



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 59691467
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
KHOA: GIÁO DỤC TIỂU HỌC VÀ MẦM NON BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN MÔN TÂM LÍ HỌC ĐẠI CƯƠNG
ĐỀ BÀI : ĐỀ SỐ 7
CÂU 1 : Trình bày những hiểu biết của anh/chị về ý thức của con người.
CÂU 2: Tìm hiểu, mô tả và giải thích về tính cách, năng lực và lý tưởng
của con người ( SV tự lựa chọn lứa tuổi )
Sinh viên thực hiện : NGUYỄN THU HUYỀN Lớp : ĐH GDTH 1.K24 Mã sinh viên : 233114202005
Mã học phần : PED710
Hải Phòng, ngày tháng năm 2023 lOMoAR cPSD| 59691467 I.LỜI MỞ ĐẦU:
“Hãy đọc mỗi người những gì mà không ai đọc.
Hãy suy nghĩ mỗi ngày những gì mà không ai nghĩ.
Hãy làm mỗi ngày điều gì đó mà không ai đủ điên để làm.
Thật tệ cho tinh thần khi luôn luôn là một phần của sự nhất quán.” -Christopher Morley-
Bạn luôn bị mê hoặc bởi những điều bí ẩn trong thế giới tâm lí của con người ? Bạn khao
khát muốn được giải mã những hiện tượng tâm lí kỳ bí trong đời sống nội tâm của người
khác và ngay của chính mình? Cuộc sống nội tâm của con người diễn ra bên trong mỗi
chúng ta không phải lúc nào cũng tuân theo quy tắc giống như cuộc sống khách quan bên
ngoài. Có đôi khi chúng ta cảm thấy khó khăn, hoang mang, chênh vênh và quá đỗi mông
lung khi phải đối diện với những hiện tượng tâm lí phức tạp thậm chí là mâu thuẫn, bài
xích lẫn nhau trong thế giới nội tâm của chính mình.Từ khi loài người được sinh ra thì
lúc đó trên hành tinh xanh Trái Đất cũng bắt đầu xuất hiện một hiện tượng vô cùng mới
mẻ - hiện tượng “tâm lí người” mà nền văn minh cổ đại gọi là “linh hồn”.Từ lâu, thế giới
tâm lí người vốn là chủ đề thu hút sự quan tâm của nhiều người thuộc mọi tầng lớp, mọi
trình độ nói chung và các nhà khoa học nói riêng. Những hiểu biết về tâm lí con người
không còn đơn thuần dừng lại ở những kinh nghiệm ứng xử trong dân gian, mà cùng với
sự phát triển của xã hội, chúng được nghiên cứu và xây dựng thành một hệ thống tri thức
mang tính khoa học –Tâm lí học. Tâm lí là bao gồm tất cả những hiện tượng tinh thần
xảy ra trong đầu óc con người, nó gắn liền và điều hành mọi hành động, hoạt động của
con người.Đối tượng nghiên cứu của tâm lí học là các hiện tượng tâm lí với tư cách là
hiện tượng tinh thân do thế giới khách quan tác động và não con người sinh ra, gọi chung
là các hoạt động tâm lí. Thực tế đã chứng minh rằng, trong mọi thời kỳ phát triển của lịch
sử loài người và trong mọi lĩnh vực hoạt
động xã hội đều có sự đóng góp không nhỏ của tâm lí học. Nhiệm vụ cơ bản của tâm lí
học là nghiên cứu bản chất hoạt động của tâm lí, các quy luật nảy sinh và phát triển tâm lOMoAR cPSD| 59691467
lí, cơ chế diễn biến và thể hiện tâm lí, quy luật về mối quan hệ giữa các hiện tượng tâm lí.
Để khẳng định được vai trò và vị trí của mình tâm lí học phải có sự liên kết, phối hợp
chặt chẽ với nhiều bộ môn khoa học khác.Và trong xã hội ngày càng phát triển như hiện
nay, tâm lí học đã và đang trở thành “kim chỉ nam” định hướng cho cuộc sống và hoạt động của con người.
Sau đây, em sẽ nêu những hiểu biết của bản thân mình về ý thức của con người và tìm
hiểu, quan sát, mô tả và giải thích về tính cách, năng lực, lý tưởng của con người qua hai nội dung sau
Tiếp theo là phần trình bày của em, bài làm của em còn nhiều thiếu sót em mong thầy
(cô) sẽ bỏ qua cho em. Em xin chân thành cảm ơn! II.NỘI DUNG
CÂU 1 : Trình bày những hiểu biết của anh/chị về ý thức của con người.
