Báo cáo pháp luật và đạo đức báo chí truyền thông | Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Những điều rút ra được từ môn học để ứng dụng vào đời sống, nghề nghiệp. Hiểu được vai trò của pháp luật về Báo chí - Truyền thông; vai trò của tư duy pháp lý đối với nhà báo. Hiểu rõ cơ bản về pháp luật trong báo chí và truyền thông. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Thông tin:
20 trang 4 ngày trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Báo cáo pháp luật và đạo đức báo chí truyền thông | Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Những điều rút ra được từ môn học để ứng dụng vào đời sống, nghề nghiệp. Hiểu được vai trò của pháp luật về Báo chí - Truyền thông; vai trò của tư duy pháp lý đối với nhà báo. Hiểu rõ cơ bản về pháp luật trong báo chí và truyền thông. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

11 6 lượt tải Tải xuống
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
VIỆN BÁO CHÍ – TRUYỀN THÔNG
======***======
BÁO CÁO CÁ NHÂN
MÔN: PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC
BÁO CHÍ – TRUYỀN THÔNG
Giảng viên hướng dẫn : TS. Đinh Thị Xuân Hòa
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Phương Linh
Lớp hành chính : Quan hệ công chúng K42
Mã sinh viên : 2256150030
Hà Nội, 2024
1
LỜI CẢM ƠN
Kính gửi Giảng viên hướng dẫn môn học Pháp luật và đạo đức báo chí - truyền
thông - TS Đinh Thị Xuân Hòa (Phó Trưởng Viện Báo chí - Truyền thông, Học
viện Báo chí và Tuyên truyền).
Em xin gửi đến quý giảng viên bản báo cáo nhân về môn học Pháp luật
đạo đức Báo chí - Truyền thông mà em đã tham gia học tập trong học kỳ vừa qua.
Môn học này không chỉ mang lại cho em nhiều kiến thức, thêm hiểu biết sâu
rộng về ngành nghề mà còn đem đến cho em những triết lý, giúp em lĩnh hội được
nhiều điều về mặt đạo đức, pháp luật của người làm nghề Báo chí - Truyền thông.
Trong báo cáo này, em xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô cùng những chia sẻ
về nhận định cá nhân của em trong quá trình học tập ở môn học này.
Thông qua môn học Pháp luật đạo đức Báo chí - Truyền thông, em đã học
được những kiến thức căn bản về ngành Báo chí - Truyền thông, những tiêu
chuẩn, nguyên tắc, đạo đức của người làm nghề. Bên cạnh vấn đề đạo đức, nhân
cách thì các bộ luật, điều luật, quy định đã được cô truyền tải, giảng giải đầy đủ
dễ hiểu thông qua nhiều bài giảng, dụ các buổi làm việc nhóm. Cùng với
việc tìm hiểu mối quan hệ giữa pháp luật đạo đức trong lĩnh vực báo chí,
truyền thông, em không chỉ được học hỏi từ giáo trình, sách vở mà còn được biết
thêm nhiều điều từ cô và các bạn cùng lớp. Sinh viên chúng em được trang bị đầy
đủ các kĩ năng như phân tích tình huống, đánh giá đúng bản chất các sự kiện, hành
vi hội, các quy tắc đạo đức, hiểu được trách nhiệm của truyền thông, báo chí
đối với xã hội, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của cá nhân và quyền sở hữu
trí tuệ. Cùng với việc chúng em luôn được ủng hộ, khuyến khích tìm tòi các
thông tin bên ngoài, đặt câu hỏi trên cơ sở khám phá, tiếp nhận thông tin mới.
Dưới sự chỉ dẫn của Giảng viên - TS Đinh Thị Xuân Hòa, môn học này không
chỉ có nhữngthuyết căn bản chúng em còn được vận dụngthực hành
vào các trường hợp thực tế đã đang diễn ra trong cuộc sống để cái nhìn
khách quan, nhiều chiều hơn. Bộ môn đem đến cho mỗi nhân một cách nhìn,
2
cách xử trí khác nhau, sâu sắc hơn, đúng đắn hơn đem lại nhiều trải nghiệm
hơn cho mỗi người. Trong báo cáo này, em xin trình bày những điều đã học được,
những trải nghiệm của nhân em trong quá trình học tập môn học Pháp luật
Đạo đức Báo chí - Truyền thông. Em hy vọng qua bản báo cáo này, quý giảng
viên sẽ cái nhìn toàn diện, bao quát biết được về những em đã học được
cùng những ảnh hưởng mà cô và môn học đã đem đến cho em.
Mặc đã những đầu nhất định trong quá trình làm bài, song những sai
sót khó tránh khỏi, em mong nhận được góp ý của quý thầy để bài tập lớn
của chúng em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Phương Linh
3
NỘI DUNG BÀI BÁO CÁO
1. Những điều rút ra được từ môn học để ứng dụng vào đời sống, nghề nghiệp
Trong thời gian tham gia học tập, nghiên cứu môn Pháp luật đạo đức Báo chí -
Truyền thông, em cảm nhận đây môn học mang đến cho sinh viên chúng em
những góc nhìn đa chiều không chỉ về ngành học, cuộc sống còn truyền tải
những nội dung quan trọng về pháp luật, đạo đức ngành nghề các vấn đề liên
quan đến lĩnh vực báo chí - truyền thông. Bộ môn đã đem đến những kiến thức
thông quanhững nội dung như sau:
a. Hiểu được vai trò của pháp luật về Báo chí - Truyền thông; vai trò của tư duy
pháp lý đối với nhà báo
Môn học giúp em hiểu biết về các quy định do Đảng, Nhà nước ban hành, vừa thể
hiện quyền lực Nhà nước trong lĩnh vực báo chí, vừa đảm bảo quyền bình đẳng
cho công dân trong việc thực hiện quyền về báo chí. Pháp luật và báo chí luôn
song hành, có mối quan hệ ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Sinh viên học tập bộ môn
sẽ phát triển kỹ năng tư duy pháp lý qua đó có thể ứng dụng được trong cuộc
sống, học tập và làm việc.
b. Hiểu rõ cơ bản về pháp luật trong báo chí và truyền thông.
Sinh viên chúng em thể nắm bắt được các nguyên tắc bản các vấn đề
pháp lý phổ biến như quyền tự do ngôn luận, quyền bảo vệ nguồn tin, quyền riêng
tư… Điều này giúp mỗi nhân cách ứng xử phù hợp, hiểu về quyền lợi của
mình để tránh rơi vào các tình huống pháp lý không mong muốn.
c. Nắm được một số chủ trương mới của Đảng, quy định pháp luật nhà nước về
báo chí - truyền thông; những vấn đề bản của pháp luật trong hoạt động
báo chí - truyền thông.
Sinh viên được tiếp cận với những điều luật mới nhất, tính cập nhật nhanh.
Hiểu biết những quy định hiện hành của pháp luật về lĩnh vực báo chí -
truyền thông để không sai phạm, mắc lỗi biết cách giải quyết các vấn đề cần
4
thiết.
d. Hiểu được tầm quan trọng của đạo đức nghề báo; các quy tắc đạo đức nghề
báo trên thế giới và Việt Nam.
Môn học giúp sinh viên hiểu biết được những quy tắc ứng xử, chuẩn mực quy
định về thái độ của nhà báo trong các mối quan hệ hội. Những quy tắc ấy
vai trò quan trọng đối với mỗi người làm nghề báo để luôn biết giữ mình, liêm
chính và luôn làm điều đúng đắn. Đạo đức nghề báo không chỉ có ở Việt Nam
là toàn thế giới. Môn học đào tạo, giáo dục mỗi người làm báo dù ở bất kì nơi đâu
cũng phải giữ cho mìnhtrí vững vàng, luôn tôn trọng sự thật và lẽ phải, đề cao
tinh thần trách nhiệm xã hộivà luôn giữ cái nhìn khách quan, trung thực trước mỗi
sự việc.
e. Hiểu được quan điểm của Đảng, nhà nước tưởng H Chí Minh về đạo
đức nghề báo.
Môn học giúp em nắm những quan điểm về đạo đức nghề báo Đảng, nhà
nước và tư tưởng Hồ Chí Minh đề ra như: đạo đức nghề báo là cái gốc của nhà báo;
ngườilàm báo phải lập trường chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với
Đảng và nhân dân; luôn gắn bó và phục vụ nhân dân; luôn nâng cao tinh thần trách
nhiệm. một người làm báo phải chính trực, khách quan, tôn trọng sự thật; luôn
trau dồi, rèn luyện kiến thức và nâng cao khả năng phê bình và tự phê bình.
f. Phân tích được thực tiễn hoạt động báo chí của nhà nước gắn với vấn đề
phápluật và đạo đức báo chí - truyền thông.
