-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Bài thảo luận | Đề tài: Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức | Đại học thương mại
Bài thảo luận | Đề tài: Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức | Đại học thương mại được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG ---ΩΩΩ---
BÀI THẢO LUẬN MÔN TRIẾT HỌC Đề tài:
Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Thu Hà
Lớp học phần: 2329MLNP0221 Nhóm: 01
Hanoi, tháng 4 năm 2023 BIÊN BẢN ĐÁNH GIÁ ST Chức Bản thân Nhóm đánh Kết Họ và tên Công việc T trách đánh giá giá luận - Giao nhiệm vụ thảo luận cho từng thành - Hoàn thành Bùi Ngọc viên 1 Phương
Nhóm - Phụ trách phần bài Hoàn thành tốt công việc, Anh
trưởng thảo luận Chương 2 tốt đúng thời Đề tài 1 hạn Đỗ Thị - Phụ trách phần đề - Hoàn thành 2 Quỳnh
Thành cương Chương 1 Đề Hoàn thành tốt công việc, Anh viên tài 3 tốt đúng thời hạn Nguyễn Lê - Hoàn thành - Phụ trách phần đề 3 Phương
Thành cương Chương 2 Đề Hoàn thành tốt công việc, Anh viên tài 3 tốt đúng thời hạn Nguyễn - Hoàn thành Thị Lâm
Thành - Tổng hợp bài của
Hoàn thành tốt công việc, 4 Anh viên các thành viên và tốt đúng thời làm slide (đề tài 1) hạn Phạm Đỗ - Phụ trách phần bài - Hoàn thành Thành 5 Việt Anh thảo luận Chương 1
Hoàn thành tốt công việc, viên Đề tài 1 tốt đúng thời hạn Phan - Phụ trách phần bài - Hoàn thành 6 Phương
Thành thảo luận Chương 1 Hoàn thành tốt công việc, Anh viên Đề tài 2 tốt đúng thời hạn - Hoàn thành - Tổng hợp nội dung tốt công việc, và làm word cả 3 đề đúng thời Vũ Thế 7
Thành tài (bao gồm: 2 đề Hoàn thành hạn Anh viên cương, 1 bài thảo tốt - Nhiệt tình luận) đóng góp ý kiến - Hoàn thành Phạm Vũ - Phụ trách phần bài Thành
Hoàn thành tốt công việc, 8 Hồng Anh viên thảo luận Chương 2 tốt đúng thời Đề tài 2 hạn Mục lục Nội dung
LỜI CẢM ƠN............................................................................................................4
ĐỀ TÀI 1...........................................................................................................................5
Chương 1: . QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ MỐI QUAN
HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC..........................................................................5
1.1. Khái niệm vật chất và ý thức..........................................................................5
1.2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức..............................................................5
Chương 2. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ
MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC VÀO SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.......................................................7
2.1. Chủ trương, đường lối, chính sách xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
xuất phát từ thực tế khách quan..............................................................................7
2.2. Phát huy tính năng động chủ quan trong xây dựng đường lối, chính sách ở
nước ta......................................................................................................................13 LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu tìm tòi bộ môn khoa học “Triết học”
cùng với đó là đề tài mang tính thực tế vô cùng cao: “Quan niệm của chủ nghĩa
Mác-Lenin về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức”, chúng em những thành viên
nhóm 1 xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến người cô Nguyễn Thị Thu Hà – người
đã trực tiếp giảng dạy, hướng dẫn chúng em bằng tất cả sự nhiệt huyết yêu nghề
của mình, cho chúng em những tri thức đầy hấp dẫn, một hành trang mới trên con
đường kiếm tìm tri thức của bản thân. Và đặc biệt hơn hết là sự hướng dẫn tận tình
của cô trong suốt quá trình mà chúng em được nhận đề tài và thực hiện đề tài này.
Nhờ cách giảng dạy nhiệt tình, khối kiến thức rộng lớn, cách truyền đạt dễ
hiểu của cô đã giúp chúng em rất nhiều trong suốt quá trình tìm tòi, thực hiện đề
tài này. Từ đó có những nhận thức đúng đắn hơn từng bước tiếp cận và giải quyết khó khăn trong đề tài.
