-
Thông tin
-
Quiz
Bài tập nội dung tự học Tâm lý học sư phạm | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình giáo dục đạo đức cho sinh viên. Ý nghĩa rút ra? Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm hệ thống các quan điểm, quan niệm, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội, đề điều chỉnh hành vi và cách ứng xử của con người. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Tâm lý học sư phạm 2 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.6 K tài liệu
Bài tập nội dung tự học Tâm lý học sư phạm | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình giáo dục đạo đức cho sinh viên. Ý nghĩa rút ra? Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm hệ thống các quan điểm, quan niệm, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội, đề điều chỉnh hành vi và cách ứng xử của con người. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Tâm lý học sư phạm 2 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.6 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN ----------
BÀI TẬP NỘI DUNG TỰ HỌC
MÔN TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM BUỔI 1 Họ và tên sinh viên:
Lê Thị Q ỳnh Giang - 2250010014 u
Nguyễn Quỳnh Anh - 2250010004 Nguyễn Văn Đức - 2250 01001
Nguyễn Vũ Thảo Linh - 2250010028
Nguyễn Huy Hiếu - 2250010019
Trần Hồng Anh - 2250010006
Lớp hành chính: Triết học K42
Lớp tín chỉ: TG01009_K42_3 Năm học: 2023 – 2024
Đề bài: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình giáo dục đạo
đức cho sinh viên. Ý nghĩa rút ra ? Lê Thị Q ỳnh Giang : u Yếu tố nhà trường Nguyễn Văn Đức – Y nghĩa rút ra
Nguyễn Huy Hiếu – Yếu tố sự tu dưỡng, rèn luyện của bản thân
Nguyễn Quỳnh Anh – Yếu tố xã hội
Nguyễn Vũ Thảo Linh – Yếu tố gia đình
Trần Hồng Anh – Khái niệm
I, KHÁI NIỆM ĐẠO ĐỨC VÀ HÀNH VI ĐẠO ĐỨC
1, Khái niệm đạo đức
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm hệ thống các quan điểm, quan
niệm, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội, đề điều chỉnh hành vi và cách ứng xử của con
người, được thực hiện bởi niềm tin, trách nhiệm, lương tâm của mỗi cá nhân,
phong tục tập quán và dư luận xã hội nhằm tạo nên sự hài hòa giữa lợi ích cá nhân
với lợi ích cộng động và xã hội, đảm bảo hạnh phúc cho con người và tiến bộ xã
hội; là một lĩnh vực hoạt động của đời sống tinh thần xã hội.
Đạo đức là hệ thống những chuẩn mực đạo đức biểu hiện thái độ đánh giá quan
hệ giữa lợi ích của bản thân với lợi ích của người khác và của xã hội; Những chuẩn
mực đạo đức chi phối và quyết định đến thái độ, hành vi, cử chỉ của cá nhân.
Những chuẩn mực đạo đức có thể thay đổi theo hình thái kinh tế xã hội, chế độ chính trị…
Chuẩn mực đạo đức là những yêu cầu do con người đặt ra cho mình trong quan
hệ với người khác và với xã hội. Không có văn bản pháp quy nhưng mọi người đều
tuân theo. Nếu ai không tuân theo sẽ bị xã hội lên án
2,Khái niệm hành vi đạo đức
Hành vi đạo đức là một hành động tự giác được thúc đẩy bởi một động cơ có
ý nghĩa về mặt đạo đức, hành vi đạo đức là loại hành động luôn gắn với động cơ
đạo đức, động cơ như thế nào thì hành động như thế ấy.
Hành vi đạo đức được biểu hiện trong cách đối nhân xử thế, trong phong
cách, trong lối sống, trong lời ăn, tiếng nói... của cá nhân với mọi người xung
quanh. Khi nói đến hành vi đạo đức của những con người cụ thể sống trong nền
văn hoá nhất định thì có sự pha tạp hành vi đạo đức ở từng con người cụ thể.
Tiêu chuẩn đánh giá hành vi đạo đức •
Tính tự giác của hành vi: là cá nhân có ý thức đầy đủ về mục đích, ý nghĩa
hành vi của mình và tự nguyện thực hiện theo động cơ của chính nội tâm mình •
Tính có ích của hành vi: Hành động mang lại hiệu quả cao theo sự đòi hỏi
của chuẩn mực đạo đức. Phụ thuộc vào thế giới quan của chủ thể hành vi
II, CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH HÀNH VI ĐẠO
ĐỨC CỦA SINH VIÊN 1, Xã Hội •
Không khí đạo đức của tập thể là môi trường phát sinh, là điều kiện tồn tại
và củng cố những hành vi đạo đức.