CÂU 2 : Tìm hiểu, mô tả và giải thích về tính cách, năng lực và lý
tưởng của con người (SV tự lựa chọn lứa tuổi). lOMoAR cPSD| 59691467 2. 1 Ý thức
2.1.1: Khái niệm chung về ý thức
Ý thức là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất chỉ riêng con người mới có, phản ánh bằng
ngôn ngữ, là khả năng con người hiểu được các tri thức (hiểu biết) mà con người đã tiếp
thu được (là tri thức về tri thức, phản ánh của phản ánh). Có thể so sánh ý thức như “cặp
mặt thứ hai”, soi vào kết quả (các hình ảnh tâm lý ) do “ cặp mắt thứ nhất” ( cảm giác, tri
giác, trí nhớ, tư duy, cảm xúc…) mang lại. Với ý nghĩa đó ta có thể nói:
Ý thức là tồn tại được nhận thức.
2.1.2: Các thuộc tính cơ bản của ý thức
2.1.2.1. Ý thức thể hiện năng lực nhận thức cao nhất của con người về thế giới
Ý thức là hình thức phản ánh hiện thực cao nhất của con người. Vì nó đòi hỏi con người
phải hiểu biết về thế giới rộng và sâu. Nghĩa là nó đòi hỏi con người phải có năng lực
nhận thức một cách khái quát bản chất về hiện thực khách quan (không chỉ cái bề ngoài
mà thông qua cái bề ngoài để hiểu được bản chất của sự vật, hoạt động).
Trên cơ sở đó giúp con người hiểu biết được quá khứ và hiện tại và có thể tiên đoán được
tương lai. Nhờ đó con người mới có thể giải quyết một cách đúng đắn những nhiệm vụ
đặt ra trong cuộc sống.
2.1.2.2. Ý thức thể hiện thái độ của con người đối với thế giới.
Khi con người đã nhận thức được thì bao giờ cũng thể hiện thái độ.Ý thức không chỉ biểu
hiện trong sự hiểu biết về hiện thực khách quan mà còn biểu hiện ở sự xác định thái độ
của chủ thể đối với hiện thực khách quan đó.
Nghĩa là từ nhận thức con người mới có được những rung cảm và từ những rung cảm này
sẽ dẫn đến hành động tương ứng với cái mà ta đã nhận thức được. lOMoAR cPSD| 59691467
2.1.2.3. Ý thức thể hiện năng lực điều khiển, điều chỉnh hành vi của con người.
Trên cơ sở nhận thức cái bản chất, khái quát và tỏ rõ thái độ của mình với thế giới, ý thức
điều khiển, điều chỉnh hành vi của con người giúp cho con người đạt được mục đích đề
ra – ý thức có khả năng sáng tạo.
2.1.2.4. Khả năng tự ý thức
Con người không chỉ tạo ý thức về thế giới mà con người ở mức độ cao hơn có khả năng
tự nhận thức về mình, xác định thái độ đối với bản thân, tự điều khiển, điều chỉnh, tự hoàn thiện mình.
2.1.3. Cấu trúc của ý thức
Ý thức là một cấu trúc tâm lý phức tạp bao gồm nhiều mặt, là một chỉnh thể mang lại cho
thế giới tâm hồn của con người một chât lượng mới.Trong ý thức có ba mặt thống nhất
với nhau, điều khiển hoạt động có ý thức của con người.
2.1.3.1. Mặt nhận thức của ý thức
+ Các quá trình nhận thức cảm tính mang lại những tài liệu đầu tiên cho ý thức, là tầng bậc thấp của ý thức.
+ Quá trình nhận thức lý tính là bậc tiếp theo trong mặt nhận thức của ý thức, đem lại cho
con người những hiểu biết bản chất, khái quát về thực tại khách quan. Đây là nội dung
rất cơ bản của ý thức, là hạt nhân của ý thức, giúp con người hình dung ra trước kết quả
của hoạt động và hoạch định kế hoạch hành vi.
2.1.3.2. Mặt thái độ của ý thức
Mặt thái độ của ý thức nói lên thái độ lựa chọn, thái độ cảm xúc, thái độ đánh giá của chủ
thể đới với thế giới. lOMoAR cPSD| 59691467
2.1.3.3. Mặt năng động của ý thức
Ý thức điều khiển, điều chỉnh hoạt động của con người làm cho hoạt động của con người
có ý thức. Đó là quá trình con người vận dụng những hiểu biết cả bản thân. Mặt khác, ý
thức nảy sinh và phát triển trong hoạt động. Cấu trúc của hoạt động quy định cấu trúc của
ý thức. Vì thế nhu cầu, hứng thú, động cơ, ý chí… đều có vị trí nhất định trong cấu trúc của ý thức.
