Các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh trong thời kì dịch Covid-19 kéo dài | Tiểu luận môn Xã hội học

Kể từ khi COVID – 19 bùng phát vào cuối tháng 12 năm 2019 đến nay, dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus corona (nCoV) (gọi tắt là Đại dịch COVID 19) đã tạo ra một bước ngoặt và sự thay đổi lớn trong đời sống kinh tế - xã hội ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Trong đó, giáo dục được xem là một trong những lĩnh vực chịu tác động nặng nề nhất. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
GVHD: TS. Nguyễn Thị Như Thúy
NHÓM SINH VIÊN THỰC HIỆN:
MÃ HỌC PHẦN: INSO321005_22_2_03




TIỂU LUẬN
NHẬP MÔN XÃ HỘI HỌC
Các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên
trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
trong thời kì dịch Covid-19 kéo dài
Nguyễn Đình Bình An
Tiêu Viết Đạt
Đoàn Phan Bảo Huy
22151168
22151203
22151220
TP.Hồ Chí Minh, tháng 5, năm 2023
DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIUT TIỂU LUÂWN
HỌC KỲ 2 NĂM HỌC 2022-2023
MÃ HỌC PHẦN: INSO321005_22_2_03
Tên đề tài: Các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên trường Đại học
Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh trong thời kì dịch Covid-19 kéo dài
STT HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN MÃ SỐ SINH VIÊN
TỈ LỆ %
HOÀN
THÀNH
Ký tên
1
Nguyễn Đình Bình An 22151168
100%
2
Hà Tấn Đạt
22151199 100%
3
Tiêu Viết Đạt
22151203 100%
4
Đoàn Phan Bảo Huy
22151220 100%
Ghi chú:
Tỷ lệ %: Mức độ phần trăm hoàn thành của từng sinh viên tham gia.
Trưởng nhóm: Nguyễn Đình Bình An
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
Điểm: ……………………………..
Giảng viên ký tên
MỤC LỤC
PHẦN 1: MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
1.1. Lí do chọn đề tài.......................................................................................................1
1.2. Mục đích nghiên cứu................................................................................................1
1.3. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................................2
PHẦN 2: NỘI DUNG.......................................................................................................3
2.1. Các khái niệm liên quan.........................................................................................3
2.1.1. Khái niệm nhân tố ảnh hưởng............................................................................3
2.1.2. Khái niệm kết quả học tập..................................................................................3
2.1.3. Khái niệm trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh............5
2.1.4. Khái niệm và đặc điểm của Sinh viên................................................................5
2.1.5. Khái niệm Covid 19...........................................................................................8
2.2. Liên hệ thực tiễn.....................................................................................................8
2.2.1. Thực trạng vấn đề...............................................................................................8
2.2.2. Những nguyên nhân của vấn đề.......................................................................10
2.2.3. Hệ quả..............................................................................................................14
2.2.4. Giải pháp..........................................................................................................17
PHẦN 3: KUT LUẬN.....................................................................................................22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................24
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Kể từ khi COVID 19 bùng phát vào cuối tháng 12 năm 2019 đến nay, dịch viêm
đường hấp cấp do chủng mới của virus corona (nCoV) (gọi tắt Đại dịch COVID
19) đã tạo ra một bước ngoặtsự thay đổi lớn trong đời sống kinh tế - hội hầu hết
các quốc gia trên thế giới, trong đó Việt Nam. Trong đó, giáo dục được xem một
trong những lĩnh vực chịu c động nặng nề nhất. Theo tổ chức UNESCO, kể từ khi đại
dịch bùng phát đến ngày 8/4/2020, trên thế giới gần 1,6 tỉ học sinh và sinh viên bị ảnh
hưởng; 188 quốc gia buộc phải đóng cửa các trường học trên toàn quốc, gây tác động đến
91.3% tổng số học sinh, sinh viên trên toàn thế giới [12]. Đến thời điểm hiện tại, Việt
Nam đã trải qua 4 đợt bùng phát dịch bệnh COVID 19 ở hầu hết các tỉnh, thành trên cả
nước. Giống như các quốc gia khác, đại dịch COVID 19 không chỉ tác động mạnh mẽ
đến các hoạt động kinh tế - hội, còn ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động giáo dục
Việt Nam.
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hồ Chí Minh nằm ở vị trí có dân cư đông đúc và có số
lượng sinh viên lớn với gần 30 000 sinh viên các bậc, hệ đào tạo khác nhau. Do đó khi đại
dịch COVID 19 bùng nổ rất nhiều nhân tố đã ảnh hưởng rất lớn đến việc học tập,
nghiên cứu của sinh viên.