Môn học giúp sinh viên chúng em áp dụng những kiến thức vào các tình huống
thực tế để đánh giá và xem xét tình hình. Cùng với đó là phương pháp để phân tích
thông tin, thực tiễn tình hình hoạt động báo chí để áp dụng pháp luật đạo đức
ngành phù hợp. Tạo cơ hội ứng dụng cao vào các công việc, tác phẩm đang làm.
g. Có những kiến thứcbản về pháp luật và đạo đức báo chí - truyền thông để
5
tác nghiệp hiệu quả
Với việc học tập môn Pháp luật và đạo đức báo chí - truyền thông, sinh viên chúng
em đã được trang bị sẵn sàng những kiến thức bản về các quy định, quy tắc cần
của người làm nghề. Môn học giúp em tự tin hơn, quyết đoán hơn trong những
quyết định, việc làm của mình, tránh mắc phải những lỗi lầm không đáng
luôn giữ cho mình hoạt động hợp pháp.
h. Có thêm những kỹ năng cần thiết cho bản thân như kỹ năng học tập và nghiên
cứu, kỹ năng thực hành và phân tích, xử lý thông tin…
Việc tham gia vào các bài tập nhóm, các hoạt động báo chí - truyền thông, sản xuất
trong chương trình học đã tạo điều kiện thuận lợi cho em rèn luyện tích lũy
them những kỹ năng cần của người hoạt động trong nghề báo. Những kỹ năng
này thể làm giàu thêm về kiến thức chuyên ngành, nâng cao khả năng tự học,
thêm phần chủ động hơn trong việc đề xuất ý kiến và giải pháp.
i. Biết cách xử trí khi gặp các tình huống không mong muốn.
Trong quá trình học tập, sinh viên chúng em đã học hỏi được một số giải pháp,
cáchxử trí hiệu quả như việc xử tin đồn và thông tin sai lệch. Người làm báo
thể ápdụng các nguyên tắc về trách nhiệm pháp khi đối mặt với thông tin không
chínhxác, giúp duy trì chất lượng tin bài và độ tin cậy của nội dung.
j. Có khả năng bảo vệ quyền lợi cá nhân, bảo vệ nguồn tin
Hiểu biết rõ về pháp luật của ngành nghề giúp mỗi sinh viên bảo vệ được quyền lợi
của cá nhân và nguồn tin khi hoạt động trong lĩnh vực báo chí - truyền thông thông
qua các quyền như quyền riêng tư, quyền bảo vệ người tiêu thụ, trách nhiệm pháp
lý của người làm báo.
Thông qua việc học tập và nghiên cứu môn học Pháp luật và đạo đức báo chí -
truyền thông, sinh viên chúng em nói chung và cá nhân em nói riêng đều có được
những bài học, kinh nghiệm quý báu là hành trang cho con đường sự nghiệp sau
6
này. Từ những điều luật cơ bản hiện hành đến những quy định, tiêu chuẩn bắt buộc
phải tuân theo đã làm cho em hiểu thêm phần nào về công việc sau này của mình.
Và quan trọng hơn cả, môn học giúp em vững vàng hơn trong mọi quyết định, có
thêm niềm tin và đam mê với nghề. Môn học cũng mở ra nhiều cơ hội học hỏi mới
thông qua sự chỉ dạy của Giảng viên - TS Đinh Thị Xuân Hòa. Cô là giảng viên
nhiệt huyết, dày dặn kinh nghiệm và có khả năng tuyệt vời trong việc truyền cảm
hứng cho sinh viên. Em sẽ luôn ghi nhớ cách cô khen ngợi, động viên khi thấy em
viết chữ bằng bút máy. Những điều nhỏ như vậy đã khiến em thêm yêu môn học và
dành nhiều tâm huyết hơn trong các bài tập nhóm.
2. Một số đầu việc em đã làm trong các bài tập nhóm
a. Bài tập nhóm đầu tiên
Ở bài tập nhóm đầu tiên, nhóm em tìm hiểu về các bộ luật, đặc biệt là luật Quảng
cáo và Luật An ninh mạng. Em đã cùng các bạn tự đọc tài liệu, nghiên cứu và đề
xuất những bộ luật cần tìm hiểu sâu hơn sao cho phù hợp với ngành học mình đã
chọn. Cuối cùng, hai bộ luật em đề xuất đã được chọn.
Bên cạnh đó, em tham gia brainstorm ý tưởng trình bày bài tập. Em đã đề xuất ý
tưởng làm tiểu phẩm đi kèm yếu tố hài hước và được mọi người tán thành.
Về nội dung, em được phân công phân tích một số sai phạm liên quan đến luật
Quảng cáo. Em đã tìm tòi, nghiên cứu một số trường hợp điển hình vi phạm luật
Quảng cáo, xem những người đó vi phạm điều khoản nào, nguyên nhân do đâu, và
cách xử lý ra sao. Từ đó, em rút ra bài học cho cả bản thân và mọi người. Bên cạnh
đó, em cũng tìm hiểu và phát hiện những tồn tại, hạn chế của Luật Xuất bản. Đây
là một nhiệm vụ khó vì mỗi bộ luật trước khi ban hành đều được nghiên cứu, chỉnh
sửa kỹ lưỡng, không dễ để một sinh viên đại học có thể nhìn ra “lỗ hổng”. Tuy vậy,
do thời đại thay đổi, một số tồn tại đã dần hiện ra và nhờ sự nỗ lực tìm hiểu, đào
sâu tận gốc, em cũng đã phát hiện một số điều cần được sửa đổi ở Luật Xuất bản.
7
Cuối cùng, em cùng 3 bạn khác cùng nhau hoàn thành slides trình chiếu cho bài
thuyết trình. Em đã tự lọc nội dung sao cho ngắn gọn và phù hợp đưa lên trình
chiếu, sau đó thiết kế slides cho phù hợp với nội dung bài. Vì khối lượng bài lớn
nên việc thiết kế đòi hỏi nhiều thời gian và công sức. Tuy vậy, em đã hoàn thành
đúng thời hạn được giao.
b. Bài tập nhóm số hai
Bài tập nhóm tiếp theo là tìm hiểu 10 trường hợp cơ quan báo chí và 10 trường hợp
nhà báo vi phạm pháp luật báo chí – truyền thông. Trong bài tập này, em đã cùng
cả nhóm mỗi người tìm hiểu 1 trường hợp mỗi loại. Vì tránh trùng lặp, em đã tìm
rất nhiều trường hợp và lọc ra 2 trường hợp nổi bật nhất, vi phạm rõ rang và nhức
nhối nhất. Kế đó, em phân tích các trường hợp này theo các đầu mục, tự chắt lọc
nội dung để các bạn khác đưa vào slides.
c. Bài tập cuối môn
Ở bài tập cuối này, em làm việc trong nhóm 5 thành viên. Nhóm quyết định làm
một phóng sự ngắn liên quan đến vấn đề phân biệt vùng miền và vai trò của nhà
báo trong việc ngăn chặn, cải thiện thực trạng đó. Em đã cùng mọi người
brainstorm chủ đề khai thác, ý tưởng trình bày, sau đó tham gia tranh luận để tìm ra
ý tưởng phù hợp nhất.
Em đã đề xuất triển khai vấn đề thành phóng sự ngắn, trình bày dưới dạng video để
thầy cô có cái nhìn trực quan, sinh động hơn. Ý tưởng đều được mọi người trong
nhóm tán thành. Bên cạnh đó, em cũng tham gia họp đầy đủ, đóng góp ý kiến cho ý
tưởng được chọn để hoàn thiện nó trước khi bắt tay vào làm.
Sau đó, em tham gia tìm kiếm tài liệu, thiết kế bố cục nội dung và tìm hiểu nội
dung kỹ lưỡng cùng các thành viên khác. Từ đây, em có cái nhìn sâu rộng hơn về
vấn đề để có thể thiết kế các câu hỏi phỏng vấn dành cho các nhân vật sắp xuất
8
hiện trong phóng sự. Sau khi thiết kế câu hỏi, em tìm kiếm các đối tượng, tiến hành
phỏng vấn họ và quay video lại để ghép vào phóng sự.
Trong quá trình làm bài, có lúc hướng triển khai có vấn đề, em đã kịp thời phát
hiện và cảnh báo với mọi người trong nhóm, có hướng sửa chữa khác và được mọi
người tán thành. Khi đó, do không tìm được nhân vật chuyên gia nên em đã đưa ra
phương án dự phòng và tìm kiếm các đoạn ý kiến của chuyên gia trên TV và
internet sao cho phù hợp với nội dung bài để đưa vào.
Cuối cùng, em đã giúp đỡ bạn Quỳnh Hương trong quá trình cắt ghép, hiệu đính
video sao cho mượt mà và thu hút hơn.
9
3. Thuận lợi, khó khăn và bài học em có được
3.1. Thuận lợi
Trong quá trình học, em được giảng dạy bởi TS Đinh Thị Xuân Hòa, một bậc lão
làng trong lĩnh vực báo chí truyền thông nên những kiến thức dạy luôn sâu
sắc được làm phong phú hơn bởi trải nghiệm của trong nghề. Bên cạnh đó,
phong cách giảng bài nhẹ nhàng cuốn hút của cũng giúp cho giờ học thêm
thú vị. Sự dịu dàng bao dung với sinh viên của khiến cho môn sở ngành
bớt khô khan “đáng sợ” đi nhiều phần. Môn học tạo nhiều không gian mở cho
sinh viên thảo luận, học hỏi lẫn nhau, tự do đưa ra ý kiến riêng. Từ quá trình
làm việc nhóm đến lúc đưa ra các sản phẩm, nhân em nói riêng tập thể
nhóm, lớp nói chung đã được nhiều ý tưởng, kiến thức mới hữu ích cho quá
trình làm nghề sau này. Cô giáo cũng là người trực tiếp nhận xét, đưa ra nhiều góp
ý hữu ích cho chúng em trong quá trình học.