Dưới đây là phần trình bày những kiến thức mà chúng em đã nghiên cứu được
trong xuyên suốt quá trình thực hiện đề tài. Dưới sự hướng dẫn của cô và sự nỗ lực
không ngừng nghỉ của các thầy viên trong nhóm chúng em đã hoàn thành đề tài.
Song vẫn còn nhiều hạn chế chưa có thể giải quyết, trình bày hết suy nghĩ của các
thành viên trong nhóm. Chúng em luôn mong sẽ được cô và các bạn nhận xét và
đóng góp thêm ý kiến cho bài thảo luận của chúng em được đầy đủ và sâu sắc hơn.
Qua những lời đóng góp chân thành ấy chúng em sẽ có thêm những bài học và rút
kinh nghiệm trong những lần thực hiện đề tài lần sau.
Chúng em xin chân thành cảm ơn! ĐỀ TÀI 1
Chương 1: . QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ MỐI
QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1.1. Khái niệm vật chất và ý thức
Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan đem lại
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Ý thức chính là một phạm trù song song với phạm trù vật chất, theo đó ý
thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người và có sự cải biến, sáng tạo. 1.2.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức 1.2.1.
Vật chất quyết định ý thức
Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức: Các thành tựu của khoa học tự
nhiên hiện đại đã chứng minh rằng “Giới tự nhiên có trước con người”, vật chất
tồn tại khách quan, độc lập với ý thức, là nguồn gốc sinh ra ý thức. Trong đó, bộ
óc người là một dạng vật chất có tổ chức cao nhất, là cơ quan phản ánh để hình
thành nên ý thức, ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não.
Trong quá trình phản ánh hiện thức khách quan, sự vật động của thế giới vật chất
là yếu tố quyết định sự ra đời của cái vật chất có tư duy- chính là bộ não con người.
Vật chất quyết định nội dung của ý thức: Thế giới hiện thức vận động, phát
triển theo những quy luật khách quan vốn có của nó, được phản ánh vào ý thức
mới có nội dung của ý thức.
Vật chất quyết định bản chất của ý thức: Phản ánh và sáng tạo là hai thuộc
tính không thể tách rời trong bản chất của ý thức, tuy nhiên sự phản ánh của con
người không phải là sự sao chép, chụp ảnh hoặc là phản ánh tâm lí mà là sự phản
ánh một cách tích cực, tự giác, sáng tạo thông qua các hoạt động thực tiễn. Khác
với chủ nghĩa duy vật cũ coi thế giới vật chất như là những sự vật, hiện tượng cảm
tính, chủ nghĩa duy vật đã coi vật chất là thế giới của con người, của hoạt động
thực tiễn, thực tiễn chính là hoạt động của vật chất, là cơ sở để hình thành, phát
triển ý thức. Ý thức của con người vừa phản ánh vừa sáng tạo, phản ánh để sáng
tạo và sáng tạo cho phản ánh.
Vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức: Mọi sự tồn tại, phát
triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật chất, vật chất thay đổi
thì ý thức cũng thay đổi theo. Con người là một sinh vật có tính xã hội ngày càng
phát triển về cả thể chất lẫn tinh thần, dĩ nhiên ý thức- một hình thức phản ánh của
bộ não con người cũng là sự phát triển cả về nội dung và hình thức phản ánh. Đời
sống xã hội càng văn minh, khoa học bao nhiêu, ngày càng phát triển bao nhiêu thì
con người càng phát triển theo hướng tích cực bấy nhiêu. 1.2.2.
Ý thức tác động trở lại vật chất
Ý thức tác động trở lại thế giới vật chất thường thay đổi chậm hơn so với sự
biến đổi của thế giới vật chất.
Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người.
Xã hội ngày càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn. 1.3.
Ý nghĩa phương pháp luận
Xuất phát từ thực hiện khách quan,tôn trọng quy luật khách quan.
Phát huy tính năng động chủ quan trong nhận thức và hoạt động thực tiễn
Nhận vai trò tích cực của nhân tố ý thức,tinh thần trong việc sử dụng một
cách hiệu quả nhất những điều kiện vật chất phương tiện hiện có.