Từ những vấn đề được đặt ra trên nhóm chúng em quyết định chọn đề tài Các
nhân tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên trường Đại học phạm Kỹ
thuật Thành phố Hồ Chí Minh trong thời dịch covid-19 o dài” làm đề tài nghiên
cứu.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Vấn đề nghiên cứu nhằm đưa ra thực trạng về vấn đề học tập của sinh viên trường Đại
học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh trong đại dịch Covid- 19. Bên cạnh đó,
tìm hiểu, đánh giá phân tích những nhân tố tác động của đại dịch Covid- 19 đến việc
học tập của sinh viên. Từ vấn đề đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị những cách giải
1
quyết thích hợp nhằm giải quyết vấn đề cho việc học tập của sinh viên trường Đại học
phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh.
1.3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập tài liệu: Bài nghiên cứu tham khảo nguồn tài liệu từ nhiều trang
uy tín như UNESCO, Tổng cục Thống kê, Bộ giáo dục,…cùng các trang Website giáo
dục, luận văn, tài liệu nghiên cứu trong và ngoài nước.
Phương pháp thu thập xử số liệu: Thông tin số liệu được lấy từ bài khảo sát
của nhóm với sự tham gia khảo sát của sinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành
Phố Hồ Chí Minh được tiến hành chắt lọc thông tin và xử lý.
2
PHẦN 2: NỘI DUNG
2.1. Các khải niệm liên quan
2.1.1. Khái niệm nhân tố ảnh hưởng
Trong xã hội học, nhân tố ảnh hưởng các yếu tố gây ra sự thay đổi hoặc tác động
đến hành vi, tưởng, hoạt động, quan điểm của con người trong hội. Các nhân tố
này thể bao gồm văn hóa, tôn giáo, địa lý, kinh tế, chính trị, công nghệ, giáo dục, gia
đình, giới tính, tuổi tác, và nhiều yếu tố khác.
Các nhà hội học nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng để hiểu các tác động của
chúng đến sự phát triển của xã hội và cách mà các yếu tố này tương tác với nhau để tạo ra
các hiện tượng hội lớn hơn. dụ, một nhân tố như địa thể ảnh hưởng đến văn
hóa và kinh tế của một khu vực. Nhân tố kinh tế thể tác động đến cách mọi người
tìm kiếm việc làm và tạo ra thu nhập của họ, và nhân tố giáo dục có thể tác động đến kiến
thức và tư duy của một cá nhân.
Bằng cách nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng, nhà xã hội học có thể cung cấp cái nhìn
toàn diện hơn về xã hội và tìm ra các giải pháp cho các vấn đề xã hội quan trọng.
2.1.2. Khái niệm kết quả học tập
Kết quả học tập đề cập đến việc đánh giá kiến thức thu được trong trường, đại học
hoặc đại học. Một sinh viên kết quả học tập tốt một người đạt điểm tích cực trong
các kỳ thi phải được đưa ra trong một khóa học.
Nói cách khác, kết quả học tập là thước đo khả năng của học sinh, thể hiện những
gì học sinh đã học trong suốt quá trình hình thành. cũng giả định khả năng đáp ứng
các kích thích giáo dục của học sinh. Theo nghĩa này, hiệu suất học tập được liên kết
với năng khiếu .
Có những yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến kết quả học tập. Từ khó khăn của một số
môn học, đến số lượng lớn các bài kiểm tra có thể trùng vào một ngày, thông qua việc mở
rộng một số chương trình giáo dục, nhiều dothể khiến học sinh thể hiện kết quả
học tập kém.
3
Các vấn đề khác liên quan trực tiếp đến yếu tố tâm lý, chẳng hạn như động lực thấp,
không quan tâm hoặc mất tập trung trong lớp, gây khó khăn cho việc hiểu kiến thức
giáo viên giảng dạy và cuối cùng ảnh hưởng đến kết quả học tập tại thời điểm đánh giá.
Mặt khác, kết quả học tập thể gắn liền với s chủ quan của giáo viên khi được sửa
chữa. Một số môn học, đặc biệt những môn thuộc về khoa học hội, thể tạo ra
những cách hiểu hoặc giải thích khác nhau, giáo viên phải biết cách phân tích trong
hiệu chỉnh để xác định xem học sinh có hiểu các khái niệm hay không.
Trong mọi trường hợp, các chuyên gia khuyên bạn nên áp dụng thói quen học tập lành
mạnh để cải thiện thành tích học tập; dụ, không phải học nhiều giờ liên tục vào đêm
trước ngày thi, mà để phân chia thời gian dành cho việc học.
