Bài tiểu luận tham khảo - Môn chủ nghĩa xã hội khoa học| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới.

Thông tin:
7 trang 6 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Bài tiểu luận tham khảo - Môn chủ nghĩa xã hội khoa học| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới.

64 32 lượt tải Tải xuống
Nội dung
1. Dân tộc trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội
1.1. Chủ nghĩa Mác - Lênin về dân tộc
1.1.1. Khái niệm đặc trưng cơ bản của dân tộc
Dân tộc theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin là quá trình
phát triển lâu dài của xã hội loài người. Sự thay đổi của phương thức xản
xuất là nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi của cộng đồng dân tộc. Do đó,
các hình thức cộng đồng dần thay đổi từ thấp đến cao, bao gồm: thị tộc,
bộ lạc, bộ tộc, dân tộc
Dân tộc được hiểu theo hai nghĩa cơ bản:
Thứ nhất: Dân tộc hay quốc gia dân tộc là cộng đồng chính trị - xã
hội có tính chất ổn định, có chung mối liên hệ về các đặc điểm như sau:
- Có chung phương thức sinh hoạt kinh tế. Đặc trưng quan trọng, tạo nền
tảng vững chắc do dân tộc
- Có lãnh thổ chung ổn định không bị chia cắt. Lãnh thổ là một phần bề
mặt của Trái Đất có giới hạn gồm cả đất liền, nước và không gian. Thông
thường nó được xem là thuộc sở hữu của một cá nhân, tổ chức, đoàn thể, quốc
gia và có khi kể cả của loài vật. Về địa lý, chính trị và hành chính, lãnh thổ là
một phần đất nằm dưới sự quản lý của cơ quan chính quyền của một quốc gia.
Lãnh thổ cũng được dùng theo nghĩa "không gian hoạt động của một cộng đồng
người". Xác định và bảo vệ lãnh thổ quốc gia dân tộc là nhiệm vụ quan trọng đối
với vận mệnh của một đất nước, và cần có ý thức mỗi người đóng góp để bảo vệ
chủ quyền dân tộc
- Có sự quản lý của một nhà nước. Có một nhà nước điều hành chung, ban
hành những điều luật để quản lý, mỗi thành viên trong cộng đồng có nghĩa vụ
tuân theo
- Có ngôn ngữ chung của quốc gia. Mỗi một cộng đồng sẽ có một ngôn
ngữ riêng giúp trao đổi thông tin kiến thức và thể hiện văn hóa của dân tộc
đó
- Có nét tâm lý biểu hiện qua nền văn hóa dân tộc và tạo nên bản sắc riêng
của nền văn hóa dân tộc. Những tập quán, tín ngưỡng riêng của mỗi dân
tộc sẽ tạo nên nét đặc sắc văn hóa riêng mỗi dân tộc
Thứ hai: Dân tộc - tộc người Theo nghĩa này, dân tộc là cộng đồng người
được hình thành lâu dài trong lịch sử và có ba đặc trưng cơ bản sau:
- Cộng đồng về ngôn ngữ. Là đặc trưng cơ bản để phân biệt tộc người
nyaf với tộc người kia. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau, có những
tộc người không còn dùng ngôn ngữ mẹ đẻ mà sử dụng ngôn ngử khác làm công
cụ giao tiếp
- Cộng đồng về văn hóa. Văn hóa riêng của từng dân tộc phản ảnh truyền
thống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng,…. Của mỗi tộc người. Ngày nay có sự
giao lưu văn hóa mạnh mẽ giữa các dân tộc song vẫn cần phải bảo tồn và phát
huy bản sắc văn hóa của mỗi tộc người
- Ý thức tự giác tộc người. Sự hình thành và phát triển của ý thức tự giác
tộc người liên quan trự tiếp đến các yếu tố của ý thức, tình cảm, tâm lý tộc người
Như vậy, khía niệm dân tộc cần phải được hiểu theo hai nghĩa khác nhau.
Hai vấn đề này tuy khác nhau nhưng có sự gắn bó mật thiết không thể tách rời.
1.1.2. Hai xu hướng khách quan của sự phát triển quan hệ dân tộc
Thứ nhất: Cộng đồng dân cư muốn tách ra để hình thành cộng đồng dân
tộc độc lập. Nguyên nhân là cộng đồn đó có sự phát triển riêng về ý thức dân
tộc, ý thức về quyền sống riêng. Xu hướng này được phản ánh qua các cuộc
khởi nghĩa, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc dưới ách thống trị của thực
dân đế quốc
Thứ hai: Các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí các dân tốc ở nhiều
quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau vì nhiều lợi ích khác nhau, cùng nhau phát
triển. Phản ánh qua liên minh các nước, các châu lục như ASEAN, EU, ….
1.1.3. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa dân
tộc với giai cấp; dựa vào kinh nghiệm của phong trào cách mạng thế giới và
thực tiễn cách mạng Nga những năm đầu thế kỷ XX, Lênin đã khái quát Cương
lĩnh dân tộc như sau:
Một là, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng:
Bình đẳng dân tộc là quyền của mọi dân tộc không phân biệt đa số hay
thiểu số trình độ văn hoá cao hay thấp, không phân biệt chủng tộc màu da…
quyền bình đẳng giữa các dân tộc bao gồm tất cả các lĩnh vực trong kinh tế,
chính trị, văn hoá xã hội.