Cần khái quát tổng kết thực tiễn để thường xuyên nâng cao năng lục nhận
thức,năng lực chỉ đạo thực tiễn,chống tư tưởng thụ động ngồi chờ ý lại vào hoàn
cảnh vào điều kiện vật chất.
Chương 2. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC –
LÊNIN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC VÀO SỰ
NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Chủ trương, đường lối, chính sách xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta xuất phát từ thực tế khách quan
Chúng ta khẳng định: Chủ nghĩa xã hội nhất định sẽ thay thế chủ nghĩa tư
bản như chủ nghĩa tư bản đã thay thế chế độ phong kiến. Đó là quy luật khách
quan của lịch sử loài người. ở nước ta, chủ nghĩa xã hội cũng nhất định sẽ được
xây dựng thành công trong sự gắn bó giữa độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Xuất phát từ đâu và đi theo con đường nào? Chỉ có thể và phải xuất phát từ
những điều kiện – hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước Việt Nam và con người
Việt Nam, của dân tộc và lịch sử trong bối cảnh khu vực thế giới hiện đại, theo
quy luật chung mà chủ nghĩa Mac – Lênin đã nêu ra.
Thực tế là, chúng ta bước vào con đường xã hội chủ nghĩa từ một xuất phát
điểm về kinh tế xã hội rất thấp – nhất là lực lượng sản xuất. Đó là tình trạng sản
xuất nhỏ, kinh tế tự nhiên, kinh tế hiện vật còn khá phổ biến, kỹ thuật thô sơ, thủ
công nửa cơ khí. Sản xuất hàng hoá còn chưa trở thành phổ biến, thị trường bị chia
cắt, thậm chí có nơi, có lúc khép kín kể cả trong kinh tế đối ngoại. Phương thức tổ
chức, quản lý nền kinh tế dựa trên lĩnh vực kinh tế của chúng ta là tập trung lực
lượng sản xuất, đổi mới phương thức, tổ chức quản lý, phân phối sản phẩm.
Muốn phát triển lực lượng sản xuất, chúng ta phải đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá trên cả quy mô bề rộng lẫn chiều sâu, tạo đường băng để đất
nước “cất cánh” một cách hiện thực hướng tới năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp hoá chứ không dừng lại ở phương hướng chung. Nghĩa là,
phải xây dựng một chương trình khả thi cho cả công nghiệp, nông nghiệp và các
ngành kinh tế khác, chú trọng cho phát triển nông nghiệp, cho các vùng kinh tế –
xã hội trọng điểm, cho vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng cũ…
Trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2001 – 2010 của Đảng
ta đã khẳng định : con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cần và có
thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự vừa có
những bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng
để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ
sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn
những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, bảo đảm cho khoa học và công
nghệ thật sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và động lực chủ yếu trong phát
triển kinh tế – xã hội, khắc phục nguy cơ tụt hậu về khoa học và công nghệ. Trong
thời đại cách mạng thông tin hiện nay, chúng ta không có sự lựa chọn nào khác là
phải tiếp cận nhanh chóng với tri thức và công nghệ mới của thời đại để từng bước
phát triển kinh tế trí thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của
người Việt Nam, coi phát triển giáo dục và đào tạo là nền tảng và động lực của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bởi nhân tố con người đóng vai trò hết sức
quan trọng trong sự phát triển lực lượng sản xuất.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: Con đường
đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập hệ thống chính trị của quan hệ sản xuất và
kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu
mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là về khoa học và
công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về
chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp cho nên
phải trải qua một thời kì quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ
chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội
diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ.
Khi khẳng định: chúng ta phải tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân
loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là, chúng ta lựa chọn, sử dụng
những thành tựu có lợi cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trên phương diện
này cần phải xem chủ nghĩa tư bản không chỉ là một đối trọng mà quan trọng hơn
đồng thời là một đối tác.
Đây là một vấn đề rất quan trọng đối với nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Muốn chủ nghĩa xã hội thành công thì không thể
không sử dụng chủ nghĩa tư bản với tư cách là một nấc thang văn minh nhân loại.