Hiệu suất thấp không đồng nghĩa với năng lực thấp
Đã nhiều lần chứng minh rằng tâm trí con người rất phức tạp và các phản ứng và hành
vi của chúng ta không nên được phân tích một cách hời hợt. Đó kiến thức công cộng
rằng Albert Einstein thành tích học tập kém ông đã nghi ngờ năng lực trí tuệ của
mình. Nhưng những trường hợp như của anh ta liên tục xảy ra mọi nơi trên thế giới, ít
nhất là về sự hiểu lầm của giáo viên về hành vi học thuật đáng trách.
Shigeru Miyamoto, được coi là cha đẻ của trò chơi điện tử, đã lo lắng cho gia đình về
việc ông không gắn với việc học; Người ta nói rằng khi anh đang học đại học, anh đã
dành nhiều thời gian để chơi nhạc và vẽ, trong số những trò tiêu khiển nghệ thuật khác, và
điều này đã ảnh hưởng đến việc anh không thể chuẩn bị đầy đủ cho các kỳ thi. Ngày nay,
thiên tài giải trí kỹ thuật số này đang nghĩ về việc nghỉ hưu của mình, sau khi đã cung cấp
cho thế giới một di sản không thể so sánh được, trong hơn một lần, đã đặt nền móng cho
thiết kế trò chơi.
Có thể nói sau đó Einstein và Miyamoto không đủ thông minh để theo đuổi việc học?
khả năng này lý, câu trả lời nhất thiết phải nằm trong một thành phần khác
của phương trình . Trong cả hai trường hợp, họ là những người có tiềm năng sáng tạo phi
thường và hoạt động, giống như một ngọn núi lửa sắp phun trào. Một cá nhân cảm thấy sự
thúc đẩy để tạo ra, để tìm ra con đường của riêng mình khi đối mặt với sự không hài lòng
do môi trường của anh ta, rất dễ nổi loạn trước sự áp đặt của một hệ thống giáo dục khép
4
kín, buộc anh ta phải ghi nhớ ngày và tên thay vì giúp anh ta truy tố năng lực sáng tạo của
họ.
Mặt khác, nhiều quốc gia tố cáo việc sử dụng ngôn ngữ ngày càng kém của giới trẻ,
thiếu ơn gọi cảm giác bất hạnh lan rộng một khi cuộc sống trưởng thành đạt được.
Các hệ thống giáo dục được cấu hình theo cách cùng một người truyền ngôn
ngữ thành công sẽ mắc phải những lỗi chính tả khủng khiếp bất cứ ai quản để vượt
qua tất cả các đối tượng liên quan đến các con số đều không thể thực hiện phép chia đơn
giản nếu không có sự trợ giúp của máy tính.
Nói tóm lại, dựa vào kết quả học tập để đánh giá khả năng trí tuệ của một người
hoàn toàn sai lầm. Nếu giáo dục được điều chỉnh theo nhu cầu của từng cá nhân, nếu kiến
thức không bị ép buộc được khuyến khích học hỏi điều tra, thì rất có thể không ai
thích giải trí để học.
2.1.3. Khái niệm trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minhmột đatrường đại học
ngành tại Việt Nam, sở đào tạo nguồn nhân lực trọng điểm của c nước nói chung
và khu vực Đông Nam Bộ nói riêng. Với thế mạnh về đào tạo kỹ thuật, được đánh giá
một trong những trường đại học kỹ thuật hàng đầu về đào tạo khối ngành kỹ thuật
tại miền Nam.
Trường một trong 6 Đại học phạm Kỹ thuật của cả nước đào tạo kỹ thuật lấy
ứng dụng làm trọng tâm để giảng dạy, có chức năng đào tạo kỹ công nghệ và giáo viên
kỹ thuật. Đồng thời trường cũng trung tâm nghiên cứu khoa học chuyển giao công
nghệ của miền Nam Việt Nam.
2.1.4. Khái niệm và đặc điểm của Sinh viên
Sinh viên là người học tập tại các trường đại học, cao đẳng, trung cấp. Ở đó họ được
truyền đạt kiến thức bài bản về một ngành nghề, chuẩn bị cho công việc sau này của họ.
Họ được xã hội công nhận qua những bằng cấp đạt được trong quá trình học.
5
Theo nghĩa rộng hơn, sinh viên là bất kỳ ai đăng ký chính mình để được tham gia các
khóa học trí tuệ chuyên sâu với một số chủ đề cần thiết để làm chủ như một phần
của một số vấn đề ngoài thực tế trong đó việc làm chủ các kiến thức như vậy đóng vai trò
cơ bản hoặc quyết định.