Đây cũng là cơ sở pháp lý chung để giải quyết các quan hệ dân tộc trên
thế giới trong khu vực hay trong một quốc gia. Bởi điều đó đã được ghi nhận
trong công pháp quốc tế và pháp luật của mỗi quốc gia. Bình đẳng dân tộc cũng
là kết quả đấu tranh của nhân dân lao động các nước.
Hai là, các dân tộc được quyền tự quyết:
Quyền dân tộc tự quyết là Quyền tự mình định đoạt những công việc
thuộc về vận mệnh của dân tộc mình, như lập ra một nhà nước dân tộc riêng,
độc lập hoặc cùng với các dân tộc khác thành lập một nhà nước nhiều dân tộc
trên cơ sở bình đẳng về quyền và nghĩa vụ.
Quyền tự quyết dân tộc bao gồm quyền tách ra thành lập một quốc gia
dân tộc độc lập và quyền tự nguyện liên hiệp với dân tộc khác trên cơ sở bình
đẳng. Đối với quyền này mà nói, việc thực hiện phải xuất phát từ thực tiễn và
phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, đảm bảo sự thống nhất
giữa lợi ích dân tộc và lợi ích của giai cấp công nhân.
Quyền tự quyết ở đây quan trọng nhất là tự quyết định chế độ chính trị- xã
hội và con đường phát triển của dân tộc.
Tự quyết dân tộc không có nghĩa là các tộc người thiểu số trong một
quốcgia được phép phân lập thành quốc gia độc lập. Nó có thể tạo điều kiện
thuận lợi cho các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực phản động.
Giải quyết vấn đề dân tộc tự quyết phỉa gắn với hoàn cảnh lịch sử cụ thể
của từng quốc gia.
Ba là, Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc:
Điều này phản ánh bản chất quốc tế của phong tào công nhân, phản ánh
sự thống nhất trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Nó đảm
bảo cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi. Liên hiệp công
nhân tất cả các dân tộc chung mục tiêu chí hướng quy định đường lối, đó là yếu
tố sức mạnh đảm bảo cho giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức chiến
thắng kẻ thù của mình. Vì vây, nội dung liên hiệp công nhân các dân tộc đóng
vai trò liên kết cả ba nội dung của cương lĩnh thành một chỉnh thể. Đoàn kết giai
cấp công nhân các dân tộc là sự thể hiện thực tế tinh thần yêu nước mà thời đại
ngà nay đã trở thành một sức mạnh vô cùng to lớn.
Cương lĩnh dân tộc là một bộ phận hợp thành cương lĩnh cách mạng
của giai cấp công nhân, là cơ sở lí luận cho chính sách dân tộc của các đảng
cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa.
2. Dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam
2.1 Đặc điểm dân tộc ở Việt Nam
Thứ nhất, có sự chênh lệch về số dân giữa các tộc người. Giữa các dân tộc
đa số và dân tộc thiểu số có sự chênh lệch lớn về số lượng. Vì vậy việc thúc đẩy
phát triển dân số các dân tộc thiểu số có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nhằm phất
triển về số lượng dân trong mỗi dân tộc rất ít và phát triển cả về chất lượng dân
số, tránh nguy cơ mất thành phần một số dân tộc thiểu số rẩ ít người, thực hiện
quyền phát triển đầy đủ bình đẳng giữa các dân tộc
Thứ hai, các dân tộc cư trú xen kẽ nhau. Các dân tộc nước ta sống xen kẽ
nhau, không có lãnh thổ riêng biệt như một số nước trên thế giới. Địa bàn cư trú
của người Kinh chủ yếu ở đồng bằng, ven biển và trung du. Còn các dân tộc ít
người cư trú chủ yếu ở các vùng miền núi và vùng cao. Các dân tộc thiểu số có
sự tập trung ở một số vùng, xen kẽ với các dân tộc khác. Ở miền núi hầu như
không có tỉnh huyện nào chỉ có một dân tộc cư trú.
Tình trạng cư trú phân tán, xen kẽ nhau giữa các dân tộc ở nước ta, một
mặt có điều kiện để tăng cường hiểu biết nhau, hòa hợp và xích lại gần nhau,
mặt kahcs cần đề phòng trường hợp do chưa hiểu nhau, khác nhau về phong tục
tập quán nên vẫn xuất hiện mâu thuẫn, tranh chấp
Thứ ba, các dân tộc thiểu số ở Việt Nam phân bố chủ yếu ở địa bàn có vị
trí chiến lượng quan trọng. Đối với Đất nước trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh
giành lại độc lập như nước Việt Nam ta, trên mảnh đất này chỗ nào cũng là vị trí
chiến lược quan trọng, đặc biệt những vùng giáp biên giới, dù có địa hình hiểm
trở, thời tiết khí hậu khắc nghiệt nhưng vẫn xuất hiện những đồng bào dân tộc ta
sinh sống ở đấy. Lúc nào cũng sẵn sàng hỗ trợ giúp đỡ trong các cuộc đấu tranh
giành và bảo vệ lãnh thổ.
Mặc dù chỉ chiếm 15.6% dân số, nhưng 53 dân tộc thiểu số Việt Nam lại
cư trú trên ¾ diện tích lãnh thổ và ở những vị trí trọng yếu về kinh tế,chính trị,
an ninh quốc phòng như vùng biên giới, hải đảo, các vùng sâu vùng xa.
