NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
BÁO CÁO BÀI TẬP LỚN
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ CHÍNH SÁCH
TÀI KHÓA CỦA MỸ TRƯỚC VÀ SAU ĐẠI
KHỦNG HOẢNG 2008
MỤC LỤC
I. Những biến động kinh tế trước Đại Khủng Hoảng 2008 và chính sách tiền tệ - chính sách
tài khóa của chính phủ Mỹ....................................................................................................................3
I.1. Lý giải tên gọi “Đại khủng hoảng 2008”.............................................................................3
I.2. Chính sách tiền tệ để đối phó với lạm phát: Mở đầu cho khủng hoảng...........................6
Khoa: Tài chính
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Đức Hải
Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 10
Họ và tên: Trịnh Ngọc Bảo Ngân MSV: 26A4012898
Họ và tên: Vũ Thị Thu Huyền MSV: 26A4011972
Họ và tên: Nguyễn Hương Ly MSV: 26A4012930
Họ và tên: Nguyễn Trang Quyên MSV: 26A4012930
Họ và tên: Trần Minh Trang MSV: 26A4010234
Họ và tên: Trần Khánh Linh MSV: 26A4012431
II. Quả bom nổ chậm : Những dấu hiệu trước giờ và hành động của chính phủ...................7
II.1 Những dấu hiệu trước khủng hoảng.................................................................................7
II.1.1. Nguyên nhân..................................................................................................................7
II.1.2. Diễn biến:.....................................................................................................................11
II.2 Hành động của chính phủ và hậu quả (2006)..................................................................14
II.2.1. Hậu quả........................................................................................................................14
II.2.2. Hành động của chính phủ:...........................................................................................15
II.2.3. Chính phủ Mỹ có những hành động như vậy để làm gì:............................................16
II.2.4. Tính đúng sai trong những hành động FED thực hiện: ...............................................16
III. Hiệu ứng dây chuyền sau cuộc khủng hoảng của Mỹ khiến cả nền kinh tế Mỹ nói riêng
và thế giới nói chung sụp đổ..............................................................................................................16
III.1. Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008.............................................................................16
III.1.1. Giải thích khái niệm 'Bong bóng':...............................................................................20
III.2. Hậu quả của khủng hoảng lên các quốc gia...................................................................21
III.2.1. Việt Nam.....................................................................................................................21
Tác động từ cuộc khủng hoảng:..........................................................................................22
III.2.2. Iceland.........................................................................................................................24
III.2.3. Nga..............................................................................................................................25
III.2.4. Hy Lạp..........................................................................................................................27
IV. Hành trình phục hồi kinh tế của Mỹ và toàn thế giới......................................................29
IV.1. Hành trình phục hồi kinh tế của Mỹ..............................................................................29
IV.1.1. Biện pháp phục hồi của Mỹ........................................................................................29
IV.1.2. Sự phục hồi.................................................................................................................30
IV.2. Các quốc gia khắc phục hậu quả....................................................................................32
IV.2.1. Các nước Châu Âu......................................................................................................32
IV.2.2. Các nước Châu Á.........................................................................................................32
IV.3.Việt Nam trong cuộc khủng hoảng kinh tế....................................................................33
IV.3.1. Tác động của cuộc khủng hoảng.................................................................................33
IV.3.2. Biện pháp....................................................................................................................33
V. Những người làm giàu nhờ khủng hoảng.........................................................................33
2
I. Những biến động kinh tế trước Đại
Khủng Hoảng 2008 và chính sách tiền tệ -
chính sách tài khóa của chính phủ Mỹ
I.1. Lý giải tên gọi “Đại khủng hoảng
2008”
Thập niên 90 xa hoa
Trong thời điểm những cuộc khủng
hoảng, như Đại khủng hoảng tài chính toàn cầu
năm 2008, được cấu thành bởi mối liên đới
giữa nhiều công nghệ tài chính và các ngành khác nhau. Các sự kiện liên đới nổi bật
trong cuộc khủng hoảng này bao gồm sự phát triển của Nền kinh tế hão huyền (The
New Economy) trong những năm 90 với sự tăng trưởng không bền vững, sự vỡ tung
của bong bóng dotcom, sự kiện khủng bố ngày 11/9/2001 và hàng loạt dấu hiệu cho
thấy sự khủng hoảng.
Những sự kiện này đã tạo ra những tín hiệu và dấu hiệu cho sự khủng hoảng
kinh tế, nhưng không phải ai cũng nhận thức được hoặc muốn chấp nhận sự thật này.
Một số nhà đầu tư có thể đã bị mê hoặc bởi sự thịnh vượng tạm thời hoặc lạc quan quá
mức, dẫn đến sự thiếu nhận thức về tình hình khó khăn và rủi ro tiềm ẩn.
Tổng quan, việc nhìn thấy và thừa nhận tình hình kinh tế khó khăn trong một
quốc gia yêu cầu sự quan sát cẩn thận và khả năng phân tích một cách khách quan.
Tuy nhiên, sự thiếu nhận thức hoặc chọn lựa không nhìn thấy sự thật có thể xảy ra khi
những nhà đầu tư không muốn đối mặt với tình hình khó khăn hoặc không nhìn thấy
các dấu hiệu và tín hiệu cho sự khủng hoảng.
Những năm 1990, nước Mỹ đã trải qua một thời kỳ hưng thịnh giả với tăng
trưởng kinh tế ổn định. Từ năm 1992 đến năm 1996, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt
4,9% mỗi năm, cao hơn so với tốc độ trung bình 2,75% từ năm 1972 đến 1995. Tăng
trưởng này được duy trì ổn định và đi kèm với mức thất nghiệp thấp. Điều đáng kinh
ngạc là tỷ lệ lạm phát cũng duy trì ở mức thấp trong giai đoạn này.
Theo lý thuyết đường cong Philips, khi tỷ lệ thất nghiệp giảm và nền kinh tế
phát triển, thì tỷ lệ lạm phát thường tăng. Tuy nhiên, trong trường hợp này, tỷ lệ lạm
phát không tăng một cách đáng kể. Sự hiện tượng này đã khiến các nhà kinh tế Mỹ
hào hứng đặt tên cho giai đoạn này là "Nền Kinh Tế Mới - The New Economy".
3
Tuy nhiên, đã có một số nhân vật quan trọng nhận ra vấn đề nghiêm trọng này,
trong đó có Alan Greenspan, cựu chủ tịch của Tổng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ. Ông
đã có ba phát biểu dự đoán khá chính xác về kết cục của thời kỳ kinh tế giàu có và
hưng thịnh giả tạo này. Ông đã nhấn mạnh rằng "...nhưng làm sao chúng ta biết khi
nào sự phấn khích không hợp lý đã làm cho giá trị tài sản tăng quá mức,... Chúng ta là
các nhà ngân hàng trung ương không cần lo lắng nếu một bong bóng tài chính đổ sập
không đe dọa đến nền kinh tế thực, sản xuất, việc làm và ổn định giá cả”. Đây chính là
bài phát biểu của Greenspan về thời kỳ Kinh Tế Mới đáng quan ngại, tại Hiệp hội
Kinh tế Mỹ thường niên (American Economic Association's Annual Meeting) tại
thành phố San Francisco, California, Hoa Kỳ, vào ngày 05/12/1996.
Những lời cảnh báo này đã cho thấy sự nhận thức về nguy cơ và mối đe dọa
tiềm ẩn trong sự giàu có giả tạo của thời kỳ đó.
Mặc dù tình hình kinh tế của Hoa Kỳ, nền kinh tế lớn nhất thời điểm đó, đang
đối mặt với những dấu hiệu rất đáng ngờ, tuy nhiên không có nhà đầu tư nào nhìn ra
hoặc chấp nhận thực tế này và chấp nhận tình hình kinh tế khó khăn là một yếu tố
quan trọng trong việc đưa ra quyết định đầu tư thông minh. Tuy nhiên, sự mù quáng
hoặc không muốn nhìn thấy sự thật có thể dẫn đến những quyết định đầu tư không
hợp lý và có thể gánh chịu những hậu quả nặng nề.
Như vậy, trong trường hợp này, việc nhìn ra và nhận thức về tình hình kinh tế
khó khăn của Hoa Kỳ là một yếu tố không thể bỏ qua. Điều này đặt ra một thách thức
đối với những nhà đầu tư, yêu cầu họ phải có khả năng phân tích kỹ lưỡng và quyết
định đầu tư dựa trên những thông tin và hiểu biết chính xác về tình hình kinh tế.
Bong bóng dotcom (1990-2000)
Đại khủng hoảng tài chính năm 2008, mặc dù khởi nguồn không chỉ từ năm đó,
đã có những dấu hiệu sớm cho thấy sự sụp đổ mạnh mẽ của nền kinh tế Mỹ và tác
động lên kinh tế toàn cầu. Chẳng hạn, ta không thể không nhắc đến cơn sốt Công nghệ
trong thập kỷ 1990 của thế kỷ trước, diễn ra tại Mỹ và bong bóng Dotcom đã vỡ vào
năm 2001. Song song với đó, khủng hoảng tiền tệ châu Á năm 1997 cũng góp phần
làm giảm mạnh lãi suất ngân hàng nhằm kích thích hoạt động tín dụng và hỗ trợ nền
kinh tế.
4
Trong bối cảnh tình hình tài chính dễ dàng lưu thông và nhận thấy tiềm năng từ
các công ty công nghệ, đặc biệt là những công ty hoạt động trên nền tảng trực tuyến,
đã tạo nên một sự mới lạ đối với giới đầu tư. Từ năm 1997, đa số các hộ gia đình và
nhà đầu tư mạo hiểm đã đổ vốn vào thung lũng Silicon Valley, với hy vọng thu về lợi
nhuận đáng kể từ những công ty này. Những công ty này đã đưa ra những lời hứa hấp
dẫn, tuy nhiên lại không thể thực hiện được do chiến lược đầu tư không đúng đắn,
thiếu kiến thức và sự sử dụng vốn không hợp lý từ phía các nhà đầu tư.
Số tiền đáng kể này đã được các CEO chi ra cho các hoạt động ăn chơi, tiệc
tùng và marketing, nhằm thu hút sự rót vốn từ các nhà đầu tư, mà không đầu tư vào
sở hạ tầng hoặc phát triển ứng dụng như đã hứa hẹn. Mất đi sự tập trung và cẩn trọng,
các nhà đầu tư đã đối diện với những hậu quả đắng cay khi những công ty này không
thể đáp ứng được kỳ vọng và cam kết ban đầu. Điều này phần nào là do hướng đầu tư
mơ hồ và thiếu hiểu biết, cùng với việc sử dụng vốn không đúng mục đích từ phía các
nhà đầu tư.
Như vậy, những sự kiện này đã làm rõ rằng việc đầu tư vào công ty công nghệ
và các công ty hoạt động trên nền tảng trực tuyến đòi hỏi sự cẩn trọng và hiểu biết sâu
sắc về thị trường và các nguyên tắc đầu tư. Nếu không, nguy cơ mất vốn và hậu quả
không mong muốn sẽ là kết quả của những quyết định đầu tư không đúng đắn.
Khi này, người dân, các nhà đầu tư đã mất lòng tin vào những công ty công
nghệ, sản phẩm công nghệ. Và cùng lúc này, FED cũng đã tăng lãi suất ngân hàng
Nối tiếp bong bóng, sự kiện khủng bố ngày 11/09/2001 diễn ra
Trải qua sự không ổn định của thị trường tài chính: Thị trường tài chính Mỹ đã
phải tạm ngừng hoạt động trong 6 ngày để đảm bảo an ninh sau sự kiện đáng chú ý.
Ngay sau khi thị trường mở cửa trở lại vào ngày 17/09, thị trường chứng khoán Mỹ đã
ghi nhận mức giảm lớn nhất trong một ngày trước đó. Điều này cho thấy sự bất ổn và
áp lực lớn trong hệ thống tài chính.
Ngân sách Mỹ đã phải đối mặt với thâm hụt đáng kể, và có nhiều nguyên nhân
góp phần vào tình trạng này. Trước hết, các chi tiêu liên quan đến quốc phòng và an
ninh đã tăng lên do sự thắt chặt và gia tăng quy mô của các hoạt động quốc phòng sau
giai đoạn chạy đua vũ trang với Liên Xô. Điều này đã dẫn đến một con số khá lớn
được chi cho quốc phòng, chiếm tới 20% ngân sách cả nước.
5
Ngoài ra, chính phủ đã triển khai các biện pháp kích thích kinh tế, trong đó có
chính sách giá trị đồng USD thấp. Tuy nhiên, việc áp dụng chính sách này đã góp
phần vào tình trạng khủng hoảng. Chính sách USD rẻ đã tạo ra một loạt tác động
không cân đối đến nền kinh tế, bao gồm sự khuyến khích đầu tư rủi ro cao và sự tăng
lên của nợ vay.
Những yếu tố trên đã tạo ra một tình hình kinh tế không ổn định và gây ra
những tác động tiêu cực đến thị trường tài chính và ngân sách của Mỹ. Các biện pháp
kích thích và quyết định liên quan đến quốc phòng đã đóng góp vào tình trạng thâm
hụt ngân sách và tạo ra những tác động không mong muốn trong hệ thống kinh tế.
