc; Danh nhân văn
hóa thế giới; Người sáng lập , lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, nhà nước ta;
Người chiến cộng sản quốc tế lỗi lạc; Người làm rạng danh dân tộc ta,
nhân dân ta, non sông đất nước ta. Cuộc đời sự nghiệp của người
một bản anh hùng ca, một tấm gương sáng chói về chủ nghĩa yêu nước,
phẩm chất cộng sản, về trí tuệ uyên bác đạo đức cách mạng trong
sáng sự cổ lớn lao đối với các thế hệ Việt Nam. tưởng Hồ Chí
Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề
bản của cách mạng Việt Nam. Trong đó, tưởng Hồ Chí Minh về Đảng
cộng sản Việt Nam là một trong những quan điểm chỉ đạo xuyên suốt cho
sự ra đời, lãnh đạo và hoạt động của Đảng. Từ xưa đến nay, độc lập dân
tộc luôn mục tiêu được ưu tiên hàng đầu của tất cả các quốc gia trên
thế giới đặc biệt đối với các dân tộc nhỏ yếu. Đối với người dân mất
nước, cái quý nhất trên đời độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân.
Độc lập dân tộc vừa là một giá trị tinh thần vừa là một giá trị vật chất. Nền
độc lập của một dân tộc là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho dân tộc ấy có
hoà bình, ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế và văn hóa, thống nhất
về lãnh thổ chủ quyền quốc gia. phải được đo bằng những khả
năng điều kiện đảm bảo cho dân tộc thoát khỏi tình cảnh lệ, phụ
thuộc, bị áp bức, bóc lột và nô dịch; đảm bảo cho dân tộc đó vượt qua tình
trạng đói nghèo, lạc hậu tụt hậu so với các dân tộc khác trong thế giới
ngày nay, ngày càng vươn lên đỉnh cao của sự giàu có, văn minh, hiện đại,
công bằng và bình đẳng”. Từ khi mô hình XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp
đổ, những quan điểm phủ nhận mục tiêu độc lập dân tộc (ĐLDT) gắn liền
với CNXH xuất hiện càng nhiều. Họ đòi xét lại lịch sử, cho rằng Đảng ta
đưa đất nước tiến lên CNXH là vội vàng. Một số người còn cho rằng, không
thể đi theo con đường XHCN, đi theo con đường đó đưa dân tộc vào
chỗ chết. Họ “khuyên nên chọn con đường TBCN, quay lại con đường
phát triển TBCN,… Nhưng Nguyễn Ái Quốc lại không nghĩ như vậy đã
tìm thấy con đường duy nhất để cứu nước, giải phóng dân tộc, con
đường giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp; giai cấp vô sản
phải nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc, ĐLDT gắn liền với CNXH thì cách
mạng nước ta mới thành công. Người chỉ rõ: “Muốn cứu nước giải
phóng dân tộc, không có con đường nào khác là con đường cách mạng
sản Chính vì thế xuyên suốt hành trình tìm đường cứu nước của Chủ
tịch Hồ Chí Minh chính quan điểm: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa hội”. Sau sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày
3.2.1930, tưởng ĐLDT gắn liền với CNXH bắt đầu được thể hiện nét
vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể Việt Nam. Trên cơ sở tiếp thu và vận dụng
luận chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể Việt Nam, ngay trong
2
những văn kiện đầu tiên, Chủ tịch H Chí Minh Đảng ta đã xác định
“chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi
tới xã hội cộng sản”. Trong Tuyên ngôn độc lập công bố ngày 2.9.1945, Hồ
Chí Minh khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và
sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết
đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền
tự do, độc lập ấy”. Trong bài viết “Một số vấn đề luận thực tiễn về
chủ nghĩa hội con đường đi lên chủ nghĩa hội Việt Nam”, Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng có đặt vấn đề bài viết tập trung vào mấy câu hỏi
lớn, trong đó câu hỏi “Vì sao Việt Nam chọn con đường hội chủ
nghĩa”? “Có phải Việt Nam chọn con đường đi sai không?”. Và cũng để giải
đáp thắc mắc về những câu hỏi này em đã viết bài này để làm hơn
cũng như thêm phần hiểu biết hơn về con đường Việt Nam đang chọn:
“độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.
I, SỰ TIẾP CẬN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
GẮN LIỀN
VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI THEO QUAN ĐIỂM MÁC LÊNIN.
1.1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - Con đường tất
yếu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới.
Vào giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, độc lập
dân tộc bị xâm phạm, trong tình hình đó, triều đình nhà Nguyễn trong thì
sợ nhân dân, ngoài thì bạc nhược trước kẻ thù, lúc đầu có chống cự yếu ớt,
sau đã từng bước nhân nhượng cầu hoà, cuối cùng cam chịu đầu hàng
để giữ lấy ngai vàng lợi ích riêng của hoàng tộc. Năm 1883 1884,
triều đình nhà Nguyễn lần lượt ký các hàng ước với thực dân Pháp, nước ta
bị đặt dưới ách thống trị của chúng. Mặc dầu bị đặt vào tình thế phải
chống “cả triều lẫn Tây" nhưng nhân dân ta với tinh thần yêu nước nhiệt
thành chí căm thù giặc sôi sục đã dấy lên phong trào trang kháng
chiến chống Pháp rầm rộ lan rộng trong cả nước: từ Trương Định,
Nguyễn Trung Trực… miền Nam; Trần Tấn, Đặng Như Mai, Nguyễn Xuân
Ôn, Phan Đình Phùng... ở miền Trung đến Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa
Thám, Nguyễn Quang Bích… miền Bắc. Nhưng các cuộc khởi nghĩa này
đều bị thất bại chưa một đường lối kháng chiến đúng đắn; lãnh đạo
khởi nghĩa các sĩ phu văn thân với ý thức hệ phong kiến mang nặng
tưởng tôn quân.
Đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước chống thực dân Pháp của nhân
dân ta chuyển sang xu hướng dân chủ tư sản. Tiêu biểu cho xu hướng này
các phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân, Việt Nam
Quang phục hội... Các phong trào này chưa lôi cuốn được mọi tầng lớp
nhân dân, tư tưởng dân chủ tư sản chưa có cơ sở xã hội vững chắc. Do vậy
phong trào chỉ rộ lên được một thời gian ngắn rồi lần lượt bị đàn áp
thất bại. Khi phong trào chống sưu thuế Huế các tỉnh miền Trung,
trong đó có Hồ Chí Minh tham gia bị đàn áp (1908) cũng lúc các phong
3
trào yêu nước chống Pháp ở thời điểm cực kỳ khó khăn, bế tắc. Đứng trước
cuộc khủng hoảng con đường cứu nước, Hồ Chí Minh xác định: “Tôi muốn
đi ra nước ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm
như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”. Đầu tháng 6-1911, Hồ
Chí Minh xuống làm phụ bếp trên chiếc tàu Pháp mang tên Amiran Latusơ
Tơrêvin của hãng Năm Sao đang cập bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn). Ngày
5/6/1911, con tàu rời Sài Gòn đi Pháp, Hồ Chí Minh bắt đầu một cuộc hành
trình lịch sử - đi tìm con đường cứu nước, con đường giải phóng. Xuất phát
từ lòng yêu nước ra đi tìm đường cứu nước, trải qua gần 10 năm đầy gian
truân thử thách, Hồ Chí Minh đã đi khắp các châu lục khảo sát nhiều
nước thuộc địacác nước bản phát triển Mỹ, Anh, Pháp... Người nhận
rõ: chủ nghĩa đế quốc một hệ thống thế giới, chúng vừa tranh giành,
xâu xé thuộc địa, vừa vào hùa với nhau để dịch các dân tộc nhỏ yếu
trong hệ thống thuộc địa của chúng. Mỗi thuộc địa một mắt khâu của
chủ nghĩa đế quốc, do vậy cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của mỗi
nước chỉ tiến hành riêng rẽ thì không thể giành thắng lợi. Cuối năm 1917,
Hồ Chí Minh từ Anh về Pari, thủ đô nước Pháp, một trung tâm n hoá
khoa học cách mạng của châu Âu. Hồ Chí Minh hoạt động trong phong
trào công nhân Pari, đến với phái tả của cách mạng Pháp, gia nhập Đảng
hội Pháp, một chính đảng bênh vực các thuộc địa. Năm 1919, nhân
danh những người yêu nước Việt Nam, H Chí Minh gửi tới Hội nghị hoà
bình Vécxây bản Yêu sách của nhân dân An Nam đối các quyền tự do, dân
chủ tối thiểu cho Việt Nam. Yêu sách đó không được chấp nhận.
Người đã rút ra bài học “muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể
trông cậy vào bản thân mình”. Hồ Chí Minh nghiên cứu những cuộc cách
mạng xã hội lớn trên thế giới. Với cách mạng giải phóng dân tộc năm 1776
của Mỹ cách mạng nhân quyền dân quyền Pháp năm 1789, Người
rút ra kết luận: cách mạng Pháp cách mạng Mỹ cách mạng sản,
cách mạng không đến nơi, không giải phóng những người lao độnglại
đi áp bức các dân tộc khác. ch mạng Việt Nam không thể đi theo con
đường đó. Đầu tháng Mười năm 1917, cách mạng vô sản Nga thành công.
Tháng 3 năm 1919, Lênin sáng lập Quốc tế Cộng sản. Rồi nhà nước Xôviết
chiến thắng cuộc chiến tranh can thiệp của 14 nước đế quốc. Từ năm
1920 tiếng vang ảnh hưởng của cuộc Cách mạng tháng Mười lan rộng
ra châu Âu toàn thế giới. Nghiên cứu Cách mạng tháng Mười Nga năm
1917, Hồ Chí Minh nhận rõ: chỉ Cách mạng tháng Mười Nga mới thành
công đến nơi, mang lại tự do bình đẳng thật cho tất cả nhân dân lao động
giúp đỡ giải phóng các dân tộc thuộc địa. Hồ Chí Minh đi đến kết luận:
Cách mạng Việt Nam phải đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga -
con đường ch mạng sản. Tháng 7-1920, Người đọc thảo lần thứ
nhất những luận cương về vấn đề dân tộc vấn đề thuộc địa của Lênin
đăng trên báo L’Humanité. Luận cương của Lênin đã giúp Hồ Chí Minh tìm
ra “cái cẩm nang thần kỳ cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc” -
con đường giải phóng dân tộc theo quỹ đạo cách mạng vô sản. Con đường
đó được Hồ Chí Minh khẳng định ràng trong những văn kiện thông qua
4
tại Hội nghị hợp nhất ngày 3/2/1930 “làm tư sản dân quyền cách mệnh và
thổ địa cách mệnh để đi tới xã hội cộng sản”. Sự xác định trên đây của Hồ
Chí Minh một sáng tạo lớn về con đường cách mạng một nước thuộc
địa nửa phong kiến. Đó là con đường giải phóng dân tộc một cách triệt để,
con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó là kết quả tất
yếu quá trình tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh. Đây là sự lựa chọn duy
nhất đúng, phù hợp với đòi hỏi nguyện vọng của dân tộc, nhân dân
Việt Nam, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, mở ra từ Cách
mạng Tháng Mười Nga năm 1917.
1.2. Sự tiếp cận của Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội theo quan điểm Mác Lênin
Trong khi tìm đường cứu nước, ngoài việc nghiên cứu các cuộc cách
mạng trên thế giới, Chủ tịch HChí Minh quan tâm nhiều đến Cách mạng
Tháng Mười Nga năm 1917. Người khẳng định: Trên thế giới bây giờ chỉ
cách mạng Nga đã thành công thành công đến nơi đến chốn dân
chúng được hưởng tự do độc lập. Đến khi bản Yêu sách đòi các quyền
tự do, dân chủ tối thiểu cho Nhân dân An Nam được Hồ Chí Minh thay mặt
những người yêu nước Việt Nam gửi tới Hội nghị hòa bình Vécxây (1919)
không được các nước đế quốc chấp nhận. Sau việc này, Nguyễn Ái Quốc
càng nhận ra bộ mặt thật của giai cấp sản chủ nghĩa bản. Người
thấy rằng, không như những giai cấp tư sản thường rao giảng là “Tự
do - bình đẳng - bác ái” cho mọi người cho các dân tộc. Điều này đối
lập hoàn toàn với tưởng của Lênin. Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh rút ra
bài học “Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ thể trông cậy vào bản
thân mình”. Đồng thời “Muốn cứu nước giải phóng dân tộc, không
con đường nào khác con đường cách mạng sản”. Quyết tâm giành độc
lập cho dân tộc: Từ một người yêu nước khát vọng giải phóng dân tộc
đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu bản chất học
thuyết về hình thái kinh tế - xã hội, và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội khoa
học trên sở quan điểm duy vật lịch sử. Người đã thấy trong học thuyết
của chủ nghĩa Mác - Lênin con đường chân chính để giải phóng dân tộc.
Năm 1920, sau khi đọc tác phẩm “Những luận cương về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa” của Lênin, Người rút ra chân : Muốn cho nước nhà
được độc lập phải đi theo con đường cách mạng sản chỉ chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp
bức giai cấp công nhân toàn thế giới. Kể từ đây, người hoàn toàn tin
theo Lênin tin theo quốc tế thứ ba. Với tưởng biện chứng, Chủ tịch
Hồ Chí Minh xác định giữa cách mạng dân tộc dân chủ cách mạng
hội chủ nghĩa có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Giai đoạn trước làm tiền
đề cho giai đoạn sau. Giai đoạn sau kế tiếp củng cố, phát triển giai
đoạn trước. ởng độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa hội trở thành
cốt lõi, xuyên suốt trong quá trình hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
Thấm nhuần tư tưởng đó, năm 1930 trong văn kiện thông qua tại Hội nghị
thành lập Đảng, bản Chánh cương vắn tắt do Người soạn thảo ghi con
đường của cách mạng Việt Nam “làm sản dân quyền cách mạng
5
thổ địa cách mạng để đi tới hội cộng sản”. Con đường cách mạng này
trải qua hai giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ cách mạng hội
chủ nghĩa. Người xác định: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp bọn
phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”. Việc lựa chọn
con đường cách mạng sản cho Việt Nam còn xuất phát từ thực tế của
đất nước thời kỳ đó khi các phong trào yêu nước theo hệ tưởng phong
kiến, hệ tưởng sản đều không thành công. Đến như nhà yêu nước
Phan Bội Châu, người theo con đường nhờ nước Nhật đánh Pháp để cứu
lấy Tổ quốc đang bị người Pháp đô hộ phải thốt lên rằng: “Than ôi! Đời tôi
một trăm lần thất bại không một lần thành công!”. Chỉ đến khi Chủ
tịch Hồ Chí Minh đi theo con đường cách mạng sản, Cách mạng Tháng
Mười Nga vĩ đại năm 1917 thì nước ta mới giành được độc lập, dân ta mới
tự do, ấm no hạnh phúc. Khi thời giành độc lập cho Tổ quốc đã
đến, vào khoảng tháng 7 năm 1945, đang ốm nặng, Bác vẫn nói với
đồng chí Võ Nguyên Giáp rằng: “… dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả
dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”. Trong Bản
Tuyên ngôn độc lập được Bác thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa công bố trước quốc dân đồng bào năm 1945, cũng là lúc Người dự liệu
được tình hình đất nước sẽ khó khăn trong việc giữ gìn độc lập của Tổ
quốc trước dã tâm tái xâm lược của đế quốc Pháp cũng như của chủ nghĩa
đế quốc. Người đã tuyên bố với thế giới rằng: “Toàn thể dân tộc Việt Nam
quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững
quyền tự do, độc lập ấy”. Trong Lời kêu gọi gửi Liên hợp quốc (11/1946),
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt dân tộc Việt Nam thể hiện quyết tâm khi
khẳng định rằng: “Nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến
cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ
quốc và độc lập cho đất nước”. Đến tháng 12 năm 1946, trong Lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến, Hồ Chí Minh đã gửi đi thông điệp cho đế quốc
Pháp sẽ cùng toàn thể dân tộc Việt Nam bảo vệ độc lập chủ quyền đất
nước bằng ý chí sắt đá: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ không
chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Nối tiếp mạch tư duy về nền độc lập
cho dân tộc, ngày 17 tháng 7 năm 1966, chân đó tiếp tục được Người
khẳng định khi tuyên bố trong Lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước: “Không có
quý hơn độc lập tự do”. Độc lập dân tộc giá trị thiêng liêng, bất khả
xâm phạm đối với bất kỳ một quốc gia, dân tộc nào trên thế giới cũng như
của dân tộc Việt Nam. !” chân Không quý hơn độc lập tự do
của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đưa Việt Nam đi lên CNXH sau khi giành được độc lập cho dân tộc:
Chịu ảnh hưởng sâu sắc tưởng của V.I.Lênin về quyền tự quyết của các
dân tộcủng hộ các nước đi lên CNXH, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra quy
luật phát triển của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới: Độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa hội. Người chỉ rõ: con đườngch mạng của
Việt Nam tiến tới chủ nghĩa hội, quá độ bỏ qua chế độ bản chủ
nghĩa. sao Người lại chọn đi lên CNXH chứ không phải đi lên CNTB mặc
Người đã sống các nước TBCN phát triển như Anh, Pháp, Mỹ… trong
6
suốt phần lớn thời gian 30 năm đi tìm đường cứu nước? Điều này đã được
Người khẳng định rằng, đấu tranh giành độc lập để gắn với con đường
phát triển tư bản chủ nghĩa hoàn toàn không phải là con đường phát triển
của dân tộc Việt Nam. Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành
công, mặc đất nước ta tiếp tục cuộc kháng chiến chống đế quốc Pháp
nhưng toàn Đảng, toàn dân ta vẫn khẳng định đi lên chủ nghĩa hội
hợp quy luật, hợp lòng dân của cách mạng Việt Nam. Chính Hồ Chí Minh
từng khẳng định: Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của các dân
tộc không ai ngăn nổi. Sở dĩ Người chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
sau khi nước ta giành được độc lập như Người từng lý giải rằng: chủ nghĩa
hội sẽ giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bóc lột của chủ nghĩa
bản; khỏi áp bức, bóc lột, bất công, nghèo đói, lầm than trả lại cho họ
tính người vốn có, đầy đủ trong quá trình phát triển. Chính chủ nghĩa
hội niềm tin, ước mơ,tưởng cao đẹp của tất cả những người lao
động đang bị giai cấp sản áp bức, bóc lột trên toàn thế giới. đó, con
người sống với nhau thân ái, hòa bình, bình đẳng, cùng tiến bộ được
tôn trọng. Chỉ có chủ nghĩa hội mới điều kiện để con người thể hiện
“sự phát triển tự do của mỗi con người điều kiện tự do cho tất cả mọi
người”. Việc Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội không phải là sự áp đặt khiên cưỡng cội nguồn trong chiều sâu
văn hóa dân tộc. Bởi vì ở Việt Nam đã từng tồn thuyết xã hội đại đồng của
Nho giáo quan niệm “Thiên hạ vi công” (thiên hạ của chung). Về quan
hệ sở hữu, đất nước chúng ta đã tồn tại hàng nghìn năm chế độ công
điền, công thổ, chế độ tỉnh điền; nguyên tắc vần công, đổi công trong lao
động nông nghiệp... Đây là những cơ sở chính trị và kinh tế quan trọng để
Nguyễn Ái Quốc đưa ra tư tưởng độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội.