Thứ tư, trình độ phát triển giữa các dân tộc ở Việt Nam không đều. Có
những dân tộc thiểu số trình độ thấp, đời sống có nhiều khó khăn, nhất là những
dân tộc cư trú ở vùng điều kiện địa lý - tự nhiên khắc nghiệt, canh tác không ổn
định, dẫn đến sự chậm phát triển hơn so với dân tộc đa số. Đối diện với hoàn
cảnh đó Đảng và Nhà nước cũng đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi đối với
những dân tộc thiểu số như cộng điểm thi vào đại học, ưu tiên công ăn việc làm,
hay những cuộc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, điều đó thể hiện sự quan tâm
của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào dân tộc
Thứ năm, Các dân tộc Việt Nam có truyền thống đoàn kết gắn bó lâu đời
trong cộng đồng dân tộc- quốc gia thống nhất. Nước ta là một trong các quốc gia
nhiều dân tộc, trải qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, các dân tộc luôn
kề vai sát cánh, gắn bó máu thịt bên nhau trong đấu tranh chống ngoại xâm,
chống thiên tai địch họa và dựng xây đất nước. Các dân tộc nước ta là một cộng
đồng thống nhất trong đa dạng; bản sắc văn hóa từng dân tộc tạo nên sự phong
phú của nền văn hiến Việt Nam. Ðoàn kết các dân tộc là đường lối của Ðảng ta
đã xác định ngay từ những ngày đầu mới thành lập và trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng. Báo cáo của BCH T.Ư Ðảng khóa IX về các văn kiện Ðại hội X
của Ðảng do đồng chí Tổng Bí thư Nông Ðức Mạnh trình bày ngày 18-4-2006
đã khẳng định:
"Ðảng ta luôn coi vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc là vấn đề chiến
lược, cơ bản, lâu dài của sự nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia
đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ;
cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa".
Thứ 6, mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, góp phần tạo nên sự phong
phú đa dạng của nền văn hóa Việt Nam thống nhất. Mỗi dân tộc đều có sắc thái
văn hóa riêng, vừa thể hiện bản sắc tộc người, vừa góp phần làm phong phú, đa
dạng cho nền văn hóa chung. Do vậy, công cuộc bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa ấy, trong bối cảnh hiện nay, càng cần được quan tâm. Những năm qua,
hệ thống văn hóa từ tỉnh tới cơ sở đã coi trọng việc phát hiện, bảo tồn phát huy
những giá trị văn hóa truyền thống, xây dựng, phát hiện những giá trị mới về
văn học - nghệ thuật của các dân tộc thiểu số. Nhiều giá trị văn hóa truyền
thống, những phong tục, tập quán tốt đẹp của các dân tộc như các lễ hội tín
ngưỡng dân gian, hội thi liên hoan văn hóa các dân tộc, tiếng nói, chữ viết, trang
phục, các nghề thủ công truyền thống, các trò chơi, trò diễn, dân ca, dân vũ... đã
và đang được bảo tồn và phát triển.
2.2 Quan điểm và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà Nước Việt Nam
2.2.1 Quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về dân tộc và giải quyết quan
hệ dân tộc
Ngay từ khi ra đời, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện nhất
quánnhững nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc. Ðảng
vàNhà nước ta luôn luôn coi vấn đề dân tộc và xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc có tầm quan trọng đặc biệt. Đại hội XII đã khẳng định tầm quan trọng
của đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng của nước ta, đồng thời đưa ra
quan điểm về vấn đề dân tộc, những gì nên làm, những gì cần hoàn thiện, và
những gì nên tránh. Vì thế nên rất ít khi xảy ra những xung đột, thù địch giữa
các dân tộc, và cũng nhờ đó đất nước ta thành khối đại đoàn kết cùng lòng bảo
vệ và dựng xây đất nước
* Quan điểm của dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam về vấn đề dân
tộc:
Một là vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản lâu
dài, đồng thười cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam. Vận
dụng sáng tọa chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tỏng quá trình
lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta đã tổng kết các thời kỳ, giai đoạn lịch
sử cụ thể và đổi mới nội dung chính sach, phương thức lãnh đọa và biên pháp tổ
chức thực hiện chính sách dân tộc nói chung, chính sách đối với đồng bào các
dân tộc thiểu số nói riêng để từng bước khắc phục sự chênh lẹch về mọi mặt đời
sống kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các dân tộc, làm cho ly tưởng “ Bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng giúp nhau cùng tiến bộ” Ngày được hiện thực hóa một cách
đầy đủ hơn. Lý tưởng này được duy trì và nhấn mạnh trong các văn kiện Đại hội
Đạng từ lần thứ II đến lần thứ V và được bổ sung đến Đại hội lần thứ XII
Chủ trương dân tộc “ bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau” cùng
phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Kiên quyết loại bỏ những thành phần chống phá, đấu tranh với mọi âm mưu chia
rẽ.