I.2. Chính sách tiền tệ để đối phó với lạm phát: Mở đầu cho
khủng hoảng$
Trong năm 2003, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã áp dụng một chính sách lãi suất
thấp nhằm khuyến khích việc vay mượn và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong suốt
năm đó, lãi suất cơ bản của Fed đã giảm dần từ mức 1,25% vào đầu năm xuống còn
1,00% vào cuối năm.
Quyết định này được đưa ra nhằm đối phó với những tác động tiêu cực từ bong
bóng dotcom và sự kiện khủng bố 11/09. Trước đó, vào năm 2001, lãi suất của Fed đã
được đưa lên mức 5,6-6% để ứng phó với những biến động kinh tế và tác động của
các sự kiện đó.
Với chính sách lãi suất thấp, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ hy vọng khuyến khích
việc vay mượn của người dân và doanh nghiệp, tạo động lực cho đầu tư và tiêu dùng.
Người dân đã phản ứng tích cực bằng việc đổ xô đi vay ngân hàng. Thay vì đầu tư vào
ngành công nghệ như trước đây, cùng với nỗi sợ vô hình về khủng bố. Người dân Mỹ
muốn tìm đến một hàng hóa có thể giúp họ đầu tư thấy an tâm hơn đó chính là bất
động sản.
Việc tăng cường chính sách hỗ trợ tăng trưởng kinh tế thông qua chính sách lãi
suất thấp trong năm 2003 được xem là một ứng dụng đúng với lý thuyết kinh tế vĩ mô.
Bằng cách khuyến khích việc vay mượn và đầu tư, chính sách này đã nhằm tạo động
lực cho tăng trưởng kinh tế và giúp định vị lại sự ổn định sau những biến động kinh tế
và sự kiện xấu xảy ra trước đó. Nhưng đây cũng là khởi đầu cho đại khủng hoảng tài
chính lớn nhất trong vòng một thế kỷ qua.
6
II. Quả bom nổ chậm : Những dấu hiệu trước giờ và hành động của chính
phủ
II.1 Những dấu hiệu trước khủng hoảng
II.1.1. Nguyên nhân
Khủng hoảng tài chính 2008 - 2009: là “thảm họa” kinh tế lớn nhất kể từ
Đại suy thoái 1929. Nguyên nhân xuất phát từ việc bong bóng giá nhà được
hình thành từ năm 2006 vỡ tung, tạo nên những đống nợ xấu khổng lồ, đánh
sập hoạt động của các nhà băng vốn đang ôm nhiều khoản vay được thế chấp
bằng bất động sản.
II.1.1.1. Tự do hóa tài chính
Các học thuyết tài chính đã đề cao tầm quan trọng của việc tự do hóa tài chính
trong việc thúc đẩy sự phát triển và tăng cường hiệu quả của hệ thống tài chính. Trong
thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20, chính phủ Hoa Kỳ thông qua đạo luật Gramm-Leach-
Bliley năm 2000 đã chấm dứt đạo luật Glass-Steagall, mở đường cho sự hợp nhất giữa
các ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư và công ty bảo hiểm.
Tự do hóa tài chính đã tạo ra một loạt các sản phẩm và công cụ tài chính mới,
như Chứng khoán hóa (MBS, CDO) và CDS (hợp đồng hoán đổi tổn thất tín dụng),
mang lại cơ hội và tiềm năng lợi nhuận lớn cho các nhà đầu tư. Tuy nhiên, cùng với
những lợi ích đó, cũng tồn tại những rủi ro và tác động tiêu cực.
Một ví dụ là hoạt động mua bán khống, trong đó các nhà đầu tư tạo ra lợi
nhuận bằng cách bán chứng khoán mà họ không sở hữu, hy vọng rằng giá trị của
chúng sẽ giảm. Tuy nhiên, hoạt động này có thể gây ra sự không ổn định và tăng rủi
ro trong thị trường tài chính.
Ngoài ra, rủi ro đạo đức của các công ty định mức tín nhiệm cũng được đặt ra.
Trong quá trình đánh giá tín nhiệm của các công ty và sản phẩm tài chính, có thể xảy
ra việc đánh giá không chính xác hoặc thiếu minh bạch, dẫn đến sự mất độc lập và tin
cậy của hệ thống.
Tóm lại, việc tự do hóa tài chính đã mang lại nhiều cơ hội và tiềm năng phát
triển cho hệ thống tài chính. Tuy nhiên, cần phải thận trọng và đảm bảo sự minh bạch,
7
đạo đức và quản lý rủi ro để đảm bảo sự ổn định và bền vững của hệ thống tài chính
toàn cầu.
Đầu tiên chúng ta cần tìm hiểu về sản phẩm MBS (mortgage-backed security -
chứng khoán bảo đảm bằng thế chấp ), là sản phẩm chứng khoán được đảm bảo bằng
các khoản vay bất động sản có thế chấp. Nói một cách đơn giản, hợp đồng tài trợ xây
dựng của khách hàng được đóng gói và bán lại cho nhà đầu tư.
Nền kinh tế bước vào thời kỳ suy thoái, giá bất động sản giảm mạnh, người đi
vay không có khả năng trả nợ và khó khăn trong việc bán bất động sản để trả nợ. Do
đó, các tổ chức cho vay phải đối diện với nguy cơ mất vốn. Ngoài ra các hợp đồng cho
vay bất động sản dùng để đảm bảo cho chứng khoán MBS là nợ khó đòi nên chứng
khoán MBS mất giá trị trên thị trường, khiến cho các ngân hàng, các nhà đầu tư nắm
giữ những chứng khoán này không những bị lỗ mà còn rơi vào tình trạng khó khăn về
tính thanh khoản. Đến một mức nhất định, các tổ chức tài chính không còn chịu đựng
sức ép của thanh khoản và các khoản thua lỗ, nên buộc tìm sự cứu trợ từ nhiều nguồn
và tệ nhất phải đệ đơn phá sản. Do có sự liên quan, đầu tư qua lại thông qua hình thức
chứng khoán hoá đã dẫn tới sự sụp đổ có hệ thống - theo dây chuyền.
Nhân tố tiếp theo góp phần gây ra
cuộc khủng hoảng là CDS (Credit default
swap - Thanh khoản nợ xấu ) do các công
ty bảo hiểm tạo ra để phòng ngừa rủi ro
cho các khoản vay. Các công ty tài chính
và các công ty bảo hiểm phải hoàn trả
tiền bảo hiểm theo các hợp đồng bảo
hiểm tiền gửi và tiền vay (CDS) do các tổ
chức này bán ra. Ước tình nước Mỹ có
khoang 35000 tỷ USD tiền bảo hiểm và
trên toàn thế giới là khoảng 54600 tỷ
USD ( theo ước tính của “
International Swap and Derivatives association “ ). Tập đoàn tài chính hàng đầu thế
giới AIG bị đổ vỡ, một phần do đầu tư vào MBS và phần lớn là các hợp đồng CDS.
Nếu không có sự giải cứu kịp thời cho thị trường tài chính Mỹ thì các hợp đồng CDS
sẽ tàn phá các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác.
Thêm vào đó, ở giai đoạn này, CDO (Collateralized Debt Obligation- Nghĩa vụ
nợ được thế chấp). CDS- một sản phẩm tài chính có cấu trúc phức tạp, được đảm bảo
8
Hnh 2 - Sơ đồ minh hoạ các giao dịch nhà đất ( Nguồn: Crosses )
bởi một nhóm các khoản vay và các tài sản khác và được bán cho các nhà đầu tư tổ
chức đã tăng gần gấp 10 lần, từ 30 tỷ USD năm 2003 lên 225 tỷ USD năm 2006.
Nhưng sự sụp đổ sau đó của chúng, do chính sách điều chỉnh nhà ở của Hoa Kỳ gây
ra, đã khiến CDO trở thành một trong những tổ chức hoạt động tồi tệ nhất trong cuộc
khủng hoảng thế chấp. Bắt đầu vào năm 2007 và đạt đỉnh điểm vào năm 2009. Bong
bóng CDO đã gây ra tổn thất hàng trăm tỷ đô la cho một số công ty dịch vụ tài chính
lớn nhất. Những tổn thất này dẫn đến việc các ngân hàng đầu tư phá sản hoặc phải giải
cứu nhờ sự can thiệp của chính phủ, và trong thời kỳ này đã góp phần làm leo thang
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, cuộc Đại suy thoái.
Tính đến 7/2008, các tổ chức tài chính đã báo cáo mất vốn trên 435 tỷ USD. Và
không một ai có thể chắc chắn về giá trị đích thực của các khoản đầu tư tài chính - bất
động sản được ước tính là hàng ngàn tỷ đô vẫn còn nằm trên sổ sách tài chính - ngân
hàng.
II.1.1.2. Bùng nổ tín dụng
Trong bối cảnh chung của các nước trên thế giới thực hiện các chính sách tự
do hoá kinh tế, Chính phủ Mỹ còn thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ trong
một thời gian dài. Để phục hồi nền kinh tế Mỹ sau cuộc khủng hoảng của các
công ty công nghệ thông tin năm 2000 và sự kiện khủng bố Trung tâm thương
mại quốc tế WTC vào ngày 11/9/2001 cùng với dòng chảy vốn mua trái phiếu
chính phủ Mỹ từ các nước phát triển ở Châu Á và OPEC, FED đã điều chỉnh
hạ liên tục lãi suất cơ bản từ 6,5% xuống mức thấp kỷ lục là 1% vào năm
2003. Chính sách nới lỏng tiền tệ (chính sách đồng USD rẻ) đã kích thích
người dân vay tiền mua nhà và các tổ chức tín dụng thì sẵn sàng cho vay, đầu
tư mạo hiểm.
Ta thể hiểu thêm : Ngân ng Nhà NướcChính sách nới lỏng tiền tệ
(NHNN) sẽ bơm tiền vào thị trường để mở rộng nguồn cung tiền, tăng cung ứng tiền
vào lưu thông. Điều này nhằm mục đích hạ lãi suất để kích cầu chi tiêu của người dân.
Từ đó dẫn đến việc kích cầu sản xuất, mở rộng quy kinh doanh và giảm tỷ lệ thất
nghiệp.Bởi vì nền kinh tế hoạt động theo chu kỳ kinh doanh, trong đó suy thoái, phục
hồi mở rộng một phần của biến động kinh tế mang tính chu kỳ, nên thông
thường những thay đổi chính sách sẽ tương ứng với những thay đổi trong GDP thực tế
và lạm phát.
9
Ngược lại với việc thắt chặt chính sách tiền tệ nới lỏng tiền tệ. Hai chính
sách tiền tệ này được thực hiện luân phiên nhằm duy trì sự ổn định tài chính tăng
trưởng kinh tế của đất nước. Trong hai chính sách, chính sách tiền tệ nới lỏng được
xem là cách để các nhà hoạch định chính sách kéo nền kinh tế ra khỏi suy thoái bằng
cách bơm vốn vào nền kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tín dụng mở rộng, nhưng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp giảm sau các
bê bối tài chính tại Mỹ như Enron, Worldcom, khủng hoảng dot.com và các chính phủ
cũng ngày càng kiểm soát thâm hụt ngân sách để tránh việc vay vốn bên ngoài. Sự
mất cân đối giữa cung cầu vốn dẫn đến nguồn vốn thừa, thị trường không sử
dụng hiệu quả. Các Subprime-mortgage - khoản cho vay dưới chuẩn giải pháp
nhằm giải quyết vấn đề thừa vốn từ đó tối đa hóa lợi nhuận. Nợ dưới chuẩn
được hiểu là khoản vay cho các đối tượng có mức tín nhiệm thấp. Những người đi vay
này thường người nghèo, không công việc ổn định, địa vị hội thấp hoặc
trước đây có tín dụng mập mờ không minh bạch. Những cá nhân này tiềm ẩn nguy
không có khả năng thanh toán các khoản nợ quá hạn và do đó gặp khó khăn trong việc
tiếp cận các nguồn vốn tín dụng truyền thống chỉ dành cho những người trên tiêu
chuẩn .Vì vậy, nợ dưới chuẩn rủi ro tín dụng rất cao nhưng lạilãi suất hấp dẫn.
Tại Mỹ, nợ dưới chuẩn được áp dụng cho các sản phẩm cho vay thế chấp, thế chấp trả
góp ô tô, thẻ tín dụng , v.v. Các khoản cho vay dưới chuẩn chủ yếu là người nhập cư.
II.1.1.3. Bong bóng bất động sản Vào giữa năm 2006, khi Ngân hàng Dự trữ
Liên bang Mỹ (FED) tăng lãi suất đề phòng lạm phát, lãi suất của các khoản vay dưới
chuẩn bắt đầu tăng theo (do các hợp đồng vay đa số là các khoản vay theo lãi suất điều
chỉnh), người dân mất khả năng thanh toán, ngân hàng mất khả năng thanh khoản dẫn
đến sự sụp đổ hàng loạt của hệ thống tài chính và bất động sản.
Bong bóng bất động sản cùng với sự giám sát tài chính chưa đầy đủ của Hoa
Kỳ đã dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính nước này từ năm 2007 trở nên trầm
trọng hơn kể từ cuối năm 2008 tại nhiều quốc gia. Cuộc khủng hoảng Mỹ đã lan
rộng ra nhiều nước trên thế giới, dẫn đến vụ phá sản tài chính, suy thoái kinh tế và làm
giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước trên thế giới.