2.1.4. Các cấp độ ý thức
2.1.4.1. Cấp độ chưa ý thức
Trong cuộc sống, cùng với các hiện tượng tâm lí có ý thức, chúng ta thường gặp những
hiện tượng tâm lý chưa có ý thức diễn ra chi phối hoạt động của con người. Ví dụ :Người
mắc chứng mộng du vừa ngủ vừa đi trên mái nhà, người say rượu nói ra những điều không
có ý thức (chưa ý thức)…Hiện tượng tâm lý “không ý thức” này khác với từ “vô ý
thức”(vô ý thức tổ chức, vô ý thức tập thể, mà ta vẫn dùng hàng ngày).Ở đây, người vô ý
thức thể hiện sự thiếu ý thức tôn trọng tổ chức, tôn trọng kỷ luật, quy định chung của tập
thể, anh ta rất có ý thức về việc làm sai trái của mình. Hiện tượng tâm lí không ý thức,
chưa nhận thức được, trong tâm lí học gọi là vô thức.
Vô thức là hiện tượng tâm lí ở tầng bạc chưa ý thức, nơi mà ý thức không thực hiện chức
năng của mình. Vô thức bao gồm nhiều hiện tượng tâm lí khác nhau của tầng không (chưa) ý thức:
+ Vô thức ở tầng bản năng vô thức (bản năng dinh dưỡng, tự vệ, sinh dục ) tiềm tàng ở
tầng sâu, dưới ý thức, mang tính bẩm sinh, di truyền.
+ Vô thức còn bao gồm cả những hiện tượng tâm lí dưới ngưỡng ý thức (dưới ý thức hay
tiền ý thức). Ví dụ: Có lúc ta cảm thấy thích một cáu gì đó, nhưng không thể hiểu rõ vì
sao: hoặc có lúc thích, có lúc không thích, khi gặp điều kiện thì bộc lộ ý thích, khi không
có điều kiện thì thôi. lOMoAR cPSD| 59691467
+ Hiện tượng tâm thế: Hiện tượng tâm lí dưới ý thức, hướng tâm lí sẵn sàng chờ đón, tiếp
nhận một điều gì đó, ảnh hưởng đến tính linh hoạt và tính ổn định của hoạt động. Cũng
có lúc tâm thế phát triển xâm nhập cả vào tầng ý thức. Ví dụ: Tâm thế yêu đương của đôi
bạn trẻ đang say mê nhau, tâm thế nghỉ ngơi của những người cao tuổi,…
+ Có những hiện tượng tâm lý vốn là có ý thức nhưng do lặp đi lặp lại nhiều lần chuyển
thành dưới ý thức. Chẳng hạn một số kỹ xảo, thói quen của con người do được luyện tập
đã thành thục, trở thành “tiềm thức”, một dạng tiềm tàng sâu lắng của ý thức. Tiềm thức
thường trực chỉ đạo hành động, lời nói, suy nghĩ… của một người tới mức không cần ý thức tham gia.
2.1.4.2.Cấp độ ý thức và tự ý thức
+ Ở cấp độ ý thức, như đã nói ở trên, con người nhận thức, tỏ thái độ có chủ tâm và dự
kiến trước được hành vi của mình, làm cho hành vi trở nên có ý thức, ý thức thể hiện trong ý chí, trong chú ý
+ Tự ý thức là mức dộ phát triển cao của ý thức. Tự ý thức bắt đầu hình thành từ tuổi lên
ba. Thông thường tự ý thức biểu hiện ở các mặt sau:
- Cá nhân tự nhận thức về bản thân mình từ bên ngoài đến nội dung tâm hồn, đến vị thếvà các quan hệ xã hội.
- Cá nhân tự nhận thức về bản thân mình từ bên ngoài đến nội dung tâm hồn, đến vị thếvà các quan hệ xã hội.
- Có thái độ đối với bản thân, tự nhận xét, tự đánh giá.
- Tự điều chỉnh, tự điều khiển hành vi theo mục đích tự giác.
- Có khả năng tự giáo dục, tự hoàn thiện mình.