Bình đẳng là nguyên tắc cơ bản trong chính sách dân tộc của Đảng Cộng
sản. Tất cả các dân tộc đều bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi trong mọi lĩnh
vực kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, bầu cử,….vv. Đây là nguyên tắc nòng cốt
để duy trì bảo vệ tính đại đoàn kết dân tộc từ trước đến nay. Trước đây, văn kiện
Đại hội Đảng nói là các dân tộc đoàn kết, bình đẳng, nhưng hiện nay đặt bình
đẳng trước đoàn kết. Điều đó là do bình đẳng chính là cơ sở để thực hiện đoàn
kết dân tộc. Bình đẳng dân tộc là thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các dân
tộc ở Việt Nam. Chỉ có thực hiện được điều này mới có đoàn kết thực sự giữa
các dân tộc ở Việt Nam. Khi còn có sự chênh lệch giữa các dân tộc (chưa thực
hiện tốt bình đẳng dân tộc) thì vẫn còn kẽ hở cho các thế lực thù địch để lợi
dụng nhằm chia rẽ quan hệ giữa các dân tộc, giữa dân tộc Kinh với các dân tộc
thiểu số. Do đó, phải quan tâm thực hiện tốt bình đẳng dân tộc, mới có cơ sở
thực hiện tốt đoàn kết dân tộc.
Đoàn kết chính là vấn đề chiến lược cơ bản và lâu dài của vận mệnh đất
nước. Đoàn kết chính là sức mạnh, điều đó đã chứng minh qua những trang sách
lịch sử, bộ đội và các đồng bào dân tộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm; cùng
nhau xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội; hội nhập; cùng nhau giúp đỡ chống
chọi thiên tai bão lũ.
Cùng tương trợ, tôn trọng nhau phát triển, mới đây văn kiện Đại hội Đảng
lần thứ XIII tiếp tục khẳng định đây là chủ trương lớn cần được toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân ta nỗ lực củng cố, tăng cương trong chặng đường tiếp theo
nước ta . Vì Việt Nam ta có 54 dân tộc và có sự chênh lệch về trình độ phát triển
kinh tế - xã hội, mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng nên cần tôn trọng lợi ích
của nhau.
Hai là, phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh-
quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi. Đảng và Nhà nước đặc biệt
quan tâm đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng
đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Những quyết sách quan trọng của Ðảng,
Nhà nước là động lực mạnh mẽ thúc đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội vùng
dân tộc thiểu số và miền núi, góp phần hoàn thành các mục tiêu đề ra cho giai
đoạn 2016 - 2020. Kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật địa bàn kinh tế - xã hội đặc
biệt khó khăn được quan tâm đầu tư đồng bộ, đạt được kết quả quan trọng. Công
tác xóa đói giảm nghèo cần được triển khai mạnh mẽ và cũng đã có những thành
tựu ấn tượng. Chương trình xây dựng nông thôn mới đạt kết quả bước đầu đáng
khích lệ. Sự nghiệp giáo dục, đào tạo và dạy nghề ở vùng đồng bào dân tộc thiểu
số và miền núi ngày càng phát triển cả về quy mô, mạng lưới và chất lượng.
Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng, phát triển cả về
mạng lưới, trang thiết bị và đội ngũ; chất lượng khám, chữa bệnh có chuyển biến
tích cực. Công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa tốt đẹp của các dân tộc thiểu
số đạt được kết quả rõ nét hơn. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí
sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người DTTS được quan tâm, có
chuyển biến khá rõ nét. Quốc phòng, an ninh được củng cố và tăng cường, an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Đại hội XIII cũng đã nêu, trên cơ sở đánh giá những kết quả đạt được,
cũng như những hạn chế trong thực hiện chính sách về dân tộc, Đảng ta chủ
trương: “ Huy động, phân bố, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư
phát triển, tọa chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đồng
bào dân tộc thiểu số. Chú tọng tính đặc thù của từng vùng đồng bào dân tộc
thiểu số trong hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc. Có cơ chế
thức đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số
phát triển kinh tế- xã hội, thực hiện giảm nghèo đa chiều, bền vững”. Những
chính sách mới này phản ánh sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với việc
phát triển kinh tế, văn hóa ở những nơi đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Ba là, công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, cách ngành và toàn bộ hệ thống
chính trị. Các dân tộc ở nước ta sinh sống gắn bó cùng nhau từ lâu đời, đã sớm
có ý thức đoàn kết, giúp nhau trong chinh phục thiên nhiên, chống giặc ngoại
xâm và xây dựng đất nước. Sự đoàn kết gắn bó giữa các cộng đồng dân tộc đã
tạo nên một quốc gia đa dân tộc bền vững, thống nhất. Ngày nay trước yêu cầu
phát triển mới của đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các dân tộc tiếp tục
phát huy truyền thống tốt đẹp, tăng cường đoàn kết, nỗ lực phấn đấu xây dựng
nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhất là những nguyên nhân do lịch sử
để lại và do điều kiện địa lý, tự nhiên khắc nghiệt ở địa bàn cư trú của đồng bào
dân tộc thiểu số, nên trình độ phát triển kinh tế – xã hội của các dân tộc không
đồng đều. Một số dân tộc đã phát triển kinh tế – xã hội tương đối cao, nhưng
phần lớn các dân tộc thiểu số vẫn còn trong tình trạng lạc hậu, có mức sống
thấp, tỷ lệ đói nghèo cao, chậm phát triển hơn so với dân tộc đa số. Một số dân
tộc vẫn còn trong tình trạng tự cung, tự cấp, du canh, du cư. Đời sống của đồng
bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa nhìn chung gặp rất nhiều
khó khăn trong quá trình phát triển. Cùng là một dân tộc Việt Nam, trách nhiệm
giúp đỡ nhau, giúp đỡ đồng bào đang còn khó khăn là trách nhiệm không chỉ
của toàn Đảng, Bộ máy Nhà nước mà còn là trách nhiệm của toàn dân, của gia
đình của mỗi cá nhân.
