Topic 1 SOCIAL ISSUES 1
Unit 1 Vocational training and Aging population
Unit 1.1 Six million people to need agricultural vocational training
It is forecasted that by 2030, between 4.5 and 6 million workers will need
agricultural training.
The information was revealed by Lê Đức Thịnh, director of the Department of
Cooperatives and Rural Development, in a conference held in Nội on Friday.
The conference was organised by the Ministry of Agriculture and Rural
Development to improve the quality and efficiency of agricultural vocational
training for rural workers. Thịnh said by 2030, Việt Nam is expected to have about
100,000 agricultural enterprises, 30,000 cooperatives, 70,000 groups of
products, 200-300 provincial and regional main products and about 2,500
communal main products. Thus the demand for vocational training for rural
workers was very high, he said. Thịnh believes that by 2020, a database on
vocational training for rural workers should be created.
A project on vocational training for rural workers in the agricultural sector in 2021-
30 will be set up to submit to Prime Minister Nguyễn Xuân Phúc for approval.
Priority will be given to training programmes on hi-tech agriculture and start-ups
for young workers.
cooperatives. Each locality should have one or two training schools that meet local
needs. Valentina Barcucci, labour economist and deputy director of the
International Labour Organisation (ILO) Việt Nam recommended that the
agricultural promotion system should go together with a vocational training
certificates everywhere and continue to raise the level of certification through a
skills recognition system.
Therefore, the country needed to develop national occupational skill standards for
vocational training, she said.
Nguyễn Thị Lan, director of the Vietnam National University of Agriculture, said
to improve the quality of vocational training for agricultural jobs, the training
should be based on enterprises’ and cooperatives’ demand and the development
trend of the sector. The periods for practicing at enterprises and farms should be
and setting up close connections between enterprises, cooperatives and vocational
training schools.
In the period 2011-15, a project on vocational training for rural workers covered
course, nearly 873,000 people got new jobs or improved their working results.
reaching 82 per cent of the plan. In this period, localities chose jobs that met
farmers’ requirements and focused on the main products of each locality. The
training was close to job promotion for rural workers.
Lan believes in the near future, demand for low-skilled workers will fall, but a big
opportunity will open for high-quality human resources. (from Việt Nam News:
August, 10/2019 - 08:00)
ÔNG ĐỨC THỊNH dự báo rằng năm 2023 khoảng 4.5 đến 6 triệu lao động
cần được đào tạo nghề trong nông nghiệp.
Ông Đức Thịnh, giám đốc Bộ kinh tế hợp tác phát triển nông thôn, đã dự báo
thông tin trên trong hội nghị tổ chức vào thứ sáu tại Nội. Bộ Nông Nghiệp
Phát triển nông thôn tổ chức hội nghị này nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của
công tác đào tạo nghề trong nông nghiệp cho các lao động khu vực nông thôn.
vực nông nghiệp, 30.000 hợp tác xã, 70.000 tổ hợp tác 70.00 trang trại năm
2030. Bộ Nông Nghiệp kế hoạch sẽ công nhận 13 sản phẩm chủ lực quốc gia,
200-300 sản phẩm chủ lực cấp tỉnh , sản phẩm chủ lực vùng khoảng 2500 sản
phẩm chủ lực địa phương . vậy ông Thịnh khẳng định rằng nhu cầu đào tạo
nghề cho lao động nông thôn rất cao. Ông cho rằng đến năm 2020 cần phải xây
dựng một sở dữ liệu về đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
Các quan chức năng đã xây dựng Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn
trong lĩnh vực nông nghiệp giai đoạn 2021-2030 để trình Thủ tướng Chính phủ
Nguyễn Xuân Phúc phê duyệt. Các lãnh đạo, các quan chức năng ưu tiên các
trẻ.
doanh nghiệp hợp tác xã. Mỗi địa phương cần một hoặc hai trường đào tạo
đáp ứng nhu cầu địa phương. Valentina Barcucci, chuyên gia kinh tế lao động, Phó
khuyến nông nên đi đôi với hệ thống đào tạo nghề.
Việt Nam nên cấp chứng chỉ nghề để người lao động thể sử dụng chứng chỉ
mọi nơi đồng thời tiếp tục nâng cao trình độ chứng chỉ thông qua hệ thống công
nhận kỹ năng.
chuẩn quốc gia.
tạo nên căn cứ vào nhu cầu của doanh nghiệp, hợp tác xu hướng phát triển
của nghề nông đề nâng cao chất lượng đào tạo nghề nông. Các trung tâm đào tạo
nên kéo dài thời gian thực tập tại các doanh nghiệp, trang trại. Lan đề xuất nước
ta nên đa dạng hóa hoạt động đào tạo, đổi mới chương trình giảng dạy, thiết lập
mối liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, hợp tác các trường dạy nghề.
Trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015, Dự án đào tạo nghề cho lao động
nông thôn đã hỗ trợ đào tạo cho gần 1,15 triệu người, đạt 75% kế hoạch. Sau khóa
đào tạo, gần 873.000 người việc làm mới hoặc cải thiện kết quả làm việc.
Giai đoạn 2016-2019, 1,15 triệu lao động nông thôn được đào tạo, đạt 82% kế
hoạch. Giai đoạn này các địa phương lựa chọn nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu của
đã gắn liền với việc tạo việc làm cho lao động khu vực nông thôn.
giảm nhưng mở ra cánh cửa mới cho nguồn nhân lực chất lượng cao. (từ Bản tin
Việt Nam: Tháng 8, 10/2019 - 08:00)
DỊCH CÂU/ĐOẠN SANG TIẾNG ANH
It is forecasted that by 2030, between 4.5 and 6 million workers will need
agricultural training.
Ông Đức Thịnh dự báo rằng năm 2023 khoảng 4.5 đến 6 triệu lao động
cần được đào tạo nghề trong nông nghiệp.
The conference was organized by the Ministry of Agriculture and Rural
Development to improve the quality and efficiency of agricultural vocational
training for rural workers.
Bộ Nông Nghiệp Phát triển nông thôn tổ chức hội nghị này nhằm nâng cao
chất lượng, hiệu quả của công tác đào tạo nghề trong nông nghiệp cho các lao động
khu vực nông thôn.
Priority will be given to training programmes on hi-tech agriculture and start-ups
for young workers.
Chương trình đào tạo ưu tiên cho nông nghiệp công nghệ cao khởi nghiệp
của lao động trẻ.
Lan proposed diversifying training, renewing teaching curriculums, and setting up
schools.
Lan đề xuất nước ta nên đa dạng hóa hoạt động đào tạo, đổi mới chương
trình giảng dạy, thiết lập mối liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, hợp tác
các trường dạy nghề.