Hoa Kỳ điểm khởi đầu trung tâm của cuộc khủng hoảng. Ngay khi bong
bóng nhà đất vỡ vào cuối năm 2005, nền kinh tế Mỹ bắt đầu chậm lại. Tuy nhiên,
bong bóng vỡ đã dẫn đến việc các nhà đầu tư bất động sản cho các tổ chức tài chính ở
nước này vỡ nợ. Vào giữa năm 2007, các tổ chức tài chính đầu tiên của Mỹ liên quan
đến khoản cho vay mua nhà thứ hai đã thất bại. Giá cổ phiếu Mỹ dần bắt đầu giảm. Sự
10
sụp đổ tài chính lên đến đỉnh điểm vào 10/2008, khi ngay cả những ngân hàng khổng
lồ lâu đời đã sống sót sau các cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế trước đó như
Lehman Brothers, Morgan Stanley, Citigroup, AIG, v.v. cũng gặp rắc rối. Sự thiếu hụt
tín dụng nổi lên cũng khiến khu vực kinh tế thực của Mỹ rơi vào tình thế khó khăn,
điển hình là cuộc khủng hoảng của ngành ô tô Mỹ từ năm 2008 đến năm 2010. Chỉ số
bình quân công nghiệp Dow Jones đóng cửa ngày 9/3/2009 ở mức 6.547,05, mức thấp
nhất kể từ tháng 4. 1997. Chỉ trong sáu tuần, chỉ số này đã giảm 20%.
Hnh 3 - Biểu đồ giá nhà Mỹ giai đoạn suy thoái kinh tế ( Nguồn: cafebiz.vn )
Các khoản cho vay dưới chuẩn bảo đảm bằng bất động sản rất phổ biến và phát
triển mạnh do lãi suất thấp, dễ tiếp cận vốn và niềm tin rằng giá bất động sản sẽ không
giảm. Nhu cầu nhà lớn cộng với kỳ vọng giá nhà đất tăng cao đã khiến giá nhà đất
tăng vọt. Theo chỉ số S&P (chỉ số chứng khoán được dựa trên vốn hóa của 500 công
ty đại chúng lớn nhất nước Mỹ) giá nhà tăng khoảng 8,3% từ quý 1 năm 1990 đến
quý 1 năm 1997. Kể từ đó, giá nhà đất tăng mạnh, đạt đỉnh điểm vào quý 2 năm 2006,
khi giá bất động sản tăng hơn 132% so với quý 1 năm 1997. Bong bóng bất động sản
ngày càng lớn.
Người cho vay tin tưởng rằng họ có thể thu hồi vốn vay thông qua việc tịch thu
tài sản nếu người đi vay không có khả năng trả nợ nên cho vay dưới chuẩn cũng được
coi là một hình thức cho vay an toàn. Kết quả là, nhiều sản phẩm thế chấp dưới chuẩn
đã được giao dịch trong giai đoạn trước khủng hoảng năm 2008 (bao gồm các khoản
thế chấp lãi suất điều chỉnh ARM, quyền chọn ARM, các khoản vay trả dần...)
tất cả đều yêu cầu người đi vay sử dụng bất động sản mình ý định giao dịch
làm tài sảnquỹ. Khả năng giá cả nhà đất tiếp tục gia tăng khiến các khoản vay trở
11
nên phát triển. Năm 2006, gần 20% các khoản vay thế chấp cấp dưới chuẩn
80% các khoản thế chấp cấp được chứng khoán hóa. Việc chứng khoán hóa các
khoản vay dưới chuẩn không chỉ góp phần đáng kể vào sự phát triển của bong bóng
nhà đất ở Mỹ mà còn là nguyên nhân chính gây ra cuộc khủng hoảng tài chính khi giá
bất động sản bắt đầu giảm. Lợi nhuận cao cùng với lòng tham đã dẫn đến việc lạm
dụng các khoản vay dưới chuẩn.Các quy trình thẩm định được thực hiện bởi các nhân
viên cho vay cực kỳ lỏng lẻo việc tiếp cận vốn vay để mua nhà trở nên nhanh
chóng dễ dàng hơn bao giờ hết. Cho vay thế chấp dưới chuẩn lan truyền nhanh
chóng khắp nước Mỹ. Giá bất động sản tăng nhanh. Đối mặt với nguy lạm phát,
FED bắt đầu tăng lãi suất để khiến nhu cầu vay dưới chuẩn giảm mạnh. Lãi suất thay
đổi người đi vay phải chịu sẽ tăng theo mức tăng của lãi suất bản. vậy,
người đi vay buộc phải trả lãi suất cao mà không thể cơ cấu lại khoản vay thông qua
việc gia hạn nợbắt đầu mất khả năng thanh toán, rơi vào tình trạng mất khả năng
thanh toán. Bởi nhiều người mua nhà không khả năng trả nợ nên các khoản nợ
của họ bị tịch thu và tài sản của họ bị bán.
Cleveland, Ohio là thành phố đầu tiên gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế.
Khoảng 1/10 ngôi nhà ở Cleveland đã được thu hồi để bán.Những người nhập cư mơ
ước mua nhà trở về tay trắng. Giá bất động sản ở Mỹ giảm mạnh trong quý 3 năm
2007, xuống mức thấp nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính những năm 1930.
(Kinh Tế Mỹ 13 Năm Nhìn Lại Sau Thảm Họa 11/9, 2014)
II.1.2. Diễn biến:
Cuộc khủng hoảng tài chính, bắt đầu Mỹ như một vụ tràn dầu trên khắp thế
giới, chưa dừng lại biên giới của một quốc gia duy nhất đang phủ bóng đen lên
nền kinh tế toàn cầu vốn đã trì trệ trong nhiều năm. Vấn đề bị ảnh hưởng nhiều nhất là
hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán.
II.1.2.1. Hệ thống tài chính - ngân hàng
Năm 2008 - giai đoạn đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng tài với sự sụp đổ hàng
loạt các ngân hàng lớn lâu đời. Cùng việc người dân mất niềm tin vào nền kinh tế
đã làm cho Mỹ rơi vào cuộc khủng hoảng vô cùng nghiêm trọng.
Ngày 16/03/2008, Bear
Stearn - một trong năm ngân
hàng hàng đầu của Mỹ, phải
chấm dứt hoạt động sau 85 năm tồn tại. đã bị sang tay” cho ngân hàng JP
Morgan Chase với mức giá “rẻ như bèo” xấp xỉ 240 triệu USD, tương đương 2
USD/cổ phiếu, thấp hơn 10 lần giá cổ phiếu giao dịch trên thị trường trước thời điểm
mua.
Việc ngân hàng dự trữ liên bang New York cứu không nổi Bear Stearn và buộc
lòng để công ty này bị bán với giá quá rẻ đã khiến cho sự lo ngại về năng lực của
Chính phủ viện trợ các tổ chức tài chính gặp khó khăn. Sự sụp đổ của Bear Stearn đã
đẩy cuộc khủng hoảng lên nấc thang trầm trọng hơn.
Ngày 11/7/2008, InDyMac - ngân hàng cho vay địa ốc hàng đầu đã bị Uỷ ban
giám sát tiết kiệm đóng cửa và chuyển giao cho tập đoàn Bảo hiểm tiền gửi Liên bang
(FDIC)
Ngày 7/9/2008, để tiếp quản Fannie Mae và Freddie, chính phủ Mỹ chi 200 tỷ
USD thông qua cổ phiếu ưu đãi để giữ cho các công ty này không bị phá sản
Fannie Mae Freddie Mac - hai hãng cho vay thế chấp lớn nhất tại Mỹ, bảo
lãnh cho số bất động sản lên đến 5000 tỷ USD trên toàn nước Mỹ chiếm 50% thị
trường. . Sự kiện này nổ ra đã tạo nên cơn địa chấn tài chính thực sự.
Ngày 14/9/2008, Bank of America đồng ý mua hãng đầu tài chính Merrill
Lynch - ngân hàng đầu 94 năm lịch sử với giá 50 tỷ USD. Với vụ bán lại này,
Merrill vừa tránh được nguy cơ phá sản, vừa tránh được nguy cơ bị “ép giá” như Bear
Stearns một khi tình hình trở nên tệ hơn.
Ngày 15/9/2008, sau những nỗ lực huy động vốn thất bại do chính phủ Mỹ từ
chối cứu giúp, Lehman brothers - ngân hàng đầu hàng đầu thế giới với 158 năm
lịch sử tuyên bố phá sản.
Tổng tiền nợ của Lehman Brothers lên đến 768 tỷ USD ( gồm 613 tỷ USD nợ
ngân hàng 155 tỷ USD nợ trái phiếu). Sự phá sản của Lehman Brothers những
sự kiện diễn ra trước đó đánh dấu sự leo thang của cuộc khủng hoảng tài chính và theo
các chuyên gia đánh giá là tồi tệ nhất sau cuộc Đại khủng suy thoái kinh tế năm 1930.
13
Hnh 5 - Nhân viên Lehman Brothers rời ngân hàng vào ngày thông báo phá sản ( Nguồn : AP, Reuters )
Ngày 26/9/2008, ngân hàng
Washington Mutual - ngân
hàng tiết kiệm lớn nhất nước
Mỹ được chính phủ tiếp quản.
Và sau đó lại qua tay JP
Morgan Chase với giá 1,9 tỷ
USD. Washington Mutual là
vụ phá sản ngân hàng lớn nhất
trong lịch sử , tổng thiệt hại
lên tới 307 tỷ USD.
Tháng 9 và 10/2008 trở thành giai đoạn đen tối trên Wall Street khi chỉ số Dow
Jone tụt 25% giá trị sau một tháng từ 15/9/2008. Từ giai đoạn này, biến động tại Wall
Street trở nên khó lường hơn với nhiều kỷ lục cả tăng và giảm tồn tại trong hàng
chục năm đã bị phá sản.
14
Hnh 6 - Tháng 12/2010, chiếc biển Lehman Brothers được mua với giá
42.050 bảng trong một phiên đấu giá các tài sản tại Christie’s ( Nguồn: Oll
Scarff )
II.1.2.2 Thị trường chứng khoán
Chứng khoán Mỹ sụt giảm mạnh dẫn đến chứng khoán châu Á và châu Âu sụt
giảm. Các thị trường chứng khoán lớn toàn cầu như New York, London, Paris và
Tokyo đều trải qua những đợt sụt giảm lịch sử.
Tại Châu Á, lợi nhuận trên tất cả các thị trường đã giảm từ 40,7% xuống 65,9%
và hàng nghìn tỷ đô la đã bị xóa sổ khỏi thị trường. Chỉ số Sensex (Ấn Độ) giảm
3,4%, Taiwan Bankmark (Đài Loan) giảm 4,1%, Singapore giảm 3,2%, chỉ số KOSPI
của Hàn Quốc có mức giảm thấp nhất (-40,7%), trong đó VN-Index của Việt Nam và
Shanghai Composite Index của Trung Quốc có mức giảm lớn nhất so với thị trường so
sánh. So sánh, giá trị giảm hơn 65%. Nhật Bản có hệ thống tài chính tương đối ổn
định và trải qua thời kỳ tái cơ cấu sau cuộc khủng hoảng 1996-1997. Tuy nhiên, tác
động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ vẫn gây ra tình trạng hỗn loạn trên
thị trường chứng khoán nước này. Chỉ số trung bình chứng khoán Nikkei giảm xuống
42,1%, mức giảm tồi tệ nhất kể từ năm 1990 (-39%).
Hnh 7 - Biểu đồ tăng/ giảm của một số chứng khoán tiêu biểu ( Nguồn: VnEconomy)
Tại thị trường châu Âu, chỉ số Dow Jones có lúc đã giảm 42% giá trị trước khi
có sự phục hồi và giảm 34,6% so với cùng kỳ năm ngoái, chỉ số S&P 500 giảm 39,3%
giá trị. Chỉ số Nasdaq hạ 41,5%. Chỉ số CAC 40 của Pháp đã giảm mạnh nhất (-42%)
và chỉ số FTSE
100 của Anh giảm ít nhất (31,5%). Chỉ số DAX của Đức đã giảm 39,5%.
15
II. Quả bom nổ chậm: Những dấu hiệu trước giờ G và hành động của
chính phủ
II.2 Hành động của chính phủ và hậu quả (2006)
Trong khi kinh tế Mỹ năm 2006 có nhiều điểm sáng, cũng có một số vấn
đề và thách thức đối mặt. Dưới đây là một số điểm thất bại và đi xuống trong kinh tế
Mỹ năm 2006: khủng hoảng thị trường nhà ở, tăng nợ cá nhân, thâm hụt ngân sách,
tăng trưởng nợ công, thương mại thâm hụt. Những điều này góp phần vào sự không
ổn định và tiềm ẩn những thách thức trong tương lai. Những điểm yếu này đã tạo ra
những thách thức và đặt nền tảng cho cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra từ
năm 2007.