| 1/7

Preview text:

Nội dung
1. Dân tộc trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội
1.1. Chủ nghĩa Mác - Lênin về dân tộc
1.1.1. Khái niệm đặc trưng cơ bản của dân tộc
Dân tộc theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin là quá trình
phát triển lâu dài của xã hội loài người. Sự thay đổi của phương thức xản
xuất là nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi của cộng đồng dân tộc. Do đó,
các hình thức cộng đồng dần thay đổi từ thấp đến cao, bao gồm: thị tộc,
bộ lạc, bộ tộc, dân tộc
Dân tộc được hiểu theo hai nghĩa cơ bản:
Thứ nhất: Dân tộc hay quốc gia dân tộc là cộng đồng chính trị - xã
hội có tính chất ổn định, có chung mối liên hệ về các đặc điểm như sau:
- Có chung phương thức sinh hoạt kinh tế. Đặc trưng quan trọng, tạo nền
tảng vững chắc do dân tộc
- Có lãnh thổ chung ổn định không bị chia cắt. Lãnh thổ là một phần bề
mặt của Trái Đất có giới hạn gồm cả đất liền, nước và không gian. Thông
thường nó được xem là thuộc sở hữu của một cá nhân, tổ chức, đoàn thể, quốc
gia và có khi kể cả của loài vật. Về địa lý, chính trị và hành chính, lãnh thổ là
một phần đất nằm dưới sự quản lý của cơ quan chính quyền của một quốc gia.
Lãnh thổ cũng được dùng theo nghĩa "không gian hoạt động của một cộng đồng
người". Xác định và bảo vệ lãnh thổ quốc gia dân tộc là nhiệm vụ quan trọng đối
với vận mệnh của một đất nước, và cần có ý thức mỗi người đóng góp để bảo vệ chủ quyền dân tộc
- Có sự quản lý của một nhà nước. Có một nhà nước điều hành chung, ban
hành những điều luật để quản lý, mỗi thành viên trong cộng đồng có nghĩa vụ tuân theo
- Có ngôn ngữ chung của quốc gia. Mỗi một cộng đồng sẽ có một ngôn
ngữ riêng giúp trao đổi thông tin kiến thức và thể hiện văn hóa của dân tộc đó
- Có nét tâm lý biểu hiện qua nền văn hóa dân tộc và tạo nên bản sắc riêng
của nền văn hóa dân tộc. Những tập quán, tín ngưỡng riêng của mỗi dân
tộc sẽ tạo nên nét đặc sắc văn hóa riêng mỗi dân tộc
Thứ hai: Dân tộc - tộc người Theo nghĩa này, dân tộc là cộng đồng người
được hình thành lâu dài trong lịch sử và có ba đặc trưng cơ bản sau:
- Cộng đồng về ngôn ngữ. Là đặc trưng cơ bản để phân biệt tộc người
nyaf với tộc người kia. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau, có những
tộc người không còn dùng ngôn ngữ mẹ đẻ mà sử dụng ngôn ngử khác làm công cụ giao tiếp
- Cộng đồng về văn hóa. Văn hóa riêng của từng dân tộc phản ảnh truyền
thống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng,…. Của mỗi tộc người. Ngày nay có sự
giao lưu văn hóa mạnh mẽ giữa các dân tộc song vẫn cần phải bảo tồn và phát
huy bản sắc văn hóa của mỗi tộc người
- Ý thức tự giác tộc người. Sự hình thành và phát triển của ý thức tự giác
tộc người liên quan trự tiếp đến các yếu tố của ý thức, tình cảm, tâm lý tộc người
Như vậy, khía niệm dân tộc cần phải được hiểu theo hai nghĩa khác nhau.
Hai vấn đề này tuy khác nhau nhưng có sự gắn bó mật thiết không thể tách rời.
1.1.2. Hai xu hướng khách quan của sự phát triển quan hệ dân tộc
Thứ nhất: Cộng đồng dân cư muốn tách ra để hình thành cộng đồng dân
tộc độc lập. Nguyên nhân là cộng đồn đó có sự phát triển riêng về ý thức dân
tộc, ý thức về quyền sống riêng. Xu hướng này được phản ánh qua các cuộc
khởi nghĩa, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc dưới ách thống trị của thực dân đế quốc
Thứ hai: Các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí các dân tốc ở nhiều
quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau vì nhiều lợi ích khác nhau, cùng nhau phát
triển. Phản ánh qua liên minh các nước, các châu lục như ASEAN, EU, ….
1.1.3. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa dân
tộc với giai cấp; dựa vào kinh nghiệm của phong trào cách mạng thế giới và
thực tiễn cách mạng Nga những năm đầu thế kỷ XX, Lênin đã khái quát Cương lĩnh dân tộc như sau:
Một là, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng:
Bình đẳng dân tộc là quyền của mọi dân tộc không phân biệt đa số hay
thiểu số trình độ văn hoá cao hay thấp, không phân biệt chủng tộc màu da…
quyền bình đẳng giữa các dân tộc bao gồm tất cả các lĩnh vực trong kinh tế,
chính trị, văn hoá xã hội.