Trong khi làm bài tập nhóm, em cũng những thuận lợi nhất định. Trong giai
đoạn tìm kiếm đề tài và lên ý tưởng sơ bộ, em được tiếp cận đầy đủ với Internet
thiết bị riêng nên việc nghiên cứu, thu thập dữ liệu đã trở nên dễ dàng hơn.
Những kiến thức em học được từ bộ môn Pháp luật đạo đức báo chí truyền
thông và các môn cơ sở ngành khác đã giúp đỡ em rất nhiều trong việc tìm ra định
hướng nghiên cứu và tổng hợp dữ liệu thu thập được. Chủ đề mà nhóm chọn cũng
một chủ đề nhức nhối, nhiều “đất” để khai thác cũng như triển khai. Nhờ
thuận lợi trong trang thiết bị, em có thể tiếp cận với đề tài một cách dễ dàng, từ đó
có thể tìm kiếm nhiều tài liệu hơn phục vụ cho việc viết nội dung.
Các bạn trong nhóm đều cùng lớp nên chung mindset cách nói chuyện, khiến
cho quá trình làm việc không hề căng thẳng. Bên cạnh đó, các bạn cũng những
người nhiệt huyết, tinh thần cầu tiến, sẵn sàng giúp đỡ nhau trong mọi tình
huống khó khan nhằm hướng đến kết quả chung. Cuối cùng, kiến thức khả
năng tìm hiểu vấn đề của mọi người đều khá tốt nên nội dung ít phải sửa lại.
1
1
3.2. Khó khăn và cách em giải quyết một số khó khăn
Môn Pháp luật đạo đức báo chí truyền thông một môn học khá khó nhằn.
Các luật lệ liên quan đến pháp luật thường khá phức tạp khó hiểu đối với
những người không nền tảng pháp luật. Môn học cần nhiều thời gian công
sức nghiên cứu. Bởi khi tham gia học tập môn học này, để hiểu áp dụng được
đúng các điều luật, chúng em phải thực hành, nghiên cứu và dành nhiều thời gian,
công sức để nắm sử dụng đúng. Môn học cũng mang đến áp lực pháp
hình khi tham gia bất một dự án hay sản phẩm truyền thông nào, với mỗi khâu
thực hiện, em đều sẽ nghĩ đến những vấn đề pháp thể xảy đến tìm cách
khắc phục.
Em cũng gặp không ít khó khăn trong việc hoàn thiện bài tập nhóm. Đầu tiên,
phân biệt vùng miền một vấn đề nhức nhối song chưa nhiều bài báo, phóng
sự khai thác tới nó, nên quá trình tìm kiếm tài liệu khó khăn hơn bình thường. Em
đã giải quyết khó khăn bằng cách tự mình tìm hiểu thực trạng và cố gắng dựa vào
những kiến thức đã biết để phân tích vấn đề.
Thứ hai khó khăn trong việc tìm kiếm nhân vật chuyên gia để phỏng vấn. Do
đây là một đề tài khá nhạy cảm và khó đưa ra phát ngôn nên các nhân vật em liên
hệ xin phỏng vấn đều từ chối trả lời. Em đã khắc hục bằng cách tìm kiếm ý kiến
chuyên gia có sẵn trên mạng.
Cuối cùng là dạng video phóng sự là một hình thức thể hiện khá khó nhằn nên em
và các bạn phải bàn đi tính lại khá nhiều, vừa làm vừa cân đối nội dung để tối ưu
hóa video.
3.3. Những điều em đã học được trong quá trình làm bài tập kết thúc học
phần cũng như trong cả quá trình học
Em cần chủ động sắp xếp thời gian, dành nhiều thời gian nghiên cứu trải
nghiệm thực tế để hiểu hơn về các điều lệnh. Bên cạnh đó, em cũng cần va
chạm nhiều hơn với các tình huống thực tế để phát triển duy pháp lý. Em sẽ
1
luôn nhắc nhở, rèn luyện đạo đức cho bản thân để tuân thủ các nguyên tắc pháp lý
và đạo đức trong ngành báo chí – truyền thông.
Trong những lần làm bài tập sau, em sẽ quản thời gian tốt hơn, để hoàn thành
những công việc được giao trước hạn nộp nâng cao chất lượng công việc
hạn chế ảnh hưởng của các nhân tố khách quan, bất khả kháng. Muốn bài tập
nhóm đạt được chất lượng cao nhất thì các thành viên không chỉ hoàn thành phần
bài làm của mình còn phải xem xét, đánh giá, phản biện, góp ý cho tất cả các
phần, các khâu của bài tập nhóm.
4. Cơ sở khoa học và thực tiễn sửa đổi Luật Báo chí 2016
a. Sơ lược về Luật Báo chí 2016
Luật Báo chí 2016 với số hiệu 103/2016/QH13 được Quốc hội khóa XIII nước
Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua vào ngày 05/04/2016. Luật được
chủ tịch nước lệnh công bố ngày 19/04/2016 hiệu lực thi hành từ ngày
01/07/2017. Luật Báo chí 2016 quy định về quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận
trên báo chí của công dân, tổ chức và hoạt động báo chí, quyền và nghĩa vụ của cơ
quan, tổ chức, nhân tham gia liên quan đến hoạt động báo chí, quản
nhà nước về báo chí.
Luật báo chí năm 2016 gồm 6 chương với 61 điều, trong đó các điều đã được
sửa đổi, bổ sung từ Luật báo chí 1999. Luật báo chí 2016 những quy định
chung vềphạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng như sau:
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Luật này quy định về quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của
công dân; tổ chức hoạt động báo chí; quyền nghĩa vụ của quan, tổ chức,
cá nhân tham gia và liên quan đến hoạt động báo chí; quản lý nhà nước về báo
chí.
Điều 2. Đối tượng áp dụng
1
Luật này áp dụng đối với quan, tổ chức, nhân tham gia liên quan đến
hoạt động báo chí tại ớc Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam. Về việc triển
khai thi hành Luật, các quan quản của nhà nước về báo chí như trung ương,
địa phương, các bộ, ngành, cơ quan báo chí đã thực hiện nghiêm túc và đầy đủ các
quy định của Luật dưới sự giám sát chặt chẽ của các quan chức năng người
dân. Bên cạnh đó, Bộ Thông tin Truyền thông cùng các quan báo chí đã tổ
chức nhiều buổi huấn luyện, khóa đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ báo chí cho
cáclãnh đạo tại quan báo chí, nhà báo trong ngoài nước, tổ chức tập huấn
cho các phóng viên, nhà báo; đồng thời triển khai những dự án, mục tiêu đề ra
theo điều luật. Luật báo chí 2016 hiện hành được nhiều cơ quan báo chí, đoàn thể
đánh giá phù hợp với tình hình phát triển của đất nước hiện nay, tạo hành lang
pháp cần thiết để xây dựng nền báo chí tích cực, khách quan, trung thực, lành
mạnh, đáp ứng nhu cầu trao đổi thông tin, đổi mới hội nhập quốc tế. Luật đã
tạo điều kiện thuận lợi cho các nhân, nhà báo hoạt động đúng pháp luật, nâng
cao vị thế trách nhiệm hội,trách nhiệm của người làm báo. Cùng với việc
các nhà báo được hoạt động trong môi trường mới có tính pháp luật, nghiêm chỉnh
hơn càng phát huy tốt vai trò trách nhiệm của người làm báo tuân thủ đúng
theo quy định của Luật báo chí 2016.
b. Cơ sở khoa học và thực tiễn sửa đổi Luật Báo chí 2016
Theo Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông nhận xét sau 6 năm thi hành Luật
Báo chí 2016, trong bối cảnh phát triển nhanh chóng mạnh mẽ của khoa học
công nghệ, truyền thông hiện đại, một số quy định của Luật Báo chí đã bộc lộ
những bất cập, những nội dung chưa đáp ứng được thực tiễn của hoạt động báo
chí trong giai đoạn mới. Trước yêu cầu đó, Bộ Thông tin Truyền thông đã
Báo cáo số57/BC-BTTTT ngày 30/02/2022 báo cáo Chính phủ về kết quả nghiên
cứu, rà soát Luật Báo chí 2016 và kiến nghị sửa đổi, bổ sung những nội dung, quy
định còn bất cập, không phù hợp với thực tiễn.
1
Trong quá trình xem xét soát đã thấy một số do cấp thiết cần sửa đổi
thể kể đến như sau: Thứ nhất, yêu cầu trong công tác chỉ đạo, quản báo chí
đòi hỏi của hội về lĩnh vực báo chí ngày càng cao, bức thiết hơn. Thứ hai, sự
phát triển nhanh chóng của công nghệ và truyền thông đã làm cho hành lang pháp
lý về báo chípháp luậtliên quan chưa theo kịp với thực tế. Nhiều loại hình
truyền thông mới ra đời, nhiều hành vi mới phát sinh. Thứ ba, một số lãnh đạo
quan chủ quản, cơ quan báo chí, nhà báo, phóng viên không muốn hoàn toàn chịu
sự điều chỉnh của pháp luật về báo chí, lợi dụng kẽ hở,lách các quy định để hoạt
động báo chí với mục đích tiêu cực, không trong sáng.