II.2.1. Hậu quả
Khủng hoảng tài chính toàn cầu: Những vấn đề trong thị trường nhà ở và thị
trường tài chính Mỹ năm 2006 đã trở thành nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu năm 2007-2008. Sự suy yếu và suy thoái trong thị trường nhà ở đã
lan rộng sang các ngân hàng và tổ chức tài chính, gây ra sự sụp đổ của các công ty tài
chính, sự mất trắng dự trữ và sự không ổn định toàn cầu. Suy thoái kinh tế: Khủng
hoảng tài chính đã lan rộng thành một suy thoái kinh tế toàn cầu. Kinh tế Mỹ đã chịu
ảnh hưởng nặng nề từ cuộc suy thoái, với sự giảm giá trị tài sản, tăng mức thất nghiệp,
giảm sản xuất và sụt giảm các chỉ số kinh tế quan trọng. Mất đi việc làm và tăng mức
thất nghiệp: Suy thoái kinh tế đã dẫn đến mất đi hàng triệu việc làm và tăng mức thất
nghiệp. Doanh nghiệp giảm sản xuất và cắt giảm nhân sự để tiết kiệm chi phí, gây ra
sự không ổn định trong thị trường lao động và gây khó khăn cho người lao động. Mất
mát tài sản và tài chính cá nhân: Giá trị nhà ở và tài sản cá nhân đã giảm mạnh trong
suy thoái kinh tế, gây ra mất mát tài chính đáng kể cho các gia đình và cá nhân. Nhiều
người đã mất nhà, tài sản giảm giá và phải đối mặt với tình trạng nợ nần. Tác động xã
hội: Tăng mức thất nghiệp, mất đi việc làm và khó khăn tài chính đã tạo ra căng thẳng
và không ổn định trong xã hội, sự suy thoái kinh tế cũng đã gây ra sự suy giảm trong
chất lượng cuộc sống và tăng lên những khó khăn xã hội như tăng cường không an
ninh và thảm họa tài chính cá nhân.
II.2.2. Hành động của chính phủ:
Thị trường nhà ở và thị trường tài chính: Chính phủ đã đưa ra các biện pháp để
ổn định thị trường nhà ở và thị trường tài chính. Điều này bao gồm việc tăng cường
quản lý tín dụng và quy định ngân hàng, đồng thời cung cấp sự hỗ trợ tài chính cho
các ngân hàng và tổ chức tài chính gặp khó khăn. Chính sách tài khóa: Chính phủ đã
đề ra các chính sách tài khóa nhằm giảm thiểu thâm hụt ngân sách và tăng cường quản
lý nợ công. Điều này có thể bao gồm kiểm soát chi tiêu công cộng, tăng thuế và cắt
16
giảm các chương trình chi tiêu không cần thiết. Chính sách thương mại: Chính phủ đã
áp dụng các biện pháp để đối phó với thâm hụt thương mại, bao gồm việc thương
lượng các thỏa thuận thương mại hai chiều, thúc đẩy xuất khẩu và khuyến khích đầu
tư nước ngoài Chính sách tiền tệ: Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ (Federal Reserve)
đã thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt để ổn định nền kinh tế. Điều này bao gồm
điều chỉnh lãi suất để kiểm soát lạm phát và khuyến khích tăng trưởng kinh tế. Chính
sách kích thích kinh tế: Chính phủ có thể áp dụng các chính sách kích thích kinh tế để
tăng cường chi tiêu và đẩy mạnh hoạt động kinh tế. Điều này có thể bao gồm việc
cung cấp gói kích thích tài chính hoặc giảm thuế để tăng cường tiêu dùng và đầu tư
II.2.2.1. Sâu hơn về mặt kinh tế:
Giảm lãi suất: FED đã tiến hành cắt giảm lãi suất để kích thích tăng trưởng
kinh tế và khuyến khích việc cho vay. Mục tiêu của việc giảm lãi suất là tạo động lực
cho các doanh nghiệp và cá nhân mượn tiền để đầu tư và tiêu dùng, từ đó thúc đẩy
hoạt động kinh tế. Mở rộng chính sách tiền tệ: FED đã thực hiện một loạt các biện
pháp mở rộng chính sách tiền tệ, như mua lại trái phiếu chính phủ và tài sản tài chính
khác. Mục tiêu của chính sách này là cung cấp thanh khoản cho các thị trường tài
chính và giúp duy trì sự ổn định tài chính.
Quản lý rủi ro: FED đã tăng cường quản lý rủi ro trong hệ thống tài chính bằng
cách đưa ra các biện pháp quản lý tín dụng và yêu cầu các ngân hàng tuân thủ các quy
định tài chính. Mục tiêu là giảm thiểu rủi ro trong hệ thống tài chính và đảm bảo sự ổn
định. Tăng cường giám sát và quy định: FED đã tăng cường giám sát và quy định các
tổ chức tài chính để đảm bảo tuân thủ các quy tắc và quy định trong hoạt động tài
chính. Mục tiêu là giảm thiểu rủi ro và tăng cường sự minh bạch và trách nhiệm của
các tổ chức tài chính.
II.2.3. Chính phủ Mỹ có những hành động như vậy để làm gì:
Bảo vệ sự ổn định tài chính; Bảo vệ việc làm và tăng trưởng kinh tế; Bảo vệ lợi
ích của người dân và các doanh nghiệp;Ngăn chặn lan rộng của khủng hoảng. Và do
bài học từ quá khứ: Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007-2008 đã làm rõ những rủi
ro và điểm yếu trong hệ thống tài chính và kinh tế. Chính phủ đã học từ những bài học
đắt giá này và đưa ra những biện pháp để cải thiện quản lý rủi ro, tăng cường quản lý
tài chính và đảm bảo sự ổn định hơn cho kinh tế trong tương lai ( 2006)Tuổi trẻ,
II.2.4. Tính đúng sai trong những hành động FED thực hiện:
Tạo ra các bong bóng tài chính: Việc cắt giảm lãi suất và mở rộng chính sách
tiền tệ có thể tạo ra các bong bóng tài chính, như bong bóng thị trường nhà ở và thị
trường tài chính. Thiếu quản lý rủi ro hiệu quả: Một số người cho rằng FED không
17
thực hiện đủ công việc quản lý rủi ro trong hệ thống tài chính. Các quy định và giám
sát không đủ mạnh mẽ để ngăn chặn các hành vi rủi ro và lạm phát trong các tổ chức
tài chính
III. Hiệu ứng dây chuyền sau cuộc khủng hoảng của Mỹ khiến cả nền kinh
tế Mỹ nói riêng và thế giới nói chung sụp đổ.
III.1. Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008
Cuộc khủng hoảng mở đầu bằng hàng loạt những sự kiện như là: Sự bùng nổ
của bong bóng nhà đất tại Mỹ hay,sự sụp đổ của loạt ngân hàng đầu tư và thương mại
lớn, cùng những tổ chức, nhân cho vay cầm cố. Khủng hoảng trên đã khiến nhiều
cơ sở kinh doanh đình trệ, hàng triệu người thất nghiệp, trở thành gia cơ. Kéo theo
đó là hàng loạt ngân hàng lâu năm của Mỹ rơi vào bế tắc rồi phá sản.
Từ quyết định của chính phủ dẫn đến cả nền kinh tế bị sụp đổ.
Bắt đầu từ thị trường bất động sản tại Mỹ, khi họ bắt đầu đưa ra các
khoản vay thế chấp mạo hiểm để giải cứu người mua nhà đất. Đặc
biệt hơn cả các khoản vay dành cho nhóm khách hàng thu
nhập thấp, rủi ro cho vay rất cao. Ngay khi nhận ra thấy những dấu
hiệu bất thường, Chính phủ Hoa Kỳ đã nhanh chóng triển khai các
gói cứu trợ kèm theo các chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ
nhằm ngăn chặn suy thoái, tuy nhiên, tất cả đã quá muộn. Ngay khi
dấu hiệu khủng hoảng tín dụng nhà ở, Fed đã bắt đầu hạ lãi suất
và tăng mua MBS. Vào ngày 8/2007, Fed tiếp tục tiến hành các biện
pháp nới lỏng tiền tệ: lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng đã
được giảm từ 5,25% qua 6 đợt xuống còn 2% chỉ trong vòng chưa
đầy 8 tháng (18/9/2007-30/4/2008). Chưa dừng lại đó, 13/2/2008,
chính phủ Mỹ áp dụng một chương trình kích cầu tổng hợp trị giá
168 tỷ dollar. Sau đấy ít lâu, vào ngày 3/10/2008, tổng thống Bush
sắc lệnh qua đó cho phép sử dụng gói kích thích 700 tỷ dollar.
Đến 17/2/2009, Barack Obama đạo luật cho phép chính phủ sử
dụng gói kích thích thứ 2 kể từ đợt khủng hoảng, gói kích thích này
trị giá lên đến 787 tỷ dollar. Mặc đã ra sức ngăn chặn nhưng
những nỗ lực của Chính phủ Mỹ dường như không đủ, khủng
hoảng vẫn nhanh chóng lan rộng ra toàn thế giới.
18
Hnh 8 – Bảng cân đối của FED trong khoảng thời gian 2007-2023 (Nguồn: vnexpress)
Hệ quả hệ quả kéo theo từ cuộc đại suy thoái của Mỹ cùng lớn. Hàng
triệu gia đình mất nơi ăn chốn ở, cácsở kinh doanh thì bị đình trệ, không có việc.
Thêm đó, con số lên đến 30 triệu công nhân mất việc, thất nghiệp kéo dài, vô số người
đột nhiên trở nên nghèo đói. Cùng với đó 10,000 tỷ đô la Mbị cuốn trôi mất….
Tháng 10 năm 2008: hàng loạt những ngân hàng khổng lồ lâu đời từng sống sót
qua những cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế trước đây, như Lehman Brothers,
Morgan Stanley, Citigroup, AIG, … cũng lâm nạn.
Tình trạng đói tín dụng xuất hiện làm cho khu vực kinh tế thực của Hoa Kỳ
cũng rơi vào tình thế khó khăn, điển hình cuộc Khủng hoảng ngành chế tạo ô
Hoa Kỳ 2008-2010. 15/9/2008, Lehman Brothers ngân hàng 160 năm tuổi, một
trong năm định chế tài chính cho vay lớn nhất nước Mỹ khi đó đã phải tuyên bố phá
sản.
Điều này đã dấy lên những nhận định, giả thuyết thể nói đây chính
một trong những tín hiệu đầu tiên báo trước cuộc khủng hoảng kinh tế được đánh giá
là "tồi tệ nhất nhất trong lịch sử", là cột mốc cho sự sụp đổ của ngành công nghiệp tài
chính của Mỹ - nguyên nhân chính đẩy kinh tế thế giới vào một giai đoạn đen tối.
Tuy nhiên, Lehman
Brothers cũng chỉ một trong
những quân cờ Domino bị sụp đổ
trong một phản ứng dây chuyền
Hnh 9 - Tờ báo The Philadelphia Unquirer đăng tin về chỉ số Dow Jones
đầu năm 2008. Vào ngày 16/3/2008, Bear Stearns - một trong năm ngân hàng đầu
lớn nhất phố Wall - cũng phải cầu cứu và được JPMorgan Chase mua lại với khoản hỗ
trợ 30 tỷ USD từ Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed).
Chính phủ Mỹ thông qua khoản cứu trợ 200 tỷ USD nhằm mục đích cứu
Freddie Mac Fannie Mae - hai nhà cho vay thế chấp lớn nhất nước Mỹ, không bị
phá sản cứu AIG - một trong ba công ty bảo hiểm lớn nhất bằng việc tung ra 85 tỷ
USD để mua 80% cổ phần. Những gói cứu trợ hàng trăm tỷ USD được đưa ra sau đó
như một nỗ lực để giảm bớt ảnh hưởng của đợt khủng hoảng nhưng cũng chỉ cứu vãn
phần nào.
Sự sụp đổ của ngân hàng đầulâu đời của Mỹ mở đầu cho đợt bán tháo lớn
nhất trong lịch sử; sàn giao dịch chứng khoán London, bắt đầu phiên giao dịch ngày
15/9, chỉ số FTSE giảm 56,5 điểm cơ bản. Tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ lên mức 10%, cao
nhất kể từ Đại suy thoái: Khoảng 30 triệu người đã mất việc do ảnh hưởng từ cuộc
khủng hoảng, 50 triệu người quay lại ngưỡng dưới nghèo với ước tính thiệt hại
khoảng 10.000 tỷ USD.
Hnh 10 - Giao dịch chứng khoán phiên sáng 15/06/2008
Nouriel Roubini-Chuyên gia kinh tế, thành viên Hội đồng cố vấn kinh tế đã
nhận định rằng: "Nếu bạn nhìn vào cái giá phải trả thì đây thực sự cuộc khủng
hoảng cực kỳ, cực kỳ đắt tiền".
III.1.1. Giải thích khái niệm 'Bong bóng':
Trước đây, khi một người cần khoản tiền để mua nhà, quan hệ tài chính sẽ
được hình thành giữa người đi vay người cho vay - chỉ duy nhất hai chủ thể này.
Tuy nhiên với sự xuất hiện của CDO, sẽ có thêm những cái tên khác xuất hiện.