Mỗi sinh viên ở trong nhà trường sẽ đồng thời là thành viên của một số tập thể
khác nhau. Họ vừa là thành viên trong một lớp học, vừa là đoàn viên thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh, vừa là cầu thủ của đội bóng đá…Khi học tham gia các
buổi họp lớp hay câu lạc bộ… họ sẽ dần quen với việc tôn trọng ý kiến của tập thể.
Đồng thời , các ý kiến cá nhân đều được tập tậptheer kiểm tra và đánh giá. Như
vậy, dư luận tập thể sinh viên, ý kiến của mọi thành viên trong tập thể không chỉ có
tác dụng thông báo nội dung các chuẩn mực, các nguyên tắc đạo đức mà còn có tác
dụng kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh nhận thức của mỗi người.
Để có dư luận lành mạnh , người làm công tác giáo dục cần phải biết các tạo
ra dư luận chung lành mạnh, đúng đắn.
Trước hết các giảng viên, phải có khả năng xây dựng tập thể lớp trở thành một tập
thể tốt. Chỉ có trong một tập thể tốt mới có dư luận xã hội lành mạnh, có tác dụng
hướng dẫn, kiểm tra những tri thức đạo đức, niềm tin đạo đức của mỗi sinh viên;
kiểm tra, đánh giá và củng cố những thói quen đạo đức của sinh viên.
Một tập thể tốt phải đạt được những dấu hiệu sau: Có mục đích thống nhất,
có tinh thần trách nhiệm trước xã hội, có yêu cầu chặt chẽ đối với mọi thành
viên, mọi thành viên phải phục tùng ý chí của tập thể, phải có sự lãnh đạo
thống nhất, các thành viên phải được bình đẳng trước tập thể.
Ngoài tập thể lớp, sinh viên còn là thành viên của một số tập thể khác. Mỗi tập thể
đều có mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ và hình thức hoạt động riêng, người giảng
viên phải có khả năng làm cho dư luận của những tập thể khác nhau này có sự
thống nhất về những vấn đề giống nhau.
Chỉ có trong tình huống như vậy thì dư luận xã hội trong tập thể mới có tác
dụng giáo dục đạo đức cho sinh viên.
Người giảng viên còn phải biết chủ động hướng dư luận của tập thể sinh viên theo
cùng một hướng chủ định; đồng thời còn phải biết dẹp đi những dư luận không có
lợi cho việc giáo dục đạo đức. Mọi dư luận của tập thể sinh viên về những hành vi
đạo đức của mỗi thành viên trong tập thể sẽ tạo nên không khí đạo đức của tập thể.
Khi bầu không khi đạo đức của tập thể được hình thành đầy đủ và đúng đắn,
lành mạnh sẽ là môi trường này sinh, điều kiện tồn tại và củng cố những
hành vi đạo đức của sinh viên. 2, Nhà Trường
Nhà trường có ý nghĩa quan trọng trong việc giáo dục đạo đức cho sinh viên
Một trong những khâu của quá trình giáo dục đạo đức là hình thành cho người
được giáo dục những hiểu biết về đạo đức. Nhà trường chính là nơi cung cấp cho
sinh viên những tri thức đạo đức cần thiết. Thông qua các giờ lên lớp sinh viên sẽ
được trang bị những tri thức đạo đức một cách khái quát và hệ thống. Vốn tri thức
này có tác dụng quan trọng ở chỗ giúp cho sinh viên có cơ sở đúng đắn để nhận ra
và phân biệt giữa hiện tượng đạo đức và hiện tượng phi đạo đức biểu hiện muôn hình
vạn trạng trong cuộc sống hằng ngày, đó là cơ sở để tạo nên tính tự giác trong hành
vi đạo đức của sinh viên.