Như Mac đã nói: “ chúng ta đau khổ vì chủ nghĩa tư bản và cũng đau khổ vì không
có nó”. Tức là, chúng ta đau khổ vì quan hệ sản xuất sở hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất, nhưng có lẽ chúng ta còn đau khổ hơn nếu như không có
lực lượng sản xuất khổng lồ của nó, đó chính là: “Tiền đề thực tiễn tuyệt đối cần
thiết” (C.Mác và Ph.Ăngghen).
Định hướng và tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội tất yếu phải kế thừa và
sử dụng lực lượng sản xuất do nhân loại tạo ra và phát triển trong điều kiện của xã
hội tư bản chủ nghĩa, chẳng hạn đó là: thành tựu khoa học, kỹ thuật, và công nghệ
–môi trường, là cơ chế thị trườngvới nhiều hình thức cụ thể tác động vào quan
điểm phát triển kinh tế, nhất là những mặt tích cực của nó. Nói như vậy không có
nghĩa là lặp lại hoàn toàn quá trình xây dựng lực lượng sản xuất đó trong lịch sử.
Ở nước ta, lực lượng sản xuất cần phát triển song hành hai phương thức:
tuần tự (từ thủ công đến nửa cơ khí rồi cơ khí) và nhảy vọt theo lối đi tắt, đón đầu
(từ thủ công đi thẳng vào hiện đại) sao cho trong một thời gian ngắn, thậm chí rât
ngắn chúng ta đạt trình độ với các nước tiên tiến trong khu vực…
Song chúng ta phải biết rằng, lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển gắn
liền với quan hệ sản xuất phù hợp. Vì vậy, Đảng và nhà nước ta đã chủ trương
thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ đó, phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất
– kinh tế của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng
sản xuất hiện đại tới mức xã hội hoá gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới
phù hợp trên cả 3 mặt: sở hữu, quản lý và phân phối.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế
nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Kinh tế
thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước. Nhà nước
ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa, quản lý nền kinh tế bằng hệ thống pháp luật, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các
hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản
xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy được mặt tích cực, hạn chế và khắc phục
mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của người lao động, của toàn thể nhân dân.
Muốn đảm bảo cho nền kinh tế thị trường có điều kiện tồn tại và phát triển,
chúng ta phải thừa nhận sự tồn tại một cách tất nhiên và khách quan của các quy
luật: quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật cạnh tranh… trong nền kinh tế.
Vì nó là cái khách quan nên chúng ta phải chú ý không nên đi ngược lại nếu không
thì chẳng bao giờ có thể xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhưng bên cạnh những mặt tích cực của nền kinh tế thị trường là: phát triển
nhanh lực lượng sản xuất, nâng cao mức sống, mức thu nhập của người lao động
lên thì mặt trái của nó trong một vài năm trở lại đây đang được phát huy một cách
mạnh mẽ, sự chênh lệch thu nhập dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo trong lao động,
tệ nạn quan liêu, tham nhũng, suy thoái phẩm chất đạo đức của một số cán bộ, công chức nhà nước…
Trước thực tế đó, Đảng và nhà nước cần có những biện pháp phân phối hợp
lý, không chỉ có phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế mà còn phân
phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và
thông qua phúc lợi xã hội. Ngoài ra chúng ta cần có những biện pháp khuyến
khích làm giàu một cách chính đáng. Đối với thu nhập, nhà nước cần có cơ sở điều
tiết thu nhập (thuế thu nhập), cải cách cơ bản chế độ tiền lương. Đối với người
nghèo và có hoàn cảnh khó khăn cần có chính sách xã hội hợp lý: bàn cách làm
giàu… mặt khác cần kiên quyết chống những thu nhập bất chính.
Đáng sợ hơn đó là tệ nạn quan liêu, tham nhũng, suy thoái phẩm chất đạo
đức của nhiều cán bộ, công chức nhà nước nằm ngay trong bộ máy nàh nước, nó
gây ra bất công xã hội, làm giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng,
vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội… ở vai trò của công tác xây dựng Đảng,
nhà nước trong sạch, vững mạnh là hết sức quan trọng.