Tại Vương quốc Anh và Ấn Độ, thuật ngữ “sinh viên” dành cho những người đăng
vào các trường trung học trở lên (ví dụ: cao đẳng hoặc đại học);
Một số đặc điểm cơ bản của sinh viên
Về thể chất: Đây là giai đoạn phát triển ổn định, đồng đều về hệ xương, cơ bắp, tạo ra
nét đẹp hoàn mỹ người thanh niên. Các tố chất về thể lực: sức mạnh, sức bền, dẻo dai,
linh hoạt đều phát triển mạnh nhờ sự phát triển ổn định của các tuyến nội tiết cũng như sự
tăng trưởng các hoóc môn nam và nữ.
Sự phát triển về nhận thức, trí tuệ: Sinh viên giai đoạn hoàn thiện về sự phát triển
thể chất sinh lý. Hoạt động của hệ thần kinh o thời kỳ sung mãn nhất giúp sinh
viên có thể tiến hành hoạt động học tập, lĩnh hội tri thức của mình mức độ chuyên sâu.
Bản chất của hoạt động nhận thức của lứa tuổi này các trường Đại học, Cao đẳng đi
sâu tìm hiểu những lĩnh vực, chuyên ngành khoa học cụ thể nhằm trở thành những
chuyên gia trong những lĩnh vực đó. Hoạt động này phải kế thừa những thành tựu đã có,
đồng thời tiếp nhận phát huy những thành tựu tri thức khoa học đương đại cũng như
góp phần sáng tạo ra các tri thức mới. Vì vậy, hoạt động nhận thức của sinh viên thường
đòi hỏi sự căng thẳng, mệt mỏi về trí tuệ phối hợp nhiều thao tác duy như so sánh,
phân tích, khái quát hoá, trừu tượng hoá...
Sự phát triển về tự ý thức: Tự ý thức một đặc điểm tâm quan trọng của con
người, bắt đầu manh nha hình thành từ tuổi ấu thơ. Đặc điểm này giúp cá nhân tự nhận
thức, đánh giá mình trong các mối quan hệ với người khác, từ đó tự điều chỉnh mình để
thích nghi với hội phù hợp với những định hướng giá trị của chính mình. Đối với
sinh viên, tự ý thức một nét phẩm chất không thể thiếu. Sự phát triển cao của đặc điểm
6
tâm lý này giúp cho sinh viên có thể đánh giá động cơ, kết quả hành động, cũng như đánh
giá tưởng, tình cảm, phong cách đạo đức hứng thú của chính mình, từ đó hiểu biết
thái độ đúng đắn với chính mình với hội. Tự ý thức giúp sinh viên đánh giá
toàn diện hoàn thiện nhân cách của mình cũng như tạo nên những nét độc đáo riêng
của cá nhân để tự khẳng định mình trong xã hội.
Đời sống xúc cảm, tình cảm: Thời kỳ sinh viên thời kỳ phát triển tích cực nhất về
tình cảm trí tuệ, tình cảm thẩm mỹ và tình cảm đạo đức. Những tình cảm này biểu hiện rất
phong phú trong quá trình học tập đời sống của họ. Tình cảm trí tuệ biểu hiện thái
độ tích cực đối với việc chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo; việc tự khám phá, lựa
chọn, vận dụng sáng tạo các phương pháp phương tiện học tập phù hợp với điều kiện
môi trường và hình thức tổ chức dạy học…nhằm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ học tập.
Đồng thời, tình cảm trí tuệ của sinh viên còn thể hiện việc họ tích cực học tập để trở
thành chuyên gia của lĩnh vực chuyên ngành, vừa học tập chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo của chuyên ngành khoa học khác đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của nghề nghiệp trong
t ơng lai, của xã hội cuộc sống bản thân. Tình cảm đạo đức và tình cảm thẩm mỹ củaƣ
sinh viên có chiều sâu rõ rệt, biểu hiện ở chỗ: Sinh viên có thể lý giải, phân tích một cách
có cơ sở những gì mà họ yêu thích, họ có cách cảm, cách nghĩ riêng, có phong cách riêng.