2.1.4.3. Cấp độ ý thức nhóm và tập thể
Trong mối quan hệ giao tiếp và hoạt động, ý thức của cá nhân sẽ phát triển dần đến cấp
độ ý thức xã hội, ý thức nhóm, ý thức tập thể (ví dụ: ý thức về gia đình, ý thức về dòng lOMoAR cPSD| 59691467
họ, ý thức dân tộc, ý thức nghề nghiệp…). Trong cuộc sống, khi con người hành động,
hoạt động với ý thức cộng đồng, ý thức tập thể, mỗi con người có thêm sức mạnh tinh
thần mới mà người đó chưa bao giờ có được khi anh ta chỉ hoạt động với ý thức cá nhân riêng lẻ.
Tóm lại, các cấp độ khác nhau của ý thức luôn tác động lẫn nhau, chuyển hóa và bổ sung
cho nhau làm tăng tính đa dạng và sức mạnh của ý thức.Ý thức thống nhất với hoạt động,
hình thành, phát triển và thể hiện trong hoạt động. Ý thức chỉ đạo, điều khiển, điều chỉnh
hoạt động, làm cho hoạt động có ý thức.
2.1.5. Sự hình thành và phát triển ý thức
2.1.5.1. Sự hình thành và phát triển ý thức con người về phương diện loài người.
Các tác giả kinh điển của chủ nghĩa Mác chỉ rõ: Trước hết là lao động, sau lao động và
đồng thời với lao động là ngôn ngữ, đó là hai động lực chủ yếu đã biến bộ não vượn thành
bộ não con người. Đây cũng chính là hai yếu tố tạo nên sự hình thành ý thức của con người.
+ Vai trò của lao động đối với sự hình thành ý thức
Điều khác biệt giữa con người và động vật là trước khi lao động làm ra một sản phẩm nào
đó, con người phải hình dung ra trước mô hình của cái cần làm ra và cách làm ra cái đó,
trên cơ sở đó con người huy động vốn hiểu biết, năng lực trí tuệ của mình vào trong hoạt
động ấy. Như vậy là con người đã có ý thức về cái mà mình sẽ làm ra. Trong lao động
con người phải chế tạo và sử dụng công cụ lao động, tiến hành các thao tác và hành động
lao động tác động vào đối tượng lao động để làm ra sản phẩm. Ý thức của con người được
hình thành và thể hiện trong quá trình lao động.
Kết thúc quá trình lao động, con người có ý thức đối chiếu sản phẩm làm ra với mô hình
tâm lý của sản phẩm mà mình đã hình dung ra trước để hoàn thiện, đánh giá sản phẩm
đó. Như vậy, ý thức được hình thành và biểu hiện trong suốt quá trình lao động của con
người, thống nhất với quá trình lao động và sản phẩm lao động do mình làm ra. lOMoAR cPSD| 59691467
+ Vai trò của ngôn ngữ và giao tiếp đối với sự hình thành ý thức
Nhờ có ngôn ngữ ra đời cùng với lao động mà con người có công cụ để xây dựng, hình
dung ra mô hình tâm ký của sản phẩm và cách làm ra sản phẩm đó. Hoạt động ngôn ngữ
( hệ thống tín hiệu thứ hai ) giúp cho con người có ý thức về việc sử dụng công cụ lao
động, tiến hành hệ thống các thao tác hành động lao động để làm ra sản phẩm.Ngôn ngữ
cũng giúp con người phân tích, đối chiếu, đánh giá sản phẩm do mình làm ra.
Hoạt động lao động là hoạt động tập thể, mang tính xã hội. Trong lao động, nhờ ngôn ngữ
và giao tiếp mà con người thông báo, trao đổi thông tin với nhau, phối hợp động tác với
nhau để cùng làm ra sản phẩm chung. Nhờ có ngôn ngữ và giao tiếp mà con người có ý
thức về bản thân mình, ý thức về người khác (biết mình, biết người) trong lao động chung.
2.1.5.2. Các con đường hình thành ý thức cá nhân
+ Ý thức của cá nhân được hình thành trong hoạt động và thể hiện trong sản phẩm của hoạt động.
Trong hoạt động cá nhân đem hết vốn kinh nghiệm, năng lực tiềm tàng của thần kinh, cơ
bắp, hứng thú, nguyện vọng…của mình thể hiện trong quá trình làm ra sản phẩm. Như
vậy,trong sản phẩm của hoạt động “tồn đọng” và chứa đựng bộ mặt tâm lý, ý thức của cá
nhân. Bằng hoạt động đa dạng và phong phú trong cuộc sống thực tiễn mỗi cá nhân đã
hình thành và phát triển tâm lý, ý thức của chính mình.