20

Preview text:

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
BÁO CÁO BÀI TẬP LỚN
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ CHÍNH SÁCH
TÀI KHÓA CỦA MỸ TRƯỚC VÀ SAU ĐẠI KHỦNG HOẢNG 2008 Khoa: Tài chính
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Đức Hải
Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 10
Họ và tên: Trịnh Ngọc Bảo Ngân MSV: 26A4012898
Họ và tên: Vũ Thị Thu Huyền MSV: 26A4011972
Họ và tên: Nguyễn Hương Ly MSV: 26A4012930
Họ và tên: Nguyễn Trang Quyên MSV: 26A4012930
Họ và tên: Trần Minh Trang MSV: 26A4010234
Họ và tên: Trần Khánh Linh MSV: 26A4012431 MỤC LỤC
I. Những biến động kinh tế trước Đại Khủng Hoảng 2008 và chính sách tiền tệ - chính sách
tài khóa của chính phủ Mỹ....................................................................................................................3
I.1. Lý giải tên gọi “Đại khủng hoảng 2008”.............................................................................3
I.2. Chính sách tiền tệ để đối phó với lạm phát: Mở đầu cho khủng hoảng...........................6
II. Quả bom nổ chậm : Những dấu hiệu trước giờ và hành động của chính phủ...................7
II.1 Những dấu hiệu trước khủng hoảng.................................................................................7
II.1.1. Nguyên nhân..................................................................................................................7
II.1.2. Diễn biến:.....................................................................................................................11
II.2 Hành động của chính phủ và hậu quả (2006)..................................................................14
II.2.1. Hậu quả........................................................................................................................14
II.2.2. Hành động của chính phủ:...........................................................................................15
II.2.3. Chính phủ Mỹ có những hành động như vậy để làm gì:............................................16
II.2.4. Tính đúng sai trong những hành động FED thực hiện:...............................................16
III. Hiệu ứng dây chuyền sau cuộc khủng hoảng của Mỹ khiến cả nền kinh tế Mỹ nói riêng
và thế giới nói chung sụp đổ..............................................................................................................16
III.1. Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008.............................................................................16
III.1.1. Giải thích khái niệm 'Bong bóng':...............................................................................20
III.2. Hậu quả của khủng hoảng lên các quốc gia...................................................................21
III.2.1. Việt Nam.....................................................................................................................21
Tác động từ cuộc khủng hoảng:..........................................................................................22
III.2.2. Iceland.........................................................................................................................24
III.2.3. Nga..............................................................................................................................25
III.2.4. Hy Lạp..........................................................................................................................27
IV. Hành trình phục hồi kinh tế của Mỹ và toàn thế giới......................................................29
IV.1. Hành trình phục hồi kinh tế của Mỹ..............................................................................29
IV.1.1. Biện pháp phục hồi của Mỹ........................................................................................29
IV.1.2. Sự phục hồi.................................................................................................................30
IV.2. Các quốc gia khắc phục hậu quả....................................................................................32
IV.2.1. Các nước Châu Âu......................................................................................................32
IV.2.2. Các nước Châu Á.........................................................................................................32
IV.3.Việt Nam trong cuộc khủng hoảng kinh tế....................................................................33
IV.3.1. Tác động của cuộc khủng hoảng.................................................................................33
IV.3.2. Biện pháp....................................................................................................................33
V. Những người làm giàu nhờ khủng hoảng.........................................................................33 2
I. Những biến động kinh tế trước Đại
Khủng Hoảng 2008 và chính sách tiền tệ -
chính sách tài khóa của chính phủ Mỹ

I.1. Lý giải tên gọi “Đại khủng hoảng 2008” Thập niên 90 xa hoa
Trong thời điểm những cuộc khủng
hoảng, như Đại khủng hoảng tài chính toàn cầu
năm 2008, được cấu thành bởi mối liên đới
giữa nhiều công nghệ tài chính và các ngành khác nhau. Các sự kiện liên đới nổi bật
trong cuộc khủng hoảng này bao gồm sự phát triển của Nền kinh tế hão huyền (The
New Economy) trong những năm 90 với sự tăng trưởng không bền vững, sự vỡ tung
của bong bóng dotcom, sự kiện khủng bố ngày 11/9/2001 và hàng loạt dấu hiệu cho thấy sự khủng hoảng.
Những sự kiện này đã tạo ra những tín hiệu và dấu hiệu cho sự khủng hoảng
kinh tế, nhưng không phải ai cũng nhận thức được hoặc muốn chấp nhận sự thật này.
Một số nhà đầu tư có thể đã bị mê hoặc bởi sự thịnh vượng tạm thời hoặc lạc quan quá
mức, dẫn đến sự thiếu nhận thức về tình hình khó khăn và rủi ro tiềm ẩn.
Tổng quan, việc nhìn thấy và thừa nhận tình hình kinh tế khó khăn trong một
quốc gia yêu cầu sự quan sát cẩn thận và khả năng phân tích một cách khách quan.
Tuy nhiên, sự thiếu nhận thức hoặc chọn lựa không nhìn thấy sự thật có thể xảy ra khi
những nhà đầu tư không muốn đối mặt với tình hình khó khăn hoặc không nhìn thấy
các dấu hiệu và tín hiệu cho sự khủng hoảng.
Những năm 1990, nước Mỹ đã trải qua một thời kỳ hưng thịnh giả với tăng
trưởng kinh tế ổn định. Từ năm 1992 đến năm 1996, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt
4,9% mỗi năm, cao hơn so với tốc độ trung bình 2,75% từ năm 1972 đến 1995. Tăng
trưởng này được duy trì ổn định và đi kèm với mức thất nghiệp thấp. Điều đáng kinh
ngạc là tỷ lệ lạm phát cũng duy trì ở mức thấp trong giai đoạn này.
Theo lý thuyết đường cong Philips, khi tỷ lệ thất nghiệp giảm và nền kinh tế
phát triển, thì tỷ lệ lạm phát thường tăng. Tuy nhiên, trong trường hợp này, tỷ lệ lạm
phát không tăng một cách đáng kể. Sự hiện tượng này đã khiến các nhà kinh tế Mỹ
hào hứng đặt tên cho giai đoạn này là "Nền Kinh Tế Mới - The New Economy". 3
Tuy nhiên, đã có một số nhân vật quan trọng nhận ra vấn đề nghiêm trọng này,
trong đó có Alan Greenspan, cựu chủ tịch của Tổng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ. Ông
đã có ba phát biểu dự đoán khá chính xác về kết cục của thời kỳ kinh tế giàu có và
hưng thịnh giả tạo này. Ông đã nhấn mạnh rằng "...nhưng làm sao chúng ta biết khi
nào sự phấn khích không hợp lý đã làm cho giá trị tài sản tăng quá mức,... Chúng ta là
các nhà ngân hàng trung ương không cần lo lắng nếu một bong bóng tài chính đổ sập
không đe dọa đến nền kinh tế thực, sản xuất, việc làm và ổn định giá cả”. Đây chính là
bài phát biểu của Greenspan về thời kỳ Kinh Tế Mới đáng quan ngại, tại Hiệp hội
Kinh tế Mỹ thường niên (American Economic Association's Annual Meeting) tại
thành phố San Francisco, California, Hoa Kỳ, vào ngày 05/12/1996.
Những lời cảnh báo này đã cho thấy sự nhận thức về nguy cơ và mối đe dọa
tiềm ẩn trong sự giàu có giả tạo của thời kỳ đó.
Mặc dù tình hình kinh tế của Hoa Kỳ, nền kinh tế lớn nhất thời điểm đó, đang
đối mặt với những dấu hiệu rất đáng ngờ, tuy nhiên không có nhà đầu tư nào nhìn ra
hoặc chấp nhận thực tế này và chấp nhận tình hình kinh tế khó khăn là một yếu tố
quan trọng trong việc đưa ra quyết định đầu tư thông minh. Tuy nhiên, sự mù quáng
hoặc không muốn nhìn thấy sự thật có thể dẫn đến những quyết định đầu tư không
hợp lý và có thể gánh chịu những hậu quả nặng nề.
Như vậy, trong trường hợp này, việc nhìn ra và nhận thức về tình hình kinh tế
khó khăn của Hoa Kỳ là một yếu tố không thể bỏ qua. Điều này đặt ra một thách thức
đối với những nhà đầu tư, yêu cầu họ phải có khả năng phân tích kỹ lưỡng và quyết
định đầu tư dựa trên những thông tin và hiểu biết chính xác về tình hình kinh tế.
Bong bóng dotcom (1990-2000)
Đại khủng hoảng tài chính năm 2008, mặc dù khởi nguồn không chỉ từ năm đó,
đã có những dấu hiệu sớm cho thấy sự sụp đổ mạnh mẽ của nền kinh tế Mỹ và tác
động lên kinh tế toàn cầu. Chẳng hạn, ta không thể không nhắc đến cơn sốt Công nghệ
trong thập kỷ 1990 của thế kỷ trước, diễn ra tại Mỹ và bong bóng Dotcom đã vỡ vào
năm 2001. Song song với đó, khủng hoảng tiền tệ châu Á năm 1997 cũng góp phần
làm giảm mạnh lãi suất ngân hàng nhằm kích thích hoạt động tín dụng và hỗ trợ nền kinh tế. 4
Trong bối cảnh tình hình tài chính dễ dàng lưu thông và nhận thấy tiềm năng từ
các công ty công nghệ, đặc biệt là những công ty hoạt động trên nền tảng trực tuyến,
đã tạo nên một sự mới lạ đối với giới đầu tư. Từ năm 1997, đa số các hộ gia đình và
nhà đầu tư mạo hiểm đã đổ vốn vào thung lũng Silicon Valley, với hy vọng thu về lợi
nhuận đáng kể từ những công ty này. Những công ty này đã đưa ra những lời hứa hấp
dẫn, tuy nhiên lại không thể thực hiện được do chiến lược đầu tư không đúng đắn,
thiếu kiến thức và sự sử dụng vốn không hợp lý từ phía các nhà đầu tư.
Số tiền đáng kể này đã được các CEO chi ra cho các hoạt động ăn chơi, tiệc
tùng và marketing, nhằm thu hút sự rót vốn từ các nhà đầu tư, mà không đầu tư vào cơ
sở hạ tầng hoặc phát triển ứng dụng như đã hứa hẹn. Mất đi sự tập trung và cẩn trọng,
các nhà đầu tư đã đối diện với những hậu quả đắng cay khi những công ty này không
thể đáp ứng được kỳ vọng và cam kết ban đầu. Điều này phần nào là do hướng đầu tư
mơ hồ và thiếu hiểu biết, cùng với việc sử dụng vốn không đúng mục đích từ phía các nhà đầu tư.
Như vậy, những sự kiện này đã làm rõ rằng việc đầu tư vào công ty công nghệ
và các công ty hoạt động trên nền tảng trực tuyến đòi hỏi sự cẩn trọng và hiểu biết sâu
sắc về thị trường và các nguyên tắc đầu tư. Nếu không, nguy cơ mất vốn và hậu quả
không mong muốn sẽ là kết quả của những quyết định đầu tư không đúng đắn.
Khi này, người dân, các nhà đầu tư đã mất lòng tin vào những công ty công
nghệ, sản phẩm công nghệ. Và cùng lúc này, FED cũng đã tăng lãi suất ngân hàng
Nối tiếp bong bóng, sự kiện khủng bố ngày 11/09/2001 diễn ra
Trải qua sự không ổn định của thị trường tài chính: Thị trường tài chính Mỹ đã
phải tạm ngừng hoạt động trong 6 ngày để đảm bảo an ninh sau sự kiện đáng chú ý.
Ngay sau khi thị trường mở cửa trở lại vào ngày 17/09, thị trường chứng khoán Mỹ đã
ghi nhận mức giảm lớn nhất trong một ngày trước đó. Điều này cho thấy sự bất ổn và
áp lực lớn trong hệ thống tài chính.
Ngân sách Mỹ đã phải đối mặt với thâm hụt đáng kể, và có nhiều nguyên nhân
góp phần vào tình trạng này. Trước hết, các chi tiêu liên quan đến quốc phòng và an
ninh đã tăng lên do sự thắt chặt và gia tăng quy mô của các hoạt động quốc phòng sau
giai đoạn chạy đua vũ trang với Liên Xô. Điều này đã dẫn đến một con số khá lớn
được chi cho quốc phòng, chiếm tới 20% ngân sách cả nước. 5
Ngoài ra, chính phủ đã triển khai các biện pháp kích thích kinh tế, trong đó có
chính sách giá trị đồng USD thấp. Tuy nhiên, việc áp dụng chính sách này đã góp
phần vào tình trạng khủng hoảng. Chính sách USD rẻ đã tạo ra một loạt tác động
không cân đối đến nền kinh tế, bao gồm sự khuyến khích đầu tư rủi ro cao và sự tăng lên của nợ vay.
Những yếu tố trên đã tạo ra một tình hình kinh tế không ổn định và gây ra
những tác động tiêu cực đến thị trường tài chính và ngân sách của Mỹ. Các biện pháp
kích thích và quyết định liên quan đến quốc phòng đã đóng góp vào tình trạng thâm
hụt ngân sách và tạo ra những tác động không mong muốn trong hệ thống kinh tế.