Sự phát triển về động học tập: Một trong các hoạt động chủ đạo của sinh viên
học tập. vậy động học tập một nét tâm quan trọng của sinh viên. mang
những nét đặc trưng khác với các lứa tuổi khác. Đối với sinh viên, động cơ học tập bị chi
phối bởi nhiều yếu tố nhân như nhu cầu, tình cảm, định hướng giá trị, thế giới quan,
niềm tin... Ngoài ra, còn thể hiện tính hệ thống. Hoạt động học tập của sinh viên
không chỉ do một động thúc đẩy mà thường là rất nhiều độngđược sắp xếp theo hệ
thống. Ví dụ: các sinh viên thường tham gia học tập vì động cơ nghề nghiệp, động cơ kinh
tế, động cơ chiếm lĩnh tri thức, động cơ thể hiện mình,... các động cơ này ở mỗi sinh viên
khác nhau thì đượcsắp xếp theo thứ tự ưu tiên khác nhau. Chẳng hạn, có sinh viên thì đặt
7
động cơ chiếm lĩnh tri thức lên hàng đầu, có sinh viên thì coi trọng động cơ thể hiện mình
hơn cả.
2.1.5. Khái niệm Covid 19
COVID-19 là viêm phổi do chủng virus Corona mới (SARS-CoV-2) gây ra. Nó được
phát hiện đầu tiên ở thành phố Vũ Hán, Trung Quốc vào cuối năm 2019 và đã lan rộng ra
khắp thế giới, gây ra một đại dịch toàn cầu.
Các triệu chứng của COVID-19 thể bao gồm sốt, ho, khó thở, mệt mỏi, đau đầu,
đau họng, đau cơ, mất khứu giác hoặc vị giác các triệu chứng khác. Nhiều người bị
nhiễm virus triệu chứng nhẹ hoặc không triệu chứng nào, trong khi một số người
khác có thể trải qua các triệu chứng nghiêm trọng và cần được điều trị tại bệnh viện.
COVID-19 lây lan từ người này sang người kia thông qua giọt bắn, tiếp xúc gần,
qua các bề mặt bị nhiễm bẩn. Để ngăn chặn sự lây lan của COVID-19, các biện pháp
phòng ngừa như giữ khoảng cách hội, đeo khẩu trang, rửa tay thường xuyên bằng
phòng tổ chức các hoạt động nơi không nguy lây nhiễm cao đã được khuyến
cáo.
Để chẩn đoán COVID-19, các bác sĩ sử dụng kết quả xét nghiệm PCR (Polymerase
Chain Reaction) để phát hiện virus SARS-CoV-2 trong mẫu dịch từ mũi hoặc họng của
bệnh nhân. Hiện nay, đã có các loại vắc xin được phát triển để phòng ngừa COVID-19
được sử dụng trên toàn thế giới.
2.2. Liên hệ thực tiễn
2.2.1. Thực trạng vấn đề
Trong thời kỳ dịch bệnh Covid 19, thứ được đại bộ phận sinh viên quan tâm chính
chất lượng học tập và kết quả học tập trong quá trình học online tại nhà. Có rất nhiều khó
8
khăn trong quá trình theo học tập trực tuyến như: chất lượng đường truyền không ổn định,
trục trặc thiết bị học tập, vấn đề tương tác với giảng viên và thành viên trong lớp; Tâm lý
“bão hòa”, chán nản khi phải học tập trước màn hình điện tử trong thời gian dài. Việc này
vừa ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên, vừa ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần
khi không thể trò chuyện với bạn bè như trên lớp trực tiếp.
Do tình hình dịch bệnh căng thẳng, nhà trường đã cho tạm ngừng cho sinh viên đến
trường và thực hiện các đề tài. Điều này đãnh hưởng rất nhiều đến hội thực hành
khả năng giao tiếp, làm việc nhóm của sinh viên. Ngoài ra với một số trường hợp đang
thực tập, làm luận án tốt nghiệp hoặc đang tham gia đề tài, sinh viên gặp rất nhiều khó
khăn khi bị tạm ngưng các lớp thực hành, điều này có thể làm thay đổi kế hoạch định
hướng tương lai của sinh viên.
chủ thể của quá trình học tập, việc chuyển đổi t hình thức học tập truyền thống
sang học tập trực tuyến đặt ra cho sinh viên những thay đổi cần thiết để đảm bảo hoạt
động trực tiếp được diễn ra đúng yêu cầu. Theo đó, sinh viên cũng đã có những thích nghi
nhất định trong việc sử dụng các phương tiện/thiết bị học tập trực tuyến. Điện thoại di
động được xem là thiết bị học tập trực tuyến được sử dụng rộng rãi và phổ biến hơn cả vì
tính tiện lợi của nó. Một số công trình nghiên cứu khác cũng đã cho thấy sự thuận tiện của
việc lựa chọn điện thoại di động như là thiết bị hỗ trợ học tập trực tuyến.