Người tin rằng điều đó sẽ thành công. Và thực tế Việt Nam đã chứng
minh quan điểm đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Như vậy, trên cơ sở
các nhân tố khách quan chủ quan, kinh tế chính trị, lịch sử hiện
tại để Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa hội. tưởng của Người còn sự thỏa mãn khát vọng của dân
tộc Việt Nam trong việc vươn lên những giá trị vĩnh hằng mà nhân loại ước
muốn như độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc! Cho đến nay, dù tình hình đất
nước quốc tế những đổi thay nhanh chóng, nhưng chân của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội vẫn giữ
nguyên giá trị. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tưởng của Người là nền
tảng, là kim chỉ nam tiếp tục soi đường chỉ lối cho cách mạng Việt Nam đi
đến bến bờ vinh quang. Toàn Đảng, toàn dân, ta đang nỗ lực cố gắng
quyết tâm thực hiện mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Điều mong
muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây
dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ giàu
mạnh”.
1.3. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội - nội dung cốt
lõi xuyên suốt toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh.
7
Sự nhất quán trong duy luận hoạt động thực tiễn của Hồ Chí
Minh đó độc lập dân lộc gắn liền với chủ nghĩa hội. Từ khi trở thành
người cộng sản cho đến khi trở thành lãnh tụ, nguyên thủ quốc gia, mối
quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh là gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa
xã hội phù hợp với từng thời kỳ của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh chỉ
các bài viết của Người chỉ một đề tài là: “chống thực dân đế quốc,
chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền độc lập dân tộc chủ nghĩa
hội”. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội thể hiện một cách tập
trung những luận điểm ng tạo lớn về luận của Hồ Chí Minh. Những
luận điểm đó giá trị lâu dài chỉ đạo đường lối cách mạng Việt Nam
đóng góp quan trọng vào việc phát triển luận về cách mạng sản.
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Trong khi giải quyết những vấn đề
của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển
chủ nghĩa Mác - Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận về
cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa hội các nước
thuộc địa phụ thuộc”. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội
sự phản ánh chính xác mục đích, tưởng, khát vọng ham muốn tột
bậc của danh nhân văn hoá Hồ Chí Minh: nước ta được hoàn toàn độc lập,
dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội phản
ánh tính triệt để cách mạng của tưởng Hồ Chí Minh. tưởng đó đặt
vấn đề giải phóng con người, hạnh phúc của con người mục tiêu cao
nhất của sự nghiệp cách mạng.
II. TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
2.1. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với tiến lên chủ nghĩa xã hội
Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là cơ sở tiền đề để tiến
lên chủ nghĩa hội: Theo Hồ Chí Minh, con đường cách mạng Việt Nam
hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cách mạng
hội chủ nghĩa. Trong cách mạng dân tộc dân chủ hai nhiệm vụ chiến
lược bản, trong đó giải phóng dân tộc nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ
dân chủ được rải ra thực hiện từng bước và phục tùng nhiệm vụ giải phóng
dân tộc. Vì thế, ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ thì độc lập dân tộc
mục tiêu trực tiếp, trước mắt, cấp bách. Kết luận này được Hồ Chí Minh
rút ra từ sự phân tích tình hình thực tế những mâu thuẫn khách quan
tồn tại của hội Việt Nam thuộc địa nửa phong kiến. Lịch sử phát triển
loài người chứng tỏ, độc lập dân tộc là khát vọng mang tính phổ biến.
Với dân tộc Việt Nam, đó còn là một giá trị thiêng liêng, được bảo vệ và
giữ gìn bởi máu xương, sức lực của biết bao thế hệ người Việt Nam. Với Hồ
Chí Minh, độc lập dân tộc bao hàm trong đó cả nội dung dân tộc dân
chủ. Đó nền độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, chứ không phải thứ
độc lập giả hiệu, độc lập nửa vời, độc lập hình thức. Trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ của đất nước, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn với tự do, dân
8
chủ, ấm no hạnh phúc của nhân dân lao động. Khi nhấn mạnh mục tiêu
độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh không bao giờ coi đó mục tiêu cuối cùng
của cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giành độc lập để đi
tới hội cộng sản; độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa hội.
Độc lập dân tộc mục tiêu cốt yếu, trực tiếp của cách mạng dân tộc dân
chủ, mục tiêu trước hết của quá trình cách mạng Việt Nam do Đảng
Cộng sản lãnh đạo, đồng thời điều kiện hàng đầu, quyết định để cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang giai đoạn kế tiếp - cách
mạng hội chủ nghĩa. Do vậy, cách mạng dân tộc dân chủ càng triệt để
thì những điều kiện tiến lên chủ nghĩa hội càng được tạo ra đầy đủ.
Tính chất tạo tiền đề của cách mạng dân tộc dân chủ được thể hiện:
- Về chính trị: xác địnhy dựng các yếu tố của hệ thống chính trị do
giai cấp công nhân lãnh đạo. - Về kinh tế: bước đầu xây dựng được các
sở kinh tế mang tính chất hội chủ nghĩa, từng bước cải thiện đời sống
nhân dân.
- : trong cách mạng dân tộc dânVề văn hoá, hội, đời sống tinh thần
chủ, khối quần chúng công - nông - trí thức và các giai tầng xã hội khác đã
ý thức giác ngộ, đoàn kết trong một mặt trận dân tộc thống nhất;
những nhân tố mới của văn hoá, giáo dục đã được hình thành dưới ánh
sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin tưởng Hồ Chí Minh. Tóm lại, độc lập
dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân lao động tự quyết định con
đường đi tới chủ nghĩa hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Theo
tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời đại mới chủ nghĩa xã hội là xu hướng phát
triển tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Điều này làm cho
con đường cứu nước giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh khác biệt về chất
với con đường cứu nước những năm đầu thế kỷ nước ta nhiều nhân
vật nổi tiếng trên thế giới. Cách mạng Việt Nam thuộc phạm trù cách
mạng sản. Điều đó quyết định vai trò lãnh đạo cách mạng tất yếu
thuộc về giai cấp công nhân đội tiên phong của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Lực lượng tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc toàn dân
Việt Nam yêu nước nòng cốt khối liên minh công - nông - trí thức.
Những nhân tố này lại quy định tính tất yếu dẫn đến phương hướng phát
triển lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng giải phóng dân tộc. Rõ ràng định
hướng đi lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
Việt Nam được chi phối chế định bởi các nhân tố bên trong của cuộc
cách mạng đó. Chủ nghĩa hội con đường củng cố vững chắc độc lập
dân tộc, giải phóng dân tộc một cách hoàn toàn triệt để:
Về luận, độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa hội thể hiện mối quan
hệ giữa mục tiêu trước mắt mục tiêu cuối cùng; mối quan hệ giữa hai
giai đoạn của một quá trình cách mạng. Lôgíc lịch sử khách quan cho thấy:
thực hiện mục tiêu trước mắt điều kiện tiên quyết để đi tới mục tiêu
cuối cùng và chỉ thực hiện được mục tiêu cuối cùng thì mục tiêu trước mắt
mới củng cố vững chắc một cách hoàn toàn, triệt để. Giữa hai giai đoạn
cách mạng không bức tường ngăn cách, cách mạng dân tộc dân chủ
9
xác lập sở, tiền đề cho cách mạng hội chủ nghĩa, cách mạng hội
chủ nghĩa khẳng định và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn liền với đời sống
ấm no, hạnh phúc của quần chúng nhân dân, những người đã trực tiếp
làm nên thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ. Để đảm bảo vững chắc
độc lập dân tộc, để không rơi vào lệ thuộc, đói nghèo lạc hậu, chặng
đường tiếp theo chỉ thể đi lên chủ nghĩa hội. Do những đặc trưng
nội tại của mình, chủ nghĩa hội sẽ củng cố những thành quả đã giành
được trong cách mạng dân tộc dân chủ, tạo điều kiện để bảo đảm cho độc
lập và phát triển dân tộc. Tư tưởng độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh mang
một nội dung sâu sắc, triệt để: độc lập tự do, ấm no, hạnh phúc. Chủ
nghĩa xã hội không chỉ củng cố những giá trị nêu trên, mà còn làm phong
phú thêm về mặt nội dung, xác lập các điều kiện để hiện thực hoá các nội
dung đó. Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản mới giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức khỏi ách lệ; chỉ
cách mạng hội chủ nghĩa mới bảo đảm cho một nền độc lập thật sự,
chân chính Chủ nghĩa hội theo tưởng Hồ Chí Minh một hội tốt
đẹp, xoá bỏ mọi áp bức, bóc lột; công bằng hợp - làm nhiều hưởng
nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng; bảo đảm phúc lợi cho
người già, trẻ mồ côi; một xã hội có nền sản xuất phát triển gắn liền với sự
phát triển khoa học - kỹ thuật và không ngừng nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân lao động. Đó một hội kỷ cương, đạo đức,
văn minh trong đó người với người là bạn bè, đồng chí, anh em, mọi người
được phát triển hết khả năng của mình; hòa bình hữu nghị, làm bạn với
các nước; một hội do nhân dân lao động làm chủ dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản.
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa hội chính xây dựng tiềm
lực phát triển của dân tộc trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội. Với các thiết chế đó và nền tảng tinh thần riêng có, chủ nghĩa
hội có khả năng vận động liên tục, tự bảo vệ vững chắc các thành quả
cách mạng của nhân dân. Trên phạm vi quốc tế, chủ nghĩa hội lớn
mạnh sẽ sức hấp dẫn thu hút các dân tộc, đặc biệt các dân tộc chậm
phát triển đi theo con đường chủ nghĩa xã hội; mặt khác chủ nghĩa hội
sẽ bệ đỡ của hoà bình thế giới, hạn chế ngăn chặn các cuộc chiến
tranh đế quốc, chiến tranh xâm lược, xoá bỏ tình trạng dân tộc này đi áp
bức dân tộc khác. Hồ Chí Minh chỉ rõ, chủ nghĩa hội càng phát triển,
càng đạt đến độ chín muồi thì các tiềm lực, nhất tiềm lực vật chất kỹ
thuật của dân tộc càng mạnh, đất nước càng có điều kiện củng cố độc lập
của mình, tăng cường khả năng phòng thủ. Không một chế độ hội
nào thể đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc bằng chủ nghĩa hội.
Trong toàn bộ cấu trúc nội tại của mình, chủ nghĩa hội thể hiện khả
năng tự bảo vệ và biết cách bảo vệ.
Hồ Chí Minh đã khẳng định, trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động
là người chủ duy nhất. Đó là sự khác biệt về chất giữa chủ nghĩa xã hội với
10
các chế độ hội trước đó. Chế độ dân chủ chế độ do nhân dân làm
chủ, dân chủ là vấn đề thuộc bản chất của nhà nước ta. Theo Hồ Chí Minh,
dân chủ xã hội chủ nghĩa phải được phát huy trên tất cả các lĩnh vực, phải
được thể chế hoá bằng pháp luật, được hoàn thiện, nâng cao trong quá
trình phát triển kinh tế, xã hội và nâng cao dân trí. Đây là điều kiện cơ bản
và quyết định vận mệnh của dân tộc, tạo ra sức đề kháng trên phạm vi xã
hội, loại trừ khả năng chống trả bất kỳ một hành động nào đe dọa
độc lập, tự do của dân tộc. Thực hiện được một xã hội như vậy thì độc lập
dân tộc mới thực sự vững chắc, sự nghiệp giải phóng dân tộc mới thắng lợi
một cách hoàn toàn và triệt để.
2.2. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội trong quá trình cách mạng Việt Nam.
Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một tất yếu lịch
sử. Nhưng để hiện thực hóa tính tất yếu này, theo Hồ Chí Minh cần phải có
những điều kiện bản sau đây Trước hết, Hồ Chí Minh khẳng định, xác
lập, tăng cường vai trò lãnh đạo sức chiến đấu của Đảng Cộng sản
điều kiện bản để độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội. Không
có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì cách mạng Việt Nam không thể vận
động theo cách mạng vô sản và chắc chắn sự nghiệp độc lập dân tộc sẽ đi
theo vết xe đổ của các phong trào cứu nước trước đó. Một khi Đảng Cộng
sản đánh mất vai trò lãnh đạo thì chế độ xã hội chủ nghĩa sẽ sụp đổ, cách
mạng bị phản bội hoàn toàn chệch hướng. Thực tiễn Liên các
nước Đông Âu, đầu những năm 90 của thế kỷ XX đã chứng tỏ điều đó. Hồ
Chí Minh chỉ ra rằng, với cách điều kiện bản bảo đảm để độc lập
dân tộc tiến lên chủ nghĩa hội, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
được thể hiện trên các mặt chủ yếu sau đây:
- Hoạch định cương lĩnh, đường lối, chủ trương để đưa sự nghiệp của
dân tộc phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Lãnh đạo hội, trước hết lãnh đạo nhà nước thực hiện thắng lợi
cương lĩnh độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩahội bằng cách thông
qua tổ chức và đội ngũ cán bộ, đảng viên của mình.
- Thông qua công tác kiểm tra, kể cả kiểm tra trong nội bộ Đảng và lãnh
đạo công tác kiểm tra trong các tổ chức của hệ thống chính trị để lãnh đạo
toàn dân giành độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt
Nam mang tính khách quan. Để hoàn thành sứ mệnh của mình, Đảng phải
trong sạch, vững mạnh thường xuyên chỉnh đốn để nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu, đủ trí tuệ, đủ bản lĩnh vượt qua những thử thách
gay gắt nhất, phải thực hiện xây dựng Đảng về mọi mặt: chính trị,
tưởng và tổ chức, trong đó công tác cán bộ bao giờ cũng là vấn đề cốt tử.
Xây dựng, củng cố tăng cường khối liên minh giai cấp công nhân,
nông dân trí thức làm nền tảng khối đại đoàn kết dân tộc. Quan niệm
11
của Hồ Chí Minh về lực lượng cách mạng Việt Nam trong quá trình thực
hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội là hết
sức sáng tạo. Người xác định: công - nông gốc, chủ lực của cách
mạng, các giai tầng, cá nhân yêu nước là bầu bạn của cách mạng. Khi đất
nước bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội Người đòi hỏi công nông trí thức
đoàn kết lại. Tất cả được tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Hồ
Chí Minh cho rằng trong cách mạng dân tộc dân chủ cũng như cách mạng
hội chủ nghĩa đều cần đến không thể thiếu được Mặt trận dân tộc
thống nhất. Mặt trận được xây dựng theo tưởng Hồ Chí Minh hạt
nhân cốt lõi liên minh công - nông trí thức để đoàn kết toàn dân
thành một khối. Hạt nhân và toàn dân là mối quan hệ biện chứng được Hồ
Chí Minh quan tâm đúng mức cả hai, không coi nhẹ hoặc thiên lệch bên
nào. Mặt trận đó được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh chỉ Việt Nam một bộ phận của thế giới, cách mạng
Việt Nam cách mạng thế giới liên hệ chặt chẽ với nhau. Suốt cuộc đời
hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn những chủ trương,
đường lối biện pháp phù hợp để tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các
lực lượng cách mạng, hoà bình dân chủ trên thế giới. Thắng lợi của cách
mạng Việt Nam Tháng Tám 1945, trong những năm chống Pháp, chống
Mỹ, trong thời kỳ hoà bình, xây dựng bảo vệ Tổ quốc đều không tách
rời sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế. Ba nhân tố nêu trên gắn chặt chẽ với
nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp quyết định mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Hồ Chí Minh kết luận: “Đó ba bài học lớn mỗi cán bộ
đảng viên ta cần ghi sâu vào lòng phát huy thêm mãi”. Như vậy, độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội một tất yếu khách quan. Tính
tất yếu đó chỉ được hiện thực hoá khi gắn liền với những điều kiện bảo
đảm, trong đó yếu tố quan trọng nhất là xác lập và tăng cường vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
III. THỰC HIỆN ĐỘC LẬP DÂN TỘC VIỆT NAM, TIẾN LÊN CON
ĐƯỜNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
3.1. Thực hiện tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
ra đời và phát triển ở thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
hội trên phạm vi thế giới. tưởng đó hình thành Hồ Chí Minh từ đầu
những năm 20 đến mùa xuân năm 1930 với sự kiện Hồ Chí Minh sáng
lập Đảng Cộng sản Việt Nam thì con đường cách mạng độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã thành ngọn cờ dẫn dắt giai cấp công nhân
toàn thể dân tộc Việt Nam liên tục giành những thắng lợi lịch sử suốt
hơn 70 năm qua. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội được thể hiện trên thực tế, có thể chia ra làm ba thời kỳ. Thời
kỳ 1930-1945: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, thông qua cương lĩnh vắn
tắt, sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo.
Trong đó, Đảng Đảng Cộng sản Việt Nam tuyên bố sẽ làm cách mạng
12
sản dân quyền và cách mạng ruộng đất, đấu tranh xây dựng một xã hội tự
do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ cập giáo dục. Đảng xác định mục tiêu
đánh đổ thực dân Pháp chế độ phong kiến, lấy ruộng đất chia cho dân
nghèo Dưới sự lãnh đạo của Đảng, 20 triệu nhân dân Việt Nam đã tiến
hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, đỉnh cao là cuộc tổng khởi nghĩa
Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, chấm dứt chế độ phong kiến kéo
dài ng nghìn năm, chấm dứt sự đô hộ của thực dân Pháp sau gần một
thế kỷ. Thắng lợi đại này của dân tộc Việt Nam đã đưa nước ta bước
sang một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Ở thời kỳ này tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
hội được thể hiện qua những hoạt động luận thực tế chủ yếu sau
đây của Hồ Chí Minh:
- Xác định tính chất cách mạng Việt Nam: giải phóng dân tộc bằng con
đường cách mạng sản, gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp,
nhân dân lao động, với toàn thể dân tộc bị nô lệ dưới ách đế quốc Pháp và
tay sai của chúng; xác định nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng Việt Nam
“làm sản dân quyền cách mạng thổ địa cách mạng để đi tới hội
cộng sản”. Con đường cách mạng Việt Nam được Hồ Chí Minh thể hiện
nét trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
- Xác định đối tượng đấu tranh của cách mạng Việt Nam là đế quốc xâm
lược, phong kiến tay sai, tầng lớp tư sản địa chủ chống lại độc lập dân
tộc.
- Xác định rõ lực lượng cách mạng Việt Nam toàn thể nhân dân, bao
gồm công nhân, nông dân, tầng lớp tiểu tư sản, tư sản dân tộc, trung, tiểu
địa chủ, các cá nhân yêu nước, trong đó nòng cốt là liên minh công - nông.