Đây cũng là cơ sở pháp lý chung để giải quyết các quan hệ dân tộc trên
thế giới trong khu vực hay trong một quốc gia. Bởi điều đó đã được ghi nhận
trong công pháp quốc tế và pháp luật của mỗi quốc gia. Bình đẳng dân tộc cũng
là kết quả đấu tranh của nhân dân lao động các nước.
Hai là, các dân tộc được quyền tự quyết:
Quyền dân tộc tự quyết là Quyền tự mình định đoạt những công việc
thuộc về vận mệnh của dân tộc mình, như lập ra một nhà nước dân tộc riêng,
độc lập hoặc cùng với các dân tộc khác thành lập một nhà nước nhiều dân tộc
trên cơ sở bình đẳng về quyền và nghĩa vụ.
Quyền tự quyết dân tộc bao gồm quyền tách ra thành lập một quốc gia
dân tộc độc lập và quyền tự nguyện liên hiệp với dân tộc khác trên cơ sở bình
đẳng. Đối với quyền này mà nói, việc thực hiện phải xuất phát từ thực tiễn và
phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, đảm bảo sự thống nhất
giữa lợi ích dân tộc và lợi ích của giai cấp công nhân.
Quyền tự quyết ở đây quan trọng nhất là tự quyết định chế độ chính trị- xã
hội và con đường phát triển của dân tộc.
Tự quyết dân tộc không có nghĩa là các tộc người thiểu số trong một
quốcgia được phép phân lập thành quốc gia độc lập. Nó có thể tạo điều kiện
thuận lợi cho các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực phản động.
Giải quyết vấn đề dân tộc tự quyết phỉa gắn với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của từng quốc gia.
Ba là, Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc:
Điều này phản ánh bản chất quốc tế của phong tào công nhân, phản ánh
sự thống nhất trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Nó đảm
bảo cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi. Liên hiệp công
nhân tất cả các dân tộc chung mục tiêu chí hướng quy định đường lối, đó là yếu
tố sức mạnh đảm bảo cho giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức chiến
thắng kẻ thù của mình. Vì vây, nội dung liên hiệp công nhân các dân tộc đóng
vai trò liên kết cả ba nội dung của cương lĩnh thành một chỉnh thể. Đoàn kết giai
cấp công nhân các dân tộc là sự thể hiện thực tế tinh thần yêu nước mà thời đại
ngà nay đã trở thành một sức mạnh vô cùng to lớn.
Cương lĩnh dân tộc là một bộ phận hợp thành cương lĩnh cách mạng
của giai cấp công nhân, là cơ sở lí luận cho chính sách dân tộc của các đảng
cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa.
2. Dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam
2.1 Đặc điểm dân tộc ở Việt Nam
Thứ nhất, có sự chênh lệch về số dân giữa các tộc người. Giữa các dân tộc
đa số và dân tộc thiểu số có sự chênh lệch lớn về số lượng. Vì vậy việc thúc đẩy
phát triển dân số các dân tộc thiểu số có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nhằm phất
triển về số lượng dân trong mỗi dân tộc rất ít và phát triển cả về chất lượng dân
số, tránh nguy cơ mất thành phần một số dân tộc thiểu số rẩ ít người, thực hiện
quyền phát triển đầy đủ bình đẳng giữa các dân tộc
Thứ hai, các dân tộc cư trú xen kẽ nhau. Các dân tộc nước ta sống xen kẽ
nhau, không có lãnh thổ riêng biệt như một số nước trên thế giới. Địa bàn cư trú
của người Kinh chủ yếu ở đồng bằng, ven biển và trung du. Còn các dân tộc ít
người cư trú chủ yếu ở các vùng miền núi và vùng cao. Các dân tộc thiểu số có
sự tập trung ở một số vùng, xen kẽ với các dân tộc khác. Ở miền núi hầu như
không có tỉnh huyện nào chỉ có một dân tộc cư trú.
Tình trạng cư trú phân tán, xen kẽ nhau giữa các dân tộc ở nước ta, một
mặt có điều kiện để tăng cường hiểu biết nhau, hòa hợp và xích lại gần nhau,
mặt kahcs cần đề phòng trường hợp do chưa hiểu nhau, khác nhau về phong tục
tập quán nên vẫn xuất hiện mâu thuẫn, tranh chấp
Thứ ba, các dân tộc thiểu số ở Việt Nam phân bố chủ yếu ở địa bàn có vị
trí chiến lượng quan trọng. Đối với Đất nước trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh
giành lại độc lập như nước Việt Nam ta, trên mảnh đất này chỗ nào cũng là vị trí
chiến lược quan trọng, đặc biệt những vùng giáp biên giới, dù có địa hình hiểm
trở, thời tiết khí hậu khắc nghiệt nhưng vẫn xuất hiện những đồng bào dân tộc ta
sinh sống ở đấy. Lúc nào cũng sẵn sàng hỗ trợ giúp đỡ trong các cuộc đấu tranh
giành và bảo vệ lãnh thổ.
Mặc dù chỉ chiếm 15.6% dân số, nhưng 53 dân tộc thiểu số Việt Nam lại
cư trú trên ¾ diện tích lãnh thổ và ở những vị trí trọng yếu về kinh tế,chính trị,
an ninh quốc phòng như vùng biên giới, hải đảo, các vùng sâu vùng xa.