Nhìn chung trong thời gian nghỉ dịch, phần lớn sinh viên dành nhiều thời gian nhất
cho việc học trực tuyến, sau đó thời gian các em tự học. Về thời gian học, trung bình
các ban 2 đến dưới 4 tiếng học trực tuyến, 1 đến dưới 2 tiếng tự học. Điều này cho
thấy,sinh viênnh khoảng 3 đến 6 tiếng dành cho việc học tập mỗi ngày. Kết quả cho
thấy, cần tăng cường hơn nữa thói quen năng lực tự học của sinh viên, việc dành
thời gian cho tự học không chỉ quan trọng trong học trực tuyến mà còn cả trong quá trình
học tập của các bạn sau này.
Sinh viên vùng thành thị đánh giá hiệu quả của việc học trực tuyến cao hơn đánh giá
của sinh viên khu vực nông thôn vùng sâu/xa/hải đảo. Điều này thể giải thích bởi
điều kiện kinh tế, khó khăn về địa hình đã ảnh hưởng đến hiệu quả học trực tuyến của
sinh viên.
9
Việc dạy học chỉ tập trung vào một số môn thể nh hưởng đến sự phát triển toàn
diện của sinh viên, mặc dù điều này có thể xuất phát từ nguyên nhân khách quan như hạn
chế về thời gian học trực tuyến nên phải giảm tải lượng các môn học.
Trong quá trình dạy học trực tuyến, địa điểm học tập được xem một trong những
yếu tố quan trọng quyết định đến chất lượng học tập của sinh viên. Đa phần sinh viên trải
qua hoạt động học tập trực tuyến tại gia đình. Tuy nhiên, đáng chú ý 1 bộ phận nhỏ
sinh viên vẫn phải học nhờ nhà bạn do thiếu phương tiện học tập, thiết bị kết nối hoặc
vấn đề về đường truyền mạng.
Một số sinh viên gặp khó khăn trong quyết định là ở lại hay đi về quê trong mùa dịch.
Chính băn khoăn, đã khiến kết quả học tập của nhiều bạn bị sa sút, ảnh hưởng không
nhỏ trong quá trình học tập lâu dài và toàn diện của các bạn.
Ngoài ra, nhiều bạn gặp khó khăn trong quá trình sinh hoạt tại TPHCM hoặc tại quê
nhà. Kết quả học tập của các bạn này trước đó rất cao, nhưng đã bị giảm sút rệt do
mối lo cơm áo gạo tiền hàng ngày trong mùa dịch.
COVID-19 còn tác động đến hội nghề nghiệp của mỗi sinh viên, đặc biệt sinh
viên sắp tốt nghiệp. Dịch bệnh làm nhiều đơn vị, doanh nghiệp đóng cửa ngừng hoạt động
hoặc cắt giảm nhân sự, nên nhu cầu tuyển dụng không còn nhiều đa dạng như trước,
dẫn đến nỗi lo không hội việc làm thất nghiệp. Dịch bệnh cũng ảnh hưởng ít
nhiều đến việc làm thêm của một số sinh viên, nhất các sinh viên xa nhà, dẫn đến
những mối lo trong sinh hoạt và chi tiêu hằng ngày. Hơn thế nữa, nhu cầu việc làm để
trang trải cuộc sống sinh viên đã trở thành nạn nhân của lừa đảo tiền sức lao
động.
thể thấy, nhiều sinh viên vẫn cho rằng bản thân còn gặp phải một số khó khăn
rào cản nhất định trong quá trình học tập trực tuyến xuất phát từ từ chủ thể người
học và các tác động từ môi trường bên ngoài.
2.2.2. Những nguyên nhân của vấn đề
a. Nguyên nhân chủ quan
10
Kết quả Khảo sát về các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của Trường Đại học
sư phạm kỹ thuật Tp. HCM trong thời kỳ dịch covid-19 kéo dài.
Do sự chủ quan trong mùa dịch của sinh viên. Các bạn mang tâm thế: “Học online thì
điểm sẽ tự cao, không cần phải học nhiều” hay “Thi online thì sẽ mở tài liệu, việc phải
học để mệt ?”. Chính từ những suy nghĩ chủ quan, duy ý chí này đã khiến một số lượng
không nhỏ sinh viên bị rớt môn, điểm số giảm, ảnh hưởng đến kết quả học tập,.. Chính
các bạn sinh viên là chủ thể của học tập cũng thấy rõ được điều này, có tới hơn 30,3% các
bạn học sinh đã vì chủ quan, thiếu động lực học mà ảnh hưởng đến kết quả học tập.