Trong nhà trường, việc giáo dục đạo đức nói chung và việc cung cấp những
tri thức đạo đức nói riêng cho sinh viên là nhiệm vụ của tất cả các môn học trong
nhà trường, đặc biệt là các môn khoa học xã hội. Cùng với tất cả các môn học thì ở
các trường Đại học, Cao đẳng là thông qua giảng dạy các 58 môn chủ nghĩa Mác –
Lênin, đạo đức học đã góp phần quan trọng giúp cho sinh viên hình thành thế giới
quan khoa học, nhân sinh quan xã hội chủ nghĩa, làm cơ sở rộng rãi, vững chắc cho
đạo đức xã hội chủ nghĩa của sinh viên. Trong các giờ giảng dạy, giảng viên ngoài
việc cung cấp những tri thức nói chung, tri thức đạo đức nói riêng cũng có khả năng
tác động rất lớn vào tình cảm, ý chí của sinh viên. Các câu chuyện sống động minh
hoạ cho những giờ học, những tác động đạo đức của văn học, nghệ thuật trong
chương trình ngoại khoá… là những biện pháp hiệu nghiệm tác động vào tình cảm
đạo đức của sinh viên. Các hình tượng nghệ thuật của câu chuyện sẽ góp phần vào
sự hình thành thái độ, tình cảm đạo đức từ đó dễ chuyển tri thức đạo đức thành niềm tin đạo đức
Ở nhà trường còn luôn diễn ra sự tiếp xúc giữa sinh viên với người thực, việc
thực, với chủ thể của các hành vi đạo đức sống động. Điều này có sức thuyết phục
rất lớn trong việc giáo dục đạo đức cho họ. Những hành vi đạo đức diễn ra trong nhà
trường rất dễ trở thành mẫu mực cho sinh viên noi theo trong những hoàn cảnh đòi
hỏi cách xử sự tương ứng. Như vậy, sức thuyết phục lớn của “người thực, việc thực”
là có khả năng đi thẳng vào niềm tin đạo đức của mỗi người 3, Gia Đình
Gia đình là tế bào của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng
và giáo dục nhân cách, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, chống lại
các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Sự chăm sóc của gia đình giúp các những đứa trẻ lớn dần lên, chập chững
những bước đầu tiên, học câu nói đầu tiên, qua lời ru của mẹ, của bà… cùng với sự
dạy dỗ của gia đình, các em được tiếp cận và thẩm thấu truyền thống văn hóa gia
đình và nền văn hóa xã hội. Chính vì vậy hành vi đầu đời của các em có dấu ấn sâu
sắc của gia đình. Sinh viên nói riêng, con người nói chung có hành vi tốt hay xấu
trước hết và chủ yếu là do môi trường giáo dục của gia đình tạo nên.
Gia đình chuẩn bị hành trang cho các bạn trẻ bước vào đời. Trong vòng tay
của cha mẹ và gia đình, các bạn được nuôi dưỡng bằng những giá trị vật chất và tinh
thần. Theo thời gian, các bạn dần lớn lên hoàn thiện về đạo đức, nhân cách. Trên
những bước đường trưởng thành, những ký ức của tuổi thơ luôn theo chân các bạn
trẻ trên mỗi giai đoạn phát triển, mà ở đó có thể là ký ức vui buồn trong vòng tay
yêu thương của gia đình. Tất cả các yếu tố đó đã trở thành hành trang, động lực giúp
các bạn vươn lên, quyết tâm hơn trên mỗi bước đi của cuộc đời mình.
Gia đình là nhịp cầu với nhà trường và xã hội. Gia đình là cái nôi, ngồi trường
đầu tiên của các bạn sinh viên, giáo dục trong nhà trường là giai đoạn tiếp theo. Nhà
trường là môi trường rộng hơn, các bạn trẻ được tiếp cận với bạn bè, thầy cô và kiến
thức, thể chất ngày càng phát triển, theo đó nhận thức và nhân cách được phát triển
rất mạnh ở thời kỳ này.
Để định hướng, uốn nắn và điều chỉnh về nhân cách của các bạn gia đình phải
luôn liên hệ với nhà trường, với Thầy cô giáo, để nắm bắt những ưu điểm và hạn chế
của các bạn để tác động giúp các bạn biết khắc phục mặt yếu, phát huy mặt mạnh.
Sự hợp tác này sẽ đạt hiệu quả rất cao vì nhà trường chính là môi trường thuận lợi
nhất, tốt nhất để các em học tập và rèn luyện. Trong quá trình phát triển, thông qua
gia đình và nhà trường các bạn trẻ được tiếp cận với xã hội, tiếp thu các chuẩn mực
xã hội để hình thành lên nhân cách của mình.
Gia đình có vai trò quan trọng trong việc nuôi dưỡng, giáo dục, nâng đỡ suốt
đời người, là môi trường để hình thành và phát triển nhân cách, là nơi để rèn luyện
lối sống có đạo lý, có tình người. Với mỗi chúng ta, gia đình là tổ ấm, là bến đỗ bình
yên, là trường học đầu tiên hình thành, phát triển nhân cách, đạo đức, lối sống của
mỗi con người. Để môi trường gia đình thực sự lành mạnh, an toàn và ấm áp cho
mỗi cá nhân phát triển toàn diện cần có sự chăm lo, vun đắp của mỗi thành viên gia
đình, sự ủng hộ, đồng thuận của cộng đồng và sự hỗ trợ, tạo điều kiện của Nhà nước
thông qua hệ thống pháp luật và các chủ trương, chính sách về gia đình.