Thứ tư, trình độ phát triển giữa các dân tộc ở Việt Nam không đều. Có
những dân tộc thiểu số trình độ thấp, đời sống có nhiều khó khăn, nhất là những
dân tộc cư trú ở vùng điều kiện địa lý - tự nhiên khắc nghiệt, canh tác không ổn
định, dẫn đến sự chậm phát triển hơn so với dân tộc đa số. Đối diện với hoàn
cảnh đó Đảng và Nhà nước cũng đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi đối với
những dân tộc thiểu số như cộng điểm thi vào đại học, ưu tiên công ăn việc làm,
hay những cuộc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, điều đó thể hiện sự quan tâm
của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào dân tộc
Thứ năm, Các dân tộc Việt Nam có truyền thống đoàn kết gắn bó lâu đời
trong cộng đồng dân tộc- quốc gia thống nhất. Nước ta là một trong các quốc gia
nhiều dân tộc, trải qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, các dân tộc luôn
kề vai sát cánh, gắn bó máu thịt bên nhau trong đấu tranh chống ngoại xâm,
chống thiên tai địch họa và dựng xây đất nước. Các dân tộc nước ta là một cộng
đồng thống nhất trong đa dạng; bản sắc văn hóa từng dân tộc tạo nên sự phong
phú của nền văn hiến Việt Nam. Ðoàn kết các dân tộc là đường lối của Ðảng ta
đã xác định ngay từ những ngày đầu mới thành lập và trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng. Báo cáo của BCH T.Ư Ðảng khóa IX về các văn kiện Ðại hội X
của Ðảng do đồng chí Tổng Bí thư Nông Ðức Mạnh trình bày ngày 18-4-2006 đã khẳng định:
"Ðảng ta luôn coi vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc là vấn đề chiến
lược, cơ bản, lâu dài của sự nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia
đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ;
cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa".
Thứ 6, mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, góp phần tạo nên sự phong
phú đa dạng của nền văn hóa Việt Nam thống nhất. Mỗi dân tộc đều có sắc thái
văn hóa riêng, vừa thể hiện bản sắc tộc người, vừa góp phần làm phong phú, đa
dạng cho nền văn hóa chung. Do vậy, công cuộc bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa ấy, trong bối cảnh hiện nay, càng cần được quan tâm. Những năm qua,
hệ thống văn hóa từ tỉnh tới cơ sở đã coi trọng việc phát hiện, bảo tồn phát huy
những giá trị văn hóa truyền thống, xây dựng, phát hiện những giá trị mới về
văn học - nghệ thuật của các dân tộc thiểu số. Nhiều giá trị văn hóa truyền
thống, những phong tục, tập quán tốt đẹp của các dân tộc như các lễ hội tín
ngưỡng dân gian, hội thi liên hoan văn hóa các dân tộc, tiếng nói, chữ viết, trang
phục, các nghề thủ công truyền thống, các trò chơi, trò diễn, dân ca, dân vũ... đã
và đang được bảo tồn và phát triển.
2.2 Quan điểm và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà Nước Việt Nam
2.2.1 Quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về dân tộc và giải quyết quan hệ dân tộc
Ngay từ khi ra đời, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện nhất
quánnhững nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc. Ðảng
vàNhà nước ta luôn luôn coi vấn đề dân tộc và xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc có tầm quan trọng đặc biệt. Đại hội XII đã khẳng định tầm quan trọng
của đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng của nước ta, đồng thời đưa ra
quan điểm về vấn đề dân tộc, những gì nên làm, những gì cần hoàn thiện, và
những gì nên tránh. Vì thế nên rất ít khi xảy ra những xung đột, thù địch giữa
các dân tộc, và cũng nhờ đó đất nước ta thành khối đại đoàn kết cùng lòng bảo
vệ và dựng xây đất nước
* Quan điểm của dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam về vấn đề dân tộc:
Một là vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản lâu
dài, đồng thười cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam. Vận
dụng sáng tọa chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tỏng quá trình
lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta đã tổng kết các thời kỳ, giai đoạn lịch
sử cụ thể và đổi mới nội dung chính sach, phương thức lãnh đọa và biên pháp tổ
chức thực hiện chính sách dân tộc nói chung, chính sách đối với đồng bào các
dân tộc thiểu số nói riêng để từng bước khắc phục sự chênh lẹch về mọi mặt đời
sống kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các dân tộc, làm cho ly tưởng “ Bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng giúp nhau cùng tiến bộ” Ngày được hiện thực hóa một cách
đầy đủ hơn. Lý tưởng này được duy trì và nhấn mạnh trong các văn kiện Đại hội
Đạng từ lần thứ II đến lần thứ V và được bổ sung đến Đại hội lần thứ XII
Chủ trương dân tộc “ bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau” cùng
phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Kiên quyết loại bỏ những thành phần chống phá, đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ.