Lực lượng cách mạng hùng hậu này được tập hợp dưới ngọn cờ giải phóng
dân tộc do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
- Xác định đúng đắn cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam là một bộ
phận của cách mạng sản thế giới, mối quan hệ khăng khít với cách
mạng sản “chính quốc”, cách mạng giải phóng dân tộc tính chủ
động, thể giành thắng lợi trước cách mạng sản “chính quốc", tác
động tích cực tới cách mạng “chính quốc".
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Hồ Chí Minh, Cách mạng Tháng Tám
1945 đã giành thắng lợi. Đó thắng lợi lịch sử đầu tiên của tưởng Hồ
Chí Minh về con đường cách mạng giải phóng dân tộc thuộc phạm trù
cách mạng vô sản. Thắng lợi này đã mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ 1945-1954: Đảng lãnh đạo toàn dân tiến hành cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc thắng lợi bằng chiến dịch
lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Mục tiêu của giai đoạn này
tiến hành thành công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập,
tự do, cụ thể hóa tư tưởng của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, mục tiêu này mới đạt được ở miền Bắc.
13
Sau hiệp định Giơnevơ (20/7/1954) nước ta tạm thời bị chia cắt thành
hai miền Nam - Bắc. Sau khi hòa bình lập lại, miền Bắc tiến hành cách
mạng hội chủ nghĩa, trở thành hậu phương lớn cho cách mạng giải
phóng dân tộc miền Nam. Đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa hội trong giai đoạn này là hai chiến lược cách mạng: cách mạng
hội chủ nghĩa miền Bắc cách mạng giải phóng dân tộc miền
Nam. Thời kỳ bảo vệ độc lập dân tộc xây dựng những sở đầu tiên
của chủ nghĩa xã hội, thực hiện “kháng chiến và kiến quốc”.
Ở thời kỳ này Hồ Chí Minh tiếp tục bổ sung, phát triển những quan điểm
lý luận về con đường cách mạng Việt Nam. Nội hàm khái niệm cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, chế độ dân chủ mới đã được Hồ Chí Minh làm
rõ bằng cách xác định mục tiêu, động lực, các điều kiện bảo đảm thắng lợi
của từng giai đoạn cách mạng, trong mỗi giai đoạn đều kết hợp giải quyết
các nhiệm vụ dân tộc, dân chủ chủ nghĩa hội, tạo tiền đề đẩych
mạng phát triển lên giai đoạn cao hơn nhưng cũng khó khăn phức tạp hơn.
Để thực hiện mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh kiên trì quan điểm phát
huy cao độ ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đi đôi với ra sức tranh
thủ sự ủng hộ và giúp đỡ quốc tế.
Nét độc đáo, đặc sắc trong tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách
mạng Việt Nam thời kỳ này Người đã đề ra thực thi nhất quán
đường lối vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”. Đường lối đó phù hợp với quy
luật phát triển lịch sử dân tộc: dựng nước đi đôi với giữ nước, bảo vệ độc
lập của Tổ quốc và xây dựng từng bước chế độ mới. Trong hoàn cảnh hiểm
nghèo, Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách linh hoạt, mềm dẻo phương
pháp “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc, phân
hoá, lập kẻ thù, tăng cường sức mạnh đoàn kết toàn dân, tranh thủ
được sự giúp đỡ, ủng hộ của quốc tế. Tài thao lược, bản lĩnh kiên cường,
khả năng quyết đoán của Hồ Chí Minh dựa trên sự hiểu biết thấu đáo thực
tiễn đất nước, quy luật xu thế phát triển của dân tộc, thời đại, vững
vàng lái con thuyền cách mạng Việt Nam đến bến bờ thắng lợi huy hoàng.
Thời kỳ 1954-1975: cả nước dốc lòng cho sự nghiệp giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước. Khát vọng hòa bình, độc lập dân tộc đã khơi
dậy truyền thống dựng nước giữ nước của ông cha, truyền thống chiến
thắng giặc ngoại xâm của dân tộc. Cả nước xuống đường, cả nước hướng
về miền Nam ruột thịt theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh Đảng
ta "Tất cả cho tiền tuyến". Lịch sử Việt Nam chưa lúc nào được chứng kiến
sự kết hợp giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên phạm vi, quy
lớn như thời điểm này của cách mạng. Sau chiến dịch Hồ Chí Minh trong
cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, miền Nam được hoàn toàn
giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước bước vào kỷ nguyên mới: kỷ
nguyên xây dựng chủ nghĩa hội trên phạm vi cả nước - kỷ nguyên của
độc lập, tự do, thống nhất chủ nghĩa hội. Thời kỳ Hồ Chí Minh tiếp
tục hoàn thiện, bổ sung, phát triển tưởng về độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa hội trong điều kiện mới. thời kỳ y sáng tạo luận
14
của Hồ Chí Minh thể hiện tập trung trong việc xây dựng chỉ đạo đường
lối tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội
miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ miền Nam, thống
nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa hội. Quan điểm, tưởng
nêu trên được thể hiện ở các nội dung chính sau đây:
- Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng
đắn thành công mối quan hệ giữa cách mạng hai miền. Trong mối quan hệ
này, Hồ Chí Minh xác định rất vị trí, vai trò nhiệm vụ cách mạng từng
miền tác động lẫn nhau của chúng. Về thực chất, đây sự cụ thể hoá
nội dung con đường cách mạngsản, sự gắn bó chặt chẽ giữa nhiệm vụ
dân tộc, dân chủ với chủ nghĩa xã hội - con đường HChí Minh đã đề
xuất và kiên trì bảo vệ.
- Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn chỉnh và phát triển lý luận về cách mạng giải
phóng dân tộc, xác định rõ kẻ thù số một mà dân tộc ta cần tập trung mọi
lực lượng để đánh đổ đế quốc Mỹ. Hồ Chí Minh nêu tưởng “không
gì quý hơn độc lập tự do” thể hiện ý chí, quyết tâm lớn lao của cả dân tộc
trong việc bảo vệ giá trị thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Về tập hợp lực
lượng, Hồ Chí Minh những quan niệm cách làm sáng tạo, trên sở
đánh giá đúng vị trí, vai trò của chiến lược đại đoàn kết trong chiến tranh
cách mạng. Hồ Chí Minh đã xây dựng cho cách mạng Việt Nam cái nền sức
mạnh của “ba tầng mặt trận”: Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam
chống Mỹ, cứu nước; Mặt trận ba nước Đông Dương cùng chống Mỹ; Mặt
trận nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ. Sức mạnh
của “ba tầng mặt trận" đã tạo cho cách mạng Việt Nam trở thành vô địch.
- Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn thiện luận cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân tiến lên chủ nghĩa hội. Hồ Chí Minh đã xây dựng một quan
niệm tương đối hoàn chỉnh, thống nhất về chủ nghĩa hộicon đường
đi lên chủ nghĩa hội nước ta. Quan niệm của Hồ Chí Minh chủ nghĩa
hội mang tính hệ thống, nhiều nội dung phát triển sáng tạo, nhưng
vẫn trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh đã làm đặc
điểm lớn nhất của Việt Nam khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
hội, mối quan hệ giữa tính phổ biến tính đặc thù của công cuộc xây
dựng chủ nghĩa hội trong phạm vi một nước. Đặc biệt, Hồ Chí Minh đã
những chỉ dẫn khoa học về những cách thức, phương thức, biện pháp,
bước đi thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời. Biến đau thương thành
hành động cách mạng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta quán triệt sâu
sắc quan điểm của Người tiếp tục xây dựng chủ nghĩa hội miền Bắc,
giải phóng miền Nam thống nhất tổ quốc. Thông qua chiến dịch mang tên
Hồ Chí Minh, sự nghiệp cách mạng đó đã giành thắng lợi trọn vẹn vào
ngày 30-4-1975. Chúng ta xây dựng chủ nghĩa hội trong bối cảnh đất
nước gặp muôn vàn khó khăn, thách thức to lớn: đất nước bị chiến tranh
tàn phá; Mỹ phương Tây tiến hành bao vây, lập, cấm vận Việt Nam;
các thế lực phản động quốc tế phát động kiểu "chiến tranh phá hoại nhiều
15
mặt"chống phá Việt Nam; nền kinh tế nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng
nghiêm trọng kéo dài nhiều năm. Sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta
khởi xướng lãnh đạo từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
(1986) đã từng bước hồi sinh đất nước về mọi mặt. Trước những bối cảnh
mới của tình hình, Đảng ta luôn xác định phải giương cao ngọn cờ "Độc lập
dân tộc chủ nghĩa hội". Công cuộc đổi mới theo định hướng hội
chủ nghĩa một chủ trương chiến lược đúng đắn, phù hợp với quy luật
khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội; tạo điều kiện, tiền
đề cho chủ nghĩa hội. Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới,
Đảng ta vẫn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc chủ nghĩa xã hội trong
mối liên hệ gắn kết biện chứng.
3.2. Vận dụng tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội trong sự nghiệp đổi mới
3.2.1. Quan điểmcác chính sách của Đảng về độc lập dân tộc gắn liền
với xã hội chủ nghĩa.
Tại Đại hội II, nhận thức của Đảng về mối quan hệ biện chứng giữa độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH) tiếp tục được khẳng định, bổ sung,
phát triển, làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận từ thực tiễn cách mạng
Việt Nam. Đây con đường Đảng nhân dân Việt Nam lựa chọn từ
năm 1930, con đường phát triển theo quy luật khách quan của lịch sử
hội loài người nói chung.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam tồn tại hai mâu thuẫn cơ
bản mâu thuẫn dân tộc mâu thuẫn giai cấp; yêu cầu bức bách của
dân tộc Việt Nam lúc này phải tìm ra con đường giải quyết một cách
triệt để đồng thời hai mâu thuẫn đó nhằm giải phóngn tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Thắng lợi của cuộc Cách
mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã làm cho CNXH từ luận trở thành
hiện thực, mở ra thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa bản lên
CNXH trên phạm vi thế giới. Vào thời điểm lịch sử ấy, lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc, với kinh nghiệm hoạt động thực tiễn phong phú, thấm nhuần tri
thức luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đã khẳng
định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác
con đường cách mạng sản ”. Con đường độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH phản ánh sự lựa chọn khách quan của chính thực tiễn, mang tính
đặc thù Việt Nam, đã được Đảng ta khẳng định. Chủ trương chiến lược
cách mạng đó được tiếp tục phát triển thêm một bước tại Hội nghị Trung
ương 8 (tháng 5-1941), dưới sự chỉ đạo trực tiếp của lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc. Độc lập dân tộc là điều kiện, là tiền đề giải phóng giai cấp, xã hội và
con người để đi tới CNXH. Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm
1945 sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thắng lợi của
chủ nghĩa Mác - Lê-nin, được vận dụng sáng tạo, phù hợp với thực tiễn
Việt Nam, phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử hội loài người
trong thời đại mới. Ngay sau khi giành được độc lập, bắt tay vào xây dựng
Nhà nước dân chủ nhân dân, Đảng đã đồng thời lãnh đạo toàn dân tộc tiếp
16
tục sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước. Trước sự trở lại xâm lược của
thực dân Pháp (ngày 23-9-1945), Việt Nam chưa có điều kiện trực tiếp tiến
lên CNXH. Củng cố giữ vững nền độc lập dân tộc vừa giành lại được
nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
của toàn dân tộc.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV - đại hội thống nhất Tổ quốc, cả nước
đi lên chủ nghĩa hội đã khẳng định: "Trong quá trình lãnh đạo cách
mạng, khi cả nước làm một nhiệm vụ chiến lược hoặc làm hai nhiệm vụ
chiến lược, Đảng ta từ khi ra đời đến nay vẫn luôn luôn giương cao ngọn
cờ độc lập dân tộc chủ nghĩa hội, đó đường lối, sức mạnh,
nguồn gốc mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam". Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội do Đại hội VII thông
qua đã khẳng định trong thời kỳ đổi mới: "Toàn Đảng, toàn dân tiếp tục
nắm vững ngọn cờ độc lập, dân tộc chủ nghĩa hội, ngọn cờ vinh
quang Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay thế hệ
mai sau”.
Hiện nay, cuộc đấu tranh độc lập dân tộc chủ nghĩa hội Việt
Nam vẫn đang tiếp diễn. Đảng ta khẳng định: "Trong giai đoạn đổi mới,
phải giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Trong bất kỳ
tình huống nào cũng phải thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: xây
dựng thành công chủ nghĩa hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
hội chủ nghĩa. Trong quan hệ quốc tế phức tạp, chằng chéo như hiện
nay, để thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước
ta, đòi hỏi phải có nhận thức sâu sắc các yếu tố tác động đến độc lập dân
tộc chủ nghĩa hội. Chiến tranh lạnh trên thế giới kết thúc, hoà bình,
hợp tác phát triển xu thế chung, nhưng cuộc đấu tranh dân tộc giai
cấp vẫn diễn biến phức tạp, gay gắt. Nguy xung đột trang chiến
tranh cục bộ vẫn chưa bị loại trừ; mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc, tôn giáo,
tranh chấp lãnh thổ nổ ra nhiều nơi gây mất ổn định nhiều khu vực.
Chủ nghĩa đế quốc đang lợi dụng ưu thế về kinh tế và kỹ thuật, nhân danh
chống khủng bố, để thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình” can thiệp
vào công việc nội bộ các nước, buộc các nước hội chủ nghĩa, các nước
đang phát triển đi vào quỹ đạo của chúng. Hiện nay giao lưu kinh tế, giao
lưu văn hoá giữa các dân tộc tăng lên. Trong khi giao lưu văn hoá phát
triển mạnh mẽ, thì các nước đang phát triển cũng đứng trước sự “xâm
lăng văn hoá” từ phía các nước đế quốc.
Trong bối cảnh hiện nay, quan niệm về độc lập dân tộcchủ nghĩa xã
hội phải được chú ý toàn diện từ độc lập về lãnh thổ, về chủ quyền an ninh
quốc gia đến độc lập, tự do về kinh tế, chính trị, văn hóa, lối sống đạo
đức hội. Không thể không thể chấp nhận quan niệm nhân quyền
cao hơn chủ quyền quốc gia. Việc rêu rao nhân quyền của các nước
bản, trước hết Mỹ, thực chất một hình thức mỵ dân, lấy cớ nhân
quyền đề can thiệp vào công việc nội bộ nước khác. Không thể độc lập
tự do về chính trị nếu bị lệ thuộc về kinh tế. Không thể giữ vững độc lập tự
17
chủ nếu lối sống, đạo đức hội bị suy thoái, văn hoá dân tộc bị coi rẻ
hoặc bị biến dạng.
Để thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược hiện nay cần chú ý một s
nguyên tắc có tính chất phương pháp luận:
- Xây dựng thành công hội hội chủ nghĩa, bảo vệ vững chắc độc lập
dân tộc trước hết phải bằng nguồn nội lực của đất nước, không lệ thuộc
vào bên ngoài, nhưng phải biết tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi
để gia tăng nguồn lực phát triển quốc gia. Kết hợp sức mạnh dân tộc
sức mạnh thời đại theo tưởng Hồ Chí Minh để thực hiện thành công hai
nhiệm vụ chiến lược.
- Trên sở nhận thức toàn cầu hoá, khu vực hoá kinh tế một tất
yếu khách quan, từ đó xác định rõ các bước đi chủ động hội nhập phù
hợp với năng lực của đất nước. Hội nhập phải làm tăng sức mạnh đất nước
và làm giàu bản sắc dân tộc.
- Độc lập dân tộc gắn chặt chẽ với chủ nghĩa hội phải được thể
hiện trong suốt quá trình cách mạng trên mọi lĩnh vực của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3.2.2. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong tiến trình đổi mới.
Ngày nay, độc lập dân tộcchủ nghĩa hội chỉ thể được nếu
Đảng nhân dân ta giải quyết thành công hàng loạt vấn đề trên tất cả
các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, hội, đối nội đối ngoại theo
định hướng hội chủ nghĩa, trung thành với con đường Hồ Chí Minh đã
vạch ra. Đảng ta khẳng định trong bất kỳ tình huống nào, cũng phải giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đề phòng và chống nguy
chệch hướng hội chủ nghĩa. Hiện nay, đang xuất hiện nhiều vấn đề
luận nằm trong tổng thể quan niệm chung về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Nhu cầu phát triển đất nước đang đặt ra, đòi lại phải nhận diện hiểu
biết về chủ nghĩa xã hội vừa mang tính tổng thể, vừa trong những chi tiết,
đường nét cụ thể.
Do vậy, giữ vững định hướng hội chủ nghĩa theo tưởng Hồ Chí
Minh, trước hết cần làm sáng tỏ các vấn đề cơ bản sau:
- Cả trong luận thực tiễn cần khẳng định vấn đề định hướng đưa
đất nước đi lên chủ nghĩa hội duy nhất đúng đắn, phù hợp với
nguyện vọng của dân tộc và xu thế thời đại.
- Làm rõ và cụ thể hoá mục tiêu của đổi mới theo định hướng xã hội chủ
nghĩa dân giàu, nước mạnh, hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sức
hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội, trước hết là ở mục tiêu mang đậm bản chất
nhân văn này.
- Xác định bản chất đặc trưng mô hình cấu trúc của chủ nghĩa
hội Việt Nam. - Làm các động lực phát triển của chủ nghĩa hội,
trong đó động lực con người với nhu cầu lợi ích của họ giữ vị trí trung
18
tâm. Mặt khác việc phát hiện động lực, có chính sách phát huy và kết hợp
các động lực phát triển sẽ làm cho chủ nghĩa xã hội sinh động, năng động
và mang tính thực tiễn.
- Xác định bước đi cách làm chủ nghĩa hội Việt Nam. Trong
công cuộc đổi mới hiện nay con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa hội đang bị chi phối, tác động mạnh mẽ của rất nhiều
yếu tố khách quan chủ quan; thách thức rất lớn, nhưng cũng rất nhiều
thời cơ, vận hội. Trên sở quan niệm đúng đắn của Hồ Chí Minh về độc
lập dân tộcchủ nghĩa hội, lại kinh nghiệm thực tiễn hơn 70 năm
qua, đặc biệt là thực tiễn của gần 20 năm đổi mới, cho phép chúng ta hiểu
được thực chất con đường độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩahội trong
bối cảnh hiện nay. Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa hội nhu cầu
sống còn, là sự lựa chọn duy nhất đúng của Việt Nam.