+ Ý thức của cá nhân được hình thành trong mối quan hệ giao tiếp của cá nhân với người khác với xã hội.
Trong quan hệ giao tiếp, con người đối chiếu mình với người khác, với chuẩn mực đạo
đức xã hội để có ý thức về người khác và ý thức về chính bản thân mình.
+ Ý thức của cá nhân được hình thành bằng con đường tiếp thu nền văn hóa xã hội, ý thức xã hội. lOMoAR cPSD| 59691467
Thông qua các hình thức hoạt động đa dạng, bằng con đường dạy học, giáo dục và giao
tiếp trong quan hệ xã hội, cá nhân tiếp thu, lĩnh hội các chuẩn mực xã hội, các định hướng
giá trị xã hội để hình thành ý thức cá nhân.
+ Ý thức của cá nhân được hình thành bằng con đường tự nhận thức, tự đánh giá, tự phân tích hành vi của mình.
Trong quá trình hoạt động, giao tiếp trong xã hội, cá nhân hình thành ý thức về bản thân
mình ( ý thức bản ngã – tự ý thức ) trên cơ sở đối chiếu, so sánh mình với người khác,
với chuẩn mực xã hội, cá nhân tự giáo dục, tự hoàn thiện mình.
2.1.6. Chú ý – điều kiện của hoạt động có ý thức 2.1.6.1. Khái niệm chú ý -
Chú ý là sự tập trung của ý thức vào một hay một nhóm sự vật, hiện tượng, để
địnhhướng hoạt động, bảo đảm điều kiện thần kinh – tâm lý cần thiết cho hoạt động tiến hành có hiện quả. -
Chú ý được xem như là một trạng thái tâm lý “đi kèm” các hoạt động tâm lý khác
giúpcho hoạt động tâm lý đó có kết quả. VD: chăm chú nhìn, chăm chú lắng nghe, tập trung suy nghĩ,… -
Chú ý không có đối tượng riêng, đối tượng của nó chính là đối tượng của hoạt
độngtâm lý mà nó “đi kèm”.
=>Chú ý được coi là “cái nền”, “cái phông”, là điều kiện của hoạt động có ý thức. 2.1.6.2. Các loại chú ý
- Chú ý không chủ định là loại chú ý không có mục đích tự giác, không cần sự nỗ lực của bản thân.
* Nhân tố gây nên chú ý không chủ định:
+ Độ mới lạ của vật kích thích lOMoAR cPSD| 59691467 + Cường độ kích thích
+ Sự trái ngược giữa vật kích thích và bối cảnh
=>Loại chú ý này thường nhẹ nhàng, ít căng thẳng nhưng kém bền vững khó duy trì lâu dài.
+ Chú ý có chủ định là loại chú ý có mục đích trước và phải có nỗ lực của bản thân
+ Chú ý “ sau khi có chủ định”: Loại chú ý này vốn là chú ý có chủ định nhưng không
đòi hỏi sự căng thẳng của ý chí, lôi cuốn con người vào nội dung và phương thức hoạt
động tới mức khoái cảm, đem laiij hiệu quả cao của chú ý.
2.1.6.3. Các thuộc tính cơ bản của chú ý
+ Sức tập trung của chú ý
Đó là khả năng chỉ chú ý đến một phạm vi đối tượng tương đối hẹp cần thiết cho hoạt
động lúc đó. Số lượng các đối tượng mà chú ý hướng tới gọi là khối lượng chú ý. Khối
lượng này tùy thuộc vào đặc điểm của đối tượng cúng như nhiệm vụ và đặc điểm của hoạt
động. Có những trường hợp do bệnh lý hoặc do quá say mê tập trung chú ý vào đối tượng
nào đó mà “quên đi mọi chuyện khác” đó gọi là hiện tượng đãng trí.
+ Sự bền vững của chú ý
Đó là khả năng duy trì lâu dài chú ý vào một hay một số đối tượng của hoạt động. Ngược
với độ bền vững là sự phân tán chú ý. Phân tán chú ý diễn ra theo chu kỳ gọi là sự dao
động của chú ý. + Sự phân phối chú ý
Đó là khả năng cùng một lúc chú ý đầy đủ đến nhiều đối tượng hay nhiều hoạt động khác
nhau một cách có mục đích. Trong đó đối tượng chính chú ý nhiều, còn đối tượng phụ chú ý ít. + Sự di chuyển chú ý lOMoAR cPSD| 59691467
Đó là khả năng chuyển chú ý từ đối tượng này sang đối tượng khác theo yêu cầu của
hoạt động. Sự di chuyển chú ý không mâu thuẫn với độ bền vững của chú ý, nó cũng
không phải là sự phân tán chú ý. Sự di chuyển chú ý là sức chú ý được thay thế có ý thức.