Thực tiễn yêu cầu sửa đổi Luật Báo chí 2016 cũng xuất phát từ nhận diện những
khó khăn, thách thức của báo chí trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay. Trong
quá trình thực hiện Chiến lược Chuyển đổi số báo chí đến năm 2025, định hướng
đến năm 2030 nhằm góp phần "hiện đại hoá" nền báo chí, truyền thông theo đúng
tinh thần Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản
Việt Nam, các cơ quan báo chí được định hướng chuyển đổi số, trở thành công cụ
hữu hiệu, định hướng thông tin mạng, góp phần bảo vệ chủ quyền quốc gia về
thông tin trên không gian mạng. Nhưng bên cạnh đó còn nhiều điểm bất cập, hạn
chế cần được thay thế để không làm cản trở, lúng túng, khó khăn cho các đơn vị
báo chí. Thứ nhất, Luật Báo chí 2016 không quy định sự phân biệt hoặc lượng hóa
rõ rang giữa báo chí và tạp chí điện tử. Đây cũng là nguyên nhân khách quan. Với
sự phát triển nhanh chóng của công nghệ kỹ thuật số, ranh giới giữa "báo" và "tạp
chí" trên Internet đã trở nên rất mong manh, ngay cả những nhà báo giàu kinh
nghiệm đôi khi cũng khó có thể phân biệt được giữa chúng.
Thứ hai, trong việc biên tập, biên tập các bài báo, nhất trên báo điện tử, việc
biên tập tin, bài nhằm mục đích trục lợi tràn lan. Cần có những quy định và cơ chế
chặt chẽ để giải quyết vấn đề này. Cần áp dụng các biện pháp xử phạt cứng rắn
hơn nếu Luật Báo chí 2016 thay đổi. Thứ ba, Bộ Thông tin Truyền thông
các cơ quan liên quan phải đưa ra quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của nhà báo
1
tập thể, nhân khi tương tác trên mạng hội. Phải hỗ trợ công nghệ kiểm soát
thông tin trên mạng xã hội phát sinh từ các tác phẩm báo chí.
Thứ tư, trong bối cảnh việc kiểm soát các thông tin trên mạnghội rất khó thực
hiện như hiện nay thì cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, nâng cao trang thiết bị,
công nghệ để các quan báo chí chính thống đủ năng lực để cạnh tranh với
các cơ quan truyền thông trên thị trường. Đồng thời, cũng cần những quy định
riêng kết hợp với Luật An ninh mạng 2018 nhằm kiểm soát hiệu quả hơn nguồn
thông tin tràn lan hiện nay, tránh để công chúng gặp khó khăn khi tiếp cận thông
tin. Thứ năm, về hoạt động kinh doanh của quan báo chí, nên quy định theo
hướng mở rộng hoạt động kinh doanh khác theo quy định pháp luật của quan
báo chí chứ không chỉ hạn chế các lĩnh vực như Luật Báo chí hiện hành để tạo
điều kiện cho cơquan báo chí có nguồn thu phát triển hoạt động báo chí.
Hơn nữa, với xu hướng hội tụ công nghệ, truyền thông đa phương tiện, truyền dẫn
đa nền tảng đặc biệtsự nở rộ của các dạng thức truyền phát trên môi trường
Internet qua các trang web, dịch vụ OTT (dịch vụ truyền thông được cung cấp trực
tiếp đến người xem thông qua Internet) ngày càng phát triển. Những nền tảng mới
này lợi thế hơn các dạng hình khác, cho phép tương tác với người đọc, người
nghe, người xem tại thời điểm phát thực. Trong môi trường Internet “không biên
giới”, có những xu thế mới đặt ra nhiều vấn đề cho công tác quản lý báo chí. Với
sự phát triển liên tục của công nghệ kỹ thuật thì khó một hành lang pháp
nàocó thể bao quát trọn vẹn trong một thời gian hoạt động dài. Tuy nhiên, để quá
trình chuyển đổi số báo chí được diễn ra mạnh mẽ hơn, để thông tin phổ biến,
sức lan tỏa lớn hơn đến với công chúng hơn hết những sự phát triển cao cấp
hơn, đa dạng hóa nguồn thu… thì cần những quy định mới để đảm bảo mặt
bằng phát triển chung công bằng giữa báo chí với các loại hình truyền thông
khác. Đồng thời để thích ứng với những vấn đề phát triển mới cũng cần điều chỉnh
hợp lý những vấn đề phát sinh.
Đồng thời, trong thời gian qua, các đơn vị báo chí cũng gặp không ít khó khăn
trong việc quản dịch vụ cung cấp nội dung truyền hình bao gồm: phim truyện,
1
chương trình âm nhạc, chương trình truyền hình… theo yêu cầu trên Internet của
các doanh nghiệp nước ngoài thu phí như Netflix, Spotify, WeTV… cung cấp
xuyên biên giới vào lãnh thổ Việt Nam. Những hoạt động vi phạm điều khoản,
quy định của Việt Nam về quản lý báo chí đã được các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phát hiện kiênquyết xử phạt. Một số sai phạm thể kể đến như
ZingTV, Keeng Movies, Phimmoi… Nguyên nhân xuất phát từ các đơn vị chủ
quản không thực hiện đúng giấy phép, điều luật, cung cấp các dịch vụ không được
cơ quan báo chí có giấy phép hoạt động biên tập, kiểm duyệt trước khi công chiếu.
Trong khi đó, một số mạng xã hội có tính phí người xem thông qua hình thức như
nâng cấp thẻ thành viên để hưởng những ưu đãi tốt hơn lại bị một số đối tượng lợi
dụng quy định để trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về quản lý, cung cấp sử dụng
dịch vụ PTTH của Chính phủ Việt Nam. Mâu thuẫn xuất hiện ngày càng nhiều
chưa có dấu hiệu dừng lại. Nhìn từ những hạn chế còn tồn tại trên, việc hoàn thiện
hành lang pháp lý, xây dựng chế, chính sách khuyến khích phát triển các nền
tảng công nghệ số trong nước, phân phối nội dung thông tin báo chí cùng
cần thiết.
Cùng với đó, cần mở rộng quan truyền thông chủ lực đa phương tiện, tổ hợp
báo chí - truyền thông, báo chí trên nền tảng số. cần xây dựng công cụ, nền tảng
thu thập, xửdữ liệu, đánh giá, dự báo, phản ánh chất lượng báo chí. Các chỉ số
đánh giá truyền thông hội, lấy ý kiến đóng góp từ khán giả dựa trên tác động
của các nội dung thông tin trên không gian mạng từ các báo nhằm bảo đảm tính
khách quan, trung thực phục vụ công tác quản báo chí cũng cần được nghiên
cứu, đầu tư cho phù hợp. Luật Báo chí 2016 nếu được sửa đổi cũng cần đề cập về
những vấn đề đang được sự quan tâm ở cấp độ toàn cầu như: sở hữu trí tuệ, vấn đề
dữ liệu độc giả, vấn đề quyền trải nghiệm của người sử dụng.Hơn nữa, để tránh
“báo hóa” từ tạp chí điện tử, trang thông tin điện tử, cần thiết lập thêm quy định
cho các hiệp hội nhà báo, quan thông tấn trong ngành, đồng thời vạch ranh
giới làm rõ, đẩy mạnh giáo dục, đào tạo chính trị, tưởng, nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ báo chí.
1
Ngoài quy định về nhà báo phóng viên thường trú, cần bổ sung quy định chặt
chẽ về văn phòng đại diện, về nhiệm vụ, quyền hạn của cộng tác viên ở văn phòng
đại diện các địa phương để tránh những kẽ hở trong phối hợp với địa phương
trong thu nhận, cung cấp thông tin. Luật cần quy định chặt chẽ việc tuyển dụng
phóng viên của các quan báo chí về nhận thức về chính trị, trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ báo chí, ngoại ngữ, tin học để nâng cao chất lượng, hạn chế những
sai sót của phóng viên. Cần quy định hoạt động của các đối tượng đang thực hiện
nghiệp vụ phóng viên trong quan báo chí dưới 2 năm, chưa đủ điều kiện cấp
thẻ nhà báo… Bên cạnh đó, cần những quy định cụ thể trong ứng dụng công
nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) trong hoạt động báo chí để góp phần định hướng truyền
thông trên môi trường số, đồng thời ngăn chặn những tiêu cực thể nảy sinh từ
xu hướng đang phát triển mạnh mẽ này.
c. Đề xuất cá nhân trong việc sửa đổi Luật Báo chí 2016
Trong không gian phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của công nghệ thông tin, kỹ
thuật số, nhu cầu tìm hiểu thông tin, sử dụng mạng hội các cách tiếp nhận
thông tin của công chúng ngày một nhiều. Để đáp ứng được nhu cầu đó, việc tăng
cường quyền tự do ngôn luận trong Luật Báo chí 2016 cần được sửa đổi đẩy
mạnh hơn.Tự do ngôn luậnquyền lợi cơ bản và quan trọng trong nền tự do dân
chủ, cho phépmọi người tự do biểu đạt ý kiến, suy nghĩ và truyền đạt thông tin mà
không bị sự canthiệp hay hạn chế từ phía chính phủ, tổ chức hoặc các nhân
khác. Việc tăng cường tự do ngôn luận rõ ràng hơn trong các điều luật sẽ đảm bảo
được việc người làm báo có quyền tự do trong việc thu thập, xuất bản và phổ biến
thông tin. Việc đó thể đem đến nhiều nguồn tin hay hơn, chính xác hơn khi
cùng phối hợp với các biện pháp bảo vệ nguồn tin của nhà báo.