IV. KẾT LUẬN QUAN ĐIỂM CỦA BẢN THÂN VỀ VẤN ĐỀ ĐỘC LẬP
DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
4.1. Tổng quát
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập năm 1930 đến nay, độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội luôn là mục tiêu được Đảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết tâm thực hiện. Thực tiễn hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ gần ba mươi năm đổi mới đất nước
đã chứng minh giành, giữ độc lập dân tộc gắn với xây dựng chủ nghĩa
hội như một quy luật tất yếu khách quan, phù hợp với sự vận động phát
triển sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Trong tiến trình đổi mới, Đảng nhận diện ngày càng hơn vấn đề độc
lập dân tộc và CNXH trước bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu
rộng. Tiến trình đổi mới sự tiếp tục vận động của những quan niệm mới
về CNXH con đường xây dựng CNXH của Đảng, được hình thành dựa
trên những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế
thừa những nhận thức đúng đắn mà Đảng đã tích lũy được trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH mục tiêu, nội dung nổi bật,
xuyên suốt chủ đạo trong quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt
Nam. Đường lối độc lập dân tộc gắn liền với CNXH một trong những
nguyên nhân của mọi thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp cách mạng của
dân tộc mãi ánh sáng soi đường cho sự nghiệp đổi mới, thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu
rộng trong thế kỷ XXI của Đảng và nhân dân Việt Nam. Ngày nay, độc lập
dân tộc gắn liền chủ nghĩa hội, tưởng “không quý hơn độc lập
tự do vẫn giữ nguyên giá trịsức sống của nó. Bởi vì, tình hình quốc tế
diễn biến phức tạp, thay đổi khó lường. Hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn
xu thế lớn. Nhưng xung đột trang, tranh chấp lãnh thổ, khủng bố
19
quốc tế, xung đột dân tộc, tôn giáo... vẫn diễn ra nhiều nơi. Cách mạng
khoa học công nghệ toàn cầu hóa tạo hội cho các nuớc phát triển,
nhưng cạnh tranh, tranh giành thị trường, các nguồn nguyên liệu, năng
lượng, nguồn lực khoa học công nghệ giữa các quốc gia, các tập đoàn kinh
tế diễn ra quyết liệt, đặt các quốc gia, nhất là các nước đang và kém phát
triển trước những thách thức gay gắt.
Thực tiễn trên thế giới, nhiều nước sau khi giành được độc lập đưa đất
nước đi theo con đường bản chủ nghĩa đang rơi vào tình trạng nghèo
đói, khó khăn, chiến tranh, xung đột sắc tộc, tôn giáo, phe phái. Sự nghèo
đói, chậm phát triển làm cho quốc gia đó không thể độc lập thật sự.
Nhiều nước trước đây là chủ nghĩahội, trong công cuộc cải tổ, cải cách
đã mắc sai lầm bản về đường lối cách mạng, thậm chí phản bội lại chủ
nghĩa xã hội, muốn đưa đất nước đi theo con đường bản chủ nghĩa hay
“xã hội dân chủ” với ảo tưởng mong chờ vào sự giúp đỡ của thế giới
bản nhưng hiện nay đang rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng về
kinh tế - hội, về con đường phát triển của đất nước; nhiều định hướng
giá trị của xã hội bị đảo lộn; xung đột sắc tộc, tôn giáo, phe phái gia tăng;
đời sống của người lao động ngày càng khó khăn, tình trạng phân hóa
giàu nghèo ngày càng gia tăng; đặc biệt tác động của đại dịch COVID-19
đến kinh tế, đời sống của người dân cách giải quyết của các nước làm
cho vị thế của các nước đó trên trường quốc tế ngày càng giảm sút; đồng
thời, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, dù phải đối mặt với xu thế toàn
cầu hoá, với tất cả mặt tích cực tiêu cực, bất trắc; mãi mãi giương cao
ngọn cờ độc lập dân tộc chủ nghĩa hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
nhân dân ta tiếp tục giành thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp đổi
mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng chủ nghĩa hội
bảo vệ vững chắc Tổ quốc,mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh, đưa đất nước ta sánh vai cùng các nước trong khu
vực và trên thế giới.
4. 2. Liên hệ bản thân.
Theo em, nghĩ tưởng của Hồ Chí Minh về độc lập hội liên quan
đến chủ nghĩa hội ý kiến đúng đắn nằm trên con đường cách
mạng của cả nước Việt Nam.
Chủ nghĩa hội gắn liền với những quan niệm đúng đắn về độc lập
dân tộc: Độc lập dân tộc mục tiêu trực tiếp, đặc biệt bước đệm để
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi
với bảo vệ Tổ quốc hội chủ nghĩa, giữ vững định hướng hội chủ
nghĩa trong công cuộc đổi mới. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội chỉ
thể thực hiện được nếu đảng nhân n giải quyết thành công một số
vấn đề trên mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, trong và ngoài
nước, luôn trung thành với con đường H Chí Minh đã vạch ra. Đảng ta
20
nêu rõ, trong mọi tình huống phải giữ vững định hướng hội chủ nghĩa,
ngăn chặn và kiên quyết chống nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức sai lầm về Độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội: Chủ nghĩa
hội trên thế giới đã những dấu hiệu phát triển tích cực kể từ sau
khủng hoảng và sụp đổ, nhiều nước Mỹ – Latinh đã tuyên bố xây dựng chủ
nghĩa xã hội trong thế kỷ 21 là lý do của sự đổi mới chủ nghĩa hội. Đất
nước ta đã đạt được những thắng lợi, thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử …
Nhưng các thế lực thù địch vẫn luôn thể hiện âm mưu “diễn biến hòa
bình” dẫn đến tình trạng bất ổn dưới chiêu bài “dân chủ”, nhân quyền”,
“dân tộc” làm lũng đoạn nền hành chính chính trị của đất nước.
Trước những diễn biến trên, ý đồ đen tối nhằm lật đổ tưởng Hồ Chí
Minh về toàn bộ di sản của cách mạng nước ta lật đổ chính quyền của
nước ta. vậy, điều cần thiết chúng ta phải vững tin vào con đường
của Bác Hồ, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc chủ nghĩa hội trong
giai đoạn cách mạng hiện nay, tiếp tục công cuộc đổi mớicông nghiệp
hóa.
Bản thân em một học sinh luôn tích cực học tập rèn luyện để trở
thành một công dân tương lai luôn người tưởng chính tr vững
vàng theo đường lối độc lập hội chủ nghĩa của Đảng Bác Hồ. Luôn
nỗ lực học tập, ứng dụng thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, nâng cao năng lực để nỗ lực
xây dựng đất nước. Ngoài ra, chúng ta cần phản ứng nhanh với biển bão
của thời cuộc, một năm chúng ta đang nắm bắt thời khi đất nước
chúng ta ngày càng hội nhập, nâng cao thương hiệu quốc gia hơn.
Đồng thời không ngừng phát huy phẩm chất đạo đức cách mạng, bản
lĩnh chính trị vững vàng để tránh âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù
địch. Thực hiện tốt nhiệm vụ trở thành một con người vừa hồng, vừa
chuyên”, nỗ lực đưa đất nước tiến lên, sánh vai cùng năm châu như Bác
Hồ hằng mong muốn.
4.3. Liên hệ thực tiễn
Thế hệ trẻ Việt Nam lực lượng đông đảo giữ vai trò quan trọng
trong thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng cách mạng mà Đảng Cộng sản
Việt Nam Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn.. Đa số thế hệ trẻ hiện nay
đã thể hiện lòng trung thành với Đảng, với Tổ Quốc, luôn đi đầu trong thực
hiện các nhiệm vụ học tập, lao động sản xuất công tác hội, không
ngại khó khăn, gian khổ, thể hiện sự cần cù, mưu trí, dũng cảm trong hoạt
động thực tiễn. Trong công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng
và lãnh đạo, “Tuổi trẻ giữ nước”, “Năm xung kích phát triển kinh tế - xã hội
và bảo vệ Tổ quốc” …
21
Cuộc vận động “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác” đã góp
phần quan trọng để giáo dục truyền thống, đạo đức, lối sống cổ vũ thế
hệ trẻ vươn lên trong học tập, công tác. Hiện nay, tình hình thế giới đang
những diễn biến rất phức tạp, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục chống
phá cách mạng nước ta với những âm mưu thủ đoạn ngày càng xảo quyệt,
tinh vi hơn. Chúng tìm mọi cách nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hòa
bình”, sử dụng những chiêu bài “dân chủ, nhân quyền”, “tự do tôn giáo”
hòng phá hoại khối đoàn kết của nhân dân ta. Thế hệ trẻ một trong
những đối tượng kẻ thù luôn tìm mọi cách mua chuộc, tác động đến
nhận thức tình cảm với mục đích làm cho thanh niên thờ ơ với các vấn
đề chính trị - hội, phải nhạt tưởng cách mạng của Đảng độc lập
dân tộc chủ nghĩa hội, lơ trong học tập, công tác, suy giảm niềm
tin, buông thả trong đạo đức, lối sống. Do đó, để thực hiện tốt đường lối,
chủ trương của Đảng, vấn đề giáo dục tưởng độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, nâng cao ý thức bảo vệ Tổ quốc càng trở nên bức
thiết và cần tập trung vào các nội dung chính sau:
- Giáo dục nâng cao nhận thức về mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn
liền với với chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng ta là
thực hiện một nước Việt Nam độc lập đi lên chủ nghĩa hội. vậy,
cần giáo dục cho thế hệ trẻ nhận thức sâu sắc nội dung này. Làm cho họ
hiểu được nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hội chủ nghĩa trong tình
hình hiện nay không chỉ bảo vệ vùng trời, vùng biển, biên cương lãnh
thổ. Đó còn bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân chế độ hội chủ
nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị và an ninh quốc gia, trật tự an
toàn xã hội, chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu và hành động chống
phá của các thế lực thù địch. Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: “Yêu tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội,
tiến lên chủ nghĩa hội thì nhân dân mình mới ngày càng một ấm
no thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”. Từ đó, mỗi người cụ
thể hóa thành những hành động cách mạng trong học tập, rèn luyện
hoạt động thực tiễn.
- Giáo dục về truyền thống yêu nước của nhân dân và truyền thống kiên
cường bất khuất của dân tộc ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhân
dân ta một lòng nồng nàn yêu nước. Đó một truyền thống quý báu
của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại
sôi nổi, kết thành một làn sóng cùng mạnh mẽ, to lớn, lướt qua
mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nhấn chìm tất cả bán nước
cướp nước”. Cần giáo dục cho thế hệ trẻ nhận thức sâu sắc truyền thống
yêu nước, tinh thần bất khuất của dân tộc ta. Qua đó, giúp thanh niên
không ngừng phát huy tinh thần yêu nước, tích cực học tập, rèn luyện biến
niềm vinh dự, tự hào thành hành động cách mạng thiết thực.
- Thường xuyên giáo dục cho thế hệ trẻ nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của
kẻ thù, biết chủ động phòng ngừa, đấu tranh kiên quyết với mọi quan
điểm hành động sai trái. Thế hệ trẻ lực lượng năng động, ham học
22
hỏi, thích ứng nhanh nhưng việc tiếp thu chọn lọc thông tin còn hạn
chế. Cho nên, việc giáo dục cho họ lập trường, bản lĩnh chính trị vững
vàng, nhận biết được những luận điệu của kẻ thù, không bị nhiễu khi tiếp
nhận thông tin, tạo ra sức “đề kháng” “miễn dịch” cho thế hệ trẻ
một nội dung hết sức quan trọng, ý nghĩa quyết định đối với việc đấu
tranh chống lại các quan điểm thù địch. Qua đó, giáo dục tưởng cách
mạng, củng cố bản chất cách mạng cho họ góp phần thực hiện tốt nhiệm
vụ xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Để nâng cao hiệu quả giáo dục tưởng
độc lập dân tộc chủ nghĩa xã hội cho thế hệ trẻ hiện nay, cần thực hiện tốt
một số biện pháp sau:
Một là, phát huy vai trò cấp ủy Đảng trong giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội. Sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng
đắn của cấp ủy Đảng các cấp giữ vai trò quan trọng, đảm bảo cho công
tác giáo dục thế hệ trẻ đúng hướng, mục tiêu rõ ràng, sát với nhiệm vụ
thực tiễn đạt được hiệu quả cao. Cấp ủy, chi bộ Đảng cần tăng cường
lãnh đạo, định hướng giúp đỡ Ban Chấp hành Chi đoàn Thanh niên, Hội
Sinh viên trong việc bồi dưỡng tưởng cách mạng của Đảng, nâng cao
nhận thức chính trị, đạo đức lối sống cho thế hệ trẻ hiện nay
Hai là, phát huy vai trò của đội ngũ giảng viên, giáo dục tưởng độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Giảng viên, cán bộ quản giáo
dục trong các nhà trường lực lượng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ giáo
dục, đào tạo nói chung giáo dục lý tưởng cách mạng, ý thức bảo vệ Tổ
quốc nói riêng. Trong quá trình dạy học, giảng viên, giáo viên cần sự
lồng ghép nội dung trên đây để bồi dưỡng, giáo dục cho thế hệ trẻ. Mặt
khác, đội ngũ giảng viên, giáo viên phải nêu tấm gương sáng, thực sự
thấm nhuần tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội để
người học noi theo.
Ba là, phát huy vai trò xung kích của tổ chức Đoàn trong giáo dục
tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội. Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh trườnghội chủ nghĩa của thanh niên, nơi trực
tiếp quản giáo giáo dục đoàn viên, thanh niên. Tổ chức Đoàn phải xác
định, công tác giáo dục lý tưởng cách mạng nói chung và lý tưởng độc lập
dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội nói riêng là nhiệm vụ quan trọng.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục lý tưởng độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội cho thế hệ trẻ, tổ chức Đoàn các cấp phải
thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục cho phù
hợp với đặc điểm tâm, sinh lý của tuổi trẻ, tránh cách làm cứng nhắc, dập
khuôn, máy móc. Công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, ý thức bảo vệ Tổ
quốc phải được tiến hành thường xuyên, trọng tâm, trọng điểm. Để
giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩahội
cho thế hệ trẻ cần chú trọng tổ chức tốt các phong trào hành động cách
mạng của tuổi trẻ như hoạt động thi đua, giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể
dục, thể thao, vui chơi giải trí… Trên sở đó định hướng tưởng, củng
cố niềm tin, xây dựng động đúng đắn cho thế hệ trẻ. Bốn là, phát huy
23
vai trò tự học, tự rèn của thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay. Để xứng đáng với
vị trí, vai trò của mình, thế hệ trẻ hiện nay phải thường xuyên trau dồi
tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội, ra sức học tập nâng
cao trình độ kiến thức mọi mặt, rèn luyện đạo đức lối sống, giữ gìn truyền
thống của n tộc. Qua học tập, rèn luyện để hình thành những phẩm
chất nhân cách tốt đẹp, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./
KẾT LUẬN
tưởng Hồ Chí Minh tài sản tinh thần cùng to lớn quý giá
của Đảng dân tộc ta, một kho tàng đầy của báu, giá trị trường tồn,
hướng tới tương lai, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta giành thắng lợi. Và trong giai đoạn hiện nay, tư tưởng của Bác
là những chỉ đạo cho Đảng trong công cuộc kiến thiết đất nước.
Đã 110 năm kể từ ngày Người ra đi tìm đường cứu nước, với khát vọng
đấu tranh giành độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam. Khát
vọng tầm nhìn của Người đến giờ vẫn còn nguyên ý nghĩa luận
thực tiễn sâu sắc. Trong hành trình hội nhập cùng nhân loại đi đến tương
lai, chúng ta đã ngày càng hiểu rõ hơn về giá trị nền tảng của tư tưởng Hồ
Chí Minh, tin tưởng, quyết tâm và kiên trì phấn đấu thực hiện quyền tự do,
độc lập gắn liền với tư bản chủ nghĩa cho nhân dân Việt Nam mà Người đã
chỉ ra để đất nước ta vững bước cùng nhân loại tiến vào tương lai. Hồ Chí
Minh đã sớm phát hiện ra giá trị của chủ nghĩa hội. Chế độ hội chủ
nghĩa theo quan điểm của Người không chỉ thước đo giá trị của độc lập
dân tộc mà còn tạo nên sức mạnh để bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và
tự bảo vệ, kim chỉ nam cho sự nghiệp đổi mới của chúng ta hiện nay.
Độc lập dân tộc chỉ đi tới chủ nghĩa hội thì mới một nền độc lập
dân tộc thật sự, hoàn toàn, nhân dân mới được hưởng hạnh phúc tự do;
chủ nghĩa hội chỉ phát triển trên một một nền độc lập dân tộc thật
sự thì mới điều kiện phát triển hoàn thiện. Hay nói theo cách của
Người: “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì
độc lập cũng chẳng nghĩa gì”. thể nói trong thời đại Hồ Chí Minh
lịch sử “độc lập, tự do, hạnh phúc” đã không chỉ là khát vọng mà còn là hệ
giá trị vô giá và trở thành lẽ sống, lý tưởng phấn đấu, hy sinh mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh cùng Đảng ta và nhân dân kiên định thực hiện. Chính lý tưởng
ấy, lẽ sống ấy niềm tin được sống độc lập, tự do, hạnh phúc trong một
nước Việt Nam hòa bình, độc lập thống nhất đã trở thành động lực để
cho nhân dân ta làm nên thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng tám năm
1945, của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước và tiếp
tục trong hành trình đi lên chủ nghĩa xã hội xây dựng, bảo vệ và phát triển
đất nước ngày một vững mạnh hơn. Như vậy, cùng với quá trình tổng kết
kinh nghiệm phát triển sáng tạo luận về chủ nghĩa hội con
đường đi lên chủ nghĩa hội, chúng ta đã bước đầu tìm ra những biện
pháp, bước đi mang tính quy luật của quá trình đi lên chủ nghĩa hội.
24
Một trong những biện pháp đó, xét về mặt kinh tế, phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần. Để nền kinh tế nhiều thành phần phát triển theo
đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, một mặt, chúng ta phải tạo môi trường
phát triển thuận lợi, đảm bảo tính độc lập, tự chủ của các thành phần kinh
tế, trong đó kinh tế nhà nước phải thực sự đóng vai trò chủ đạo; mặt khác,
chúng ta phải tăng cường vai trò của Đảng Nhà nước trong lãnh đạo,
quản lý kinh tế.