=>Các thuộc tính của chú ý có quan hệ bổ sung cho nhau. Mỗi thuộc tính của chú ý có
thể giữ một vai trò tích cực hay không tùy thuộc vào chỗ ta biết sử dụng từng thuộc tính
hay phối hợp các thuộc tính theo yêu cầu của hoạt động. 2.1.7. Kết luận
Tóm lại, ý thức có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống con người. Ý thức của con
người là cơ năng của cái “khối vật chất đặc biệt phức tạp mà người ta gọi là bộ óc con
người” ( theo LeNin ). Tác động cảu ý thức xã hội đối với con người là vô cùng to lớn.
Nó không những là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn mà là động lực thực tiến. Sự
thành công hay thất bại của thực tiễn, tác động tích cực hay tiêu cực của ý thức đối với
sự phát triển của tự nhiên, xã hội chủ yếu phụ thuộc vào vai trò chỉ đạo của ý thức. Mà
biểu hiện ra là vai trò của khoa học văn hóa và tư tưởng.
Trong môi trường giáo dục, ý thức cũng có vai trò không thể thiếu.Chính vì vậy mỗi giáo
viên phải đặt những nền móng đầu tiên để học sinh hình thành ý thức, nhận biết đúng
đắn để từ đó phát triển sự thông minh, nhạy bén có thể ứng phó kịp thời với những tác
động khách quan từ bên ngoài.Tương lai học sinh có thể tạo ra được những giá trị thực
tiễn cho đời sống xã hội, nhiều công trình kiến trúc được tạo nên, nhiều phát minh khoa
học được hình thành,…Rèn luyện cho học sinh tính tự giác cao trong học tập.Bên cạnh
đó phải có phương hướng cụ thể, rõ ràng, có sự vận dụng đúng đắn và phương pháp tổ
chức giáo dục để học sinh hiểu được rõ nét hơn về vai trò của ý thức.Giúp học sinh hình
thành tính năng động, sáng tạo, phát huy vai trò nhân tố con người để tác động, cải tạo
thế giới khách quan.Ngoài ra, bản thân mỗi chúng ta cần phải không ngừng nâng cao khả
năng nhận thức của cá nhân.Không chỉ vậy, chúng ta cần tự ý thức chống lại những thái
độ tiêu cực, thụ động, khắc phục tính bảo thủ, thiếu sáng tạo.Như vậy, con người càng
phản ánh đầy đủ, chính xác thế giới khách quan thì càng cải tạo thế giới có hiệu quả. lOMoAR cPSD| 59691467
2.2. Tìm hiểu, mô tả và giải thích về tính cách, năng lực và lý
tưởng của con người 2.2.1. Tính cách *Tìm hiểu Khái niệm:
Tính cách là một thuộc tính tâm lý phức tạp của cá nhân bao gồm một hệ thống thái độ
của nó đối với hiện thực, thể hiện trong hệ thống hành vi cử chỉ, cách nói năng tương ứng.
Tính cách mang tính ổn định và bền vững, tính thống nhất và đồng thời cũng thể hiện tính
độc đáo riêng biệt, điển hình cho mỗi cá nhân. Vì thế tính cách của cá nhân là sự thống
nhất giữa cái chung và cái riêng, cái điển hình và cái cá biệt. Tính cách của cá nhân chịu
sự ức chế của xã hội.
Cấu trúc của tính cách:
Tính cách có cấu trúc rất phức tạp, bao gồm: Hệ thống thái độ và hệ thống hành vi cử chỉ,
cách nói năng tương ứng.