I.2. Chính sách tiền tệ để đối phó với lạm phát: Mở đầu cho khủng hoảng$
Trong năm 2003, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã áp dụng một chính sách lãi suất
thấp nhằm khuyến khích việc vay mượn và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong suốt
năm đó, lãi suất cơ bản của Fed đã giảm dần từ mức 1,25% vào đầu năm xuống còn 1,00% vào cuối năm.
Quyết định này được đưa ra nhằm đối phó với những tác động tiêu cực từ bong
bóng dotcom và sự kiện khủng bố 11/09. Trước đó, vào năm 2001, lãi suất của Fed đã
được đưa lên mức 5,6-6% để ứng phó với những biến động kinh tế và tác động của các sự kiện đó.
Với chính sách lãi suất thấp, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ hy vọng khuyến khích
việc vay mượn của người dân và doanh nghiệp, tạo động lực cho đầu tư và tiêu dùng.
Người dân đã phản ứng tích cực bằng việc đổ xô đi vay ngân hàng. Thay vì đầu tư vào
ngành công nghệ như trước đây, cùng với nỗi sợ vô hình về khủng bố. Người dân Mỹ
muốn tìm đến một hàng hóa có thể giúp họ đầu tư thấy an tâm hơn đó chính là bất động sản.
Việc tăng cường chính sách hỗ trợ tăng trưởng kinh tế thông qua chính sách lãi
suất thấp trong năm 2003 được xem là một ứng dụng đúng với lý thuyết kinh tế vĩ mô.
Bằng cách khuyến khích việc vay mượn và đầu tư, chính sách này đã nhằm tạo động
lực cho tăng trưởng kinh tế và giúp định vị lại sự ổn định sau những biến động kinh tế
và sự kiện xấu xảy ra trước đó. Nhưng đây cũng là khởi đầu cho đại khủng hoảng tài
chính lớn nhất trong vòng một thế kỷ qua. 6
II. Quả bom nổ chậm : Những dấu hiệu trước giờ và hành động của chính phủ
II.1 Những dấu hiệu trước khủng hoảng II.1.1. Nguyên nhân
Khủng hoảng tài chính 2008 - 2009: là “thảm họa” kinh tế lớn nhất kể từ
Đại suy thoái 1929. Nguyên nhân xuất phát từ việc bong bóng giá nhà được
hình thành từ năm 2006 vỡ tung, tạo nên những đống nợ xấu khổng lồ, đánh
sập hoạt động của các nhà băng vốn đang ôm nhiều khoản vay được thế chấp bằng bất động sản.
II.1.1.1. Tự do hóa tài chính
Các học thuyết tài chính đã đề cao tầm quan trọng của việc tự do hóa tài chính
trong việc thúc đẩy sự phát triển và tăng cường hiệu quả của hệ thống tài chính. Trong
thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20, chính phủ Hoa Kỳ thông qua đạo luật Gramm-Leach-
Bliley năm 2000 đã chấm dứt đạo luật Glass-Steagall, mở đường cho sự hợp nhất giữa
các ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư và công ty bảo hiểm.
Tự do hóa tài chính đã tạo ra một loạt các sản phẩm và công cụ tài chính mới,
như Chứng khoán hóa (MBS, CDO) và CDS (hợp đồng hoán đổi tổn thất tín dụng),
mang lại cơ hội và tiềm năng lợi nhuận lớn cho các nhà đầu tư. Tuy nhiên, cùng với
những lợi ích đó, cũng tồn tại những rủi ro và tác động tiêu cực.
Một ví dụ là hoạt động mua bán khống, trong đó các nhà đầu tư tạo ra lợi
nhuận bằng cách bán chứng khoán mà họ không sở hữu, hy vọng rằng giá trị của
chúng sẽ giảm. Tuy nhiên, hoạt động này có thể gây ra sự không ổn định và tăng rủi
ro trong thị trường tài chính.
Ngoài ra, rủi ro đạo đức của các công ty định mức tín nhiệm cũng được đặt ra.
Trong quá trình đánh giá tín nhiệm của các công ty và sản phẩm tài chính, có thể xảy
ra việc đánh giá không chính xác hoặc thiếu minh bạch, dẫn đến sự mất độc lập và tin cậy của hệ thống.
Tóm lại, việc tự do hóa tài chính đã mang lại nhiều cơ hội và tiềm năng phát
triển cho hệ thống tài chính. Tuy nhiên, cần phải thận trọng và đảm bảo sự minh bạch, 7
đạo đức và quản lý rủi ro để đảm bảo sự ổn định và bền vững của hệ thống tài chính toàn cầu.
Đầu tiên chúng ta cần tìm hiểu về sản phẩm MBS (mortgage-backed security -
chứng khoán bảo đảm bằng thế chấp ), là sản phẩm chứng khoán được đảm bảo bằng
các khoản vay bất động sản có thế chấp. Nói một cách đơn giản, hợp đồng tài trợ xây
dựng của khách hàng được đóng gói và bán lại cho nhà đầu tư.
Nền kinh tế bước vào thời kỳ suy thoái, giá bất động sản giảm mạnh, người đi
vay không có khả năng trả nợ và khó khăn trong việc bán bất động sản để trả nợ. Do
đó, các tổ chức cho vay phải đối diện với nguy cơ mất vốn. Ngoài ra các hợp đồng cho
vay bất động sản dùng để đảm bảo cho chứng khoán MBS là nợ khó đòi nên chứng
khoán MBS mất giá trị trên thị trường, khiến cho các ngân hàng, các nhà đầu tư nắm
giữ những chứng khoán này không những bị lỗ mà còn rơi vào tình trạng khó khăn về
tính thanh khoản. Đến một mức nhất định, các tổ chức tài chính không còn chịu đựng
sức ép của thanh khoản và các khoản thua lỗ, nên buộc tìm sự cứu trợ từ nhiều nguồn
và tệ nhất phải đệ đơn phá sản. Do có sự liên quan, đầu tư qua lại thông qua hình thức
chứng khoán hoá đã dẫn tới sự sụp đổ có hệ thống - theo dây chuyền.
Nhân tố tiếp theo góp phần gây ra
cuộc khủng hoảng là CDS (Credit default
swap - Thanh khoản nợ xấu ) do các công
ty bảo hiểm tạo ra để phòng ngừa rủi ro
cho các khoản vay. Các công ty tài chính
và các công ty bảo hiểm phải hoàn trả
tiền bảo hiểm theo các hợp đồng bảo
hiểm tiền gửi và tiền vay (CDS) do các tổ
chức này bán ra. Ước tình nước Mỹ có
khoang 35000 tỷ USD tiền bảo hiểm và
trên toàn thế giới là khoảng 54600 tỷ
Hnh 2 - Sơ đồ minh hoạ các giao dịch nhà đất ( Nguồn: Crosses )
USD ( theo ước tính của “
International Swap and Derivatives association “ ). Tập đoàn tài chính hàng đầu thế
giới AIG bị đổ vỡ, một phần do đầu tư vào MBS và phần lớn là các hợp đồng CDS.
Nếu không có sự giải cứu kịp thời cho thị trường tài chính Mỹ thì các hợp đồng CDS
sẽ tàn phá các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác.
Thêm vào đó, ở giai đoạn này, CDO (Collateralized Debt Obligation- Nghĩa vụ
nợ được thế chấp). CDS- một sản phẩm tài chính có cấu trúc phức tạp, được đảm bảo 8
bởi một nhóm các khoản vay và các tài sản khác và được bán cho các nhà đầu tư tổ
chức đã tăng gần gấp 10 lần, từ 30 tỷ USD năm 2003 lên 225 tỷ USD năm 2006.
Nhưng sự sụp đổ sau đó của chúng, do chính sách điều chỉnh nhà ở của Hoa Kỳ gây
ra, đã khiến CDO trở thành một trong những tổ chức hoạt động tồi tệ nhất trong cuộc
khủng hoảng thế chấp. Bắt đầu vào năm 2007 và đạt đỉnh điểm vào năm 2009. Bong
bóng CDO đã gây ra tổn thất hàng trăm tỷ đô la cho một số công ty dịch vụ tài chính
lớn nhất. Những tổn thất này dẫn đến việc các ngân hàng đầu tư phá sản hoặc phải giải
cứu nhờ sự can thiệp của chính phủ, và trong thời kỳ này đã góp phần làm leo thang
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, cuộc Đại suy thoái.
Tính đến 7/2008, các tổ chức tài chính đã báo cáo mất vốn trên 435 tỷ USD. Và
không một ai có thể chắc chắn về giá trị đích thực của các khoản đầu tư tài chính - bất
động sản được ước tính là hàng ngàn tỷ đô vẫn còn nằm trên sổ sách tài chính - ngân hàng.
II.1.1.2. Bùng nổ tín dụng
Trong bối cảnh chung của các nước trên thế giới thực hiện các chính sách tự
do hoá kinh tế, Chính phủ Mỹ còn thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ trong
một thời gian dài. Để phục hồi nền kinh tế Mỹ sau cuộc khủng hoảng của các
công ty công nghệ thông tin năm 2000 và sự kiện khủng bố Trung tâm thương
mại quốc tế WTC vào ngày 11/9/2001 cùng với dòng chảy vốn mua trái phiếu
chính phủ Mỹ từ các nước phát triển ở Châu Á và OPEC, FED đã điều chỉnh
hạ liên tục lãi suất cơ bản từ 6,5% xuống mức thấp kỷ lục là 1% vào năm
2003. Chính sách nới lỏng tiền tệ (chính sách đồng USD rẻ) đã kích thích
người dân vay tiền mua nhà và các tổ chức tín dụng thì sẵn sàng cho vay, đầu tư mạo hiểm.
Ta có thể hiểu thêm “ Chính sách nới lỏng tiền tệ “ : Ngân hàng Nhà Nước
(NHNN) sẽ bơm tiền vào thị trường để mở rộng nguồn cung tiền, tăng cung ứng tiền
vào lưu thông. Điều này nhằm mục đích hạ lãi suất để kích cầu chi tiêu của người dân.
Từ đó dẫn đến việc kích cầu sản xuất, mở rộng quy mô kinh doanh và giảm tỷ lệ thất
nghiệp.Bởi vì nền kinh tế hoạt động theo chu kỳ kinh doanh, trong đó suy thoái, phục
hồi và mở rộng là một phần của biến động kinh tế mang tính chu kỳ, nên thông
thường những thay đổi chính sách sẽ tương ứng với những thay đổi trong GDP thực tế và lạm phát. 9
Ngược lại với việc thắt chặt chính sách tiền tệ là nới lỏng tiền tệ. Hai chính
sách tiền tệ này được thực hiện luân phiên nhằm duy trì sự ổn định tài chính và tăng
trưởng kinh tế của đất nước. Trong hai chính sách, chính sách tiền tệ nới lỏng được
xem là cách để các nhà hoạch định chính sách kéo nền kinh tế ra khỏi suy thoái bằng
cách bơm vốn vào nền kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tín dụng mở rộng, nhưng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp giảm sau các
bê bối tài chính tại Mỹ như Enron, Worldcom, khủng hoảng dot.com và các chính phủ
cũng ngày càng kiểm soát thâm hụt ngân sách để tránh việc vay vốn bên ngoài. Sự
mất cân đối giữa cung và cầu vốn dẫn đến nguồn vốn dư thừa, thị trường không sử
dụng hiệu quả. Các Subprime-mortgage - khoản cho vay dưới chuẩn là giải pháp
nhằm giải quyết vấn đề dư thừa vốn và từ đó tối đa hóa lợi nhuận. Nợ dưới chuẩn
được hiểu là khoản vay cho các đối tượng có mức tín nhiệm thấp. Những người đi vay
này thường là người nghèo, không có công việc ổn định, có địa vị xã hội thấp hoặc
trước đây có tín dụng mập mờ không minh bạch. Những cá nhân này tiềm ẩn nguy cơ
không có khả năng thanh toán các khoản nợ quá hạn và do đó gặp khó khăn trong việc
tiếp cận các nguồn vốn tín dụng truyền thống chỉ dành cho những người trên tiêu
chuẩn .Vì vậy, nợ dưới chuẩn có rủi ro tín dụng rất cao nhưng lại có lãi suất hấp dẫn.
Tại Mỹ, nợ dưới chuẩn được áp dụng cho các sản phẩm cho vay thế chấp, thế chấp trả
góp ô tô, thẻ tín dụng , v.v. Các khoản cho vay dưới chuẩn chủ yếu là người nhập cư.
II.1.1.3. Bong bóng bất động sản Vào giữa năm 2006, khi Ngân hàng Dự trữ
Liên bang Mỹ (FED) tăng lãi suất đề phòng lạm phát, lãi suất của các khoản vay dưới
chuẩn bắt đầu tăng theo (do các hợp đồng vay đa số là các khoản vay theo lãi suất điều
chỉnh), người dân mất khả năng thanh toán, ngân hàng mất khả năng thanh khoản dẫn
đến sự sụp đổ hàng loạt của hệ thống tài chính và bất động sản.
Bong bóng bất động sản cùng với sự giám sát tài chính chưa đầy đủ của Hoa
Kỳ đã dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính ở nước này từ năm 2007 và trở nên trầm
trọng hơn kể từ cuối năm 2008 tại nhiều quốc gia. Cuộc khủng hoảng ở Mỹ đã lan
rộng ra nhiều nước trên thế giới, dẫn đến vụ phá sản tài chính, suy thoái kinh tế và làm
giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước trên thế giới.