Sau cùng, em xin gửi lời cảm ơn tới cô là giảng viên trựcLê Thị Hoa
tiếp giảng dạy môn tưởng Hồ Chí Minh cho chúng em. Trong tình hình
dịch bệnh căng thẳng và phức tạp đã chỉ dạy, tạo điều kiện và hướng dẫn
tận tình cho chúng em trong học phần này. Em cảm thấy mình rất may
mắn được đồng hành trong suốt chặng đường dài vừa qua. Nhờ
em đã hoàn thành đề tài mình đã chọn qua đề tài này em đã
thêm sự hiểu biết và thấu cảm được sự vất vả của Bác dành cho đất nước
Việt Nam. Để có được nước Việt Nam như hiện tại chính là nhờ sự lãnh đạo
tài tình của Đảng, nhà nước và không thể thiếu những đóng góp to lớn của
Chủ tịch Hồ Chí Minh đại của chúng ta. Và cho đến hiện tại nước ta đi
theo con đường xã hội chủ nghĩa là vô cùng đúng đắn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
https://hcmcpv.org.vn/tin-tuc/doc-lap-dan-toc-gan-lien-voi-chu-
nghia-xa-hoi-%E2%80%93-su-lua-chon-phu-hop-xu-the-phat-trien-
cua-thoi-dai-1491878626
https://giaotrinh-tu-tuong-Ho-Chi-Minh.html
http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/doc-lap-dan-toc-gan-lien-
voi-chu-nghia-xa-hoi-la-quan-diem-nhat-quan-xuyen-suot-cua-
cach-mang-viet-nam.html
https://bacquang.hagiang.gov.vn/chi-tiet-tin-
tuc/-/news/44701/noi-dung-cot-loi-cua-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-
doc-lap-dan-toc-gan-lien-voi-chu-nghia-xa-hoi.html
25
| 1/26

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -- -- BÀI TẬP LỚN
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Đề bài: Chứng minh tính tất yếu độc lập dân tộc
gắn liền với CNXH trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Sinh viên thực hiện: Mã sinh viên:
Lớp học phần:
LLTT1101(221)_22
Giảng viên hướng dẫn:
Lê Thị Hoa HÀ NỘI _02/2022 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................................................................2
I, SỰ TIẾP CẬN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN
LIỀN.....................................................................................................................................................3
VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI THEO QUAN ĐIỂM MÁC LÊNIN.........................................3
1.1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - Con đường tất yếu
của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới......................................3
1.2. Sự tiếp cận của Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội theo quan điểm Mác Lênin.................................4
1.3. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - nội dung cốt lõi

xuyên suốt toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh.........................................6
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI
...............................................................................................................................7
2.1. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với tiến lên chủ nghĩa xã hội....7
2.2. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội trong quá trình cách mạng Việt Nam.............................9

III. THỰC HIỆN ĐỘC LẬP DÂN TỘC Ở VIỆT NAM, TIẾN LÊN CON ĐƯỜNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA..........................................................................................................................10
3.1. Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội............................................................................10
3.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội trong sự nghiệp đổi mới........................................13

3.2.1. Quan điểm và các chính sách của Đảng về độc lập dân tộc gắn liền với
xã hội chủ nghĩa.
...................................................................................................................13 3.2.2. Gi v ng đ nh h ng x ướ ã h i ch
nghĩa trong tếến trình đ i m
i………………..…15
IV. KẾT LUẬN QUAN ĐIỂM CỦA BẢN THÂN VỀ VẤN ĐỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
...................................................................................16
4.1.Tổng quát................................................................................16
4. 2. Liên hệ bản thân....................................................................17
4.3. Liên hệ thực tiễn.....................................................................18

KẾT LUẬN.......................................................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................................................21 1 LỜI MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài và muôn vàn kính yêu của
nhân dân Việt Nam; Người anh hùng giải phóng dân tộc; Danh nhân văn
hóa thế giới; Người sáng lập , lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, nhà nước ta;
Người chiến sĩ cộng sản quốc tế lỗi lạc; Người làm rạng danh dân tộc ta,
nhân dân ta, non sông đất nước ta. Cuộc đời và sự nghiệp của người là
một bản anh hùng ca, một tấm gương sáng chói về chủ nghĩa yêu nước,
phẩm chất cộng sản, về trí tuệ uyên bác và đạo đức cách mạng trong
sáng và là sự cổ vũ lớn lao đối với các thế hệ Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí
Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam. Trong đó, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng
cộng sản Việt Nam là một trong những quan điểm chỉ đạo xuyên suốt cho
sự ra đời, lãnh đạo và hoạt động của Đảng. Từ xưa đến nay, độc lập dân
tộc luôn là mục tiêu được ưu tiên hàng đầu của tất cả các quốc gia trên
thế giới đặc biệt là đối với các dân tộc nhỏ yếu. Đối với người dân mất
nước, cái quý nhất trên đời là độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân.
Độc lập dân tộc vừa là một giá trị tinh thần vừa là một giá trị vật chất. Nền
độc lập của một dân tộc là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho dân tộc ấy có
hoà bình, ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế và văn hóa, thống nhất
về lãnh thổ và chủ quyền quốc gia. Nó phải được “đo bằng những khả
năng và điều kiện đảm bảo cho dân tộc thoát khỏi tình cảnh nô lệ, phụ
thuộc, bị áp bức, bóc lột và nô dịch; đảm bảo cho dân tộc đó vượt qua tình
trạng đói nghèo, lạc hậu và tụt hậu so với các dân tộc khác trong thế giới
ngày nay, ngày càng vươn lên đỉnh cao của sự giàu có, văn minh, hiện đại,
công bằng và bình đẳng”. Từ khi mô hình XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp
đổ, những quan điểm phủ nhận mục tiêu độc lập dân tộc (ĐLDT) gắn liền
với CNXH xuất hiện càng nhiều. Họ đòi xét lại lịch sử, cho rằng Đảng ta
đưa đất nước tiến lên CNXH là vội vàng. Một số người còn cho rằng, không
thể đi theo con đường XHCN, vì đi theo con đường đó là đưa dân tộc vào
chỗ chết. Họ “khuyên” nên chọn con đường TBCN, quay lại con đường
phát triển TBCN,… Nhưng Nguyễn Ái Quốc lại không nghĩ như vậy và đã
tìm thấy con đường duy nhất để cứu nước, giải phóng dân tộc, là con
đường giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp; giai cấp vô sản
phải nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc, ĐLDT gắn liền với CNXH thì cách
mạng nước ta mới thành công. Người chỉ rõ: “Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc, không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô
sản” Chính vì thế mà xuyên suốt hành trình tìm đường cứu nước của Chủ
tịch Hồ Chí Minh chính là quan điểm: “ Độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội”. Sau sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày
3.2.1930, tư tưởng ĐLDT gắn liền với CNXH bắt đầu được thể hiện rõ nét
vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể Việt Nam. Trên cơ sở tiếp thu và vận dụng
lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể Việt Nam, ngay trong 2
những văn kiện đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xác định
“chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi
tới xã hội cộng sản”. Trong Tuyên ngôn độc lập công bố ngày 2.9.1945, Hồ
Chí Minh khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và
sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết
đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền
tự do, độc lập ấy”. Trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng có đặt vấn đề bài viết tập trung vào mấy câu hỏi
lớn, trong đó có câu hỏi “Vì sao Việt Nam chọn con đường xã hội chủ
nghĩa”? “Có phải Việt Nam chọn con đường đi sai không?”. Và cũng để giải
đáp thắc mắc về những câu hỏi này em đã viết bài này để làm rõ hơn
cũng như thêm phần hiểu biết hơn về con đường Việt Nam đang chọn:
“độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.
I, SỰ TIẾP CẬN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN
VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI THEO QUAN ĐIỂM MÁC LÊNIN.
1.1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - Con đường tất

yếu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới.
Vào giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, độc lập
dân tộc bị xâm phạm, trong tình hình đó, triều đình nhà Nguyễn trong thì
sợ nhân dân, ngoài thì bạc nhược trước kẻ thù, lúc đầu có chống cự yếu ớt,
sau đã từng bước nhân nhượng cầu hoà, cuối cùng là cam chịu đầu hàng
để giữ lấy ngai vàng và lợi ích riêng của hoàng tộc. Năm 1883 và 1884,
triều đình nhà Nguyễn lần lượt ký các hàng ước với thực dân Pháp, nước ta
bị đặt dưới ách thống trị của chúng. Mặc dầu bị đặt vào tình thế phải
chống “cả triều lẫn Tây" nhưng nhân dân ta với tinh thần yêu nước nhiệt
thành và chí căm thù giặc sôi sục đã dấy lên phong trào vũ trang kháng
chiến chống Pháp rầm rộ và lan rộng trong cả nước: từ Trương Định,
Nguyễn Trung Trực… ở miền Nam; Trần Tấn, Đặng Như Mai, Nguyễn Xuân
Ôn, Phan Đình Phùng... ở miền Trung đến Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa
Thám, Nguyễn Quang Bích… ở miền Bắc. Nhưng các cuộc khởi nghĩa này
đều bị thất bại vì chưa có một đường lối kháng chiến đúng đắn; lãnh đạo
khởi nghĩa là các sĩ phu văn thân với ý thức hệ phong kiến mang nặng tư tưởng tôn quân.
Đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước chống thực dân Pháp của nhân
dân ta chuyển sang xu hướng dân chủ tư sản. Tiêu biểu cho xu hướng này
có các phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân, Việt Nam
Quang phục hội... Các phong trào này chưa lôi cuốn được mọi tầng lớp
nhân dân, tư tưởng dân chủ tư sản chưa có cơ sở xã hội vững chắc. Do vậy
phong trào chỉ rộ lên được một thời gian ngắn rồi lần lượt bị đàn áp và
thất bại. Khi phong trào chống sưu thuế ở Huế và các tỉnh miền Trung,
trong đó có Hồ Chí Minh tham gia bị đàn áp (1908) cũng là lúc các phong 3
trào yêu nước chống Pháp ở thời điểm cực kỳ khó khăn, bế tắc. Đứng trước
cuộc khủng hoảng con đường cứu nước, Hồ Chí Minh xác định: “Tôi muốn
đi ra nước ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm
như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”. Đầu tháng 6-1911, Hồ
Chí Minh xuống làm phụ bếp trên chiếc tàu Pháp mang tên Amiran Latusơ
Tơrêvin của hãng Năm Sao đang cập bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn). Ngày
5/6/1911, con tàu rời Sài Gòn đi Pháp, Hồ Chí Minh bắt đầu một cuộc hành
trình lịch sử - đi tìm con đường cứu nước, con đường giải phóng. Xuất phát
từ lòng yêu nước ra đi tìm đường cứu nước, trải qua gần 10 năm đầy gian
truân và thử thách, Hồ Chí Minh đã đi khắp các châu lục khảo sát nhiều
nước thuộc địa và các nước tư bản phát triển Mỹ, Anh, Pháp... Người nhận
rõ: chủ nghĩa đế quốc là một hệ thống thế giới, chúng vừa tranh giành,
xâu xé thuộc địa, vừa vào hùa với nhau để nô dịch các dân tộc nhỏ yếu
trong hệ thống thuộc địa của chúng. Mỗi thuộc địa là một mắt khâu của
chủ nghĩa đế quốc, do vậy cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của mỗi
nước chỉ tiến hành riêng rẽ thì không thể giành thắng lợi. Cuối năm 1917,
Hồ Chí Minh từ Anh về Pari, thủ đô nước Pháp, một trung tâm văn hoá
khoa học và cách mạng của châu Âu. Hồ Chí Minh hoạt động trong phong
trào công nhân Pari, đến với phái tả của cách mạng Pháp, gia nhập Đảng
xã hội Pháp, một chính đảng bênh vực các thuộc địa. Năm 1919, nhân
danh những người yêu nước Việt Nam, Hồ Chí Minh gửi tới Hội nghị hoà
bình Vécxây bản Yêu sách của nhân dân An Nam đối các quyền tự do, dân
chủ tối thiểu cho Việt Nam. Yêu sách đó không được chấp nhận.
Người đã rút ra bài học “muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể
trông cậy vào bản thân mình”. Hồ Chí Minh nghiên cứu những cuộc cách
mạng xã hội lớn trên thế giới. Với cách mạng giải phóng dân tộc năm 1776
của Mỹ và cách mạng nhân quyền và dân quyền Pháp năm 1789, Người
rút ra kết luận: cách mạng Pháp và cách mạng Mỹ là cách mạng tư sản,
cách mạng không đến nơi, không giải phóng những người lao động mà lại
đi áp bức các dân tộc khác. Cách mạng Việt Nam không thể đi theo con
đường đó. Đầu tháng Mười năm 1917, cách mạng vô sản Nga thành công.
Tháng 3 năm 1919, Lênin sáng lập Quốc tế Cộng sản. Rồi nhà nước Xôviết
chiến thắng cuộc chiến tranh can thiệp của 14 nước đế quốc. Từ năm
1920 tiếng vang và ảnh hưởng của cuộc Cách mạng tháng Mười lan rộng
ra châu Âu và toàn thế giới. Nghiên cứu Cách mạng tháng Mười Nga năm
1917, Hồ Chí Minh nhận rõ: chỉ có Cách mạng tháng Mười Nga mới thành
công đến nơi, mang lại tự do bình đẳng thật cho tất cả nhân dân lao động
và giúp đỡ giải phóng các dân tộc thuộc địa. Hồ Chí Minh đi đến kết luận:
Cách mạng Việt Nam phải đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga -
con đường cách mạng vô sản. Tháng 7-1920, Người đọc Sơ thảo lần thứ
nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin
đăng trên báo L’Humanité. Luận cương của Lênin đã giúp Hồ Chí Minh tìm
ra “cái cẩm nang thần kỳ cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc” -
con đường giải phóng dân tộc theo quỹ đạo cách mạng vô sản. Con đường
đó được Hồ Chí Minh khẳng định rõ ràng trong những văn kiện thông qua 4
tại Hội nghị hợp nhất ngày 3/2/1930 “làm tư sản dân quyền cách mệnh và
thổ địa cách mệnh để đi tới xã hội cộng sản”. Sự xác định trên đây của Hồ
Chí Minh là một sáng tạo lớn về con đường cách mạng ở một nước thuộc
địa nửa phong kiến. Đó là con đường giải phóng dân tộc một cách triệt để,
con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó là kết quả tất
yếu quá trình tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh. Đây là sự lựa chọn duy
nhất đúng, phù hợp với đòi hỏi và nguyện vọng của dân tộc, nhân dân
Việt Nam, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, mở ra từ Cách
mạng Tháng Mười Nga năm 1917.
1.2. Sự tiếp cận của Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội theo quan điểm Mác Lênin
Trong khi tìm đường cứu nước, ngoài việc nghiên cứu các cuộc cách
mạng trên thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm nhiều đến Cách mạng
Tháng Mười Nga năm 1917. Người khẳng định: Trên thế giới bây giờ chỉ có
cách mạng Nga là đã thành công và thành công đến nơi đến chốn vì dân
chúng được hưởng tự do và độc lập. Đến khi bản Yêu sách đòi các quyền
tự do, dân chủ tối thiểu cho Nhân dân An Nam được Hồ Chí Minh thay mặt
những người yêu nước Việt Nam gửi tới Hội nghị hòa bình Vécxây (1919)
không được các nước đế quốc chấp nhận. Sau việc này, Nguyễn Ái Quốc
càng nhận ra bộ mặt thật của giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản. Người
thấy rằng, nó không như những gì giai cấp tư sản thường rao giảng là “Tự
do - bình đẳng - bác ái” cho mọi người và cho các dân tộc. Điều này đối
lập hoàn toàn với tư tưởng của Lênin. Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh rút ra
bài học “Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào bản
thân mình”. Đồng thời “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có
con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Quyết tâm giành độc
lập cho dân tộc: Từ một người yêu nước và khát vọng giải phóng dân tộc
đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu bản chất học
thuyết về hình thái kinh tế - xã hội, và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội khoa
học trên cơ sở quan điểm duy vật lịch sử. Người đã thấy trong học thuyết
của chủ nghĩa Mác - Lênin con đường chân chính để giải phóng dân tộc.
Năm 1920, sau khi đọc tác phẩm “Những luận cương về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa” của Lênin, Người rút ra chân lý: Muốn cho nước nhà
được độc lập phải đi theo con đường cách mạng vô sản và chỉ có chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp
bức và giai cấp công nhân toàn thế giới. Kể từ đây, người hoàn toàn tin
theo Lênin và tin theo quốc tế thứ ba. Với tư tưởng biện chứng, Chủ tịch
Hồ Chí Minh xác định giữa cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã
hội chủ nghĩa có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Giai đoạn trước làm tiền
đề cho giai đoạn sau. Giai đoạn sau kế tiếp và củng cố, phát triển giai
đoạn trước. Tư tưởng độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội trở thành
cốt lõi, xuyên suốt trong quá trình hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
Thấm nhuần tư tưởng đó, năm 1930 trong văn kiện thông qua tại Hội nghị
thành lập Đảng, bản Chánh cương vắn tắt do Người soạn thảo ghi rõ con
đường của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và 5
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Con đường cách mạng này
trải qua hai giai đoạn là cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Người xác định: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn
phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”. Việc lựa chọn
con đường cách mạng vô sản cho Việt Nam còn xuất phát từ thực tế của
đất nước thời kỳ đó khi các phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong
kiến, hệ tư tưởng tư sản đều không thành công. Đến như nhà yêu nước
Phan Bội Châu, người theo con đường nhờ nước Nhật đánh Pháp để cứu
lấy Tổ quốc đang bị người Pháp đô hộ phải thốt lên rằng: “Than ôi! Đời tôi
một trăm lần thất bại mà không một lần thành công!”. Chỉ đến khi Chủ
tịch Hồ Chí Minh đi theo con đường cách mạng vô sản, Cách mạng Tháng
Mười Nga vĩ đại năm 1917 thì nước ta mới giành được độc lập, dân ta mới
có tự do, ấm no và hạnh phúc. Khi thời cơ giành độc lập cho Tổ quốc đã
đến, vào khoảng tháng 7 năm 1945, dù đang ốm nặng, Bác vẫn nói với
đồng chí Võ Nguyên Giáp rằng: “… dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả
dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”. Trong Bản
Tuyên ngôn độc lập được Bác thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa công bố trước quốc dân đồng bào năm 1945, cũng là lúc Người dự liệu
được tình hình đất nước sẽ khó khăn trong việc giữ gìn độc lập của Tổ
quốc trước dã tâm tái xâm lược của đế quốc Pháp cũng như của chủ nghĩa
đế quốc. Người đã tuyên bố với thế giới rằng: “Toàn thể dân tộc Việt Nam
quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững
quyền tự do, độc lập ấy”. Trong Lời kêu gọi gửi Liên hợp quốc (11/1946),
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt dân tộc Việt Nam thể hiện quyết tâm khi
khẳng định rằng: “Nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến
cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ
quốc và độc lập cho đất nước”. Đến tháng 12 năm 1946, trong Lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến, Hồ Chí Minh đã gửi đi thông điệp cho đế quốc
Pháp sẽ cùng toàn thể dân tộc Việt Nam bảo vệ độc lập chủ quyền đất
nước bằng ý chí sắt đá: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ không
chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Nối tiếp mạch tư duy về nền độc lập
cho dân tộc, ngày 17 tháng 7 năm 1966, chân lý đó tiếp tục được Người
khẳng định khi tuyên bố trong Lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước: “Không có
gì quý hơn độc lập tự do”. Độc lập dân tộc là giá trị thiêng liêng, bất khả
xâm phạm đối với bất kỳ một quốc gia, dân tộc nào trên thế giới cũng như
của dân tộc Việt Nam. “Không có gì quý hơn độc lập tự do!” – là chân lý
của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đưa Việt Nam đi lên CNXH sau khi giành được độc lập cho dân tộc:
Chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng của V.I.Lênin về quyền tự quyết của các
dân tộc và ủng hộ các nước đi lên CNXH, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra quy
luật phát triển của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới: Độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Người chỉ rõ: con đường cách mạng của
Việt Nam là tiến tới chủ nghĩa xã hội, quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa. Vì sao Người lại chọn đi lên CNXH chứ không phải đi lên CNTB mặc
dù Người đã sống ở các nước TBCN phát triển như Anh, Pháp, Mỹ… trong 6
suốt phần lớn thời gian 30 năm đi tìm đường cứu nước? Điều này đã được
Người khẳng định rằng, đấu tranh giành độc lập để gắn với con đường
phát triển tư bản chủ nghĩa hoàn toàn không phải là con đường phát triển
của dân tộc Việt Nam. Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành
công, mặc dù đất nước ta tiếp tục cuộc kháng chiến chống đế quốc Pháp
nhưng toàn Đảng, toàn dân ta vẫn khẳng định đi lên chủ nghĩa xã hội là
hợp quy luật, hợp lòng dân của cách mạng Việt Nam. Chính Hồ Chí Minh
từng khẳng định: Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của các dân
tộc không ai ngăn nổi. Sở dĩ Người chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
sau khi nước ta giành được độc lập như Người từng lý giải rằng: chủ nghĩa
xã hội sẽ giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư
bản; khỏi áp bức, bóc lột, bất công, nghèo đói, lầm than và trả lại cho họ
tính người vốn có, đầy đủ trong quá trình phát triển. Chính chủ nghĩa xã
hội là niềm tin, là ước mơ, là lý tưởng cao đẹp của tất cả những người lao
động đang bị giai cấp tư sản áp bức, bóc lột trên toàn thế giới. Ở đó, con
người sống với nhau thân ái, hòa bình, bình đẳng, cùng tiến bộ và được
tôn trọng. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có điều kiện để con người thể hiện
“sự phát triển tự do của mỗi con người là điều kiện tự do cho tất cả mọi
người”. Việc Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội không phải là sự áp đặt khiên cưỡng mà có cội nguồn trong chiều sâu
văn hóa dân tộc. Bởi vì ở Việt Nam đã từng tồn thuyết xã hội đại đồng của
Nho giáo quan niệm “Thiên hạ vi công” (thiên hạ là của chung). Về quan
hệ sở hữu, ở đất nước chúng ta đã tồn tại hàng nghìn năm chế độ công
điền, công thổ, chế độ tỉnh điền; nguyên tắc vần công, đổi công trong lao
động nông nghiệp... Đây là những cơ sở chính trị và kinh tế quan trọng để
Nguyễn Ái Quốc đưa ra tư tưởng độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội.