1
1
| 1/20

Preview text:

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
VIỆN BÁO CHÍ – TRUYỀN THÔNG ======***====== BÁO CÁO CÁ NHÂN
MÔN: PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC
BÁO CHÍ – TRUYỀN THÔNG
Giảng viên hướng dẫn
: TS. Đinh Thị Xuân Hòa
Sinh viên thực hiện
: Nguyễn Thị Phương Linh Lớp hành chính
: Quan hệ công chúng K42 Mã sinh viên : 2256150030 Hà Nội, 2024 LỜI CẢM ƠN
Kính gửi Giảng viên hướng dẫn môn học Pháp luật và đạo đức báo chí - truyền
thông - TS Đinh Thị Xuân Hòa (Phó Trưởng Viện Báo chí - Truyền thông, Học
viện Báo chí và Tuyên truyền).
Em xin gửi đến quý giảng viên bản báo cáo cá nhân về môn học Pháp luật và
đạo đức Báo chí - Truyền thông mà em đã tham gia học tập trong học kỳ vừa qua.
Môn học này không chỉ mang lại cho em nhiều kiến thức, có thêm hiểu biết sâu
rộng về ngành nghề mà còn đem đến cho em những triết lý, giúp em lĩnh hội được
nhiều điều về mặt đạo đức, pháp luật của người làm nghề Báo chí - Truyền thông.
Trong báo cáo này, em xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô cùng những chia sẻ
về nhận định cá nhân của em trong quá trình học tập ở môn học này.
Thông qua môn học Pháp luật và đạo đức Báo chí - Truyền thông, em đã học
được những kiến thức căn bản về ngành Báo chí - Truyền thông, những tiêu
chuẩn, nguyên tắc, đạo đức của người làm nghề. Bên cạnh vấn đề đạo đức, nhân
cách thì các bộ luật, điều luật, quy định đã được cô truyền tải, giảng giải đầy đủ và
dễ hiểu thông qua nhiều bài giảng, ví dụ và các buổi làm việc nhóm. Cùng với
việc tìm hiểu mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực báo chí,
truyền thông, em không chỉ được học hỏi từ giáo trình, sách vở mà còn được biết
thêm nhiều điều từ cô và các bạn cùng lớp. Sinh viên chúng em được trang bị đầy
đủ các kĩ năng như phân tích tình huống, đánh giá đúng bản chất các sự kiện, hành
vi xã hội, các quy tắc đạo đức, hiểu được trách nhiệm của truyền thông, báo chí
đối với xã hội, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của cá nhân và quyền sở hữu
trí tuệ. Cùng với việc chúng em luôn được cô ủng hộ, khuyến khích tìm tòi các
thông tin bên ngoài, đặt câu hỏi trên cơ sở khám phá, tiếp nhận thông tin mới.
Dưới sự chỉ dẫn của Giảng viên - TS Đinh Thị Xuân Hòa, môn học này không
chỉ có những lý thuyết căn bản mà chúng em còn được vận dụng và thực hành nó
vào các trường hợp thực tế đã và đang diễn ra trong cuộc sống để có cái nhìn
khách quan, nhiều chiều hơn. Bộ môn đem đến cho mỗi cá nhân một cách nhìn, 1
cách xử trí khác nhau, sâu sắc hơn, đúng đắn hơn và đem lại nhiều trải nghiệm
hơn cho mỗi người. Trong báo cáo này, em xin trình bày những điều đã học được,
những trải nghiệm của cá nhân em trong quá trình học tập môn học Pháp luật và
Đạo đức Báo chí - Truyền thông. Em hy vọng qua bản báo cáo này, quý giảng
viên sẽ có cái nhìn toàn diện, bao quát và biết được về những gì em đã học được
cùng những ảnh hưởng mà cô và môn học đã đem đến cho em.
Mặc dù đã có những đầu tư nhất định trong quá trình làm bài, song những sai
sót là khó tránh khỏi, em mong nhận được góp ý của quý thầy cô để bài tập lớn
của chúng em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Phương Linh 2
NỘI DUNG BÀI BÁO CÁO
1. Những điều rút ra được từ môn học để ứng dụng vào đời sống, nghề nghiệp
Trong thời gian tham gia học tập, nghiên cứu môn Pháp luật và đạo đức Báo chí -
Truyền thông, em cảm nhận rõ đây là môn học mang đến cho sinh viên chúng em
những góc nhìn đa chiều không chỉ về ngành học, cuộc sống mà còn truyền tải
những nội dung quan trọng về pháp luật, đạo đức ngành nghề và các vấn đề liên
quan đến lĩnh vực báo chí - truyền thông. Bộ môn đã đem đến những kiến thức
thông quanhững nội dung như sau:
a. Hiểu được vai trò của pháp luật về Báo chí - Truyền thông; vai trò của tư duy
pháp lý đối với nhà báo
Môn học giúp em hiểu biết về các quy định do Đảng, Nhà nước ban hành, vừa thể
hiện quyền lực Nhà nước trong lĩnh vực báo chí, vừa đảm bảo quyền bình đẳng
cho công dân trong việc thực hiện quyền về báo chí. Pháp luật và báo chí luôn
song hành, có mối quan hệ ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Sinh viên học tập bộ môn
sẽ phát triển kỹ năng tư duy pháp lý qua đó có thể ứng dụng được trong cuộc
sống, học tập và làm việc.
b. Hiểu rõ cơ bản về pháp luật trong báo chí và truyền thông.
Sinh viên chúng em có thể nắm bắt được các nguyên tắc cơ bản và các vấn đề
pháp lý phổ biến như quyền tự do ngôn luận, quyền bảo vệ nguồn tin, quyền riêng
tư… Điều này giúp mỗi cá nhân có cách ứng xử phù hợp, hiểu về quyền lợi của
mình để tránh rơi vào các tình huống pháp lý không mong muốn.
c. Nắm được một số chủ trương mới của Đảng, quy định pháp luật nhà nước về
báo chí - truyền thông; những vấn đề cơ bản của pháp luật trong hoạt động
báo chí - truyền thông.
Sinh viên được tiếp cận với những điều luật mới nhất, có tính cập nhật nhanh.
Hiểu và biết rõ những quy định hiện hành của pháp luật về lĩnh vực báo chí -
truyền thông để không sai phạm, mắc lỗi và biết cách giải quyết các vấn đề cần 3 thiết.
d. Hiểu được tầm quan trọng của đạo đức nghề báo; các quy tắc đạo đức nghề
báo trên thế giới và Việt Nam.
Môn học giúp sinh viên hiểu biết được những quy tắc ứng xử, chuẩn mực quy
định về thái độ của nhà báo trong các mối quan hệ xã hội. Những quy tắc ấy có
vai trò quan trọng đối với mỗi người làm nghề báo để luôn biết giữ mình, liêm
chính và luôn làm điều đúng đắn. Đạo đức nghề báo không chỉ có ở Việt Nam mà
là toàn thế giới. Môn học đào tạo, giáo dục mỗi người làm báo dù ở bất kì nơi đâu
cũng phải giữ cho mình lý trí vững vàng, luôn tôn trọng sự thật và lẽ phải, đề cao
tinh thần trách nhiệm xã hộivà luôn giữ cái nhìn khách quan, trung thực trước mỗi sự việc.
e. Hiểu được quan điểm của Đảng, nhà nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức nghề báo.
Môn học giúp em nắm rõ những quan điểm về đạo đức nghề báo mà Đảng, nhà
nước và tư tưởng Hồ Chí Minh đề ra như: đạo đức nghề báo là cái gốc của nhà báo;
ngườilàm báo phải có lập trường chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với
Đảng và nhân dân; luôn gắn bó và phục vụ nhân dân; luôn nâng cao tinh thần trách
nhiệm. Là một người làm báo phải chính trực, khách quan, tôn trọng sự thật; luôn
trau dồi, rèn luyện kiến thức và nâng cao khả năng phê bình và tự phê bình.
f. Phân tích được thực tiễn hoạt động báo chí của nhà nước gắn với vấn đề
phápluật và đạo đức báo chí - truyền thông.
Môn học giúp sinh viên chúng em áp dụng những kiến thức vào các tình huống
thực tế để đánh giá và xem xét tình hình. Cùng với đó là phương pháp để phân tích
thông tin, thực tiễn tình hình hoạt động báo chí để áp dụng pháp luật và đạo đức
ngành phù hợp. Tạo cơ hội ứng dụng cao vào các công việc, tác phẩm đang làm.
g. Có những kiến thức cơ bản về pháp luật và đạo đức báo chí - truyền thông để 4
tác nghiệp hiệu quả
Với việc học tập môn Pháp luật và đạo đức báo chí - truyền thông, sinh viên chúng
em đã được trang bị sẵn sàng những kiến thức cơ bản về các quy định, quy tắc cần
có của người làm nghề. Môn học giúp em tự tin hơn, quyết đoán hơn trong những
quyết định, việc làm của mình, tránh mắc phải những lỗi lầm không đáng có và
luôn giữ cho mình hoạt động hợp pháp.
h. Có thêm những kỹ năng cần thiết cho bản thân như kỹ năng học tập và nghiên
cứu, kỹ năng thực hành và phân tích, xử lý thông tin…
Việc tham gia vào các bài tập nhóm, các hoạt động báo chí - truyền thông, sản xuất
trong chương trình học đã tạo điều kiện thuận lợi cho em rèn luyện và tích lũy
them những kỹ năng cần có của người hoạt động trong nghề báo. Những kỹ năng
này có thể làm giàu thêm về kiến thức chuyên ngành, nâng cao khả năng tự học,
thêm phần chủ động hơn trong việc đề xuất ý kiến và giải pháp.
i. Biết cách xử trí khi gặp các tình huống không mong muốn.