Therefore, the country needed to develop national occupational skill standards for
vocational training, she said.
Do đó, Valentina cho hay Việt Nam cần phải xây dựng kỹ năng nghề đạt
tiêu chuẩn quốc gia.
Lan believes in the near future, demand for low-skilled workers will fall, but a big
opportunity will open for high-quality human resources.
sẽ giảm nhưng mở ra cánh cửa mới cho nguồn nhân lực chất lượng cao.
Unit 2 Future threats: from climate change and health perspectives
Unit 2.2 WHO COI VIỆC TỪ CHỐI TIÊM VẮC-XIN MỐI ĐE DỌA
TOÀN CẦU TRONG NĂM 2019
chính loài người. Mới đây, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) vừa công bố danh
sách liệt 10 thách thức lớn nhất đe dọa đến sức khỏe toàn cầu, trong đó việc
từ chối tiêm chủng vắc-xin.
Vấn đề được WHO gọi tên "do dự vắc-xin" định nghĩa sự miễn cưỡng hoặc
từ chối tiêm vắc-xin mặc thể tiếp cận chúng. nguyên nhân nào đó, việc
tiêm vắc-xin an toàn, hiệu quả giá rẻ, nhưng nhiều người vẫn từ chối tiêm chủng
cho bản thân cho con mình. Theo WHO, nhiều vấn đề góp phần vào hiện
tượng này bao gồm sự tự tin thái quá trong chăm sóc sức khỏe, sự bất tiện
trong việc tiếp cận vắc-xin cả lo ngại về chất lượng của chúng.
kháng sinh từ chối tiêm chủng một giải pháp ràng hiệu quả. Khó khăn
chính làm sao thuyết phục được mọi người tin vào những sự thật khoa học về
vắc-xin, chứ không phải những tin giả hoặc thông tin sai lệch thường được lan
truyền trên mạng.
vàn bằng chứng khoa học đã chứng minh sự hiệu quả an toàn của các loại
vắc-xin, nhưng trớ trêu thay, WHO cho biết tỷ lệ tiêm chủng trên toàn cầu đã giảm
xuống trong những năm gần đây, chỉ mức chấp nhận được. Trong nhiều nhóm
cộng đồng tại nhiều quốc gia, vẫn những người tin vào thông tin sai lệch gây
nguy hiểm về vắc-xin.
Một phần của những niềm tin này bắt nguồn từ một nghiên cứu gian lận năm 1998,
trong đó, cựu bác người Anh Andrew Wakefield tuyên bố rằng vắc-xin MMR
(sởi, quai bị rubella) liên quan đến bệnh tự kỷ trẻ. Các nhà khoa học khác
đã mất hơn 10 năm nghiên cứu để chứng minh Wakefield đã sai. Năm 2010, bài
dấu hiệu trục lợi từ thông tin thất thiệt.
Mặc vậy, một bộ phận công chúng đã kịp tiếp nhận các thông tin sai lệch,
nhưng bỏ lỡ thông tin đính chính kiểm chứng. Họ đã ấn định được một niềm tin
rằng vắc-xin hại, bất chấp các bằng chứng khoa học mới được đưa ra. Tỷ lệ tiêm
chủng trên toàn cầu giảm khiến bệnh tật quay trở lại tấn công loài người. (theo Tri
Thức Trẻ: “WHO coi việc từ chối tiêm vắc-xin một mối đe dọa toàn cầu trong
năm 2019-28/12/2018)
WHO CONSIDERS VACCINE REFUSAL AS A GLOBAL THREAT IN
2019
One of the biggest threats to humanity in 2019 may be humanity itself. Recently,
released by WHO.
“Vaccine hesitancy”, as named by WHO, is defined as the reluctance or refusal to
vaccinate despite the availability of vaccines. For some reasons, vaccination is
safe, effective, and affordable, yet many people still refuse to take vaccine to
themselves and their children.
According to WHO, several issues which lead to this phenomenon including
overconfidence in healthcare, difficulty in vaccine accessibility, and concerns
about the quality of vaccination.
However, unlike the other public health threats on the list such as air pollution,
practice for vaccine refusal.
The biggest challenge is how to convince people to believe in scientific facts about
vaccines rather than fake or misinformation spread online frequently.
amount of scientific evidence, WHO said that vaccination rates globally have
fallen to acceptable levels in recent years. In many community groups of many
countries, a number of people believe in dangerous misinformation about vaccines.
Part of these beliefs stems from a 1998 research fraud in which a former British
doctor, Andrew Wakefield, claimed that the MMR (measles, mumps, and rubella)
vaccine related to autism in children.
It took more than 10 years for other scientists to discover the mistake in
Wakefield's study. In 2010, the Andrew Wakefield’s article was removed and his
medical license in England was revoked because of sign of his personal gain from
the article.
However, a part of the public promptly received misinformation, and at the same
time missed correcting and verifying information. They firmly believe that
vaccines are harmful, despite the new scientific evidence presented.
The deduction of global vaccination coverage has brought infectious diseases back
to attack human-being.
DỊCH CÂU/ĐOẠN SANG TIẾNG ANH
Mới đây, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) vừa công bố danh sách liệt 10 thách
vắc-xin.
Recently, the list of 10 threats to global health including vaccine refusal has
been recently released by WHO
Vấn đề được WHO gọi tên "do dự vắc-xin" định nghĩa sự miễn cưỡng hoặc
từ chối tiêm vắc-xin mặc thể tiếp cận chúng.
to vaccinate despite the availability of vaccines.
quá trong chăm sóc sức khỏe, sự bất tiện trong việc tiếp cận vắc-xin cả
lo ngại về chất lượng của chúng.
According to WHO, several issues which lead to this phenomenon including
overconfidence in healthcare, difficulty in vaccine accessibility, and concerns
about the quality of vaccination.
kháng sinh từ chối tiêm chủng một giải pháp ràng hiệu quả.
practice for vaccine refusal.
Khó khăn chính làm sao thuyết phục được mọi người tin vào những sự thật khoa
lan truyền trên mạng.
about vaccines rather than fake or misinformation spread online frequently.
vàn bằng chứng khoa học đã chứng minh sự hiệu quả an toàn của các loại
xuống trong những năm gần đây, chỉ mức chấp nhận được.
Although the effectiveness and safety of vaccines being proven with a large
amount of scientific evidence, WHO said that vaccination rates globally have
fallen to acceptable levels in recent years.
Các nhà khoa học khác đã mất hơn 10 năm nghiên cứu để chứng minh Wakefield
đã sai.
Wakefield's study.
Tỷ lệ tiêm chủng trên toàn cầu giảm khiến bệnh tật quay trở lại tấn công loài
người.
The deduction of global vaccination coverage has brought infectious diseases
back to attack human-being.