+ Hệ thống thái độ của cá nhân bao gồm bốn mặt sau đây: -
Thái độ đối với tập thể và xã hội thể hiện qua nhiều tính cách như lòng yêu nước,
yêuchủ nghĩa xã hội; thái độ chính trị; tinh thần đổi mới; tinh thần hợp tác cộng đồng… -
Thái độ đối với lao động thể hiện ở những nét tính cách như lòng yêu lao động,
cần cù,sáng tạo, lao động, có kỉ luật, tiết kiệm, đem lại năng xuất cao… -
Thái độ đối với mọi người thể hiện ở những nét tính cách như lòng yêu thương
conngười theo tinh thần nhân đạo, quý trọng con người, có tinh thần đoàn kết tương trợ,
tính cởi mở, tính chân thành, thẳng thắn, công bằng,… lOMoAR cPSD| 59691467 -
Thái độ đối với bản thân, thể hiện ở những nét tính cách như: Tính khiêm tốn, lòng
tựtrọng, tinh thần tự phê bình,…
+ Hệ thống hành vi cử chỉ, cách nói năng của cá nhân: đây là sự thể hiện cụ thể ra bên
ngoài của hệ thống thái độ nói trên. Hệ thống hành vi cử chỉ, cách nói năng rất đa dạng,
chịu sự chi phối của hệ thống thái độ nói trên. Người có tính cách tốt, nhất quán thì hệ
thống thái độ sẽ tương ứng với hệ thống hành vi cử chỉ, cách nói năng. Trong đó thái độ
là mặt nội dung, mặt chủ đạo, còn hành vi cử chỉ, cách nói năng là hình thức biểu hiện
của tính cách, chúng không tách rời nhau, thống nhất hữu cơ với nhau.
=>Cả hai hệ thống trên đều có quan hệ chặt chẽ với các thuộc tính khác của nhân cách
như: Xu hướng, tình cảm, ý chí, khí chất, kĩ xảo, thói quen và vốn tri thức của cá nhân. *Mô tả
Bản thân em là một sinh viên Đại học trường Đại học Hải Phòng qua những nhận xét và
đánh giá từ người thân, bạn bè và mọi người xung quang em tự nhận thấy mình là một
người có tính cách hướng ngoại. Biểu hiện cụ thể là em luôn hòa đồng, thân thiện với tất cả mọi người.
Đây là hình ảnh em cùng các bạn trong lớp nhân dịp 20/10/2022 lOMoAR cPSD| 59691467
Một chút kỷ niệm vui cùng cô và các bạn trước kỳ thi THPT Quốc gia:
Bên cạnh đó, em cũng luôn chủ động tham gia các hoạt động tập thể với thái độ vui
vẻ, cởi mở. Từ đó, em học được nhiều bài học ý nghĩa và tự mở rộng cơ hội cho bản thân.
Hình ảnh em làm tình nguyện viên tại địa phương trong đợt sinh hoạt hè của các em thiếu nhi. lOMoAR cPSD| 59691467
Lên ngôi trường Đại học em chủ động, tích cực tham gia hoạt động giao lưu văn nghệ ngày 20/11
Tuy nhiên, bản thân em nhiều lúc mất tập trung, thiếu kiên nhẫn khi đối mặt với những
khó khăn.Chính vì vậy em thường có những hành động bốc đồng, không suy nghĩ.
Trong giờ học em thường không chú ý hoặc bị chi phối bởi những thứ bên ngoài. lOMoAR cPSD| 59691467 *Giải thích
Những hình ảnh trên là biểu hiện nét tính cách của bản thân em. Và có thể khẳng định
rằng tính cách là một thuộc tính tâm lý phức tạp của cá nhân.Nét tính cách hướng ngoại,
tràn đầy nhiệt huyết nhưng đồng thời thiếu tập trung và kiên nhẫn song song tồn tại trong
con người tạo nên những nét tính cách riêng biệt, điển hình cho mỗi cá nhân. Đó cũng là
nét đặc trưng để mọi người phân biệt em và người khác. Không một ai có thể giống nhau
tính cách có sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng. Tính nhiệt huyết, vui vẻ, chủ động
lạc quan của em mang nét tính cách chung (cái chung).Nhưng bên cạnh đó sự mất tập
trung, bốc đồng và kiên nhẫn là cái điển hình (cái riêng) và cá biệt mang màu sắc riêng
biệt của cá nhân em.Những nét tính cách của em được hình thành trong quá trình học tập
và giao tiếp với môi trường xã hội. *Kết luận
Tính cách là yếu tố quan trọng nhất của con người.Người ta thường đánh giá hoạt động,
lời nói và đôi khi là suy nghĩ của một người để suy ra tính cách người đó, và cuối cùng là
kết luận về bản chất của họ. Một người có thể có nhiều tính cách và ngược lại nhiều người
có thể có chung một tính cách.Tính cách con người không tự sinh ra mà có nó là một quá
trình hình thành dựa trên nhiều yếu tố trong sự phát triển xuyên suốt cả cuộc đời của mỗi người. lOMoAR cPSD| 59691467 2.2.2 Năng lực *Tìm hiểu Khái niệm
Năng lực là tổ hợp những thuộc tính độc đáo của cá nhân, phù hợp với những yêu cầu của
một hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động đó có kết quả.