Trong quá trình học tập, sinh viên chúng em đã học hỏi được một số giải pháp,
cáchxử trí hiệu quả như việc xử lý tin đồn và thông tin sai lệch. Người làm báo có
thể ápdụng các nguyên tắc về trách nhiệm pháp lý khi đối mặt với thông tin không
chínhxác, giúp duy trì chất lượng tin bài và độ tin cậy của nội dung.
j. Có khả năng bảo vệ quyền lợi cá nhân, bảo vệ nguồn tin
Hiểu biết rõ về pháp luật của ngành nghề giúp mỗi sinh viên bảo vệ được quyền lợi
của cá nhân và nguồn tin khi hoạt động trong lĩnh vực báo chí - truyền thông thông
qua các quyền như quyền riêng tư, quyền bảo vệ người tiêu thụ, trách nhiệm pháp lý của người làm báo.
Thông qua việc học tập và nghiên cứu môn học Pháp luật và đạo đức báo chí -
truyền thông, sinh viên chúng em nói chung và cá nhân em nói riêng đều có được
những bài học, kinh nghiệm quý báu là hành trang cho con đường sự nghiệp sau 5
này. Từ những điều luật cơ bản hiện hành đến những quy định, tiêu chuẩn bắt buộc
phải tuân theo đã làm cho em hiểu thêm phần nào về công việc sau này của mình.
Và quan trọng hơn cả, môn học giúp em vững vàng hơn trong mọi quyết định, có
thêm niềm tin và đam mê với nghề. Môn học cũng mở ra nhiều cơ hội học hỏi mới
thông qua sự chỉ dạy của Giảng viên - TS Đinh Thị Xuân Hòa. Cô là giảng viên
nhiệt huyết, dày dặn kinh nghiệm và có khả năng tuyệt vời trong việc truyền cảm
hứng cho sinh viên. Em sẽ luôn ghi nhớ cách cô khen ngợi, động viên khi thấy em
viết chữ bằng bút máy. Những điều nhỏ như vậy đã khiến em thêm yêu môn học và
dành nhiều tâm huyết hơn trong các bài tập nhóm.
2. Một số đầu việc em đã làm trong các bài tập nhóm
a. Bài tập nhóm đầu tiên
Ở bài tập nhóm đầu tiên, nhóm em tìm hiểu về các bộ luật, đặc biệt là luật Quảng
cáo và Luật An ninh mạng. Em đã cùng các bạn tự đọc tài liệu, nghiên cứu và đề
xuất những bộ luật cần tìm hiểu sâu hơn sao cho phù hợp với ngành học mình đã
chọn. Cuối cùng, hai bộ luật em đề xuất đã được chọn.
Bên cạnh đó, em tham gia brainstorm ý tưởng trình bày bài tập. Em đã đề xuất ý
tưởng làm tiểu phẩm đi kèm yếu tố hài hước và được mọi người tán thành.
Về nội dung, em được phân công phân tích một số sai phạm liên quan đến luật
Quảng cáo. Em đã tìm tòi, nghiên cứu một số trường hợp điển hình vi phạm luật
Quảng cáo, xem những người đó vi phạm điều khoản nào, nguyên nhân do đâu, và
cách xử lý ra sao. Từ đó, em rút ra bài học cho cả bản thân và mọi người. Bên cạnh
đó, em cũng tìm hiểu và phát hiện những tồn tại, hạn chế của Luật Xuất bản. Đây
là một nhiệm vụ khó vì mỗi bộ luật trước khi ban hành đều được nghiên cứu, chỉnh
sửa kỹ lưỡng, không dễ để một sinh viên đại học có thể nhìn ra “lỗ hổng”. Tuy vậy,
do thời đại thay đổi, một số tồn tại đã dần hiện ra và nhờ sự nỗ lực tìm hiểu, đào
sâu tận gốc, em cũng đã phát hiện một số điều cần được sửa đổi ở Luật Xuất bản. 6
Cuối cùng, em cùng 3 bạn khác cùng nhau hoàn thành slides trình chiếu cho bài
thuyết trình. Em đã tự lọc nội dung sao cho ngắn gọn và phù hợp đưa lên trình
chiếu, sau đó thiết kế slides cho phù hợp với nội dung bài. Vì khối lượng bài lớn
nên việc thiết kế đòi hỏi nhiều thời gian và công sức. Tuy vậy, em đã hoàn thành
đúng thời hạn được giao.
b. Bài tập nhóm số hai
Bài tập nhóm tiếp theo là tìm hiểu 10 trường hợp cơ quan báo chí và 10 trường hợp
nhà báo vi phạm pháp luật báo chí – truyền thông. Trong bài tập này, em đã cùng
cả nhóm mỗi người tìm hiểu 1 trường hợp mỗi loại. Vì tránh trùng lặp, em đã tìm
rất nhiều trường hợp và lọc ra 2 trường hợp nổi bật nhất, vi phạm rõ rang và nhức
nhối nhất. Kế đó, em phân tích các trường hợp này theo các đầu mục, tự chắt lọc
nội dung để các bạn khác đưa vào slides.
c. Bài tập cuối môn
Ở bài tập cuối này, em làm việc trong nhóm 5 thành viên. Nhóm quyết định làm
một phóng sự ngắn liên quan đến vấn đề phân biệt vùng miền và vai trò của nhà
báo trong việc ngăn chặn, cải thiện thực trạng đó. Em đã cùng mọi người
brainstorm chủ đề khai thác, ý tưởng trình bày, sau đó tham gia tranh luận để tìm ra ý tưởng phù hợp nhất.
Em đã đề xuất triển khai vấn đề thành phóng sự ngắn, trình bày dưới dạng video để
thầy cô có cái nhìn trực quan, sinh động hơn. Ý tưởng đều được mọi người trong
nhóm tán thành. Bên cạnh đó, em cũng tham gia họp đầy đủ, đóng góp ý kiến cho ý
tưởng được chọn để hoàn thiện nó trước khi bắt tay vào làm.
Sau đó, em tham gia tìm kiếm tài liệu, thiết kế bố cục nội dung và tìm hiểu nội
dung kỹ lưỡng cùng các thành viên khác. Từ đây, em có cái nhìn sâu rộng hơn về
vấn đề để có thể thiết kế các câu hỏi phỏng vấn dành cho các nhân vật sắp xuất 7
hiện trong phóng sự. Sau khi thiết kế câu hỏi, em tìm kiếm các đối tượng, tiến hành
phỏng vấn họ và quay video lại để ghép vào phóng sự.
Trong quá trình làm bài, có lúc hướng triển khai có vấn đề, em đã kịp thời phát
hiện và cảnh báo với mọi người trong nhóm, có hướng sửa chữa khác và được mọi
người tán thành. Khi đó, do không tìm được nhân vật chuyên gia nên em đã đưa ra
phương án dự phòng và tìm kiếm các đoạn ý kiến của chuyên gia trên TV và
internet sao cho phù hợp với nội dung bài để đưa vào.
Cuối cùng, em đã giúp đỡ bạn Quỳnh Hương trong quá trình cắt ghép, hiệu đính
video sao cho mượt mà và thu hút hơn. 8
3. Thuận lợi, khó khăn và bài học em có được
3.1. Thuận lợi
Trong quá trình học, em được giảng dạy bởi TS Đinh Thị Xuân Hòa, một bậc lão
làng trong lĩnh vực báo chí – truyền thông nên những kiến thức cô dạy luôn sâu
sắc và được làm phong phú hơn bởi trải nghiệm của cô trong nghề. Bên cạnh đó,
phong cách giảng bài nhẹ nhàng và cuốn hút của cô cũng giúp cho giờ học thêm
thú vị. Sự dịu dàng và bao dung với sinh viên của cô khiến cho môn cơ sở ngành
bớt khô khan và “đáng sợ” đi nhiều phần. Môn học tạo nhiều không gian mở cho
sinh viên thảo luận, học hỏi lẫn nhau, và tự do đưa ra ý kiến riêng. Từ quá trình
làm việc nhóm đến lúc đưa ra các sản phẩm, cá nhân em nói riêng và tập thể
nhóm, lớp nói chung đã có được nhiều ý tưởng, kiến thức mới hữu ích cho quá
trình làm nghề sau này. Cô giáo cũng là người trực tiếp nhận xét, đưa ra nhiều góp
ý hữu ích cho chúng em trong quá trình học.
Trong khi làm bài tập nhóm, em cũng có những thuận lợi nhất định. Trong giai
đoạn tìm kiếm đề tài và lên ý tưởng sơ bộ, em được tiếp cận đầy đủ với Internet và
có thiết bị riêng nên việc nghiên cứu, thu thập dữ liệu đã trở nên dễ dàng hơn.