Để hỗ trợ cho việc học trực tuyến một cách hiệu quả, sinh viên cần một mức độ
thành thạo công nghệ nhất định phương pháp học tập phù hợp để tham gia vào các lớp
học và tương tác trên không gian mạng. Trong các lớp học truyền thống, quá trình truyền
đạt và tiếp nhận thông tin được diễn ra trực tiếp và nhanh chóng, sinh viên có thể trực tiếp
phản hồi nêu ý kiến. Sự tương tác trực tiếp này giúp quá trình học tập dễ dàng hơn,
phong phú dễ tiếp thu hơn. Tuy nhiên, khi chuyển đổi hoàn toàn sang hình thức học
trực tuyến đã khiến cho người học gặp nhiều khó khăn do thiếu một số kỹ năng cần thiết
trong học tập. Theo khảo sát, có hơn 27,3% các bạn sinh viên cho rằng: đây chính là lý do
ảnh hướng đến kết quả học tập của các bạn.
11
Việc học trực tuyến trong thời gian dài, liên tục ngồi trước màn hình máy tính, thiếu
sự giao tiếp giữa giảng viên học sinh đã tạo ra tâm chán nản, lười học, thiếu sự chủ
động. Điều này cũng đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình học tập kết quả của sinh
viên. Theo khảo sát được thực hiện, hơn 33% các bạn sinh viên cho rằng: Đại dịch đã
làm tăng căng thẳng mất tập trung cho sinh viên, chẳng hạn như mất việc làm, lo lắng
về sức khỏe trách nhiệm gia đình, những điều này có thể tác động tiêu cực đến sự tập
trung và kết quả học tập của họ.
Việc thiếu các mối quan hệ trực tiếp ngăn cản sự tương tác trong quá trình học
thể khiến sinh viên cảm thấy thiếu động lực học tập. Theo khảo sát được thực hiện,
hơn 33,3% các bạn sinh viên cho rằng điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng học
12
tập của sinh viên, bởi tâm được xem yếu tố cốt lõi đóng vai trò rất quan trọng
quyết định đến hiệu quả học tập.
b. Nguyên nhân khách quan
Các thiết bị và không gian hỗ trợ học tập được xem là một trong những khó khăn lớn
nhất của sinh viên trong học tập trực tuyến. Đường truyền mạng và kết nối internet không
ổn định là khó khăn của hầu hết sinh viên trong việc học trực tuyến. Đối với sinh viên khi
tham gia học tập trực tuyến, một kết nối internet đáng tin cậy điều kiện tiên quyết đối
với việc học của bản thân. Việc đường truyền internet yếu thể ảnh hưởng đến rất lớn
đến việc theo dõi và tiếp thu kiến thức của sinh viên trong các buổi học.
Trên thực tế, việc triển khai thể bị ảnh hưởng bởi nhiều nguyên nhân như năng
tổ chức dạy học trực tuyến của giáo viên, điều kiện cơ sở hạ tầng và thiết bị học tập.
Những khó khăn khác về điều kiện học tập như không gian địa điểm học tập bất lợi;
cũng như việc không hoặc phương tiện học tập không đảm bảo đã gây ảnh hưởng
không nhỏ đến quá trình học tập trực tuyến của sinh viên. Ngoài ra, khi học tập tại nhà, có
nhiều sinh viên cho rằng: “Bản thân bị ảnh hưởng bởi tiếng ồn xung quanh trong quá trình
học trực tuyến.”
Có thể thấy rằng, sinh viên đã chịu nhiều yếu tố tác động chủ quan lẫn khách quan,
ảnh hưởng đến hoạt động học tập trực tuyến của bản thân. Tuy nhiên, nhìn chung, nguyên
nhân chính được chỉ ra do vấn đề kết nối internet, kỹ năng học tập và một số biểu hiện
13
liên quan đến yếu tố tâmtrong quá trình học tập của sinh viên. Do đó, việc đề xuất các
hướng giải pháp hỗ trợ sinh viên trong quá trình học tập trực tuyến cần thiết trong bối
cảnh dịch bệnh COVID-19 vẫn còn diễn biến phức tạp như hiện nay.
2.2.3. Hệ quả
Thời kỳ dịch bệnh COVID-19 đã gây ra tác động rất lớn đối với giáo dục Đại học bởi
quá trình chuyển đổi gần như hoàn toàn từ hình thức đào tạo trực tiếp sang trực tuyến. Chỉ
với một thiết bị có thể kết nối Internet, bạn có thể dễ dàng tham gia lớp học bất cứ đâu,
vào bất cứ lúc nào. Chính vậy hình thức đào tạo này đang được áp dụng rất phổ
biến, đặc biệt vào thời điểm dịch Covid-19 bùng phát mạnh mẽ thì cách học này càng
nhận được sự quan tâm của nhiều người. Tuy mang lại nhiều lợi ích cho chúng ta nhưng
bên cạnh đó, việc học trực tuyến đã tình gây ra vàng hậu quả, khó khănm ảnh
hưởng đến kết quả học tập của học sinh, sinh viên.