Nói chung, chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua việc xác lập hệ thống
chính trị của chủ nghĩa tư bản không phải là không có kế thừa và chọn lọc những
quan hệ sản xuất, những hình thức kinh tế tư bản chủ nghĩa khi nó chưa hết tác
dụng tích cực ngya trong thời kỳ quá độ. Đây chính là những “cây cầu nhỏ”,
những bước trung gian quá độ đưa chúng ta tới “phòng chờ” trực tiếp đi và chủ nghĩa xã hội.
Về mặt kiến trúc thượng tầng, chúng ta cũng kế thừa và chọn lọc để xây
dựng nhà nước hiến pháp của xã hội chủ nghĩa điều khiển nền kinh tế thị trường.
Chúng ta xác định mục tiêu: chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng là
một chế độ xã hội vì con người và do con người. Để tiến hành đến mục tiêu xây
dựng thành công xã hội chủ nghĩa phải gắn liền với tăng trưởng kinh tế, với công
bằng xã hội, với tiến bộ xã hội, phải ra sức thực hiện các chính xác xã hội. Đảng ta
khẳng định: “chính xác xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn
phát huy mọi tiềm năng sáng tại của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội”, bởi “không có đầu tư nào có lợi như đầu tư cho con người ”. Chính sách
xã hội của Đảng được thể hiện trên tất cả các mặt của đời sống: quan tâm chăm
sóc đối với những người có công với cách mạng, chính sách đền ơn đáp nghĩa (xây
nhà tình nghĩa, sổ tiết kiệm tình nghĩa). Trong kihn tế, tạo ra nhiều công ăn việc là
mới cho người lao động, cải cách chế độ tiền lương theo hướng xoá bỏ thu nhập
bình quân, tiền tệ hoá tiền lương, khuyến khích tài năng, đâu tư đúng mức cho các
ngành: y tế, giáo dục, văn hoá- nghệ thuật, nghiên cứu khoa học. Thực hiện chính
sách dân số là một mục tiêu hết sức quan trọng trong điều kiện quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. (Tiểu luận: Quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ)
Nhưng dù sao đó mới chỉ là những chủ trương, đường lối đối với tình hình
trong nước. Vậy còn quốc tế thì sao?
Thứ nhất, cách mạng khoa học – công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông
tin, công nghệ sinh học tiếp tục có những bước nhảy vọt, ngày càng trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tri thức. Nước ta một
mặt có cơ hội rút ngắn khoảng cách so với các nước phát triển, cải thiện vị thế của
mình. Đồng thời đứng trước nguy cơ tụt hậu xa hơn nếu không tranh thủ được cơ
hội, khắc phục được những yếu kém để vươn lên. Điều này đòi hỏi các nhà doanh
nghiệp phải hết sức nhanh nhạy nắm bắt thông tin, áp dụng những thành tựu của
khoa học công nghệ vào trong kinh doanh, có như thế mới mong có cơ hội phát triển.
Thứ hai, toàn cầu hoá kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước, bao
trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và
tính tuỳ thuộc nhau giữa các nền kinh tế. Nước ta cũng không thể nằm ngoài vòng xoáy đó.
Vậy chúng ta phải làm thế nào để vừa có thể hội nhập kinh tế quốc tế, tham
gia vào xu thế toàn cầu hoá lại vừa có thể giữ vững được nền kinh tế độc lập tự chủ.
Trước tiên phải tính đến vai trò của bộ máy nhà nước. Theo chỉ dẫn của
Lênin thì bộ máy nhà nước cần phải vừa mềm dẻo vừa hết sức cứng rắn: “Ngày
nay cần có sự mềm dẻo tối đa, mà muốn thế, muốn ứng biến một cách mềm dẻo
thì bộ máy phải thực sự cứng rắn”. Phải mềm dẻo vì đây là thời kỳ quá độ, biện
pháp quá độ. Phải cứng rắn vì đây là cuộc “chiến tranh kinh tế”, cuộc chiến tranh
“ai thắng ai” giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Bởi kẻ nào nắm thống trị