Những kiến thức em học được từ bộ môn Pháp luật và đạo đức báo chí – truyền
thông và các môn cơ sở ngành khác đã giúp đỡ em rất nhiều trong việc tìm ra định
hướng nghiên cứu và tổng hợp dữ liệu thu thập được. Chủ đề mà nhóm chọn cũng
là một chủ đề nhức nhối, có nhiều “đất” để khai thác cũng như triển khai. Nhờ
thuận lợi trong trang thiết bị, em có thể tiếp cận với đề tài một cách dễ dàng, từ đó
có thể tìm kiếm nhiều tài liệu hơn phục vụ cho việc viết nội dung.
Các bạn trong nhóm đều cùng lớp nên chung mindset và cách nói chuyện, khiến
cho quá trình làm việc không hề căng thẳng. Bên cạnh đó, các bạn cũng là những
người nhiệt huyết, có tinh thần cầu tiến, sẵn sàng giúp đỡ nhau trong mọi tình
huống khó khan nhằm hướng đến kết quả chung. Cuối cùng, kiến thức và khả
năng tìm hiểu vấn đề của mọi người đều khá tốt nên nội dung ít phải sửa lại. 9 1
3.2. Khó khăn và cách em giải quyết một số khó khăn
Môn Pháp luật và đạo đức báo chí – truyền thông là một môn học khá khó nhằn.
Các luật lệ liên quan đến pháp luật thường khá phức tạp và khó hiểu đối với
những người không có nền tảng pháp luật. Môn học cần nhiều thời gian và công
sức nghiên cứu. Bởi khi tham gia học tập môn học này, để hiểu và áp dụng được
đúng các điều luật, chúng em phải thực hành, nghiên cứu và dành nhiều thời gian,
công sức để nắm rõ và sử dụng đúng. Môn học cũng mang đến áp lực pháp lý vô
hình khi tham gia bất kì một dự án hay sản phẩm truyền thông nào, với mỗi khâu
thực hiện, em đều sẽ nghĩ đến những vấn đề pháp lý có thể xảy đến và tìm cách khắc phục.
Em cũng gặp không ít khó khăn trong việc hoàn thiện bài tập nhóm. Đầu tiên,
phân biệt vùng miền là một vấn đề nhức nhối song chưa có nhiều bài báo, phóng
sự khai thác tới nó, nên quá trình tìm kiếm tài liệu khó khăn hơn bình thường. Em
đã giải quyết khó khăn bằng cách tự mình tìm hiểu thực trạng và cố gắng dựa vào
những kiến thức đã biết để phân tích vấn đề.
Thứ hai là khó khăn trong việc tìm kiếm nhân vật chuyên gia để phỏng vấn. Do
đây là một đề tài khá nhạy cảm và khó đưa ra phát ngôn nên các nhân vật em liên
hệ xin phỏng vấn đều từ chối trả lời. Em đã khắc hục bằng cách tìm kiếm ý kiến
chuyên gia có sẵn trên mạng.
Cuối cùng là dạng video phóng sự là một hình thức thể hiện khá khó nhằn nên em
và các bạn phải bàn đi tính lại khá nhiều, vừa làm vừa cân đối nội dung để tối ưu hóa video.
3.3. Những điều em đã học được trong quá trình làm bài tập kết thúc học
phần cũng như trong cả quá trình học
Em cần chủ động sắp xếp thời gian, dành nhiều thời gian nghiên cứu và trải
nghiệm thực tế để hiểu rõ hơn về các điều lệnh. Bên cạnh đó, em cũng cần va
chạm nhiều hơn với các tình huống thực tế để phát triển tư duy pháp lý. Em sẽ 1
luôn nhắc nhở, rèn luyện đạo đức cho bản thân để tuân thủ các nguyên tắc pháp lý
và đạo đức trong ngành báo chí – truyền thông.
Trong những lần làm bài tập sau, em sẽ quản lý thời gian tốt hơn, để hoàn thành
những công việc được giao trước hạn nộp và nâng cao chất lượng công việc và
hạn chế ảnh hưởng của các nhân tố khách quan, bất khả kháng. Muốn bài tập
nhóm đạt được chất lượng cao nhất thì các thành viên không chỉ hoàn thành phần
bài làm của mình mà còn phải xem xét, đánh giá, phản biện, góp ý cho tất cả các
phần, các khâu của bài tập nhóm.
4. Cơ sở khoa học và thực tiễn sửa đổi Luật Báo chí 2016
a. Sơ lược về Luật Báo chí 2016
Luật Báo chí 2016 với số hiệu 103/2016/QH13 được Quốc hội khóa XIII nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua vào ngày 05/04/2016. Luật được
chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 19/04/2016 và có hiệu lực thi hành từ ngày
01/07/2017. Luật Báo chí 2016 quy định về quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận
trên báo chí của công dân, tổ chức và hoạt động báo chí, quyền và nghĩa vụ của cơ
quan, tổ chức, cá nhân tham gia và có liên quan đến hoạt động báo chí, quản lý nhà nước về báo chí.
Luật báo chí năm 2016 gồm 6 chương với 61 điều, trong đó có các điều đã được
sửa đổi, bổ sung từ Luật báo chí 1999. Luật báo chí 2016 có những quy định
chung vềphạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng như sau:
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Luật này quy định về quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của
công dân; tổ chức và hoạt động báo chí; quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức,
cá nhân tham gia và có liên quan đến hoạt động báo chí; quản lý nhà nước về báo chí.
Điều 2. Đối tượng áp dụng 1
Luật này áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia và có liên quan đến
hoạt động báo chí tại nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Về việc triển
khai thi hành Luật, các cơ quan quản lý của nhà nước về báo chí như trung ương,
địa phương, các bộ, ngành, cơ quan báo chí đã thực hiện nghiêm túc và đầy đủ các
quy định của Luật dưới sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan chức năng và người
dân. Bên cạnh đó, Bộ Thông tin và Truyền thông cùng các cơ quan báo chí đã tổ
chức nhiều buổi huấn luyện, khóa đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ báo chí cho
cáclãnh đạo tại cơ quan báo chí, nhà báo trong và ngoài nước, tổ chức tập huấn
cho các phóng viên, nhà báo; đồng thời triển khai những dự án, mục tiêu đề ra
theo điều luật. Luật báo chí 2016 hiện hành được nhiều cơ quan báo chí, đoàn thể
đánh giá là phù hợp với tình hình phát triển của đất nước hiện nay, tạo hành lang
pháp lý cần thiết để xây dựng nền báo chí tích cực, khách quan, trung thực, lành
mạnh, đáp ứng nhu cầu trao đổi thông tin, đổi mới và hội nhập quốc tế. Luật đã
tạo điều kiện thuận lợi cho các cá nhân, nhà báo hoạt động đúng pháp luật, nâng
cao vị thế và trách nhiệm xã hội,trách nhiệm của người làm báo. Cùng với việc
các nhà báo được hoạt động trong môi trường mới có tính pháp luật, nghiêm chỉnh
hơn càng phát huy tốt vai trò và trách nhiệm của người làm báo tuân thủ đúng
theo quy định của Luật báo chí 2016.
b. Cơ sở khoa học và thực tiễn sửa đổi Luật Báo chí 2016
Theo Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông nhận xét sau 6 năm thi hành Luật
Báo chí 2016, trong bối cảnh phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của khoa học
công nghệ, truyền thông hiện đại, một số quy định của Luật Báo chí đã bộc lộ
những bất cập, những nội dung chưa đáp ứng được thực tiễn của hoạt động báo
chí trong giai đoạn mới. Trước yêu cầu đó, Bộ Thông tin và Truyền thông đã có
Báo cáo số57/BC-BTTTT ngày 30/02/2022 báo cáo Chính phủ về kết quả nghiên
cứu, rà soát Luật Báo chí 2016 và kiến nghị sửa đổi, bổ sung những nội dung, quy
định còn bất cập, không phù hợp với thực tiễn. 1
Trong quá trình xem xét và rà soát đã thấy một số lý do cấp thiết cần sửa đổi có
thể kể đến như sau: Thứ nhất, yêu cầu trong công tác chỉ đạo, quản lý báo chí và
đòi hỏi của xã hội về lĩnh vực báo chí ngày càng cao, bức thiết hơn. Thứ hai, sự
phát triển nhanh chóng của công nghệ và truyền thông đã làm cho hành lang pháp
lý về báo chí và pháp luật có liên quan chưa theo kịp với thực tế. Nhiều loại hình
truyền thông mới ra đời, nhiều hành vi mới phát sinh. Thứ ba, một số lãnh đạo cơ
quan chủ quản, cơ quan báo chí, nhà báo, phóng viên không muốn hoàn toàn chịu
sự điều chỉnh của pháp luật về báo chí, lợi dụng kẽ hở,lách các quy định để hoạt
động báo chí với mục đích tiêu cực, không trong sáng.