Unit 1.2 Nâng cao tính cạnh tranh của môi trường đầu kinh doanh tại Việt
Nam
Những năm gần đây, môi trường đầu kinh doanh của Việt Nam liên tục được cải
thiện mạnh mẽ. Kết quả này được do Chính phủ chỉ đạo sát sao nhiệm vụ này
2018/NQ-CP cải thiện môi trường kinh doanh nâng cao năng lực cạnh tranh quốc
gia; Nghị quyết số 35/NQ-CP của Chính phủ về hỗ trợ phát triển doanh nghiệp
theo chuẩn mực quốc tế như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư...
đánh giá cao. Cụ thể, Việt Nam được đánh giá một trong những nền kinh tế cạnh
tranh nhất trong giai đoạn 2007-2016 của nhóm các nước thu nhập thấp
nhóm thu nhập trung bình thấp theo đánh giá của World Bank. Theo báo cáo về
đứng thứ 77/140 quốc gia. Trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Việt Nam
nằm trong nhóm giữa với tính cạnh tranh của môi trường đầu kinh doanh cách
khoảng 40 điểm so với điểm số tối đa thể đạt được cùng với các quốc gia Đông
Nam Á khác như: Indonesia, Thái Lan Philippines. Tuy vậy, nếu nhìn cận cảnh
tập trung vào các chỉ số cần phải cải thiện thể thấy, trong khu vực ASEAN,
Việt Nam đã những chỉ số bị tụt hậu so với không chỉ nhóm ASEAN 4, còn
so với các nước vốn được coi kém phát triển hơn như Lào Campuchia.
Cụ thể, về nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công rẻ nhưng tỷ lệ lao động đã qua
đào tạo còn thấp các kỹ năng được đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu của thị
trường sử dụng lao động. Tỷ lệ lao động kỹ năng nghề nghiệp từ mức trung bình
trở lên còn thấp so với mặt bằng chung các nước ASEAN. Các kỹ năng nghề
nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu, đòi hỏi của các doanh nghiệp sử dụng lao động
cả trong nước các doanh nghiệp vốn đầu trực tiếp nước ngoài (FDI).
Bên cạnh đó, các chính sách về thu hút ưu đãi đầu tư, theo ngành lĩnh vực,
địa bàn đầu mặc giúp thu hút được lượng FDI lớn cho phát triển kinh tế
nhưng trong một số ngành kết quả các doanh nghiệp FDI tạo ra chưa tương xứng
với các ưu đãi. Đồng thời, năng suất lao động của Việt Nam còn thấp so với các
quốc gia trong khu vực trên thế giới. một mối tương quan giữa cải thiện
năng suất lao động nâng cao tính cạnh tranh của môi trường đầu kinh doanh
trung cải thiện các mặt còn yếu kém, đáp ứng nhu cầu phát triển, cụ thể cần tập
trung vào những giải pháp trọng tâm sau:
Thứ nhất, xây dựng Chính phủ điện tử đơn giản hóa các thủ tục hành chính;
Đầu hơn nữa cho phát triển hạ tầng công nghệ thông tin truyền thông, tạo nền
tảng cho CMCN 4.0 thể được triển khai hiệu quả tại các doanh nghiệp; Tạo điều
kiện cho người dân các doanh nghiệp được sử dụng hiệu quả các thành quả của
CMCN 4.0 nói chung Chính phủ điện tử nói riêng; Xây dựng “Môi trường đầu
4.0” phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp trong thời đại công nghệ số bằng
những giải pháp trực tuyến thuận tiện cho người dân doanh nghiệp.
của nền kinh tế nhưng lại khu vực năng suất lao động thấp nhất trong toàn bộ
nền kinh tế. Các con số thống cho thấy, một mối tương quan dương giữa năng
suất lao động tỷ lệ lao động đã qua đào tạo: mỗi 1% lao động đã qua đào tạo
tăng thêm sẽ giúp tăng năng suất lao động của toàn bộ nền kinh tế thêm 6,44 triệu
đồng.
Thứ ba, đào tạo nghề nói riêng đào tạo học sinh, sinh viên nói chung dựa trên
nhu cầu của thị trường của doanh nghiệp. Theo đó, cần xây dựng chương trình
đào tạo dựa trên việc khảo sát nhu cầu của thị trường lao động tham vấn các
doanh nghiệp. Bên cạnh việc gắn kỹ năng nghề nghiệp với nhu cầu của thị trường,
các kỹ năng quan trọng trong bối cảnh CMCN 4.0 các kỹ năng mềm, ngoại ngữ,
Cùng với đó, tăng cường năng lực đổi mới sáng tạo của người dân, đặc biệt
người lao động, thông qua việc cải cách, đổi mới phương thức dạy học chương
trình học. Chương trình học gắn với việc giải quyết các vấn đề cụ thể đặt ra trong
cuộc sống.
mạnh, minh bạch, công bằng; Đảm bảo các quyền sở hữu bảo vệ quyền sở hữu
trí tuệ nhằm tạo ra môi trường lành mạnh, minh bạch để các doanh nghiệp FDI
nghiệp trong nước; Thực hiện các ưu đãi, hỗ trợ dựa trên hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp thay các ưu đãi hỗ trợ theo lĩnh vực, địa bàn hay quy vốn, quy
lao động; Nâng cao chất lượng ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất
nghiên cứu phát triển trong các doanh nghiệp.
doanh tại Việt Nam”-28/2/2019)
Unit 1.2 Enhancing the competitiveness business investment climate in Viet
Nam
such as Resolution No. 19-2018/NQ-CP improving the business climate and
enhancing national competitiveness; Resolution No. 35/NQ-CP of the Government
on support and development of enterprises to the year 2020; Developing and
standards such as Enterprise Law, Investment Law...
Thanks to the great improvement, the business investment climate in Vietnam is
highly appreciated by international organizations. Specifically, Vietnam is regarded
as one of the most competitive economies in the period from 2007-2016 among the
ranking, ranked 77 out of 140 countries. In the Asia-Pacific region, Vietnam is in
th
about 40 points from the maximum score possible with other Southeast Asian
countries such as Indonesia, Thailand, and the Philippines. However, if we have a
but also other less developed countries such as Laos and Cambodia.
In recent years, the business investment climate has more important steps forward,
however, in response to the practical requirements, in some fields such as human
investment quality, should be strongly improved.
undertraining labor force is low, and skilled trainers have not met the market
demand using the labor force. The proportion of skilled labor in Vietnam is
relatively low compared to the overall level in ASEAN countries. occupational
skills have not yet met the demands and requirements of both domestic and FDI
enterprises.