Trong giai đoạn hiện nay, đất nước đang hội nhập và phát triển, do ảnh hưởng
từ phương Tây nên các hệ giá trị đang có những thay đổi nhất định, mặt trái của nền
kinh tế thị trường tạo nên nhiều tiêu cực, cám dỗ đã ảnh hưởng tới sự phát triển nhân
cách của các bạn trẻ. Việc này đòi hỏi gia đình cần có định hướng và các biện pháp
đúng đắn để khẳng định vai trò vị trí, tác dụng quan trọng không gì thay thế được
trong việc giáo dục nhân cách cho các bạn.
4, Sự Tu Dưỡng, Rèn Luyện Của Bản Thân
4.1 Định nghĩa về sự tự tu dưỡng
Sự tự tu dưỡng về mặt đạo đức là một hành động tự giác, có hệ thống mà
mỗi cá nhân thực hiện đối với bản thân mình nhằm khắc phục những hành vi trái
đạo đức và bồi dưỡng, củng cố những hành vi đạo đức của bản thân mình, thúc đẩy
sự phát triển nhân cách.
Tự tu dưỡng là nhu cầu của mỗi cá nhân ở trình độ ý thức đã phát triển. Mọi
cá nhân đều có mong muốn làm cho mình tốt hơn lên, bồi bổ tình cảm và ý chí của
mình, khắc phục những thói hư tật xấu, làm cho mình biết phân biệt điều thiện với
điều ác. Do đó, tự tu dưỡng là một con đường nhằm hình thành những phẩm chất
đạo đức ở mỗi sinh viên. Tạo cho sinh viên có khả năng tự tu dưỡng là một yêu cầu
giáo dục đạo đức trong nhà trường.
4.2 Sự hình thành ý thức và khả năng tự tu dưỡng •
Hoàn cảnh bên ngoài, sự giáo dục, kinh nghiệm sống của sinh viên là nguồn
gốc của sự tự tu dưỡng cá nhân. Chính trong cuộc sống, trong giáo dục, sinh
viên sẽ nhận thức được mình, nhận thức được những người khác, đối chiếu
yêu cầu của những người xung quanh với khả năng của bản thân mình.
Trong quá trình được giáo dục, sinh viên sẽ hình thành được những cơ sở
đạo đức của bản thân, những khái niệm, những quan niệm, thái độ, niềm tin
và thói quen đạo đức ...
Tất cả những cái đó có vai trò điều chỉnh hành vi đạo đức của sinh viên và
quyết định cả xu hướng đạo đức của nhân cách trong tương lai. •
Để tiến hành tự tu dưỡng tốt thì sinh viên phải có những điều kiện nhất định,
những tiền đề nhất định. Trước hết, sinh viên phải tự nhận thấy được mình
còn thiếu cái gì, cần phải rèn luyện thêm những phẩm chất đạo đức nào và
con đường vươn tới như thế nào? Sự tự nhận thức về những đòi hỏi đó đối
với bản thân sinh viên chỉ có được khi họ được giáo dục đến một mức độ nhất định.
Tiền đề của sự tự tu dưỡng là do giáo dục tạo ra những thuộc tính về nhận
thức, về tình cảm, về ý chí của cá nhân.
4.3. Điều kiện để tiến hành tự tu dưỡng bao gồm các vấn đề sau: •
Thứ nhất, sinh viên phải tự nhận thức được bản thân mình, đánh giá đúng
mình, luôn luôn có thái độ phê phán nghiêm túc với những hành vi đạo đức
của chính mình, những thái độ tự mãn, kiêu ngạo hay tự ti đều trái với điều kiện này. •
Thứ hai, sinh viên phải có một viễn cảnh về cuộc sống tương lai, về lý tưởng
của đời mình. Sinh viên chỉ tích cực tu dưỡng đạo đức của mình khi biết
mình phải đi tới đâu, cần phải trở thành con người như thế nào? •
Thứ ba, sinh viên phải có phẩm chất ý chí mạnh mẽ, phải có nghị lực. Điều
kiện này giúp cho sinh viên có thể tiến hành tự tu dưỡng một cách liên tục và có hệ thống. •
Thứ tư, công việc tự tu dưỡng của mỗi người phải được tập thể giúp đỡ, phải
được dư luận tập thể đồng tình và ủng hộ. •
Thứ năm, việc tự tu dưỡng của sinh viên phải được giảng viên hướng dẫn,
đánh giá, uốn nắn thường xuyên. •
Thứ sáu, sinh viên phải có động cơ tự tu dưỡng đạo đức chính xác, tốt đẹp,
xuất phát từ ý nghĩa xã hội cao cả.