Thực tiễn yêu cầu sửa đổi Luật Báo chí 2016 cũng xuất phát từ nhận diện những
khó khăn, thách thức của báo chí trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay. Trong
quá trình thực hiện Chiến lược Chuyển đổi số báo chí đến năm 2025, định hướng
đến năm 2030 nhằm góp phần "hiện đại hoá" nền báo chí, truyền thông theo đúng
tinh thần Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản
Việt Nam, các cơ quan báo chí được định hướng chuyển đổi số, trở thành công cụ
hữu hiệu, định hướng thông tin mạng, góp phần bảo vệ chủ quyền quốc gia về
thông tin trên không gian mạng. Nhưng bên cạnh đó còn nhiều điểm bất cập, hạn
chế cần được thay thế để không làm cản trở, lúng túng, khó khăn cho các đơn vị
báo chí. Thứ nhất, Luật Báo chí 2016 không quy định sự phân biệt hoặc lượng hóa
rõ rang giữa báo chí và tạp chí điện tử. Đây cũng là nguyên nhân khách quan. Với
sự phát triển nhanh chóng của công nghệ kỹ thuật số, ranh giới giữa "báo" và "tạp
chí" trên Internet đã trở nên rất mong manh, ngay cả những nhà báo giàu kinh
nghiệm đôi khi cũng khó có thể phân biệt được giữa chúng.
Thứ hai, trong việc biên tập, biên tập các bài báo, nhất là trên báo điện tử, việc
biên tập tin, bài nhằm mục đích trục lợi tràn lan. Cần có những quy định và cơ chế
chặt chẽ để giải quyết vấn đề này. Cần áp dụng các biện pháp xử phạt cứng rắn
hơn nếu Luật Báo chí 2016 thay đổi. Thứ ba, Bộ Thông tin và Truyền thông và
các cơ quan liên quan phải đưa ra quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của nhà báo 1
tập thể, cá nhân khi tương tác trên mạng xã hội. Phải hỗ trợ công nghệ kiểm soát
thông tin trên mạng xã hội phát sinh từ các tác phẩm báo chí.
Thứ tư, trong bối cảnh việc kiểm soát các thông tin trên mạng xã hội rất khó thực
hiện như hiện nay thì cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, nâng cao trang thiết bị,
công nghệ để các cơ quan báo chí chính thống có đủ năng lực để cạnh tranh với
các cơ quan truyền thông trên thị trường. Đồng thời, cũng cần có những quy định
riêng kết hợp với Luật An ninh mạng 2018 nhằm kiểm soát hiệu quả hơn nguồn
thông tin tràn lan hiện nay, tránh để công chúng gặp khó khăn khi tiếp cận thông
tin. Thứ năm, về hoạt động kinh doanh của cơ quan báo chí, nên quy định theo
hướng mở rộng hoạt động kinh doanh khác theo quy định pháp luật của cơ quan
báo chí chứ không chỉ hạn chế các lĩnh vực như Luật Báo chí hiện hành để tạo
điều kiện cho cơquan báo chí có nguồn thu phát triển hoạt động báo chí.
Hơn nữa, với xu hướng hội tụ công nghệ, truyền thông đa phương tiện, truyền dẫn
đa nền tảng và đặc biệt là sự nở rộ của các dạng thức truyền phát trên môi trường
Internet qua các trang web, dịch vụ OTT (dịch vụ truyền thông được cung cấp trực
tiếp đến người xem thông qua Internet) ngày càng phát triển. Những nền tảng mới
này có lợi thế hơn các dạng hình khác, cho phép tương tác với người đọc, người
nghe, người xem tại thời điểm phát thực. Trong môi trường Internet “không biên
giới”, có những xu thế mới đặt ra nhiều vấn đề cho công tác quản lý báo chí. Với
sự phát triển liên tục của công nghệ kỹ thuật thì khó có một hành lang pháp lý
nàocó thể bao quát trọn vẹn trong một thời gian hoạt động dài. Tuy nhiên, để quá
trình chuyển đổi số báo chí được diễn ra mạnh mẽ hơn, để thông tin phổ biến, có
sức lan tỏa lớn hơn đến với công chúng và hơn hết là những sự phát triển cao cấp
hơn, đa dạng hóa nguồn thu… thì cần có những quy định mới để đảm bảo mặt
bằng phát triển chung và công bằng giữa báo chí với các loại hình truyền thông
khác. Đồng thời để thích ứng với những vấn đề phát triển mới cũng cần điều chỉnh
hợp lý những vấn đề phát sinh.
Đồng thời, trong thời gian qua, các đơn vị báo chí cũng gặp không ít khó khăn
trong việc quản lý dịch vụ cung cấp nội dung truyền hình bao gồm: phim truyện, 1
chương trình âm nhạc, chương trình truyền hình… theo yêu cầu trên Internet của
các doanh nghiệp nước ngoài có thu phí như Netflix, Spotify, WeTV… cung cấp
xuyên biên giới vào lãnh thổ Việt Nam. Những hoạt động vi phạm điều khoản,
quy định của Việt Nam về quản lý báo chí đã được các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phát hiện và kiênquyết xử phạt. Một số sai phạm có thể kể đến như
ZingTV, Keeng Movies, Phimmoi… Nguyên nhân xuất phát từ các đơn vị chủ
quản không thực hiện đúng giấy phép, điều luật, cung cấp các dịch vụ không được
cơ quan báo chí có giấy phép hoạt động biên tập, kiểm duyệt trước khi công chiếu.
Trong khi đó, một số mạng xã hội có tính phí người xem thông qua hình thức như
nâng cấp thẻ thành viên để hưởng những ưu đãi tốt hơn lại bị một số đối tượng lợi
dụng quy định để trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về quản lý, cung cấp và sử dụng
dịch vụ PTTH của Chính phủ Việt Nam. Mâu thuẫn xuất hiện ngày càng nhiều và
chưa có dấu hiệu dừng lại. Nhìn từ những hạn chế còn tồn tại trên, việc hoàn thiện
hành lang pháp lý, xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển các nền
tảng công nghệ số trong nước, phân phối nội dung thông tin báo chí là vô cùng cần thiết.
Cùng với đó, cần mở rộng cơ quan truyền thông chủ lực đa phương tiện, tổ hợp
báo chí - truyền thông, báo chí trên nền tảng số. cần xây dựng công cụ, nền tảng
thu thập, xử lý dữ liệu, đánh giá, dự báo, phản ánh chất lượng báo chí. Các chỉ số
đánh giá truyền thông xã hội, lấy ý kiến đóng góp từ khán giả dựa trên tác động
của các nội dung thông tin trên không gian mạng từ các báo nhằm bảo đảm tính
khách quan, trung thực phục vụ công tác quản lý báo chí cũng cần được nghiên
cứu, đầu tư cho phù hợp. Luật Báo chí 2016 nếu được sửa đổi cũng cần đề cập về
những vấn đề đang được sự quan tâm ở cấp độ toàn cầu như: sở hữu trí tuệ, vấn đề
dữ liệu độc giả, vấn đề quyền trải nghiệm của người sử dụng.Hơn nữa, để tránh
“báo hóa” từ tạp chí điện tử, trang thông tin điện tử, cần thiết lập thêm quy định
cho các hiệp hội nhà báo, cơ quan thông tấn trong ngành, đồng thời vạch rõ ranh
giới và làm rõ, đẩy mạnh giáo dục, đào tạo chính trị, tư tưởng, nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ báo chí. 1
Ngoài quy định về nhà báo và phóng viên thường trú, cần bổ sung quy định chặt
chẽ về văn phòng đại diện, về nhiệm vụ, quyền hạn của cộng tác viên ở văn phòng
đại diện ở các địa phương để tránh những kẽ hở trong phối hợp với địa phương
trong thu nhận, cung cấp thông tin. Luật cần quy định chặt chẽ việc tuyển dụng
phóng viên của các cơ quan báo chí về nhận thức về chính trị, trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ báo chí, ngoại ngữ, tin học để nâng cao chất lượng, hạn chế những
sai sót của phóng viên. Cần quy định hoạt động của các đối tượng đang thực hiện
nghiệp vụ phóng viên trong cơ quan báo chí dưới 2 năm, chưa đủ điều kiện cấp
thẻ nhà báo… Bên cạnh đó, cần có những quy định cụ thể trong ứng dụng công
nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) trong hoạt động báo chí để góp phần định hướng truyền
thông trên môi trường số, đồng thời ngăn chặn những tiêu cực có thể nảy sinh từ
xu hướng đang phát triển mạnh mẽ này.
c. Đề xuất cá nhân trong việc sửa đổi Luật Báo chí 2016
Trong không gian phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của công nghệ thông tin, kỹ
thuật số, nhu cầu tìm hiểu thông tin, sử dụng mạng xã hội và các cách tiếp nhận
thông tin của công chúng ngày một nhiều. Để đáp ứng được nhu cầu đó, việc tăng
cường quyền tự do ngôn luận trong Luật Báo chí 2016 cần được sửa đổi và đẩy
mạnh hơn.Tự do ngôn luận là quyền lợi cơ bản và quan trọng trong nền tự do dân
chủ, cho phépmọi người tự do biểu đạt ý kiến, suy nghĩ và truyền đạt thông tin mà
không bị sự canthiệp hay hạn chế từ phía chính phủ, tổ chức hoặc các cá nhân
khác. Việc tăng cường tự do ngôn luận rõ ràng hơn trong các điều luật sẽ đảm bảo
được việc người làm báo có quyền tự do trong việc thu thập, xuất bản và phổ biến
thông tin. Việc đó có thể đem đến nhiều nguồn tin hay hơn, chính xác hơn khi
cùng phối hợp với các biện pháp bảo vệ nguồn tin của nhà báo. 1 1 1