In addition, the policies on investment attraction and incentives, sector-specific,
and investment areas, though contributing to attracting a significant amount of
FDT for economic development, have resulted in some sectors where outcomes
in the region and globally. there is an inter-connection labor productivity
improvement and the enhancement of (VN) investment climate competitiveness.
To enhance the competitiveness of the business investment environment, it is
necessary to continue contributing to improving existing weaknesses, and meeting
development needs, with specific attention to the following key solutions:
Firstly, establishing an e-government and simplifying administrative procedures;
Investing further in the development of information technology and
communication infrastructure, creating a foundation for the effective
implementation of Industry 4.0 in enterprises; facilitating the efficient utilization of
the achievements of Industry 4.0 in general and e-government in particular for
requirements of business in the digital era by convenient online solutions for
people and enterprises.
agricultural sector by increasing the proportion of trained labor throughout the
total workforce in the economy, it is the area with the lowest labor productivity
connection between labor productivity and the ratio of the undertraining labor
force: every 1% increase in trained labor contributes to an additional 6.44 million
VND in labor productivity for the entire economy.
meet the demands of the market and businesses. Therefore, it is essential to
the context of Industry 4.0 include soft skills, foreign languages, computer literacy,
curriculum should be closely tied to addressing specific challenges in life.
ratio of practice out of total learning hours.
Fourthly, the Government should continue institutional reforms to establish a
healthy, transparent, and fair business investment climate; ensuring property rights
and the protection of intellectual property to create a healthy and transparent
environment, allowing FDI enterprises to confidently share and establish long-
term, reliable relationships with domestic businesses; implementing incentives and
or the scale of capital and labor. Improving the quality of the application of science
and technology in production and business through more investment in scientific
research and encouragement of R&D.
DỊCH CÂU/ĐOẠN SANG TIẾNG ANH
Những năm gần đây, môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam liên tục được
cải thiện mạnh mẽ. Kết quả này được do Chính phủ chỉ đạo sát sao nhiệm
vụ này với nhiều chủ trương, chính sách kịp thời hiệu quả như:
such as
Cụ thể, Việt Nam được đánh giá một trong những nền kinh tế cạnh tranh nhất
trong giai đoạn 2007-2016 của nhóm các nước thu nhập thấp nhóm thu
nhập trung bình thấp theo đánh giá của World Bank.
stated by the World Bank.
Các kỹ năng nghề nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu, đòi hỏi của các doanh
nghiệp sử dụng lao động cả trong nước các doanh nghiệp vốn đầu trực
tiếp nước ngoài (FDI).
domestic and FDI enterprises
một mối tương quan giữa cải thiện năng suất lao động nâng cao tính cạnh
tranh của môi trường đầu kinh doanh.
There is an inter-connection labor productivity improvement and the
enhancement of (VN) investment climate competitiveness
Xây dựng “Môi trường đầu 4.0” phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp trong
thời đại công nghệ số bằng những giải pháp trực tuyến thuận tiện cho người dân
doanh nghiệp.
Developing investment climate 4.0 which is relevant to the requirements of
business in the digital era by convenient online solutions for people and
enterprises.
Theo đó, cần xây dựng chương trình đào tạo dựa trên việc khảo sát nhu cầu của
thị trường lao động tham vấn các doanh nghiệp
Accordingly, the training program needs to be built based on labor market
surveys and consultation with business.
Phương pháp dạy học đòi hỏi sự chủ động tham gia của người học, nâng cao tỷ
lệ thực hành trong tổng số giờ học
Participatory teaching method raises the ratio of practice out of total learning
hours
Nâng cao chất lượng ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất kinh doanh
bằng việc đầu nhiều hơn cho nghiên cứu khoa học khuyến khích nghiên
cứu phát triển trong các doanh nghiệp
Improving the quality of the application of science and technology in
production and business through more investment in scientific research and
encouragement of R&D

Preview text:

Topic 1 SOCIAL ISSUES 1
Unit 1 Vocational training and Aging population
Unit 1.1 Six million people to need agricultural vocational training
It is forecasted that by 2030, between 4.5 and 6 million workers will need agricultural training.
The information was revealed by Lê Đức Thịnh, director of the Department of
Cooperatives and Rural Development, in a conference held in Hà Nội on Friday.
The conference was organised by the Ministry of Agriculture and Rural
Development to improve the quality and efficiency of agricultural vocational
training for rural workers. Thịnh said by 2030, Việt Nam is expected to have about
100,000 agricultural enterprises, 30,000 cooperatives, 70,000 groups of
cooperatives and 70,000 farms. The ministry plans to establish 13 national main
products, 200-300 provincial and regional main products and about 2,500
communal main products. Thus the demand for vocational training for rural
workers was very high, he said. Thịnh believes that by 2020, a database on
vocational training for rural workers should be created.
A project on vocational training for rural workers in the agricultural sector in 2021-
30 will be set up to submit to Prime Minister Nguyễn Xuân Phúc for approval.
Priority will be given to training programmes on hi-tech agriculture and start-ups for young workers.
Thịnh said the sector must attach importance to practices at enterprises and
cooperatives. Each locality should have one or two training schools that meet local
needs. Valentina Barcucci, labour economist and deputy director of the
International Labour Organisation (ILO) Việt Nam recommended that the
agricultural promotion system should go together with a vocational training
system. Viet Nam should have vocational certificates and workers could use the
certificates everywhere and continue to raise the level of certification through a skills recognition system.
Therefore, the country needed to develop national occupational skill standards for
vocational training, she said.
Nguyễn Thị Lan, director of the Vietnam National University of Agriculture, said
to improve the quality of vocational training for agricultural jobs, the training
should be based on enterprises’ and cooperatives’ demand and the development
trend of the sector. The periods for practicing at enterprises and farms should be
lengthened. Lan proposed diversifying training, renewing teaching curriculums,
and setting up close connections between enterprises, cooperatives and vocational training schools.
In the period 2011-15, a project on vocational training for rural workers covered
nearly 1.15 million people, reaching 75 per cent of the plan. After the training
course, nearly 873,000 people got new jobs or improved their working results.
In the period 2016-19, as many as 1.15 million rural workers were trained,
reaching 82 per cent of the plan. In this period, localities chose jobs that met
farmers’ requirements and focused on the main products of each locality. The
training was close to job promotion for rural workers.
Lan believes in the near future, demand for low-skilled workers will fall, but a big
opportunity will open for high-quality human resources. (from Việt Nam News: August, 10/2019 - 08:00)
ÔNG LÊ ĐỨC THỊNH dự báo rằng năm 2023 có khoảng 4.5 đến 6 triệu lao động
cần được đào tạo nghề trong nông nghiệp.