Các mức độ của năng lực
+ Năng lực là một mức độ nhất định của khả năng con người, biểu thị khả năng hoàn
thành có kết quả một hoạt động nào đó.
+ Tài năng là mức độ năng lực cao hơn, biểu thị sự hoàn thành một cách sáng tạo một hoạt động nào đó.
+ Thiên tài là mức độ cao nhất của năng lực, biểu thị ở mức kiệt xuất, hoàn chỉnh nhất
của những vĩ nhân trong lịch sử nhân loại.
Phân loại năng lực
+ Năng lực chung: Là năng lực cần thiết cho nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau. Ví dụ
như năng lực học tập, năng lực tư duy, năng lực quan sát…
+ Năng lực chuyên biệt: Là sự kết hợp độc đáo các thuộc tính chuyên biệt đáp ứng yêu
cầu của mỗi lĩnh vực hoạt động chuyên môn và là điều kiện cho hoạt động này đạt kết
quả. Ví dụ như năng lực toán, văn, hội họa, âm nhạc,..
Mối quan hệ giữa năng lực và tư chất, thiên hướng, tri thức, kĩ năng, kĩ xảo. + Năng lực và tư chất:
- Tư chất là những đặc điểm riêng của cá nhân về giải phẫu sinh lý bẩm sinh của bộ não,hệ
thần kinh, cơ quan phân tích, cơ quan vận động sáng tạo ra sự khác biệt giữa con người với nhau lOMoAR cPSD| 59691467
- Tư chất là cơ sở vật chất của sự phát triển năng lực. Tư chất có ảnh hưởng đến tốc
độ,chiều hướng và đỉnh cao của sự phát triển năng lực. Tư chất là một trong những điều
kiện hình thành năng lực nhưng không quy định trước sự phát triển của năng lực.
+ Năng lực và thiên hướng:
- Thiên hướng là khuynh hướng của cá nhân đối với một hoạt động nào đó.
- Thiên hướng về một loại hoạt động nào đó và năng lực đối với hoạt động ấy thường
ănkhớp với nhau và chùng phát triển với nhau. Thiên hướng mãnh liệt của con người
đối với một loại hoạt động nào đó có thể coi là dấu hiệu của những năng lực đang hình thành.
+ Năng lực và tri thức, kĩ năng, kĩ xảo: Tri thức, kĩ năng, kĩ xảo có quan hệ mật thiết với
năng lực nhưng không đồng nhất với năng lực. Tri thức, kĩ năng, kĩ xảo trong một lĩnh
vực nào đó là điều kiện cần thiết để có năng lực trong lĩnh vực ấy. Năng lực góp phần
làm cho việc tiếp thu tri thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo tương ứng với lĩnh vực của năng
lực đó được dễ dàng và nhanh chóng hơn. Một người có năng lực trong một lĩnh vực nào
đó nghĩa là người ấy đã có tri thức, kĩ năng, kĩ xảo nhất định của lĩnh vực này. Nhưng khi
có tri thức, kĩ năng, kĩ xảo thuộc một lĩnh vực nào đó không nhất thiết là sẽ có năng lực về lĩnh vực ấy. *Mô tả
Ở lứa tuổi là một học sinh THPT, bản thân em đã đạt được nhiều thành tích nổi trội trong
quá trình học tập. Đặc biệt là với bộ môn Ngữ Văn. Em cảm thấy môn học này rất bổ ích,
ý nghĩa “Văn học là nhân học”-“ Học văn là học làm người”. Chính vì thế em luôn chú ý
nghe giảng trên lớp ngoài ra còn tự tìm hiểu, tự học hỏi những kiến thức có trên Internet.
Em tham gia đội tuyển Văn từ năm lớp 6 và trong khoảng thời gian đó đến nay em đã có
được những thành quả xứng đáng với công sức nỗ lực mình bỏ ra. Đối với nhiều bạn Văn
học là bộ môn nhàm chán, khó học bởi cần nhiều thời gian để học thuộc. Nhưng đối với
em học Văn không nhất thiết phải học thuộc lòng mà cần liên hệ thực tế và cả sự tư duy logic. lOMoAR cPSD| 59691467
Dưới đây là một số hình ảnh về những thành quả em đã đạt được từ năng lực về lĩnh vực văn học :
( Hình ảnh giấy chứng nhận đạt giải môn Ngữ Văn qua các năm học 2017-2020)