Người tin rằng điều đó sẽ thành công. Và thực tế ở Việt Nam đã chứng
minh quan điểm đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Như vậy, trên cơ sở
các nhân tố khách quan và chủ quan, kinh tế và chính trị, lịch sử và hiện
tại để Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Tư tưởng của Người còn là sự thỏa mãn khát vọng của dân
tộc Việt Nam trong việc vươn lên những giá trị vĩnh hằng mà nhân loại ước
muốn như độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc! Cho đến nay, dù tình hình đất
nước và quốc tế có những đổi thay nhanh chóng, nhưng chân lý của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vẫn giữ
nguyên giá trị. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng của Người là nền
tảng, là kim chỉ nam tiếp tục soi đường chỉ lối cho cách mạng Việt Nam đi
đến bến bờ vinh quang. Toàn Đảng, toàn dân, ta đang nỗ lực cố gắng
quyết tâm thực hiện mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Điều mong
muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây
dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”.
1.3. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - nội dung cốt
lõi xuyên suốt toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh. 7
Sự nhất quán trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí
Minh đó là độc lập dân lộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Từ khi trở thành
người cộng sản cho đến khi trở thành lãnh tụ, nguyên thủ quốc gia, mối
quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh là gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa
xã hội phù hợp với từng thời kỳ của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh chỉ
rõ các bài viết của Người chỉ có một đề tài là: “chống thực dân đế quốc,
chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội”. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện một cách tập
trung những luận điểm sáng tạo lớn về lý luận của Hồ Chí Minh. Những
luận điểm đó có giá trị lâu dài chỉ đạo đường lối cách mạng Việt Nam và
đóng góp quan trọng vào việc phát triển lý luận về cách mạng vô sản.
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Trong khi giải quyết những vấn đề
của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển
chủ nghĩa Mác - Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận về
cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước
thuộc địa và phụ thuộc”. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là
sự phản ánh chính xác mục đích, lý tưởng, khát vọng và ham muốn tột
bậc của danh nhân văn hoá Hồ Chí Minh: nước ta được hoàn toàn độc lập,
dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội phản
ánh tính triệt để cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó đặt
vấn đề giải phóng con người, hạnh phúc của con người ở mục tiêu cao
nhất của sự nghiệp cách mạng.
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
2.1. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với tiến lên chủ nghĩa xã hội

Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là cơ sở tiền đề để tiến
lên chủ nghĩa xã hội
: Theo Hồ Chí Minh, con đường cách mạng Việt Nam
có hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Trong cách mạng dân tộc dân chủ có hai nhiệm vụ chiến
lược cơ bản, trong đó giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ
dân chủ được rải ra thực hiện từng bước và phục tùng nhiệm vụ giải phóng
dân tộc. Vì thế, ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ thì độc lập dân tộc
là mục tiêu trực tiếp, trước mắt, cấp bách. Kết luận này được Hồ Chí Minh
rút ra từ sự phân tích tình hình thực tế và những mâu thuẫn khách quan
tồn tại của xã hội Việt Nam thuộc địa nửa phong kiến. Lịch sử phát triển
loài người chứng tỏ, độc lập dân tộc là khát vọng mang tính phổ biến.
Với dân tộc Việt Nam, đó còn là một giá trị thiêng liêng, được bảo vệ và
giữ gìn bởi máu xương, sức lực của biết bao thế hệ người Việt Nam. Với Hồ
Chí Minh, độc lập dân tộc bao hàm trong đó cả nội dung dân tộc và dân
chủ. Đó là nền độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, chứ không phải là thứ
độc lập giả hiệu, độc lập nửa vời, độc lập hình thức. Trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ của đất nước, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn với tự do, dân 8
chủ, ấm no hạnh phúc của nhân dân lao động. Khi nhấn mạnh mục tiêu
độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh không bao giờ coi đó là mục tiêu cuối cùng
của cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giành độc lập để đi
tới xã hội cộng sản; độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc là mục tiêu cốt yếu, trực tiếp của cách mạng dân tộc dân
chủ, là mục tiêu trước hết của quá trình cách mạng Việt Nam do Đảng
Cộng sản lãnh đạo, đồng thời là điều kiện hàng đầu, quyết định để cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang giai đoạn kế tiếp - cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, cách mạng dân tộc dân chủ càng triệt để
thì những điều kiện tiến lên chủ nghĩa xã hội càng được tạo ra đầy đủ.
Tính chất tạo tiền đề của cách mạng dân tộc dân chủ được thể hiện:
- Về chính trị: xác định và xây dựng các yếu tố của hệ thống chính trị do
giai cấp công nhân lãnh đạo. - Về kinh tế: bước đầu xây dựng được các cơ
sở kinh tế mang tính chất xã hội chủ nghĩa, từng bước cải thiện đời sống nhân dân.
- Về văn hoá, xã hội, đời sống tinh thần: trong cách mạng dân tộc dân
chủ, khối quần chúng công - nông - trí thức và các giai tầng xã hội khác đã
có ý thức giác ngộ, đoàn kết trong một mặt trận dân tộc thống nhất;
những nhân tố mới của văn hoá, giáo dục đã được hình thành dưới ánh
sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tóm lại, độc lập
dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân lao động tự quyết định con
đường đi tới chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Theo
tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời đại mới chủ nghĩa xã hội là xu hướng phát
triển tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Điều này làm cho
con đường cứu nước giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh khác biệt về chất
với con đường cứu nước những năm đầu thế kỷ ở nước ta và nhiều nhân
vật nổi tiếng trên thế giới. Cách mạng Việt Nam thuộc phạm trù cách
mạng vô sản. Điều đó quyết định vai trò lãnh đạo cách mạng tất yếu
thuộc về giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản
Việt Nam. Lực lượng tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc là toàn dân
Việt Nam yêu nước mà nòng cốt là khối liên minh công - nông - trí thức.
Những nhân tố này lại quy định tính tất yếu dẫn đến phương hướng phát
triển lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng giải phóng dân tộc. Rõ ràng định
hướng đi lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
Việt Nam được chi phối và chế định bởi các nhân tố bên trong của cuộc
cách mạng đó. Chủ nghĩa xã hội là con đường củng cố vững chắc độc lập
dân tộc, giải phóng dân tộc một cách hoàn toàn triệt để:
Về lý luận, độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội thể hiện mối quan
hệ giữa mục tiêu trước mắt và mục tiêu cuối cùng; mối quan hệ giữa hai
giai đoạn của một quá trình cách mạng. Lôgíc lịch sử khách quan cho thấy:
thực hiện mục tiêu trước mắt là điều kiện tiên quyết để đi tới mục tiêu
cuối cùng và chỉ thực hiện được mục tiêu cuối cùng thì mục tiêu trước mắt
mới củng cố vững chắc một cách hoàn toàn, triệt để. Giữa hai giai đoạn
cách mạng không có bức tường ngăn cách, cách mạng dân tộc dân chủ 9
xác lập cơ sở, tiền đề cho cách mạng xã hội chủ nghĩa, cách mạng xã hội
chủ nghĩa khẳng định và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn liền với đời sống
ấm no, hạnh phúc của quần chúng nhân dân, những người đã trực tiếp
làm nên thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ. Để đảm bảo vững chắc
độc lập dân tộc, để không rơi vào lệ thuộc, đói nghèo lạc hậu, chặng
đường tiếp theo chỉ có thể là đi lên chủ nghĩa xã hội. Do những đặc trưng
nội tại của mình, chủ nghĩa xã hội sẽ củng cố những thành quả đã giành
được trong cách mạng dân tộc dân chủ, tạo điều kiện để bảo đảm cho độc
lập và phát triển dân tộc. Tư tưởng độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh mang
một nội dung sâu sắc, triệt để: độc lập tự do, ấm no, hạnh phúc. Chủ
nghĩa xã hội không chỉ củng cố những giá trị nêu trên, mà còn làm phong
phú thêm về mặt nội dung, xác lập các điều kiện để hiện thực hoá các nội
dung đó. Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản mới giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ; chỉ có
cách mạng xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm cho một nền độc lập thật sự,
chân chính Chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một xã hội tốt
đẹp, xoá bỏ mọi áp bức, bóc lột; công bằng hợp lý - làm nhiều hưởng
nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng; bảo đảm phúc lợi cho
người già, trẻ mồ côi; một xã hội có nền sản xuất phát triển gắn liền với sự
phát triển khoa học - kỹ thuật và không ngừng nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân lao động. Đó là một xã hội có kỷ cương, đạo đức,
văn minh trong đó người với người là bạn bè, đồng chí, anh em, mọi người
được phát triển hết khả năng của mình; hòa bình hữu nghị, làm bạn với
các nước; một xã hội do nhân dân lao động làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội chính là xây dựng tiềm
lực phát triển của dân tộc trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội. Với các thiết chế đó và nền tảng tinh thần riêng có, chủ nghĩa
xã hội có khả năng vận động liên tục, tự bảo vệ vững chắc các thành quả
cách mạng của nhân dân. Trên phạm vi quốc tế, chủ nghĩa xã hội lớn
mạnh sẽ có sức hấp dẫn thu hút các dân tộc, đặc biệt các dân tộc chậm
phát triển đi theo con đường chủ nghĩa xã hội; mặt khác chủ nghĩa xã hội
sẽ là bệ đỡ của hoà bình thế giới, hạn chế và ngăn chặn các cuộc chiến
tranh đế quốc, chiến tranh xâm lược, xoá bỏ tình trạng dân tộc này đi áp
bức dân tộc khác. Hồ Chí Minh chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội càng phát triển,
càng đạt đến độ chín muồi thì các tiềm lực, nhất là tiềm lực vật chất kỹ
thuật của dân tộc càng mạnh, đất nước càng có điều kiện củng cố độc lập
của mình, tăng cường khả năng phòng thủ. Không có một chế độ xã hội
nào có thể đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc bằng chủ nghĩa xã hội.
Trong toàn bộ cấu trúc nội tại của mình, chủ nghĩa xã hội thể hiện khả
năng tự bảo vệ và biết cách bảo vệ.
Hồ Chí Minh đã khẳng định, trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động
là người chủ duy nhất. Đó là sự khác biệt về chất giữa chủ nghĩa xã hội với 10
các chế độ xã hội trước đó. Chế độ dân chủ là chế độ do nhân dân làm
chủ, dân chủ là vấn đề thuộc bản chất của nhà nước ta. Theo Hồ Chí Minh,
dân chủ xã hội chủ nghĩa phải được phát huy trên tất cả các lĩnh vực, phải
được thể chế hoá bằng pháp luật, được hoàn thiện, nâng cao trong quá
trình phát triển kinh tế, xã hội và nâng cao dân trí. Đây là điều kiện cơ bản
và quyết định vận mệnh của dân tộc, tạo ra sức đề kháng trên phạm vi xã
hội, loại trừ và có khả năng chống trả bất kỳ một hành động nào đe dọa
độc lập, tự do của dân tộc. Thực hiện được một xã hội như vậy thì độc lập
dân tộc mới thực sự vững chắc, sự nghiệp giải phóng dân tộc mới thắng lợi
một cách hoàn toàn và triệt để.
2.2. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội trong quá trình cách mạng Việt Nam.
Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một tất yếu lịch
sử. Nhưng để hiện thực hóa tính tất yếu này, theo Hồ Chí Minh cần phải có
những điều kiện cơ bản sau đây Trước hết, Hồ Chí Minh khẳng định, xác
lập, tăng cường vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng Cộng sản là
điều kiện cơ bản để độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Không
có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì cách mạng Việt Nam không thể vận
động theo cách mạng vô sản và chắc chắn sự nghiệp độc lập dân tộc sẽ đi
theo vết xe đổ của các phong trào cứu nước trước đó. Một khi Đảng Cộng
sản đánh mất vai trò lãnh đạo thì chế độ xã hội chủ nghĩa sẽ sụp đổ, cách
mạng bị phản bội và hoàn toàn chệch hướng. Thực tiễn ở Liên Xô và các
nước Đông Âu, đầu những năm 90 của thế kỷ XX đã chứng tỏ điều đó. Hồ
Chí Minh chỉ ra rằng, với tư cách là điều kiện cơ bản bảo đảm để độc lập
dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
được thể hiện trên các mặt chủ yếu sau đây:
- Hoạch định cương lĩnh, đường lối, chủ trương để đưa sự nghiệp của
dân tộc phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Lãnh đạo xã hội, trước hết là lãnh đạo nhà nước thực hiện thắng lợi
cương lĩnh độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội bằng cách thông
qua tổ chức và đội ngũ cán bộ, đảng viên của mình.
- Thông qua công tác kiểm tra, kể cả kiểm tra trong nội bộ Đảng và lãnh
đạo công tác kiểm tra trong các tổ chức của hệ thống chính trị để lãnh đạo
toàn dân giành độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt
Nam mang tính khách quan. Để hoàn thành sứ mệnh của mình, Đảng phải
trong sạch, vững mạnh và thường xuyên chỉnh đốn để nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu, đủ trí tuệ, đủ bản lĩnh vượt qua những thử thách
gay gắt nhất, phải thực hiện xây dựng Đảng về mọi mặt: chính trị, tư
tưởng và tổ chức, trong đó công tác cán bộ bao giờ cũng là vấn đề cốt tử.
Xây dựng, củng cố và tăng cường khối liên minh giai cấp công nhân,
nông dân và trí thức làm nền tảng khối đại đoàn kết dân tộc. Quan niệm 11
của Hồ Chí Minh về lực lượng cách mạng Việt Nam trong quá trình thực
hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội là hết
sức sáng tạo. Người xác định: công - nông là gốc, là chủ lực của cách
mạng, các giai tầng, cá nhân yêu nước là bầu bạn của cách mạng. Khi đất
nước bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội Người đòi hỏi công nông trí thức
đoàn kết lại. Tất cả được tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Hồ
Chí Minh cho rằng trong cách mạng dân tộc dân chủ cũng như cách mạng
xã hội chủ nghĩa đều cần đến và không thể thiếu được Mặt trận dân tộc
thống nhất. Mặt trận được xây dựng theo tư tưởng Hồ Chí Minh có hạt
nhân cốt lõi là liên minh công - nông và trí thức để đoàn kết toàn dân
thành một khối. Hạt nhân và toàn dân là mối quan hệ biện chứng được Hồ
Chí Minh quan tâm đúng mức cả hai, không coi nhẹ hoặc thiên lệch bên
nào. Mặt trận đó được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh chỉ rõ Việt Nam là một bộ phận của thế giới, cách mạng
Việt Nam và cách mạng thế giới liên hệ chặt chẽ với nhau. Suốt cuộc đời
hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn có những chủ trương,
đường lối và biện pháp phù hợp để tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các
lực lượng cách mạng, hoà bình dân chủ trên thế giới. Thắng lợi của cách
mạng Việt Nam Tháng Tám 1945, trong những năm chống Pháp, chống
Mỹ, trong thời kỳ hoà bình, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều không tách
rời sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế. Ba nhân tố nêu trên gắn bó chặt chẽ với
nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp quyết định mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Hồ Chí Minh kết luận: “Đó là ba bài học lớn mà mỗi cán bộ và
đảng viên ta cần ghi sâu vào lòng và phát huy thêm mãi”. Như vậy, độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan. Tính
tất yếu đó chỉ được hiện thực hoá khi gắn liền với những điều kiện bảo
đảm, trong đó yếu tố quan trọng nhất là xác lập và tăng cường vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
III. THỰC HIỆN ĐỘC LẬP DÂN TỘC Ở VIỆT NAM, TIẾN LÊN CON
ĐƯỜNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
3.1. Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền

với chủ nghĩa xã hội
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
ra đời và phát triển ở thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi thế giới. Tư tưởng đó hình thành ở Hồ Chí Minh từ đầu
những năm 20 và đến mùa xuân năm 1930 với sự kiện Hồ Chí Minh sáng
lập Đảng Cộng sản Việt Nam thì con đường cách mạng độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã thành ngọn cờ dẫn dắt giai cấp công nhân
và toàn thể dân tộc Việt Nam liên tục giành những thắng lợi lịch sử suốt
hơn 70 năm qua. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội được thể hiện trên thực tế, có thể chia ra làm ba thời kỳ. Thời
kỳ 1930-1945: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, thông qua cương lĩnh vắn
tắt, sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo.