4.4. Đứng về phía giảng viên, để có thể lãnh đạo, giúp đỡ quá trình tự tu dưỡng của
sinh viên thì cần lưu ý một số điểm sau: •
Nắm vững mục đích, phương pháp và tổ chức việc tự tu dưỡng của sinh
viên. Trong tổ chức việc tự tu dưỡng, điều đầu tiên là phải hướng dẫn sinh
viên lập kế hoạch tự tu dưỡng. Trong đó bao gồm những nét đạo đức mà
sinh viên cần rèn luyện, củng cố hay khắc phục. •
Phải làm cho sinh viên hiểu rằng: Tự tu dưỡng phải được diễn ra trong hoạt
động thực tiễn mới đem lại hiệu quả, vì chỉ qua thực tiễn thì niềm tin đạo
đức mới được hình thành. •
Làm cho sinh viên hiểu rằng: Tự kiểm tra, tự đánh giá thường xuyên là một
việc làm không thể thiếu được của người tự tu dưỡng, vì có như vậy thì mới
có cơ sở để tự khuyến khích vươn lên và củng cố lòng tin cho bản thân. III, Ý NGHĨA RÚT RA
Giáo dục đạo đức cho sinh viên là một nhiệm vụ quan trọng trong nhà trường. Để
làm tốt nhiệm vụ này, người làm công tác giáo dục cần nắm vững các khái niệm
đạo đức và hành vi đạo đức, biết các yếu tố tâm lý có liên quan đến hành vi đạo
đức và hiểu rõ vai trò của nhà trường, tập thể lớp, của gia đình và tự tu dưỡng của
cá nhân trong quá trình hình thành đạo đức ở mỗi sinh viên
Có nhiều cách hiểu khái niệm đạo đức, nhưng theo Tâm lý học, đạo đức là sự
phản ánh vào ý thức cá nhân một hệ thống những chuẩn mực, đủ sức chi phối và
điều khiển hành vi cá nhân trong mối quan hệ giữa lợi ích của bản thân với lợi ích
của người khác và của toàn xã hội. Theo đó, đạo đức cá nhân có liên quan nhưng
không đồng nhất với các chuẩn mực đạo đức của xã hội, vì phải thông qua ý thức của mỗi cá nhân.
Hành vi đạo đức là một hành động tự giác được thúc đẩy bởi động cơ có ý nghĩa về
mặt đạo đức. Để đánh giá một hành vi đạo đức là tốt hay xấu, là cao cả hay thấp
hèn phải xem xét giá trị của hành vi đó đối với xã hội. Các tiêu chí để đánh giá
gồm tính tự giác, tính có ích và tính không vụ lợi khi cá nhân thực hiện hành vi. Để
tạo ra hành vi đạo đức cần khơi dậy nhu cầu đạo đức. Nhưng giữa chúng không trực tiếp m
à cần trung gian là động cơ đạo đức. Động cơ đạo đức tích cực hay tiêu
cực sẽ quý định hành vi đạo đức là tốt hay xấu.
Việc nghiên cứu cấu trúc tâm lý của hành vi đạo đức có ý nghĩa quan trọng. Nhà
giáo dục cần thấu hiểu vai trò của từng yếu tố tâm lý như tri thức đạo đức, niềm tin
đạo đức, động cơ đạo đức, tình cảm đ
ạo đức, ý chí đạo đức, thói quen đạo đức và
mối quan hệ hỗ tương giữa chúng để làm tốt công tác giáo dục đạo đức. Sinh viên
sẽ không hình thành được hành vi đạo đức ổn định, tin cậy nếu nhà giáo dục không
tác động đồng bộ đến các yếu tố tâm lý này
Trong giáo dục đạo đức cần chú ỷ vai trò đặc thù của nhà trường, của tập thể, của
gia đình và khả năng tự tu dưỡng của sinh viên. Trong các yếu tố vừa kể, tự tu
dưỡng là yếu tố nội lực quan trọng, quyết định trực tiếp trình độ đạo đức của sinh
viên, là con đường hình thành những phẩm chất đạo đức bền vững ở sinh viên. Vì
vậy, giảng viên và cha mẹ sinh viên cần quan tâm hướng dẫn sinh viên thực hiện
tốt tự tu dưỡng đạo đức, chuyển biến công tác giáo dục thành tự giáo dục, tạo ra
lương tâm và trách nhiệm cá nhân trong việc trau dồi đạo đức