Ông Lê Đức Thịnh, giám đốc Bộ kinh tế hợp tác và phát triển nông thôn, đã dự báo
thông tin trên trong hội nghị tổ chức vào thứ sáu tại Hà Nội. Bộ Nông Nghiệp và
Phát triển nông thôn tổ chức hội nghị này nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của
công tác đào tạo nghề trong nông nghiệp cho các lao động ở khu vực nông thôn.
Ông dự kiến, Việt nam sẽ có khoảng 100.00 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực nông nghiệp, 30.000 hợp tác xã, 70.000 tổ hợp tác và 70.00 trang trại năm
2030. Bộ Nông Nghiệp có kế hoạch sẽ công nhận 13 sản phẩm chủ lực quốc gia,
200-300 sản phẩm chủ lực cấp tỉnh , sản phẩm chủ lực vùng và khoảng 2500 sản
phẩm chủ lực địa phương . Vì vậy ông Thịnh khẳng định rằng nhu cầu đào tạo
nghề cho lao động nông thôn là rất cao. Ông cho rằng đến năm 2020 cần phải xây
dựng một cơ sở dữ liệu về đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
Các cơ quan chức năng đã xây dựng Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn
trong lĩnh vực nông nghiệp giai đoạn 2021-2030 để trình Thủ tướng Chính phủ
Nguyễn Xuân Phúc phê duyệt. Các lãnh đạo, các cơ quan chức năng ưu tiên các
chương trình đào tạo về công nghệ trong nông nghiệp và khởi nghiệp cho lao động trẻ.
Ông Thịnh cho rằng ngành nông nghiệp cần phải chú trọng đến thực tiễn tại các
doanh nghiệp và hợp tác xã. Mỗi địa phương cần có một hoặc hai trường đào tạo
đáp ứng nhu cầu địa phương. Valentina Barcucci, chuyên gia kinh tế lao động, Phó
Giám đốc Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) Việt Nam khuyến nghị hệ thống
khuyến nông nên đi đôi với hệ thống đào tạo nghề.
Việt Nam nên cấp chứng chỉ nghề để người lao động có thể sử dụng chứng chỉ ở
mọi nơi đồng thời tiếp tục nâng cao trình độ chứng chỉ thông qua hệ thống công nhận kỹ năng.
Do đó, bà Valentina cho hay Việt Nam cần phải xây dựng kỹ năng nghề đạt tiêu chuẩn quốc gia.
Giám đốc học viện nông nghiệp Việt Nam, bà Nguyễn Thị Lan cho biết việc đào
tạo nên căn cứ vào nhu cầu của doanh nghiệp, hợp tác xã và xu hướng phát triển
của nghề nông đề nâng cao chất lượng đào tạo nghề nông. Các trung tâm đào tạo
nên kéo dài thời gian thực tập tại các doanh nghiệp, trang trại. Bà Lan đề xuất nước
ta nên đa dạng hóa hoạt động đào tạo, đổi mới chương trình giảng dạy, thiết lập
mối liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, hợp tác xã và các trường dạy nghề.
Trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015, Dự án đào tạo nghề cho lao động
nông thôn đã hỗ trợ đào tạo cho gần 1,15 triệu người, đạt 75% kế hoạch. Sau khóa
đào tạo, gần 873.000 người có việc làm mới hoặc cải thiện kết quả làm việc.
Giai đoạn 2016-2019, có 1,15 triệu lao động nông thôn được đào tạo, đạt 82% kế
hoạch. Giai đoạn này các địa phương lựa chọn nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu của
nông dân và tập trung vào các sản phẩm chủ lực của từng địa phương. Việc đào tạo
đã gắn liền với việc tạo việc làm cho lao động ở khu vực nông thôn.
Bà tin rằng, trong thời gian không xa , nhu cầu đối với lao động tay nghề thấp sẽ
giảm nhưng mở ra cánh cửa mới cho nguồn nhân lực chất lượng cao. (từ Bản tin
Việt Nam: Tháng 8, 10/2019 - 08:00)
DỊCH CÂU/ĐOẠN SANG TIẾNG ANH
It is forecasted that by 2030, between 4.5 and 6 million workers will need agricultural training.
 Ông Lê Đức Thịnh dự báo rằng năm 2023 có khoảng 4.5 đến 6 triệu lao động
cần được đào tạo nghề trong nông nghiệp.
The conference was organized by the Ministry of Agriculture and Rural
Development to improve the quality and efficiency of agricultural vocational
training for rural workers.

 Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức hội nghị này nhằm nâng cao
chất lượng, hiệu quả của công tác đào tạo nghề trong nông nghiệp cho các lao động ở khu vực nông thôn.
Priority will be given to training programmes on hi-tech agriculture and start-ups for young workers.
 Chương trình đào tạo ưu tiên cho nông nghiệp công nghệ cao và khởi nghiệp của lao động trẻ.
Lan proposed diversifying training, renewing teaching curriculums, and setting up
close connections between enterprises, cooperatives and vocational training
schools.
 Bà Lan đề xuất nước ta nên đa dạng hóa hoạt động đào tạo, đổi mới chương
trình giảng dạy, thiết lập mối liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, hợp tác xã
và các trường dạy nghề.
Therefore, the country needed to develop national occupational skill standards for
vocational training, she said.

 Do đó, bà Valentina cho hay Việt Nam cần phải xây dựng kỹ năng nghề đạt tiêu chuẩn quốc gia.
Lan believes in the near future, demand for low-skilled workers will fall, but a big
opportunity will open for high-quality human resources.

 Bà tin rằng, trong thời gian không xa , nhu cầu đối với lao động tay nghề thấp
sẽ giảm nhưng mở ra cánh cửa mới cho nguồn nhân lực chất lượng cao.
Unit 2 Future threats: from climate change and health perspectives
Unit 2.2 WHO COI VIỆC TỪ CHỐI TIÊM VẮC-XIN LÀ MỐI ĐE DỌA
TOÀN CẦU TRONG NĂM 2019
Một trong những mối đe dọa lớn nhất đối với loài người trong năm 2019 có thể
chính là loài người. Mới đây, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) vừa công bố danh
sách liệt kê 10 thách thức lớn nhất đe dọa đến sức khỏe toàn cầu, trong đó có việc
từ chối tiêm chủng vắc-xin.
Vấn đề được WHO gọi tên là "do dự vắc-xin" – định nghĩa là sự miễn cưỡng hoặc
từ chối tiêm vắc-xin mặc dù có thể tiếp cận chúng. Vì nguyên nhân nào đó, việc
tiêm vắc-xin an toàn, hiệu quả và giá rẻ, nhưng nhiều người vẫn từ chối tiêm chủng
cho bản thân và cho con mình. Theo WHO, có nhiều vấn đề góp phần vào hiện
tượng này bao gồm sự tự tin thái quá trong chăm sóc sức khỏe, sự bất tiện
trong việc tiếp cận vắc-xin và cả lo ngại về chất lượng của chúng.