Bình đẳng là nguyên tắc cơ bản trong chính sách dân tộc của Đảng Cộng
sản. Tất cả các dân tộc đều bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi trong mọi lĩnh
vực kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, bầu cử,….vv. Đây là nguyên tắc nòng cốt
để duy trì bảo vệ tính đại đoàn kết dân tộc từ trước đến nay. Trước đây, văn kiện
Đại hội Đảng nói là các dân tộc đoàn kết, bình đẳng, nhưng hiện nay đặt bình
đẳng trước đoàn kết. Điều đó là do bình đẳng chính là cơ sở để thực hiện đoàn
kết dân tộc. Bình đẳng dân tộc là thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các dân
tộc ở Việt Nam. Chỉ có thực hiện được điều này mới có đoàn kết thực sự giữa
các dân tộc ở Việt Nam. Khi còn có sự chênh lệch giữa các dân tộc (chưa thực
hiện tốt bình đẳng dân tộc) thì vẫn còn kẽ hở cho các thế lực thù địch để lợi
dụng nhằm chia rẽ quan hệ giữa các dân tộc, giữa dân tộc Kinh với các dân tộc
thiểu số. Do đó, phải quan tâm thực hiện tốt bình đẳng dân tộc, mới có cơ sở
thực hiện tốt đoàn kết dân tộc.
Đoàn kết chính là vấn đề chiến lược cơ bản và lâu dài của vận mệnh đất
nước. Đoàn kết chính là sức mạnh, điều đó đã chứng minh qua những trang sách
lịch sử, bộ đội và các đồng bào dân tộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm; cùng
nhau xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội; hội nhập; cùng nhau giúp đỡ chống chọi thiên tai bão lũ.
Cùng tương trợ, tôn trọng nhau phát triển, mới đây văn kiện Đại hội Đảng
lần thứ XIII tiếp tục khẳng định đây là chủ trương lớn cần được toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân ta nỗ lực củng cố, tăng cương trong chặng đường tiếp theo
nước ta . Vì Việt Nam ta có 54 dân tộc và có sự chênh lệch về trình độ phát triển
kinh tế - xã hội, mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng nên cần tôn trọng lợi ích của nhau.
Hai là, phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh-
quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi. Đảng và Nhà nước đặc biệt
quan tâm đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng
đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Những quyết sách quan trọng của Ðảng,
Nhà nước là động lực mạnh mẽ thúc đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội vùng
dân tộc thiểu số và miền núi, góp phần hoàn thành các mục tiêu đề ra cho giai
đoạn 2016 - 2020. Kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật địa bàn kinh tế - xã hội đặc
biệt khó khăn được quan tâm đầu tư đồng bộ, đạt được kết quả quan trọng. Công
tác xóa đói giảm nghèo cần được triển khai mạnh mẽ và cũng đã có những thành
tựu ấn tượng. Chương trình xây dựng nông thôn mới đạt kết quả bước đầu đáng
khích lệ. Sự nghiệp giáo dục, đào tạo và dạy nghề ở vùng đồng bào dân tộc thiểu
số và miền núi ngày càng phát triển cả về quy mô, mạng lưới và chất lượng.
Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng, phát triển cả về
mạng lưới, trang thiết bị và đội ngũ; chất lượng khám, chữa bệnh có chuyển biến
tích cực. Công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa tốt đẹp của các dân tộc thiểu
số đạt được kết quả rõ nét hơn. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí
sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người DTTS được quan tâm, có
chuyển biến khá rõ nét. Quốc phòng, an ninh được củng cố và tăng cường, an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Đại hội XIII cũng đã nêu, trên cơ sở đánh giá những kết quả đạt được,
cũng như những hạn chế trong thực hiện chính sách về dân tộc, Đảng ta chủ
trương: “ Huy động, phân bố, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư
phát triển, tọa chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đồng
bào dân tộc thiểu số. Chú tọng tính đặc thù của từng vùng đồng bào dân tộc
thiểu số trong hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc. Có cơ chế
thức đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số
phát triển kinh tế- xã hội, thực hiện giảm nghèo đa chiều, bền vững”. Những
chính sách mới này phản ánh sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với việc
phát triển kinh tế, văn hóa ở những nơi đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Ba là, công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, cách ngành và toàn bộ hệ thống
chính trị. Các dân tộc ở nước ta sinh sống gắn bó cùng nhau từ lâu đời, đã sớm
có ý thức đoàn kết, giúp nhau trong chinh phục thiên nhiên, chống giặc ngoại
xâm và xây dựng đất nước. Sự đoàn kết gắn bó giữa các cộng đồng dân tộc đã
tạo nên một quốc gia đa dân tộc bền vững, thống nhất. Ngày nay trước yêu cầu
phát triển mới của đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các dân tộc tiếp tục
phát huy truyền thống tốt đẹp, tăng cường đoàn kết, nỗ lực phấn đấu xây dựng
nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhất là những nguyên nhân do lịch sử
để lại và do điều kiện địa lý, tự nhiên khắc nghiệt ở địa bàn cư trú của đồng bào
dân tộc thiểu số, nên trình độ phát triển kinh tế – xã hội của các dân tộc không
đồng đều. Một số dân tộc đã phát triển kinh tế – xã hội tương đối cao, nhưng
phần lớn các dân tộc thiểu số vẫn còn trong tình trạng lạc hậu, có mức sống
thấp, tỷ lệ đói nghèo cao, chậm phát triển hơn so với dân tộc đa số. Một số dân
tộc vẫn còn trong tình trạng tự cung, tự cấp, du canh, du cư. Đời sống của đồng
bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa nhìn chung gặp rất nhiều
khó khăn trong quá trình phát triển. Cùng là một dân tộc Việt Nam, trách nhiệm
giúp đỡ nhau, giúp đỡ đồng bào đang còn khó khăn là trách nhiệm không chỉ
của toàn Đảng, Bộ máy Nhà nước mà còn là trách nhiệm của toàn dân, của gia đình của mỗi cá nhân.