Trong đó, Đảng Đảng Cộng sản Việt Nam tuyên bố sẽ làm cách mạng tư 12
sản dân quyền và cách mạng ruộng đất, đấu tranh xây dựng một xã hội tự
do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ cập giáo dục. Đảng xác định mục tiêu
đánh đổ thực dân Pháp và chế độ phong kiến, lấy ruộng đất chia cho dân
nghèo Dưới sự lãnh đạo của Đảng, 20 triệu nhân dân Việt Nam đã tiến
hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, đỉnh cao là cuộc tổng khởi nghĩa
Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, chấm dứt chế độ phong kiến kéo
dài hàng nghìn năm, chấm dứt sự đô hộ của thực dân Pháp sau gần một
thế kỷ. Thắng lợi vĩ đại này của dân tộc Việt Nam đã đưa nước ta bước
sang một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Ở thời kỳ này tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội được thể hiện qua những hoạt động lý luận và thực tế chủ yếu sau đây của Hồ Chí Minh:
- Xác định tính chất cách mạng Việt Nam: giải phóng dân tộc bằng con
đường cách mạng vô sản, gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp,
nhân dân lao động, với toàn thể dân tộc bị nô lệ dưới ách đế quốc Pháp và
tay sai của chúng; xác định nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng Việt Nam
“làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản”. Con đường cách mạng Việt Nam được Hồ Chí Minh thể hiện rõ
nét trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
- Xác định đối tượng đấu tranh của cách mạng Việt Nam là đế quốc xâm
lược, phong kiến tay sai, tầng lớp tư sản và địa chủ chống lại độc lập dân tộc.
- Xác định rõ lực lượng cách mạng Việt Nam là toàn thể nhân dân, bao
gồm công nhân, nông dân, tầng lớp tiểu tư sản, tư sản dân tộc, trung, tiểu
địa chủ, các cá nhân yêu nước, trong đó nòng cốt là liên minh công - nông.
Lực lượng cách mạng hùng hậu này được tập hợp dưới ngọn cờ giải phóng
dân tộc do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
- Xác định đúng đắn cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam là một bộ
phận của cách mạng vô sản thế giới, có mối quan hệ khăng khít với cách
mạng vô sản “chính quốc”, cách mạng giải phóng dân tộc có tính chủ
động, có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản “chính quốc", tác
động tích cực tới cách mạng “chính quốc".
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Hồ Chí Minh, Cách mạng Tháng Tám
1945 đã giành thắng lợi. Đó là thắng lợi lịch sử đầu tiên của tư tưởng Hồ
Chí Minh về con đường cách mạng giải phóng dân tộc thuộc phạm trù
cách mạng vô sản. Thắng lợi này đã mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ 1945-1954: Đảng lãnh đạo toàn dân tiến hành cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc thắng lợi bằng chiến dịch
lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Mục tiêu của giai đoạn này là
tiến hành thành công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập,
tự do, cụ thể hóa tư tưởng của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, mục tiêu này mới đạt được ở miền Bắc. 13
Sau hiệp định Giơnevơ (20/7/1954) nước ta tạm thời bị chia cắt thành
hai miền Nam - Bắc. Sau khi hòa bình lập lại, miền Bắc tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa, trở thành hậu phương lớn cho cách mạng giải
phóng dân tộc ở miền Nam. Đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội trong giai đoạn này là hai chiến lược cách mạng: cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng giải phóng dân tộc ở miền
Nam. Thời kỳ bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng những cơ sở đầu tiên
của chủ nghĩa xã hội, thực hiện “kháng chiến và kiến quốc”.
Ở thời kỳ này Hồ Chí Minh tiếp tục bổ sung, phát triển những quan điểm
lý luận về con đường cách mạng Việt Nam. Nội hàm khái niệm cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, chế độ dân chủ mới đã được Hồ Chí Minh làm
rõ bằng cách xác định mục tiêu, động lực, các điều kiện bảo đảm thắng lợi
của từng giai đoạn cách mạng, trong mỗi giai đoạn đều kết hợp giải quyết
các nhiệm vụ dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, tạo tiền đề đẩy cách
mạng phát triển lên giai đoạn cao hơn nhưng cũng khó khăn phức tạp hơn.
Để thực hiện mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh kiên trì quan điểm phát
huy cao độ ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đi đôi với ra sức tranh
thủ sự ủng hộ và giúp đỡ quốc tế.
Nét độc đáo, đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách
mạng Việt Nam ở thời kỳ này là Người đã đề ra và thực thi nhất quán
đường lối “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”. Đường lối đó phù hợp với quy
luật phát triển lịch sử dân tộc: dựng nước đi đôi với giữ nước, bảo vệ độc
lập của Tổ quốc và xây dựng từng bước chế độ mới. Trong hoàn cảnh hiểm
nghèo, Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách linh hoạt, mềm dẻo phương
pháp “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc, phân
hoá, cô lập kẻ thù, tăng cường sức mạnh đoàn kết toàn dân, tranh thủ
được sự giúp đỡ, ủng hộ của quốc tế. Tài thao lược, bản lĩnh kiên cường,
khả năng quyết đoán của Hồ Chí Minh dựa trên sự hiểu biết thấu đáo thực
tiễn đất nước, quy luật và xu thế phát triển của dân tộc, thời đại, vững
vàng lái con thuyền cách mạng Việt Nam đến bến bờ thắng lợi huy hoàng.
Thời kỳ 1954-1975: cả nước dốc lòng cho sự nghiệp giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước. Khát vọng hòa bình, độc lập dân tộc đã khơi
dậy truyền thống dựng nước và giữ nước của ông cha, truyền thống chiến
thắng giặc ngoại xâm của dân tộc. Cả nước xuống đường, cả nước hướng
về miền Nam ruột thịt theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
ta "Tất cả cho tiền tuyến". Lịch sử Việt Nam chưa lúc nào được chứng kiến
sự kết hợp giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên phạm vi, quy mô
lớn như thời điểm này của cách mạng. Sau chiến dịch Hồ Chí Minh trong
cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, miền Nam được hoàn toàn
giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước bước vào kỷ nguyên mới: kỷ
nguyên xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước - kỷ nguyên của
độc lập, tự do, thống nhất và chủ nghĩa xã hội. Thời kỳ Hồ Chí Minh tiếp
tục hoàn thiện, bổ sung, phát triển tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới. Ở thời kỳ này sáng tạo lý luận 14
của Hồ Chí Minh thể hiện tập trung trong việc xây dựng và chỉ đạo đường
lối tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, thống
nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Quan điểm, tư tưởng
nêu trên được thể hiện ở các nội dung chính sau đây:
- Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng
đắn thành công mối quan hệ giữa cách mạng hai miền. Trong mối quan hệ
này, Hồ Chí Minh xác định rất rõ vị trí, vai trò nhiệm vụ cách mạng từng
miền và tác động lẫn nhau của chúng. Về thực chất, đây là sự cụ thể hoá
nội dung con đường cách mạng vô sản, sự gắn bó chặt chẽ giữa nhiệm vụ
dân tộc, dân chủ với chủ nghĩa xã hội - con đường mà Hồ Chí Minh đã đề
xuất và kiên trì bảo vệ.
- Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn chỉnh và phát triển lý luận về cách mạng giải
phóng dân tộc, xác định rõ kẻ thù số một mà dân tộc ta cần tập trung mọi
lực lượng để đánh đổ là đế quốc Mỹ. Hồ Chí Minh nêu tư tưởng “không có
gì quý hơn độc lập tự do” thể hiện ý chí, quyết tâm lớn lao của cả dân tộc
trong việc bảo vệ giá trị thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Về tập hợp lực
lượng, Hồ Chí Minh có những quan niệm và cách làm sáng tạo, trên cơ sở
đánh giá đúng vị trí, vai trò của chiến lược đại đoàn kết trong chiến tranh
cách mạng. Hồ Chí Minh đã xây dựng cho cách mạng Việt Nam cái nền sức
mạnh của “ba tầng mặt trận”: Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam
chống Mỹ, cứu nước; Mặt trận ba nước Đông Dương cùng chống Mỹ; Mặt
trận nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ. Sức mạnh
của “ba tầng mặt trận" đã tạo cho cách mạng Việt Nam trở thành vô địch.
- Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn thiện lý luận cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã xây dựng một quan
niệm tương đối hoàn chỉnh, thống nhất về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Quan niệm của Hồ Chí Minh chủ nghĩa
xã hội mang tính hệ thống, có nhiều nội dung phát triển sáng tạo, nhưng
vẫn trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh đã làm rõ đặc
điểm lớn nhất của Việt Nam khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù của công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi một nước. Đặc biệt, Hồ Chí Minh đã
có những chỉ dẫn khoa học về những cách thức, phương thức, biện pháp,
bước đi thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời. Biến đau thương thành
hành động cách mạng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta quán triệt sâu
sắc quan điểm của Người tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,
giải phóng miền Nam thống nhất tổ quốc. Thông qua chiến dịch mang tên
Hồ Chí Minh, sự nghiệp cách mạng đó đã giành thắng lợi trọn vẹn vào
ngày 30-4-1975. Chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh đất
nước gặp muôn vàn khó khăn, thách thức to lớn: đất nước bị chiến tranh
tàn phá; Mỹ và phương Tây tiến hành bao vây, cô lập, cấm vận Việt Nam;
các thế lực phản động quốc tế phát động kiểu "chiến tranh phá hoại nhiều 15
mặt"chống phá Việt Nam; nền kinh tế nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng
nghiêm trọng kéo dài nhiều năm. Sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta
khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
(1986) đã từng bước hồi sinh đất nước về mọi mặt. Trước những bối cảnh
mới của tình hình, Đảng ta luôn xác định phải giương cao ngọn cờ "Độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội". Công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội
chủ nghĩa là một chủ trương chiến lược đúng đắn, phù hợp với quy luật
khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; tạo điều kiện, tiền
đề cho chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới,
Đảng ta vẫn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong
mối liên hệ gắn kết biện chứng.
3.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội trong sự nghiệp đổi mới
3.2.1. Quan điểm và các chính sách của Đảng về độc lập dân tộc gắn liền
với xã hội chủ nghĩa.
Tại Đại hội II, nhận thức của Đảng về mối quan hệ biện chứng giữa độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH) tiếp tục được khẳng định, bổ sung,
phát triển, làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận từ thực tiễn cách mạng
Việt Nam. Đây là con đường mà Đảng và nhân dân Việt Nam lựa chọn từ
năm 1930, con đường phát triển theo quy luật khách quan của lịch sử xã
hội loài người nói chung.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam tồn tại hai mâu thuẫn cơ
bản là mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp; yêu cầu bức bách của
dân tộc Việt Nam lúc này là phải tìm ra con đường giải quyết một cách
triệt để đồng thời hai mâu thuẫn đó nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Thắng lợi của cuộc Cách
mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã làm cho CNXH từ lý luận trở thành
hiện thực, mở ra thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
CNXH trên phạm vi thế giới. Vào thời điểm lịch sử ấy, lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc, với kinh nghiệm hoạt động thực tiễn phong phú, thấm nhuần tri
thức lý luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đã khẳng
định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản
”. Con đường độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH phản ánh sự lựa chọn khách quan của chính thực tiễn, mang tính
đặc thù Việt Nam, đã được Đảng ta khẳng định. Chủ trương chiến lược
cách mạng đó được tiếp tục phát triển thêm một bước tại Hội nghị Trung
ương 8 (tháng 5-1941), dưới sự chỉ đạo trực tiếp của lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc. Độc lập dân tộc là điều kiện, là tiền đề giải phóng giai cấp, xã hội và
con người để đi tới CNXH. Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm
1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là thắng lợi của
chủ nghĩa Mác - Lê-nin, được vận dụng sáng tạo, phù hợp với thực tiễn
Việt Nam, phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử xã hội loài người
trong thời đại mới. Ngay sau khi giành được độc lập, bắt tay vào xây dựng
Nhà nước dân chủ nhân dân, Đảng đã đồng thời lãnh đạo toàn dân tộc tiếp 16
tục sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước. Trước sự trở lại xâm lược của
thực dân Pháp (ngày 23-9-1945), Việt Nam chưa có điều kiện trực tiếp tiến
lên CNXH. Củng cố và giữ vững nền độc lập dân tộc vừa giành lại được là
nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và của toàn dân tộc.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV - đại hội thống nhất Tổ quốc, cả nước
đi lên chủ nghĩa xã hội đã khẳng định: "Trong quá trình lãnh đạo cách
mạng, khi cả nước làm một nhiệm vụ chiến lược hoặc làm hai nhiệm vụ
chiến lược, Đảng ta từ khi ra đời đến nay vẫn luôn luôn giương cao ngọn
cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đó là đường lối, là sức mạnh, là
nguồn gốc mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam". Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII thông
qua đã khẳng định trong thời kỳ đổi mới: "Toàn Đảng, toàn dân tiếp tục
nắm vững ngọn cờ độc lập, dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ vinh
quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và thế hệ mai sau”.
Hiện nay, cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam vẫn đang tiếp diễn. Đảng ta khẳng định: "Trong giai đoạn đổi mới,
phải giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Trong bất kỳ
tình huống nào cũng phải thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Trong quan hệ quốc tế phức tạp, chằng chéo như hiện
nay, để thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước
ta, đòi hỏi phải có nhận thức sâu sắc các yếu tố tác động đến độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội. Chiến tranh lạnh trên thế giới kết thúc, hoà bình,
hợp tác phát triển là xu thế chung, nhưng cuộc đấu tranh dân tộc và giai
cấp vẫn diễn biến phức tạp, gay gắt. Nguy cơ xung đột vũ trang và chiến
tranh cục bộ vẫn chưa bị loại trừ; mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc, tôn giáo,
tranh chấp lãnh thổ nổ ra ở nhiều nơi và gây mất ổn định nhiều khu vực.
Chủ nghĩa đế quốc đang lợi dụng ưu thế về kinh tế và kỹ thuật, nhân danh
chống khủng bố, để thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình” can thiệp
vào công việc nội bộ các nước, buộc các nước xã hội chủ nghĩa, các nước
đang phát triển đi vào quỹ đạo của chúng. Hiện nay giao lưu kinh tế, giao
lưu văn hoá giữa các dân tộc tăng lên. Trong khi giao lưu văn hoá phát
triển mạnh mẽ, thì các nước đang phát triển cũng đứng trước sự “xâm
lăng văn hoá” từ phía các nước đế quốc.
Trong bối cảnh hiện nay, quan niệm về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội phải được chú ý toàn diện từ độc lập về lãnh thổ, về chủ quyền an ninh
quốc gia đến độc lập, tự do về kinh tế, chính trị, văn hóa, lối sống và đạo
đức xã hội. Không thể có và không thể chấp nhận quan niệm nhân quyền
cao hơn chủ quyền quốc gia. Việc rêu rao nhân quyền của các nước tư
bản, trước hết là Mỹ, thực chất là một hình thức mỵ dân, lấy cớ nhân
quyền đề can thiệp vào công việc nội bộ nước khác. Không thể có độc lập
tự do về chính trị nếu bị lệ thuộc về kinh tế. Không thể giữ vững độc lập tự 17
chủ nếu lối sống, đạo đức xã hội bị suy thoái, văn hoá dân tộc bị coi rẻ hoặc bị biến dạng.
Để thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược hiện nay cần chú ý một số
nguyên tắc có tính chất phương pháp luận:
- Xây dựng thành công xã hội xã hội chủ nghĩa, bảo vệ vững chắc độc lập
dân tộc trước hết phải bằng nguồn nội lực của đất nước, không lệ thuộc
vào bên ngoài, nhưng phải biết tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi
để gia tăng nguồn lực phát triển quốc gia. Kết hợp sức mạnh dân tộc và
sức mạnh thời đại theo tư tưởng Hồ Chí Minh để thực hiện thành công hai nhiệm vụ chiến lược.
- Trên cơ sở nhận thức toàn cầu hoá, khu vực hoá và kinh tế là một tất
yếu khách quan, từ đó xác định rõ các bước đi và chủ động hội nhập phù
hợp với năng lực của đất nước. Hội nhập phải làm tăng sức mạnh đất nước
và làm giàu bản sắc dân tộc.
- Độc lập dân tộc gắn bó chặt chẽ với chủ nghĩa xã hội phải được thể
hiện trong suốt quá trình cách mạng trên mọi lĩnh vực của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3.2.2. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong tiến trình đổi mới.
Ngày nay, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội chỉ có thể có được nếu
Đảng và nhân dân ta giải quyết thành công hàng loạt vấn đề trên tất cả
các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, đối nội và đối ngoại theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, trung thành với con đường Hồ Chí Minh đã
vạch ra. Đảng ta khẳng định trong bất kỳ tình huống nào, cũng phải giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đề phòng và chống nguy cơ
chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, đang xuất hiện nhiều vấn đề lý
luận nằm trong tổng thể quan niệm chung về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Nhu cầu phát triển đất nước đang đặt ra, đòi lại phải nhận diện và hiểu
biết về chủ nghĩa xã hội vừa mang tính tổng thể, vừa trong những chi tiết, đường nét cụ thể.
Do vậy, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, trước hết cần làm sáng tỏ các vấn đề cơ bản sau:
- Cả trong lý luận và thực tiễn cần khẳng định vấn đề định hướng đưa
đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội là duy nhất đúng đắn, phù hợp với
nguyện vọng của dân tộc và xu thế thời đại.
- Làm rõ và cụ thể hoá mục tiêu của đổi mới theo định hướng xã hội chủ
nghĩa là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sức
hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội, trước hết là ở mục tiêu mang đậm bản chất nhân văn này.
- Xác định rõ bản chất đặc trưng và mô hình cấu trúc của chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. - Làm rõ các động lực phát triển của chủ nghĩa xã hội,
trong đó động lực con người với nhu cầu và lợi ích của họ giữ vị trí trung 18
tâm. Mặt khác việc phát hiện động lực, có chính sách phát huy và kết hợp
các động lực phát triển sẽ làm cho chủ nghĩa xã hội sinh động, năng động và mang tính thực tiễn.
- Xác định rõ bước đi và cách làm chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong
công cuộc đổi mới hiện nay con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội đang bị chi phối, tác động mạnh mẽ của rất nhiều
yếu tố khách quan và chủ quan; thách thức rất lớn, nhưng cũng rất nhiều
thời cơ, vận hội. Trên cơ sở quan niệm đúng đắn của Hồ Chí Minh về độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lại có kinh nghiệm thực tiễn hơn 70 năm
qua, đặc biệt là thực tiễn của gần 20 năm đổi mới, cho phép chúng ta hiểu
được thực chất con đường độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội trong
bối cảnh hiện nay. Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội là nhu cầu
sống còn, là sự lựa chọn duy nhất đúng của Việt Nam.