Tuy nhiên, không giống như nhiều mối đe dọa sức khỏe cộng đồng khác được
thêm vào danh sách này – ví dụ như ô nhiễm không khí, biến đổi khí hậu và kháng
kháng sinh – từ chối tiêm chủng có một giải pháp rõ ràng và hiệu quả. Khó khăn
chính là làm sao thuyết phục được mọi người tin vào những sự thật khoa học về
vắc-xin, chứ không phải những tin giả hoặc thông tin sai lệch thường được lan truyền trên mạng.
Vô vàn bằng chứng khoa học đã chứng minh sự hiệu quả và an toàn của các loại
vắc-xin, nhưng trớ trêu thay, WHO cho biết tỷ lệ tiêm chủng trên toàn cầu đã giảm
xuống trong những năm gần đây, chỉ ở mức chấp nhận được. Trong nhiều nhóm
cộng đồng tại nhiều quốc gia, vẫn có những người tin vào thông tin sai lệch gây nguy hiểm về vắc-xin.
Một phần của những niềm tin này bắt nguồn từ một nghiên cứu gian lận năm 1998,
trong đó, cựu bác sĩ người Anh Andrew Wakefield tuyên bố rằng vắc-xin MMR
(sởi, quai bị và rubella) có liên quan đến bệnh tự kỷ ở trẻ. Các nhà khoa học khác
đã mất hơn 10 năm nghiên cứu để chứng minh Wakefield đã sai. Năm 2010, bài
báo của ông bị gỡ xuống và vị bác sĩ đã bị tước giấy phép hành nghề ở Anh vì có
dấu hiệu trục lợi từ thông tin thất thiệt.
Mặc dù vậy, một bộ phận công chúng đã kịp tiếp nhận các thông tin sai lệch,
nhưng bỏ lỡ thông tin đính chính và kiểm chứng. Họ đã ấn định được một niềm tin
rằng vắc-xin có hại, bất chấp các bằng chứng khoa học mới được đưa ra. Tỷ lệ tiêm
chủng trên toàn cầu giảm khiến bệnh tật quay trở lại tấn công loài người. (theo Tri
Thức Trẻ: “WHO coi việc từ chối tiêm vắc-xin là một mối đe dọa toàn cầu trong năm 2019-28/12/2018)
WHO CONSIDERS VACCINE REFUSAL AS A GLOBAL THREAT IN 2019
One of the biggest threats to humanity in 2019 may be humanity itself. Recently,
the list of 10 threats to global health including vaccine refusal has been recently released by WHO.
“Vaccine hesitancy”, as named by WHO, is defined as the reluctance or refusal to
vaccinate despite the availability of vaccines. For some reasons, vaccination is
safe, effective, and affordable, yet many people still refuse to take vaccine to
themselves and their children.
According to WHO, several issues which lead to this phenomenon including
overconfidence in healthcare, difficulty in vaccine accessibility, and concerns
about the quality of vaccination.
However, unlike the other public health threats on the list such as air pollution,
climate change, and antimicrobial resistance, there is an apparent and effective practice for vaccine refusal.
The biggest challenge is how to convince people to believe in scientific facts about
vaccines rather than fake or misinformation spread online frequently.
Although the effectiveness and safety of vaccines being proven with a large
amount of scientific evidence, WHO said that vaccination rates globally have
fallen to acceptable levels in recent years. In many community groups of many
countries, a number of people believe in dangerous misinformation about vaccines.
Part of these beliefs stems from a 1998 research fraud in which a former British
doctor, Andrew Wakefield, claimed that the MMR (measles, mumps, and rubella)
vaccine related to autism in children.
It took more than 10 years for other scientists to discover the mistake in
Wakefield's study. In 2010, the Andrew Wakefield’s article was removed and his
medical license in England was revoked because of sign of his personal gain from the article.
However, a part of the public promptly received misinformation, and at the same
time missed correcting and verifying information. They firmly believe that
vaccines are harmful, despite the new scientific evidence presented.
The deduction of global vaccination coverage has brought infectious diseases back to attack human-being.
DỊCH CÂU/ĐOẠN SANG TIẾNG ANH
Mới đây, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) vừa công bố danh sách liệt kê 10 thách
thức lớn nhất đe dọa đến sức khỏe toàn cầu, trong đó có việc từ chối tiêm chủng vắc-xin.
 Recently, the list of 10 threats to global health including vaccine refusal has been recently released by WHO
Vấn đề được WHO gọi tên là "do dự vắc-xin" – định nghĩa là sự miễn cưỡng hoặc
từ chối tiêm vắc-xin mặc dù có thể tiếp cận chúng.
 “Vaccine hesitancy”, as named by WHO, is defined as the reluctance or refusal
to vaccinate despite the availability of vaccines.
Theo WHO, có nhiều vấn đề góp phần vào hiện tượng này bao gồm sự tự tin thái
quá trong chăm sóc sức khỏe, sự bất tiện trong việc tiếp cận vắc-xin và cả
lo ngại về chất lượng của chúng.
 According to WHO, several issues which lead to this phenomenon including
overconfidence in healthcare, difficulty in vaccine accessibility, and concerns
about the quality of vaccination.
Tuy nhiên, không giống như nhiều mối đe dọa sức khỏe cộng đồng khác được
thêm vào danh sách này – ví dụ như ô nhiễm không khí, biến đổi khí hậu và kháng
kháng sinh – từ chối tiêm chủng có một giải pháp rõ ràng và hiệu quả.
 However, unlike the other public health threats on the list such as air pollution,
climate change, and antimicrobial resistance, there is an apparent and effective practice for vaccine refusal.
Khó khăn chính là làm sao thuyết phục được mọi người tin vào những sự thật khoa
học về vắc-xin, chứ không phải những tin giả hoặc thông tin sai lệch thường được lan truyền trên mạng.
 The biggest challenge is how to convince people to believe in scientific facts
about vaccines rather than fake or misinformation spread online frequently.
Vô vàn bằng chứng khoa học đã chứng minh sự hiệu quả và an toàn của các loại
vắc-xin, nhưng trớ trêu thay, WHO cho biết tỷ lệ tiêm chủng trên toàn cầu đã giảm
xuống trong những năm gần đây, chỉ ở mức chấp nhận được.
 Although the effectiveness and safety of vaccines being proven with a large
amount of scientific evidence, WHO said that vaccination rates globally have
fallen to acceptable levels in recent years.
Các nhà khoa học khác đã mất hơn 10 năm nghiên cứu để chứng minh Wakefield đã sai.
 It took more than 10 years for other scientists to discover the mistake in Wakefield's study.