Hoa Kỳ là điểm khởi đầu và trung tâm của cuộc khủng hoảng. Ngay khi bong
bóng nhà đất vỡ vào cuối năm 2005, nền kinh tế Mỹ bắt đầu chậm lại. Tuy nhiên,
bong bóng vỡ đã dẫn đến việc các nhà đầu tư bất động sản cho các tổ chức tài chính ở
nước này vỡ nợ. Vào giữa năm 2007, các tổ chức tài chính đầu tiên của Mỹ liên quan
đến khoản cho vay mua nhà thứ hai đã thất bại. Giá cổ phiếu Mỹ dần bắt đầu giảm. Sự 10
sụp đổ tài chính lên đến đỉnh điểm vào 10/2008, khi ngay cả những ngân hàng khổng
lồ và lâu đời đã sống sót sau các cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế trước đó như
Lehman Brothers, Morgan Stanley, Citigroup, AIG, v.v. cũng gặp rắc rối. Sự thiếu hụt
tín dụng nổi lên cũng khiến khu vực kinh tế thực của Mỹ rơi vào tình thế khó khăn,
điển hình là cuộc khủng hoảng của ngành ô tô Mỹ từ năm 2008 đến năm 2010. Chỉ số
bình quân công nghiệp Dow Jones đóng cửa ngày 9/3/2009 ở mức 6.547,05, mức thấp
nhất kể từ tháng 4. 1997. Chỉ trong sáu tuần, chỉ số này đã giảm 20%.
Hnh 3 - Biểu đồ giá nhà Mỹ giai đoạn suy thoái kinh tế ( Nguồn: cafebiz.vn )
Các khoản cho vay dưới chuẩn bảo đảm bằng bất động sản rất phổ biến và phát
triển mạnh do lãi suất thấp, dễ tiếp cận vốn và niềm tin rằng giá bất động sản sẽ không
giảm. Nhu cầu nhà ở lớn cộng với kỳ vọng giá nhà đất tăng cao đã khiến giá nhà đất
tăng vọt. Theo chỉ số S&P (chỉ số chứng khoán được dựa trên vốn hóa của 500 công
ty đại chúng lớn nhất nước Mỹ) giá nhà tăng khoảng 8,3% từ quý 1 năm 1990 đến
quý 1 năm 1997. Kể từ đó, giá nhà đất tăng mạnh, đạt đỉnh điểm vào quý 2 năm 2006,
khi giá bất động sản tăng hơn 132% so với quý 1 năm 1997. Bong bóng bất động sản ngày càng lớn.
Người cho vay tin tưởng rằng họ có thể thu hồi vốn vay thông qua việc tịch thu
tài sản nếu người đi vay không có khả năng trả nợ nên cho vay dưới chuẩn cũng được
coi là một hình thức cho vay an toàn. Kết quả là, nhiều sản phẩm thế chấp dưới chuẩn
đã được giao dịch trong giai đoạn trước khủng hoảng năm 2008 (bao gồm các khoản
thế chấp có lãi suất điều chỉnh ARM, quyền chọn ARM, các khoản vay trả dần...) mà
tất cả đều yêu cầu người đi vay sử dụng bất động sản mà mình có ý định giao dịch
làm tài sản ký quỹ. Khả năng giá cả nhà đất tiếp tục gia tăng khiến các khoản vay trở 11
nên phát triển. Năm 2006, gần 20% các khoản vay thế chấp sơ cấp là dưới chuẩn và
80% các khoản thế chấp sơ cấp được chứng khoán hóa. Việc chứng khoán hóa các
khoản vay dưới chuẩn không chỉ góp phần đáng kể vào sự phát triển của bong bóng
nhà đất ở Mỹ mà còn là nguyên nhân chính gây ra cuộc khủng hoảng tài chính khi giá
bất động sản bắt đầu giảm. Lợi nhuận cao cùng với lòng tham đã dẫn đến việc lạm
dụng các khoản vay dưới chuẩn.Các quy trình thẩm định được thực hiện bởi các nhân
viên cho vay cực kỳ lỏng lẻo và việc tiếp cận vốn vay để mua nhà trở nên nhanh
chóng và dễ dàng hơn bao giờ hết. Cho vay thế chấp dưới chuẩn lan truyền nhanh
chóng khắp nước Mỹ. Giá bất động sản tăng nhanh. Đối mặt với nguy cơ lạm phát,
FED bắt đầu tăng lãi suất để khiến nhu cầu vay dưới chuẩn giảm mạnh. Lãi suất thay
đổi mà người đi vay phải chịu sẽ tăng theo mức tăng của lãi suất cơ bản. Vì vậy,
người đi vay buộc phải trả lãi suất cao mà không thể cơ cấu lại khoản vay thông qua
việc gia hạn nợ và bắt đầu mất khả năng thanh toán, rơi vào tình trạng mất khả năng
thanh toán. Bởi vì nhiều người mua nhà không có khả năng trả nợ nên các khoản nợ
của họ bị tịch thu và tài sản của họ bị bán.
Cleveland, Ohio là thành phố đầu tiên gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế.
Khoảng 1/10 ngôi nhà ở Cleveland đã được thu hồi để bán.Những người nhập cư mơ
ước mua nhà trở về tay trắng. Giá bất động sản ở Mỹ giảm mạnh trong quý 3 năm
2007, xuống mức thấp nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính những năm 1930.
(Kinh Tế Mỹ 13 Năm Nhìn Lại Sau Thảm Họa 11/9, 2014) II.1.2. Diễn biến:
Cuộc khủng hoảng tài chính, bắt đầu ở Mỹ như một vụ tràn dầu trên khắp thế
giới, chưa dừng lại ở biên giới của một quốc gia duy nhất và đang phủ bóng đen lên
nền kinh tế toàn cầu vốn đã trì trệ trong nhiều năm. Vấn đề bị ảnh hưởng nhiều nhất là
hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán.
II.1.2.1. Hệ thống tài chính - ngân hàng
Năm 2008 - giai đoạn đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng tài với sự sụp đổ hàng
loạt các ngân hàng lớn và lâu đời. Cùng việc người dân mất niềm tin vào nền kinh tế
đã làm cho Mỹ rơi vào cuộc khủng hoảng vô cùng nghiêm trọng. Ngày 16/03/2008, Bear
Stearn - một trong năm ngân
hàng hàng đầu của Mỹ, phải
chấm dứt hoạt động sau 85 năm tồn tại. Và đã bị “ sang tay” cho ngân hàng JP
Morgan Chase với mức giá “rẻ như bèo” là xấp xỉ 240 triệu USD, tương đương 2
USD/cổ phiếu, thấp hơn 10 lần giá cổ phiếu giao dịch trên thị trường trước thời điểm mua.
Việc ngân hàng dự trữ liên bang New York cứu không nổi Bear Stearn và buộc
lòng để công ty này bị bán với giá quá rẻ đã khiến cho sự lo ngại về năng lực của
Chính phủ viện trợ các tổ chức tài chính gặp khó khăn. Sự sụp đổ của Bear Stearn đã
đẩy cuộc khủng hoảng lên nấc thang trầm trọng hơn.
Ngày 11/7/2008, InDyMac - ngân hàng cho vay địa ốc hàng đầu đã bị Uỷ ban
giám sát tiết kiệm đóng cửa và chuyển giao cho tập đoàn Bảo hiểm tiền gửi Liên bang (FDIC)
Ngày 7/9/2008, để tiếp quản Fannie Mae và Freddie, chính phủ Mỹ chi 200 tỷ
USD thông qua cổ phiếu ưu đãi để giữ cho các công ty này không bị phá sản
Fannie Mae và Freddie Mac - hai hãng cho vay thế chấp lớn nhất tại Mỹ, bảo
lãnh cho số bất động sản lên đến 5000 tỷ USD trên toàn nước Mỹ và chiếm 50% thị
trường. . Sự kiện này nổ ra đã tạo nên cơn địa chấn tài chính thực sự.
Ngày 14/9/2008, Bank of America đồng ý mua hãng đầu tư tài chính Merrill
Lynch - ngân hàng đầu tư có 94 năm lịch sử với giá 50 tỷ USD. Với vụ bán lại này,
Merrill vừa tránh được nguy cơ phá sản, vừa tránh được nguy cơ bị “ép giá” như Bear
Stearns một khi tình hình trở nên tệ hơn.
Ngày 15/9/2008, sau những nỗ lực huy động vốn thất bại do chính phủ Mỹ từ
chối cứu giúp, Lehman brothers - ngân hàng đầu tư hàng đầu thế giới với 158 năm
lịch sử tuyên bố phá sản.
Tổng tiền nợ của Lehman Brothers lên đến 768 tỷ USD ( gồm 613 tỷ USD nợ
ngân hàng và 155 tỷ USD nợ trái phiếu). Sự phá sản của Lehman Brothers và những
sự kiện diễn ra trước đó đánh dấu sự leo thang của cuộc khủng hoảng tài chính và theo
các chuyên gia đánh giá là tồi tệ nhất sau cuộc Đại khủng suy thoái kinh tế năm 1930. 13
Hnh 5 - Nhân viên Lehman Brothers rời ngân hàng vào ngày thông báo phá sản ( Nguồn : AP, Reuters ) Ngày 26/9/2008, ngân hàng Washington Mutual - ngân
hàng tiết kiệm lớn nhất nước
Mỹ được chính phủ tiếp quản. Và sau đó lại qua tay JP
Morgan Chase với giá 1,9 tỷ USD. Washington Mutual là
vụ phá sản ngân hàng lớn nhất
trong lịch sử , tổng thiệt hại
Hnh 6 - Tháng 12/2010, chiếc biển Lehman Brothers được mua với giá
42.050 bảng trong một phiên đấu giá các tài sản tại Christie’s ( Nguồn: Oll
lên tới 307 tỷ USD. Scarff )
Tháng 9 và 10/2008 trở thành giai đoạn đen tối trên Wall Street khi chỉ số Dow
Jone tụt 25% giá trị sau một tháng từ 15/9/2008. Từ giai đoạn này, biến động tại Wall
Street trở nên khó lường hơn với nhiều kỷ lục cả tăng và giảm tồn tại trong hàng
chục năm đã bị phá sản. 14
II.1.2.2 Thị trường chứng khoán
Chứng khoán Mỹ sụt giảm mạnh dẫn đến chứng khoán châu Á và châu Âu sụt
giảm. Các thị trường chứng khoán lớn toàn cầu như New York, London, Paris và
Tokyo đều trải qua những đợt sụt giảm lịch sử.
Tại Châu Á, lợi nhuận trên tất cả các thị trường đã giảm từ 40,7% xuống 65,9%
và hàng nghìn tỷ đô la đã bị xóa sổ khỏi thị trường. Chỉ số Sensex (Ấn Độ) giảm
3,4%, Taiwan Bankmark (Đài Loan) giảm 4,1%, Singapore giảm 3,2%, chỉ số KOSPI
của Hàn Quốc có mức giảm thấp nhất (-40,7%), trong đó VN-Index của Việt Nam và
Shanghai Composite Index của Trung Quốc có mức giảm lớn nhất so với thị trường so
sánh. So sánh, giá trị giảm hơn 65%. Nhật Bản có hệ thống tài chính tương đối ổn
định và trải qua thời kỳ tái cơ cấu sau cuộc khủng hoảng 1996-1997. Tuy nhiên, tác
động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ vẫn gây ra tình trạng hỗn loạn trên
thị trường chứng khoán nước này. Chỉ số trung bình chứng khoán Nikkei giảm xuống
42,1%, mức giảm tồi tệ nhất kể từ năm 1990 (-39%).
