Bài thảo luận về tài sản góp vốn & quyền HĐQT
Câu 2
1.Loại tài sản góp vốn của cả A,B,C đều hợp pháp vì đã được thỏa thuận bởi 3
thành viên sáng lập cũng như phù hợp với Khoản 1 Điều 34 Luật Doanh nghiệp
2020 (Tài sản góp vốn là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng,
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, tài sản
khác có thể định giá được bằng Đồng Việt Nam.)
+Bà A cam kết góp 10 tỷ đồng tiền mặt nhưng chỉ góp 5 tỷ lúc thành lập,
số còn lại thỏa thuận góp vào ngày 29/4/2021 =>Hợp pháp vì đảm bảo tuân thủ
thời gian góp vốn theo Khoản 1 Điều 113 Luật Doanh nghiệp 2020 (Các cổ
đông phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua trong thời hạn 90 ngày kể
từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, trừ trường hợp Điều
lệ công ty hoặc hợp đồng đăng ký mua cổ phần quy định một thời hạn khác
ngắn hơn.)
+Ông B góp vốn bằng QSDĐ với giá thực tế chỉ có 4 tỷ nhưng các
thành viên lại định giá 5 tỷ tức cao hơn giá thực tế là 1 tỷ đồng=>Không hợp
pháp vì vi phạm Khoản 2 Điều 36 luật Doanh nghiệp. Trường hợp định giá cáo
hơn này thì các c đông sáng lập phải cùng liên đới góp thêm bằng số chênh
lệch giữa giá trị được định giá và giá trị thực tế của tài sản góp vốn tại thời
điểm kết thúc định giá; đồng thời liên đới chịu trách nhiệm đối với thiệt hại do
cố ý định giá tài sản góp vốn cao hơn giá trị thực tế. Trường hợp không góp
thêm được thì phải đăng kí giảm vốn điều lệ theo giá trị thực tế được định giá
lại. +Trường hợp ông C cũng tương tự như ông B
2.Quy định về thẩm quyền của HĐQT của Công ty cổ phần X là không hợp
pháp vì quyền thông qua việc kí kết bán tài sản có giá trị từ 50% tổng giá trị tài
sản của công ty trở lên thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông theo điểm d
Khoản 2 Điều 138 Luật DN 2020 do đó HĐQT k có quyền thông qua việc kí
hợp đồng này mà phải do Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông thông qua.
Đồng thời theo Khoản 3 Điều 120 Luật DN 2020: “Trong thời hạn 03 năm kể từ
ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, cổ phần phổ
thông của cổ đông sáng lập được tự do chuyển nhượng cho cổ đông sáng lập
khác và chỉ được chuyển nhượng cho người không phải là cổ đông sáng lập nếu
được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông.”Như vậy, do khi thàng lập công
ty chỉ có 3 cổ đông đều là cổ đông sáng lập do đó việc phê chuẩn việc chuyển
nhượng cổ phần trong thời gian công ty chưa niêm yết cổ phiếu trên thị trường
chứng khoán cũng thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông chứ không phải
HĐQT.

Preview text:

Bài thảo luận về tài sản góp vốn & quyền HĐQT Câu 2
1.Loại tài sản góp vốn của cả A,B,C đều hợp pháp vì đã được thỏa thuận bởi 3
thành viên sáng lập cũng như phù hợp với Khoản 1 Điều 34 Luật Doanh nghiệp
2020 (Tài sản góp vốn là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng,
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, tài sản
khác có thể định giá được bằng Đồng Việt Nam.
)
+Bà A cam kết góp 10 tỷ đồng tiền mặt nhưng chỉ góp 5 tỷ lúc thành lập,
số còn lại thỏa thuận góp vào ngày 29/4/2021 =>Hợp pháp vì đảm bảo tuân thủ
thời gian góp vốn theo Khoản 1 Điều 113 Luật Doanh nghiệp 2020 (Các cổ
đông phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua trong thời hạn 90 ngày kể
từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, trừ trường hợp Điều
lệ công ty hoặc hợp đồng đăng ký mua cổ phần quy định một thời hạn khác ngắn hơn.
)
+Ông B góp vốn bằng QSDĐ với giá thực tế chỉ có 4 tỷ nhưng các
thành viên lại định giá 5 tỷ tức cao hơn giá thực tế là 1 tỷ đồng=>Không hợp
pháp vì vi phạm Khoản 2 Điều 36 luật Doanh nghiệp. Trường hợp định giá cáo
hơn này thì các cổ đông sáng lập phải cùng liên đới góp thêm bằng số chênh
lệch giữa giá trị được định giá và giá trị thực tế của tài sản góp vốn tại thời
điểm kết thúc định giá; đồng thời liên đới chịu trách nhiệm đối với thiệt hại do
cố ý định giá tài sản góp vốn cao hơn giá trị thực tế. Trường hợp không góp
thêm được thì phải đăng kí giảm vốn điều lệ theo giá trị thực tế được định giá
lại. +Trường hợp ông C cũng tương tự như ông B
2.Quy định về thẩm quyền của HĐQT của Công ty cổ phần X là không hợp
pháp vì quyền thông qua việc kí kết bán tài sản có giá trị từ 50% tổng giá trị tài
sản của công ty trở lên thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông theo điểm d
Khoản 2 Điều 138 Luật DN 2020 do đó HĐQT k có quyền thông qua việc kí
hợp đồng này mà phải do Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông thông qua.
Đồng thời theo Khoản 3 Điều 120 Luật DN 2020: “Trong thời hạn 03 năm kể từ
ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, cổ phần phổ
thông của cổ đông sáng lập được tự do chuyển nhượng cho cổ đông sáng lập
khác và chỉ được chuyển nhượng cho người không phải là cổ đông sáng lập nếu

được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông.”Như vậy, do khi thàng lập công
ty chỉ có 3 cổ đông đều là cổ đông sáng lập do đó việc phê chuẩn việc chuyển
nhượng cổ phần trong thời gian công ty chưa niêm yết cổ phiếu trên thị trường
chứng khoán cũng thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông chứ không phải HĐQT.