Tỷ lệ tiêm chủng trên toàn cầu giảm khiến bệnh tật quay trở lại tấn công loài người.
 The deduction of global vaccination coverage has brought infectious diseases back to attack human-being.
Unit 1.2 Nâng cao tính cạnh tranh của môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam
Những năm gần đây, môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam liên tục được cải
thiện mạnh mẽ. Kết quả này có được là do Chính phủ chỉ đạo sát sao nhiệm vụ này
với nhiều chủ trương, chính sách kịp thời và hiệu quả như: Nghị quyết số 19-
2018/NQ-CP cải thiện môi trường kinh doanh nâng cao năng lực cạnh tranh quốc
gia; Nghị quyết số 35/NQ-CP của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp
đến năm 2020; xây dựng, sửa đổi các bộ luật liên quan tới hoạt động kinh doanh
theo chuẩn mực quốc tế như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư...
Nhờ đó, môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam đã được các tổ chức quốc tế
đánh giá cao. Cụ thể, Việt Nam được đánh giá là một trong những nền kinh tế cạnh
tranh nhất trong giai đoạn 2007-2016 của nhóm các nước có thu nhập thấp và
nhóm thu nhập trung bình thấp theo đánh giá của World Bank. Theo báo cáo về
năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2018, Việt Nam đã tụt 3 bậc so với năm 2017,
đứng thứ 77/140 quốc gia. Trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Việt Nam
nằm trong nhóm giữa với tính cạnh tranh của môi trường đầu tư kinh doanh cách
khoảng 40 điểm so với điểm số tối đa có thể đạt được cùng với các quốc gia Đông
Nam Á khác như: Indonesia, Thái Lan và Philippines. Tuy vậy, nếu nhìn cận cảnh
và tập trung vào các chỉ số cần phải cải thiện có thể thấy, trong khu vực ASEAN,
Việt Nam đã có những chỉ số bị tụt hậu so với không chỉ nhóm ASEAN 4, mà còn
so với các nước vốn được coi là kém phát triển hơn như Lào và Campuchia.
Cụ thể, về nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công rẻ nhưng tỷ lệ lao động đã qua
đào tạo còn thấp và các kỹ năng được đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu của thị
trường sử dụng lao động. Tỷ lệ lao động có kỹ năng nghề nghiệp từ mức trung bình
trở lên còn thấp so với mặt bằng chung các nước ASEAN. Các kỹ năng nghề
nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu, đòi hỏi của các doanh nghiệp sử dụng lao động
cả trong nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Bên cạnh đó, các chính sách về thu hút và ưu đãi đầu tư, theo ngành và lĩnh vực,
địa bàn đầu tư mặc dù giúp thu hút được lượng FDI lớn cho phát triển kinh tế
nhưng trong một số ngành kết quả các doanh nghiệp FDI tạo ra chưa tương xứng
với các ưu đãi. Đồng thời, năng suất lao động của Việt Nam còn thấp so với các
quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Có một mối tương quan giữa cải thiện
năng suất lao động và nâng cao tính cạnh tranh của môi trường đầu tư kinh doanh
Để nâng cao tính cạnh tranh của môi trường đầu tư kinh doanh, cần tiếp tục tập
trung cải thiện các mặt còn yếu kém, đáp ứng nhu cầu phát triển, cụ thể cần tập
trung vào những giải pháp trọng tâm sau:
Thứ nhất, xây dựng Chính phủ điện tử và đơn giản hóa các thủ tục hành chính;
Đầu tư hơn nữa cho phát triển hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông, tạo nền
tảng cho CMCN 4.0 có thể được triển khai hiệu quả tại các doanh nghiệp; Tạo điều
kiện cho người dân và các doanh nghiệp được sử dụng hiệu quả các thành quả của
CMCN 4.0 nói chung và Chính phủ điện tử nói riêng; Xây dựng “Môi trường đầu
tư 4.0” phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp trong thời đại công nghệ số bằng
những giải pháp trực tuyến thuận tiện cho người dân và doanh nghiệp.
Thứ hai, nâng cao năng suất lao động của nền kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực nông
nghiệp thông qua việc tăng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo trong toàn bộ nền kinh tế.
Thực tế cho thấy, mặc dù lĩnh vực nông nghiệp chiếm tới 40% tổng số lao động
của nền kinh tế nhưng lại là khu vực có năng suất lao động thấp nhất trong toàn bộ
nền kinh tế. Các con số thống kê cho thấy, một mối tương quan dương giữa năng
suất lao động và tỷ lệ lao động đã qua đào tạo: mỗi 1% lao động đã qua đào tạo
tăng thêm sẽ giúp tăng năng suất lao động của toàn bộ nền kinh tế thêm 6,44 triệu đồng.
Thứ ba, đào tạo nghề nói riêng và đào tạo học sinh, sinh viên nói chung dựa trên
nhu cầu của thị trường và của doanh nghiệp. Theo đó, cần xây dựng chương trình
đào tạo dựa trên việc khảo sát nhu cầu của thị trường lao động và tham vấn các
doanh nghiệp. Bên cạnh việc gắn kỹ năng nghề nghiệp với nhu cầu của thị trường,
các kỹ năng quan trọng trong bối cảnh CMCN 4.0 là các kỹ năng mềm, ngoại ngữ,
tin học, khả năng học hỏi trong môi trường làm việc và khả năng đổi mới sáng tạo.
Cùng với đó, tăng cường năng lực đổi mới sáng tạo của người dân, đặc biệt là
người lao động, thông qua việc cải cách, đổi mới phương thức dạy học và chương
trình học. Chương trình học gắn với việc giải quyết các vấn đề cụ thể đặt ra trong cuộc sống.
Thứ tư, tiếp tục cải cách thể chế, nhằm tạo môi trường đầu tư kinh doanh lành
mạnh, minh bạch, công bằng; Đảm bảo các quyền sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu
trí tuệ nhằm tạo ra môi trường lành mạnh, minh bạch để các doanh nghiệp FDI có
thể yên tâm chia sẻ, thiết lập các mối quan hệ dài hạn và tin cậy đối với các doanh
nghiệp trong nước; Thực hiện các ưu đãi, hỗ trợ dựa trên hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp thay vì các ưu đãi hỗ trợ theo lĩnh vực, địa bàn hay quy mô vốn, quy
mô lao động; Nâng cao chất lượng ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất
kinh doanh bằng việc đầu tư nhiều hơn cho nghiên cứu khoa học và khuyến khích
nghiên cứu và phát triển trong các doanh nghiệp.