Hnh 7 - Biểu đồ tăng/ giảm của một số chứng khoán tiêu biểu ( Nguồn: VnEconomy)
Tại thị trường châu Âu, chỉ số Dow Jones có lúc đã giảm 42% giá trị trước khi
có sự phục hồi và giảm 34,6% so với cùng kỳ năm ngoái, chỉ số S&P 500 giảm 39,3%
giá trị. Chỉ số Nasdaq hạ 41,5%. Chỉ số CAC 40 của Pháp đã giảm mạnh nhất (-42%) và chỉ số FTSE
100 của Anh giảm ít nhất (31,5%). Chỉ số DAX của Đức đã giảm 39,5%. 15
II. Quả bom nổ chậm: Những dấu hiệu trước giờ G và hành động của chính phủ
II.2 Hành động của chính phủ và hậu quả (2006)
Trong khi kinh tế Mỹ năm 2006 có nhiều điểm sáng, cũng có một số vấn
đề và thách thức đối mặt. Dưới đây là một số điểm thất bại và đi xuống trong kinh tế
Mỹ năm 2006: khủng hoảng thị trường nhà ở, tăng nợ cá nhân, thâm hụt ngân sách,
tăng trưởng nợ công, thương mại thâm hụt. Những điều này góp phần vào sự không
ổn định và tiềm ẩn những thách thức trong tương lai. Những điểm yếu này đã tạo ra
những thách thức và đặt nền tảng cho cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra từ năm 2007. II.2.1. Hậu quả
Khủng hoảng tài chính toàn cầu: Những vấn đề trong thị trường nhà ở và thị
trường tài chính Mỹ năm 2006 đã trở thành nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu năm 2007-2008. Sự suy yếu và suy thoái trong thị trường nhà ở đã
lan rộng sang các ngân hàng và tổ chức tài chính, gây ra sự sụp đổ của các công ty tài
chính, sự mất trắng dự trữ và sự không ổn định toàn cầu. Suy thoái kinh tế: Khủng
hoảng tài chính đã lan rộng thành một suy thoái kinh tế toàn cầu. Kinh tế Mỹ đã chịu
ảnh hưởng nặng nề từ cuộc suy thoái, với sự giảm giá trị tài sản, tăng mức thất nghiệp,
giảm sản xuất và sụt giảm các chỉ số kinh tế quan trọng. Mất đi việc làm và tăng mức
thất nghiệp: Suy thoái kinh tế đã dẫn đến mất đi hàng triệu việc làm và tăng mức thất
nghiệp. Doanh nghiệp giảm sản xuất và cắt giảm nhân sự để tiết kiệm chi phí, gây ra
sự không ổn định trong thị trường lao động và gây khó khăn cho người lao động. Mất
mát tài sản và tài chính cá nhân: Giá trị nhà ở và tài sản cá nhân đã giảm mạnh trong
suy thoái kinh tế, gây ra mất mát tài chính đáng kể cho các gia đình và cá nhân. Nhiều
người đã mất nhà, tài sản giảm giá và phải đối mặt với tình trạng nợ nần. Tác động xã
hội: Tăng mức thất nghiệp, mất đi việc làm và khó khăn tài chính đã tạo ra căng thẳng
và không ổn định trong xã hội, sự suy thoái kinh tế cũng đã gây ra sự suy giảm trong
chất lượng cuộc sống và tăng lên những khó khăn xã hội như tăng cường không an
ninh và thảm họa tài chính cá nhân.
II.2.2. Hành động của chính phủ:
Thị trường nhà ở và thị trường tài chính: Chính phủ đã đưa ra các biện pháp để
ổn định thị trường nhà ở và thị trường tài chính. Điều này bao gồm việc tăng cường
quản lý tín dụng và quy định ngân hàng, đồng thời cung cấp sự hỗ trợ tài chính cho
các ngân hàng và tổ chức tài chính gặp khó khăn. Chính sách tài khóa: Chính phủ đã
đề ra các chính sách tài khóa nhằm giảm thiểu thâm hụt ngân sách và tăng cường quản
lý nợ công. Điều này có thể bao gồm kiểm soát chi tiêu công cộng, tăng thuế và cắt 16
giảm các chương trình chi tiêu không cần thiết. Chính sách thương mại: Chính phủ đã
áp dụng các biện pháp để đối phó với thâm hụt thương mại, bao gồm việc thương
lượng các thỏa thuận thương mại hai chiều, thúc đẩy xuất khẩu và khuyến khích đầu
tư nước ngoài Chính sách tiền tệ: Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ (Federal Reserve)
đã thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt để ổn định nền kinh tế. Điều này bao gồm
điều chỉnh lãi suất để kiểm soát lạm phát và khuyến khích tăng trưởng kinh tế. Chính
sách kích thích kinh tế: Chính phủ có thể áp dụng các chính sách kích thích kinh tế để
tăng cường chi tiêu và đẩy mạnh hoạt động kinh tế. Điều này có thể bao gồm việc
cung cấp gói kích thích tài chính hoặc giảm thuế để tăng cường tiêu dùng và đầu tư
II.2.2.1. Sâu hơn về mặt kinh tế:
Giảm lãi suất: FED đã tiến hành cắt giảm lãi suất để kích thích tăng trưởng
kinh tế và khuyến khích việc cho vay. Mục tiêu của việc giảm lãi suất là tạo động lực
cho các doanh nghiệp và cá nhân mượn tiền để đầu tư và tiêu dùng, từ đó thúc đẩy
hoạt động kinh tế. Mở rộng chính sách tiền tệ: FED đã thực hiện một loạt các biện
pháp mở rộng chính sách tiền tệ, như mua lại trái phiếu chính phủ và tài sản tài chính
khác. Mục tiêu của chính sách này là cung cấp thanh khoản cho các thị trường tài
chính và giúp duy trì sự ổn định tài chính.
Quản lý rủi ro: FED đã tăng cường quản lý rủi ro trong hệ thống tài chính bằng
cách đưa ra các biện pháp quản lý tín dụng và yêu cầu các ngân hàng tuân thủ các quy
định tài chính. Mục tiêu là giảm thiểu rủi ro trong hệ thống tài chính và đảm bảo sự ổn
định. Tăng cường giám sát và quy định: FED đã tăng cường giám sát và quy định các
tổ chức tài chính để đảm bảo tuân thủ các quy tắc và quy định trong hoạt động tài
chính. Mục tiêu là giảm thiểu rủi ro và tăng cường sự minh bạch và trách nhiệm của các tổ chức tài chính.
II.2.3. Chính phủ Mỹ có những hành động như vậy để làm gì:
Bảo vệ sự ổn định tài chính; Bảo vệ việc làm và tăng trưởng kinh tế; Bảo vệ lợi
ích của người dân và các doanh nghiệp;Ngăn chặn lan rộng của khủng hoảng. Và do
bài học từ quá khứ: Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007-2008 đã làm rõ những rủi
ro và điểm yếu trong hệ thống tài chính và kinh tế. Chính phủ đã học từ những bài học
đắt giá này và đưa ra những biện pháp để cải thiện quản lý rủi ro, tăng cường quản lý
tài chính và đảm bảo sự ổn định hơn cho kinh tế trong tương lai (Tuổi trẻ, 2006)
II.2.4. Tính đúng sai trong những hành động FED thực hiện:
Tạo ra các bong bóng tài chính: Việc cắt giảm lãi suất và mở rộng chính sách
tiền tệ có thể tạo ra các bong bóng tài chính, như bong bóng thị trường nhà ở và thị
trường tài chính. Thiếu quản lý rủi ro hiệu quả: Một số người cho rằng FED không 17
thực hiện đủ công việc quản lý rủi ro trong hệ thống tài chính. Các quy định và giám
sát không đủ mạnh mẽ để ngăn chặn các hành vi rủi ro và lạm phát trong các tổ chức tài chính
III. Hiệu ứng dây chuyền sau cuộc khủng hoảng của Mỹ khiến cả nền kinh
tế Mỹ nói riêng và thế giới nói chung sụp đổ.
III.1. Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008
Cuộc khủng hoảng mở đầu bằng hàng loạt những sự kiện như là: Sự bùng nổ
của bong bóng nhà đất tại Mỹ hay,sự sụp đổ của loạt ngân hàng đầu tư và thương mại
lớn, cùng những tổ chức, cá nhân cho vay cầm cố. Khủng hoảng trên đã khiến nhiều
cơ sở kinh doanh đình trệ, hàng triệu người thất nghiệp, trở thành vô gia cơ. Kéo theo
đó là hàng loạt ngân hàng lâu năm của Mỹ rơi vào bế tắc rồi phá sản.
Từ quyết định của chính phủ dẫn đến cả nền kinh tế bị sụp đổ.
Bắt đầu từ thị trường bất động sản tại Mỹ, khi họ bắt đầu đưa ra các
khoản vay thế chấp mạo hiểm để giải cứu người mua nhà đất. Đặc
biệt hơn cả là có các khoản vay dành cho nhóm khách hàng có thu
nhập thấp, rủi ro cho vay rất cao. Ngay khi nhận ra thấy những dấu
hiệu bất thường, Chính phủ Hoa Kỳ đã nhanh chóng triển khai các
gói cứu trợ kèm theo các chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ
nhằm ngăn chặn suy thoái, tuy nhiên, tất cả đã quá muộn. Ngay khi
có dấu hiệu khủng hoảng tín dụng nhà ở, Fed đã bắt đầu hạ lãi suất
và tăng mua MBS. Vào ngày 8/2007, Fed tiếp tục tiến hành các biện
pháp nới lỏng tiền tệ: lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng đã
được giảm từ 5,25% qua 6 đợt xuống còn 2% chỉ trong vòng chưa
đầy 8 tháng (18/9/2007-30/4/2008). Chưa dừng lại ở đó, 13/2/2008,
chính phủ Mỹ áp dụng một chương trình kích cầu tổng hợp trị giá
168 tỷ dollar. Sau đấy ít lâu, vào ngày 3/10/2008, tổng thống Bush
ký sắc lệnh qua đó cho phép sử dụng gói kích thích 700 tỷ dollar.
Đến 17/2/2009, Barack Obama ký đạo luật cho phép chính phủ sử
dụng gói kích thích thứ 2 kể từ đợt khủng hoảng, gói kích thích này
trị giá lên đến 787 tỷ dollar. Mặc dù đã ra sức ngăn chặn nhưng
những nỗ lực của Chính phủ Mỹ dường như là không đủ, khủng
hoảng vẫn nhanh chóng lan rộng ra toàn thế giới. 18
Hnh 8 – Bảng cân đối của FED trong khoảng thời gian 2007-2023 (Nguồn: vnexpress)
Hệ quả hệ quả kéo theo từ cuộc đại suy thoái của Mỹ là vô cùng lớn. Hàng
triệu gia đình mất nơi ăn chốn ở, các cơ sở kinh doanh thì bị đình trệ, không có việc.
Thêm đó, con số lên đến 30 triệu công nhân mất việc, thất nghiệp kéo dài, vô số người
đột nhiên trở nên nghèo đói. Cùng với đó là 10,000 tỷ đô la Mỹ bị cuốn trôi mất….
Tháng 10 năm 2008: hàng loạt những ngân hàng khổng lồ và lâu đời từng sống sót
qua những cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế trước đây, như Lehman Brothers,
Morgan Stanley, Citigroup, AIG, … cũng lâm nạn.
Tình trạng đói tín dụng xuất hiện làm cho khu vực kinh tế thực của Hoa Kỳ
cũng rơi vào tình thế khó khăn, điển hình là cuộc Khủng hoảng ngành chế tạo ô tô
Hoa Kỳ 2008-2010. 15/9/2008, Lehman Brothers – ngân hàng 160 năm tuổi, một
trong năm định chế tài chính cho vay lớn nhất nước Mỹ khi đó đã phải tuyên bố phá sản.
Điều này đã dấy lên những nhận định, giả thuyết và có thể nói đây chính là
một trong những tín hiệu đầu tiên báo trước cuộc khủng hoảng kinh tế được đánh giá
là "tồi tệ nhất nhất trong lịch sử", là cột mốc cho sự sụp đổ của ngành công nghiệp tài
chính của Mỹ - nguyên nhân chính đẩy kinh tế thế giới vào một giai đoạn đen tối. Tuy nhiên, Lehman
Brothers cũng chỉ là một trong
những quân cờ Domino bị sụp đổ
trong một phản ứng dây chuyền
Hnh 9 - Tờ báo The Philadelphia Unquirer đăng tin về chỉ số Dow Jones
đầu năm 2008. Vào ngày 16/3/2008, Bear Stearns - một trong năm ngân hàng đầu tư
lớn nhất phố Wall - cũng phải cầu cứu và được JPMorgan Chase mua lại với khoản hỗ
trợ 30 tỷ USD từ Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed).
Chính phủ Mỹ thông qua khoản cứu trợ 200 tỷ USD nhằm mục đích cứu
Freddie Mac và Fannie Mae - hai nhà cho vay thế chấp lớn nhất nước Mỹ, không bị
phá sản và cứu AIG - một trong ba công ty bảo hiểm lớn nhất bằng việc tung ra 85 tỷ
USD để mua 80% cổ phần. Những gói cứu trợ hàng trăm tỷ USD được đưa ra sau đó
như một nỗ lực để giảm bớt ảnh hưởng của đợt khủng hoảng nhưng cũng chỉ cứu vãn phần nào.
Sự sụp đổ của ngân hàng đầu tư lâu đời của Mỹ mở đầu cho đợt bán tháo lớn
nhất trong lịch sử; sàn giao dịch chứng khoán London, bắt đầu phiên giao dịch ngày
15/9, chỉ số FTSE giảm 56,5 điểm cơ bản. Tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ lên mức 10%, cao
nhất kể từ Đại suy thoái: Khoảng 30 triệu người đã mất việc do ảnh hưởng từ cuộc
khủng hoảng, 50 triệu người quay lại ngưỡng dưới nghèo với ước tính thiệt hại khoảng 10.000 tỷ USD.
Hnh 10 - Giao dịch chứng khoán phiên sáng 15/06/2008
Nouriel Roubini-Chuyên gia kinh tế, thành viên Hội đồng cố vấn kinh tế đã
nhận định rằng: "Nếu bạn nhìn vào cái giá phải trả thì đây thực sự là cuộc khủng
hoảng cực kỳ, cực kỳ đắt tiền".
III.1.1. Giải thích khái niệm 'Bong bóng':
Trước đây, khi một người cần khoản tiền để mua nhà, quan hệ tài chính sẽ
được hình thành giữa người đi vay và người cho vay - chỉ duy nhất hai chủ thể này.
Tuy nhiên với sự xuất hiện của CDO, sẽ có thêm những cái tên khác xuất hiện. 20