IV. KẾT LUẬN QUAN ĐIỂM CỦA BẢN THÂN VỀ VẤN ĐỀ ĐỘC LẬP
DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
4.1. Tổng quát
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập năm 1930 đến nay, độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội luôn là mục tiêu được Đảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết tâm thực hiện. Thực tiễn hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và gần ba mươi năm đổi mới đất nước
đã chứng minh giành, giữ độc lập dân tộc gắn với xây dựng chủ nghĩa xã
hội như một quy luật tất yếu khách quan, phù hợp với sự vận động phát
triển sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Trong tiến trình đổi mới, Đảng nhận diện ngày càng rõ hơn vấn đề độc
lập dân tộc và CNXH trước bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu
rộng. Tiến trình đổi mới là sự tiếp tục vận động của những quan niệm mới
về CNXH và con đường xây dựng CNXH của Đảng, được hình thành dựa
trên những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế
thừa những nhận thức đúng đắn mà Đảng đã tích lũy được trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là mục tiêu, là nội dung nổi bật,
xuyên suốt và chủ đạo trong quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt
Nam. Đường lối độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là một trong những
nguyên nhân của mọi thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp cách mạng của
dân tộc và mãi là ánh sáng soi đường cho sự nghiệp đổi mới, thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu
rộng trong thế kỷ XXI của Đảng và nhân dân Việt Nam. Ngày nay, độc lập
dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, tư tưởng “không có gì quý hơn độc lập
tự do” vẫn giữ nguyên giá trị và sức sống của nó. Bởi vì, tình hình quốc tế
diễn biến phức tạp, thay đổi khó lường. Hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn
là xu thế lớn. Nhưng xung đột vũ trang, tranh chấp lãnh thổ, khủng bố 19
quốc tế, xung đột dân tộc, tôn giáo... vẫn diễn ra ở nhiều nơi. Cách mạng
khoa học công nghệ và toàn cầu hóa tạo cơ hội cho các nuớc phát triển,
nhưng cạnh tranh, tranh giành thị trường, các nguồn nguyên liệu, năng
lượng, nguồn lực khoa học công nghệ giữa các quốc gia, các tập đoàn kinh
tế diễn ra quyết liệt, đặt các quốc gia, nhất là các nước đang và kém phát
triển trước những thách thức gay gắt.
Thực tiễn trên thế giới, nhiều nước sau khi giành được độc lập đưa đất
nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa đang rơi vào tình trạng nghèo
đói, khó khăn, chiến tranh, xung đột sắc tộc, tôn giáo, phe phái. Sự nghèo
đói, chậm phát triển làm cho quốc gia đó không thể có độc lập thật sự.
Nhiều nước trước đây là chủ nghĩa xã hội, trong công cuộc cải tổ, cải cách
đã mắc sai lầm cơ bản về đường lối cách mạng, thậm chí phản bội lại chủ
nghĩa xã hội, muốn đưa đất nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa hay
“xã hội dân chủ” với ảo tưởng mong chờ vào sự giúp đỡ của thế giới tư
bản nhưng hiện nay đang rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng về
kinh tế - xã hội, về con đường phát triển của đất nước; nhiều định hướng
giá trị của xã hội bị đảo lộn; xung đột sắc tộc, tôn giáo, phe phái gia tăng;
đời sống của người lao động ngày càng khó khăn, tình trạng phân hóa
giàu nghèo ngày càng gia tăng; đặc biệt tác động của đại dịch COVID-19
đến kinh tế, đời sống của người dân và cách giải quyết của các nước làm
cho vị thế của các nước đó trên trường quốc tế ngày càng giảm sút; đồng
thời, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, dù phải đối mặt với xu thế toàn
cầu hoá, với tất cả mặt tích cực và tiêu cực, bất trắc; mãi mãi giương cao
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
nhân dân ta tiếp tục giành thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp đổi
mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh, đưa đất nước ta sánh vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới.
4. 2. Liên hệ bản thân.
Theo em, nghĩ tư tưởng của Hồ Chí Minh về độc lập xã hội liên quan
đến chủ nghĩa xã hội là ý kiến đúng đắn và nó nằm trên con đường cách
mạng của cả nước Việt Nam.
Chủ nghĩa xã hội gắn liền với những quan niệm đúng đắn về độc lập
dân tộc: Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, đặc biệt là bước đệm để
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi
với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa trong công cuộc đổi mới. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội chỉ có
thể thực hiện được nếu đảng và nhân dân giải quyết thành công một số
vấn đề trên mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, trong và ngoài
nước, luôn trung thành với con đường Hồ Chí Minh đã vạch ra. Đảng ta 20
nêu rõ, trong mọi tình huống phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa,
ngăn chặn và kiên quyết chống nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức sai lầm về Độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội: Chủ nghĩa
xã hội trên thế giới đã có những dấu hiệu phát triển tích cực kể từ sau
khủng hoảng và sụp đổ, nhiều nước Mỹ – Latinh đã tuyên bố xây dựng chủ
nghĩa xã hội trong thế kỷ 21 là lý do của sự đổi mới chủ nghĩa xã hội. Đất
nước ta đã đạt được những thắng lợi, thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử …
Nhưng các thế lực thù địch vẫn luôn thể hiện âm mưu “diễn biến hòa
bình” dẫn đến tình trạng bất ổn dưới chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”,
“dân tộc” làm lũng đoạn nền hành chính chính trị của đất nước.
Trước những diễn biến trên, ý đồ đen tối nhằm lật đổ tư tưởng Hồ Chí
Minh về toàn bộ di sản của cách mạng nước ta và lật đổ chính quyền của
nước ta. Vì vậy, điều cần thiết là chúng ta phải vững tin vào con đường
của Bác Hồ, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong
giai đoạn cách mạng hiện nay, tiếp tục công cuộc đổi mới và công nghiệp hóa.
Bản thân em là một học sinh luôn tích cực học tập và rèn luyện để trở
thành một công dân tương lai luôn là người có tư tưởng chính trị vững
vàng theo đường lối độc lập xã hội chủ nghĩa của Đảng và Bác Hồ. Luôn
nỗ lực học tập, ứng dụng thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, nâng cao năng lực để nỗ lực
xây dựng đất nước. Ngoài ra, chúng ta cần phản ứng nhanh với biển bão
của thời cuộc, một năm mà chúng ta đang nắm bắt thời cơ khi đất nước
chúng ta ngày càng hội nhập, nâng cao thương hiệu quốc gia hơn.
Đồng thời không ngừng phát huy phẩm chất đạo đức cách mạng, bản
lĩnh chính trị vững vàng để tránh âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù
địch. Thực hiện tốt nhiệm vụ trở thành một con người “vừa hồng, vừa
chuyên”, nỗ lực đưa đất nước tiến lên, sánh vai cùng năm châu như Bác Hồ hằng mong muốn.
4.3. Liên hệ thực tiễn
Thế hệ trẻ Việt Nam là lực lượng đông đảo và giữ vai trò quan trọng
trong thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng cách mạng mà Đảng Cộng sản
Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn.. Đa số thế hệ trẻ hiện nay
đã thể hiện lòng trung thành với Đảng, với Tổ Quốc, luôn đi đầu trong thực
hiện các nhiệm vụ học tập, lao động sản xuất và công tác xã hội, không
ngại khó khăn, gian khổ, thể hiện sự cần cù, mưu trí, dũng cảm trong hoạt
động thực tiễn. Trong công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng
và lãnh đạo, “Tuổi trẻ giữ nước”, “Năm xung kích phát triển kinh tế - xã hội
và bảo vệ Tổ quốc” … 21
Cuộc vận động “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác” đã góp
phần quan trọng để giáo dục truyền thống, đạo đức, lối sống và cổ vũ thế
hệ trẻ vươn lên trong học tập, công tác. Hiện nay, tình hình thế giới đang
có những diễn biến rất phức tạp, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục chống
phá cách mạng nước ta với những âm mưu thủ đoạn ngày càng xảo quyệt,
tinh vi hơn. Chúng tìm mọi cách nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hòa
bình”, sử dụng những chiêu bài “dân chủ, nhân quyền”, “tự do tôn giáo”
hòng phá hoại khối đoàn kết của nhân dân ta. Thế hệ trẻ là một trong
những đối tượng mà kẻ thù luôn tìm mọi cách mua chuộc, tác động đến
nhận thức và tình cảm với mục đích làm cho thanh niên thờ ơ với các vấn
đề chính trị - xã hội, phải nhạt lý tưởng cách mạng của Đảng là độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lơ là trong học tập, công tác, suy giảm niềm
tin, buông thả trong đạo đức, lối sống. Do đó, để thực hiện tốt đường lối,
chủ trương của Đảng, vấn đề giáo dục lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, nâng cao ý thức bảo vệ Tổ quốc càng trở nên bức
thiết và cần tập trung vào các nội dung chính sau:
- Giáo dục nâng cao nhận thức về mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn
liền với với chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng ta là
thực hiện một nước Việt Nam độc lập và đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy,
cần giáo dục cho thế hệ trẻ nhận thức sâu sắc nội dung này. Làm cho họ
hiểu được nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình
hình hiện nay không chỉ là bảo vệ vùng trời, vùng biển, biên cương lãnh
thổ. Đó còn là bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị và an ninh quốc gia, trật tự an
toàn xã hội, chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu và hành động chống
phá của các thế lực thù địch. Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: “Yêu tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội,
vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mới ngày càng một ấm
no thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”. Từ đó, mỗi người cụ
thể hóa thành những hành động cách mạng trong học tập, rèn luyện và hoạt động thực tiễn.
- Giáo dục về truyền thống yêu nước của nhân dân và truyền thống kiên
cường bất khuất của dân tộc ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhân
dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu
của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại
sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua
mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả bè lũ bán nước và lũ
cướp nước”. Cần giáo dục cho thế hệ trẻ nhận thức sâu sắc truyền thống
yêu nước, tinh thần bất khuất của dân tộc ta. Qua đó, giúp thanh niên
không ngừng phát huy tinh thần yêu nước, tích cực học tập, rèn luyện biến
niềm vinh dự, tự hào thành hành động cách mạng thiết thực.
- Thường xuyên giáo dục cho thế hệ trẻ nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của
kẻ thù, biết chủ động phòng ngừa, đấu tranh kiên quyết với mọi quan
điểm và hành động sai trái. Thế hệ trẻ là lực lượng năng động, ham học 22
hỏi, thích ứng nhanh nhưng việc tiếp thu và chọn lọc thông tin còn hạn
chế. Cho nên, việc giáo dục cho họ có lập trường, bản lĩnh chính trị vững
vàng, nhận biết được những luận điệu của kẻ thù, không bị nhiễu khi tiếp
nhận thông tin, tạo ra sức “đề kháng” và “miễn dịch” cho thế hệ trẻ là
một nội dung hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với việc đấu
tranh chống lại các quan điểm thù địch. Qua đó, giáo dục lý tưởng cách
mạng, củng cố bản chất cách mạng cho họ góp phần thực hiện tốt nhiệm
vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để nâng cao hiệu quả giáo dục lý tưởng
độc lập dân tộc chủ nghĩa xã hội cho thế hệ trẻ hiện nay, cần thực hiện tốt một số biện pháp sau:
Một là, phát huy vai trò cấp ủy Đảng trong giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng
đắn của cấp ủy Đảng các cấp giữ vai trò quan trọng, đảm bảo cho công
tác giáo dục thế hệ trẻ đúng hướng, có mục tiêu rõ ràng, sát với nhiệm vụ
thực tiễn và đạt được hiệu quả cao. Cấp ủy, chi bộ Đảng cần tăng cường
lãnh đạo, định hướng giúp đỡ Ban Chấp hành Chi đoàn Thanh niên, Hội
Sinh viên trong việc bồi dưỡng lý tưởng cách mạng của Đảng, nâng cao
nhận thức chính trị, đạo đức lối sống cho thế hệ trẻ hiện nay
Hai là, phát huy vai trò của đội ngũ giảng viên, giáo dục lý tưởng độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Giảng viên, cán bộ quản lý giáo
dục trong các nhà trường là lực lượng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ giáo
dục, đào tạo nói chung và giáo dục lý tưởng cách mạng, ý thức bảo vệ Tổ
quốc nói riêng. Trong quá trình dạy học, giảng viên, giáo viên cần có sự
lồng ghép nội dung trên đây để bồi dưỡng, giáo dục cho thế hệ trẻ. Mặt
khác, đội ngũ giảng viên, giáo viên phải nêu tấm gương sáng, thực sự
thấm nhuần lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội để người học noi theo.
Ba là, phát huy vai trò xung kích của tổ chức Đoàn trong giáo dục lý
tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh là trường xã hội chủ nghĩa của thanh niên, nơi trực
tiếp quản lý giáo giáo dục đoàn viên, thanh niên. Tổ chức Đoàn phải xác
định, công tác giáo dục lý tưởng cách mạng nói chung và lý tưởng độc lập
dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội nói riêng là nhiệm vụ quan trọng.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục lý tưởng độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội cho thế hệ trẻ, tổ chức Đoàn các cấp phải
thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục cho phù
hợp với đặc điểm tâm, sinh lý của tuổi trẻ, tránh cách làm cứng nhắc, dập
khuôn, máy móc. Công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, ý thức bảo vệ Tổ
quốc phải được tiến hành thường xuyên, có trọng tâm, trọng điểm. Để
giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
cho thế hệ trẻ cần chú trọng tổ chức tốt các phong trào hành động cách
mạng của tuổi trẻ như hoạt động thi đua, giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể
dục, thể thao, vui chơi giải trí… Trên cơ sở đó định hướng tư tưởng, củng
cố niềm tin, xây dựng động cơ đúng đắn cho thế hệ trẻ. Bốn là, phát huy 23
vai trò tự học, tự rèn của thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay. Để xứng đáng với
vị trí, vai trò của mình, thế hệ trẻ hiện nay phải thường xuyên trau dồi lý
tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, ra sức học tập nâng
cao trình độ kiến thức mọi mặt, rèn luyện đạo đức lối sống, giữ gìn truyền
thống của dân tộc. Qua học tập, rèn luyện để hình thành những phẩm
chất nhân cách tốt đẹp, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./ KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá
của Đảng và dân tộc ta, một kho tàng đầy của báu, có giá trị trường tồn,
vì hướng tới tương lai, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta giành thắng lợi. Và trong giai đoạn hiện nay, tư tưởng của Bác
là những chỉ đạo cho Đảng trong công cuộc kiến thiết đất nước.
Đã 110 năm kể từ ngày Người ra đi tìm đường cứu nước, với khát vọng
đấu tranh giành độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam. Khát
vọng và tầm nhìn của Người đến giờ vẫn còn nguyên ý nghĩa lý luận và
thực tiễn sâu sắc. Trong hành trình hội nhập cùng nhân loại đi đến tương
lai, chúng ta đã ngày càng hiểu rõ hơn về giá trị nền tảng của tư tưởng Hồ
Chí Minh, tin tưởng, quyết tâm và kiên trì phấn đấu thực hiện quyền tự do,
độc lập gắn liền với tư bản chủ nghĩa cho nhân dân Việt Nam mà Người đã
chỉ ra để đất nước ta vững bước cùng nhân loại tiến vào tương lai. Hồ Chí
Minh đã sớm phát hiện ra giá trị của chủ nghĩa xã hội. Chế độ xã hội chủ
nghĩa theo quan điểm của Người không chỉ là thước đo giá trị của độc lập
dân tộc mà còn tạo nên sức mạnh để bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và
tự bảo vệ, là kim chỉ nam cho sự nghiệp đổi mới của chúng ta hiện nay.
Độc lập dân tộc chỉ có đi tới chủ nghĩa xã hội thì mới có một nền độc lập
dân tộc thật sự, hoàn toàn, nhân dân mới được hưởng hạnh phúc tự do;
chủ nghĩa xã hội chỉ có phát triển trên một một nền độc lập dân tộc thật
sự thì mới có điều kiện phát triển và hoàn thiện. Hay nói theo cách của
Người: “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì
độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Có thể nói trong thời đại Hồ Chí Minh
lịch sử “độc lập, tự do, hạnh phúc” đã không chỉ là khát vọng mà còn là hệ
giá trị vô giá và trở thành lẽ sống, lý tưởng phấn đấu, hy sinh mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh cùng Đảng ta và nhân dân kiên định thực hiện. Chính lý tưởng
ấy, lẽ sống ấy và niềm tin được sống độc lập, tự do, hạnh phúc trong một
nước Việt Nam hòa bình, độc lập và thống nhất đã trở thành động lực để
cho nhân dân ta làm nên thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng tám năm
1945, của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước và tiếp
tục trong hành trình đi lên chủ nghĩa xã hội xây dựng, bảo vệ và phát triển
đất nước ngày một vững mạnh hơn. Như vậy, cùng với quá trình tổng kết
kinh nghiệm và phát triển sáng tạo lý luận về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã bước đầu tìm ra những biện
pháp, bước đi mang tính quy luật của quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội. 24
Một trong những biện pháp đó, xét về mặt kinh tế, là phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần. Để nền kinh tế nhiều thành phần phát triển theo
đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, một mặt, chúng ta phải tạo môi trường
phát triển thuận lợi, đảm bảo tính độc lập, tự chủ của các thành phần kinh
tế, trong đó kinh tế nhà nước phải thực sự đóng vai trò chủ đạo; mặt khác,
chúng ta phải tăng cường vai trò của Đảng và Nhà nước trong lãnh đạo, quản lý kinh tế.
Sau cùng, em xin gửi lời cảm ơn tới cô Lê Thị Hoa là giảng viên trực
tiếp giảng dạy môn Tư tưởng Hồ Chí Minh cho chúng em. Trong tình hình
dịch bệnh căng thẳng và phức tạp đã chỉ dạy, tạo điều kiện và hướng dẫn
tận tình cho chúng em trong học phần này. Em cảm thấy mình rất may
mắn vì được cô đồng hành trong suốt chặng đường dài vừa qua. Nhờ cô
mà em đã hoàn thành đề tài mà mình đã chọn qua đề tài này em đã có
thêm sự hiểu biết và thấu cảm được sự vất vả của Bác dành cho đất nước
Việt Nam. Để có được nước Việt Nam như hiện tại chính là nhờ sự lãnh đạo
tài tình của Đảng, nhà nước và không thể thiếu những đóng góp to lớn của
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại của chúng ta. Và cho đến hiện tại nước ta đi
theo con đường xã hội chủ nghĩa là vô cùng đúng đắn. TÀI LIỆU THAM KHẢO
https://hcmcpv.org.vn/tin-tuc/doc-lap-dan-toc-gan-lien-voi-chu-
nghia-xa-hoi-%E2%80%93-su-lua-chon-phu-hop-xu-the-phat-trien- cua-thoi-dai-1491878626
https://giaotrinh-tu-tuong-Ho-Chi-Minh.html
http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/doc-lap-dan-toc-gan-lien-

voi-chu-nghia-xa-hoi-la-quan-diem-nhat-quan-xuyen-suot-cua- cach-mang-viet-nam.html
https://bacquang.hagiang.gov.vn/chi-tiet-tin-

tuc/-/news/44701/noi-dung-cot-loi-cua-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-
doc-lap-dan-toc-gan-lien-voi-chu-nghia-xa-hoi.html 25