(theo Tạp chí tài chính: “ Nâng caoa tính cạnh trang của môi trường đầu tư kinh
doanh tại Việt Nam”-28/2/2019)
Unit 1.2 Enhancing the competitiveness business investment climate in Viet Nam
Recently, Vietnam investment climate has been improving remarkably thanks to
close directions from the government within time and proper stances and policies
such as Resolution No. 19-2018/NQ-CP improving the business climate and
enhancing national competitiveness; Resolution No. 35/NQ-CP of the Government
on support and development of enterprises to the year 2020; Developing and
amendments to laws concerning enterprises activities according to international
standards such as Enterprise Law, Investment Law...
Thanks to the great improvement, the business investment climate in Vietnam is
highly appreciated by international organizations. Specifically, Vietnam is regarded
as one of the most competitive economies in the period from 2007-2016 among the
group of low-middle-income countries as stated by the World Bank. According to
the 2018 Global Competitiveness Report, Vietnam fell 3 places from the 2017
ranking, ranked 77th out of 140 countries. In the Asia-Pacific region, Vietnam is in
the middle group with the competitiveness of its business and investment climate
about 40 points from the maximum score possible with other Southeast Asian
countries such as Indonesia, Thailand, and the Philippines. However, if we have a
closer look and focus on the indicators that need to be improved, we can see that
Vietnam’s indicators are lagging behind compared to not only the group of Asian 4
but also other less developed countries such as Laos and Cambodia.
In recent years, the business investment climate has more important steps forward,
however, in response to the practical requirements, in some fields such as human
resource quality, and infrastructure quality, the policies on institutional business
investment quality, should be strongly improved.
Specifically, despite an exuberant workforce and cheap labor cost, the ratio of the
undertraining labor force is low, and skilled trainers have not met the market
demand using the labor force. The proportion of skilled labor in Vietnam is
relatively low compared to the overall level in ASEAN countries. occupational
skills have not yet met the demands and requirements of both domestic and FDI enterprises.
In addition, the policies on investment attraction and incentives, sector-specific,
and investment areas, though contributing to attracting a significant amount of
FDT for economic development, have resulted in some sectors where outcomes
generated by FDI enterprises do not commensurate with the incentives.
Concurrently, the labor productivity in Vietnam remains low compared to countries
in the region and globally. there is an inter-connection labor productivity
improvement and the enhancement of (VN) investment climate competitiveness.
To enhance the competitiveness of the business investment environment, it is
necessary to continue contributing to improving existing weaknesses, and meeting
development needs, with specific attention to the following key solutions:
Firstly, establishing an e-government and simplifying administrative procedures;
Investing further in the development of information technology and
communication infrastructure, creating a foundation for the effective
implementation of Industry 4.0 in enterprises; facilitating the efficient utilization of
the achievements of Industry 4.0 in general and e-government in particular for
citizens and businesses; developing investment climate 4.0 which is relevant to the
requirements of business in the digital era by convenient online solutions for people and enterprises.
Secondly, enhancing the labor productivity of the economy, particularly in the
agricultural sector by increasing the proportion of trained labor throughout the
entire economy. Even though the agricultural sector accounts for up to 40% of the
total workforce in the economy, it is the area with the lowest labor productivity
across the entire economy. Statistical figures demonstrate a positive inter-
connection between labor productivity and the ratio of the undertraining labor
force: every 1% increase in trained labor contributes to an additional 6.44 million
VND in labor productivity for the entire economy.
Thirdly, vocational training and general education for students should be tailored to
meet the demands of the market and businesses. Therefore, it is essential to
develop training programs based on labor market needs and business consultation.
In addition to aligning occupational skills with market demands, crucial skills in
the context of Industry 4.0 include soft skills, foreign languages, computer literacy,
the ability to learn in a work environment, and innovation skills. Simultaneously,
enhancing the innovation capacity of the population, especially the labor force is
achieved through reforming and innovating teaching methods and curricula. The
curriculum should be closely tied to addressing specific challenges in life.
Teaching methods require active learner participation, increasing the practical
component within the total class hours. Participatory teaching method raises the
ratio of practice out of total learning hours.
Fourthly, the Government should continue institutional reforms to establish a
healthy, transparent, and fair business investment climate; ensuring property rights
and the protection of intellectual property to create a healthy and transparent
environment, allowing FDI enterprises to confidently share and establish long-
term, reliable relationships with domestic businesses; implementing incentives and
support based on the efficiency of business operations rather than sector, location,
or the scale of capital and labor. Improving the quality of the application of science
and technology in production and business through more investment in scientific
research and encouragement of R&D.
DỊCH CÂU/ĐOẠN SANG TIẾNG ANH
Những năm gần đây, môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam liên tục được
cải thiện mạnh mẽ. Kết quả này có được là do Chính phủ chỉ đạo sát sao nhiệm
vụ này với nhiều chủ trương, chính sách kịp thời và hiệu quả như:
 Recently, Vietnam investment climate has been improving remarkably thanks to
close directions from the government within time and proper stances and policies such as
Cụ thể, Việt Nam được đánh giá là một trong những nền kinh tế cạnh tranh nhất
trong giai đoạn 2007-2016 của nhóm các nước có thu nhập thấp và nhóm thu
nhập trung bình thấp theo đánh giá của World Bank.
 Specifically, Vietnam is regarded as one of the most competitive economies in
the period from 2007-2016 among the group of low-middle-income countries as stated by the World Bank.
Các kỹ năng nghề nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu, đòi hỏi của các doanh
nghiệp sử dụng lao động cả trong nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
 Occupational skills have not yet met the demands and requirements of both domestic and FDI enterprises
Có một mối tương quan giữa cải thiện năng suất lao động và nâng cao tính cạnh
tranh của môi trường đầu tư kinh doanh.
 There is an inter-connection labor productivity improvement and the
enhancement of (VN) investment climate competitiveness
Xây dựng “Môi trường đầu tư 4.0” phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp trong
thời đại công nghệ số bằng những giải pháp trực tuyến thuận tiện cho người dân và doanh nghiệp.
 Developing investment climate 4.0 which is relevant to the requirements of
business in the digital era by convenient online solutions for people and enterprises.
Theo đó, cần xây dựng chương trình đào tạo dựa trên việc khảo sát nhu cầu của
thị trường lao động và tham vấn các doanh nghiệp
 Accordingly, the training program needs to be built based on labor market
surveys and consultation with business.
Phương pháp dạy học đòi hỏi sự chủ động tham gia của người học, nâng cao tỷ
lệ thực hành trong tổng số giờ học
 Participatory teaching method raises the ratio of practice out of total learning hours
Nâng cao chất lượng ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất kinh doanh
bằng việc đầu tư nhiều hơn cho nghiên cứu khoa học và khuyến khích nghiên
cứu và phát triển trong các doanh nghiệp
 Improving the quality of the application of science and technology in
production and business through more investment in scientific research and encouragement of R&D