Giảm khả năng tương tác giữa giáo viên và sinh viên
Những người học không muốn bị vào khuôn khổ của một nhà trường, những
người luôn cần một “lực đẩy” từ các giáo viên của mình để thể học tốtn sẽ gặp khá
nhiều vấn đề khi tham gia vào các trường trực tuyến. Bởi một trong những hạn chế của
việc học trực tuyến sinh viên sẽ không nhận được sự tương tác với các sinh viên khác
và thầy cô giáo như trong các lớp học thông thường.
Khi học tập tại lớp, các chủ đề khác nhau sẽ được thảo luận xem xét từ nhiều góc
độ. Tất cả các sinh viên đều có thể nêu quan điểm của mình, có thể lắng nghe và suy nghĩ
dựa trên ý kiến của người khác. Đối với người thầy, người đứng lớp thì giảng dạy
trước mặt sinh viên rất quan trọng. Thầy trực tiếp truyền đạt tới sinh viên bằng sự ân
cần, bằng đôi mắt say sưa khi nói về bài dạy, từ đó các em có thể dễ dàng cảm nhận được
ngọn lửa cảm hứng từ người thầy truyền sang, mới cảm thấy yêu thích và say mê môn học
của họ.
Đây chính thứ việc dạy học trực tuyến không thể khi lúc nào sinh viên
cũng chỉ thể nhìn người thầy, người của mình qua màn hình, không thể trao đổi
những gì mình thắc mắc với giáo viên một cách tự nhiên nhất. Những bài giảng của thầy
14
cô cũng mất đi sự truyền cảm khi chúng chỉ được truyền đạt thông qua các văn bản chẳng
hạn như email hoặc diễn đàn thảo luận, thể khiến việc nhận phản hồi ngay lập tức từ
giáo viên trở nên khó khăn hơn. Điều này phần nào ảnh hưởng đến khả năng tiếp thu kiến
thức, kết quả học tập của sinh viên.
Học sinh dễ bị phân tâm, sao nhãng nếu có ý thức học tập kém
Với các vấn đề kỹ thuật công nghệ, hay các vấn đề về đường truyền Internet các
bài giảng đơn điệu, việc tham dự các buổi học tập trực tuyến đã giảm mạnh. Không có sự
ồn ào của bối cảnh lớp học, một số học sinh thể bắt đầu cảm thấy cảm giác bị lập
mạnh mẽ dần dần làm mất đi ham muốn học hỏi của họ. Hầu hết sinh viên thấy việc học
trực tuyến nhàm chán và thường phàn nàn về việc thiếu động lực để tham gia một lớp học
trực tuyến. Dần dần, những sinh viên không có ý thức tự giác sẽ mất đi ham muốn học tập
và dễ bị ảnh hưởng bởi các tác nhân xấu bên ngoài.
Hơn nữa, với việc thiếu kỷ luật trong phương pháp giảng dạy trực tuyến, chất lượng
giáo dục thường bị ảnh hưởng. Việc s dụng điện thoại di động trong giờ học hay làm
việc riêng trong giờ học, người dạy sẽ không thể kiểm soát và quản lý tại các lớp học trực
tuyến. Điều đó dẫn đến hiệu quả lớp học kém, thể nói đây một thách thức khó
khăn khi dạy online mà tất cả người dạy có thể phải đối mặt.
Hình thành thái độ, thói quen học tập không tốt
Trong suốt quá trình học online, sinh viên rất dễ mất tập trung vào việc học. Vì không
ai có thể kiểm soát được mình nên sinh viên chỉ cần tắt cam, tắt mic, treo máy đi làm việc
riêng mà không ai biết. Đến giờ thì chỉ cần lên điểm danh xong sau đó lại bỏ đi. Một khi
việc này diễn ra liên tục thì sinh viên dần mất đi cho mình ý thức tự giác, mất đi tâm trí
học tập. Hơn nữa, việc học kiểm tra online càng dễ cho sinh viên để bản thân lệ thuộc vào
người khác, mất dần khả năng duy, sáng tạo, xử vấn đề. Một khi chúng ta gặp một
bài toán, một câu hỏi, một tình huống hóc búa, thay trước đây trên lớp chúng ta bàn
luận, trao đổi, suy nghĩ tìm câu trả lời thì giờ đây mọi thứ trở nên quá dễ dàng khi
Internet. Không biết chúng ta cứ tra google, không biết chúng ta cứ nhờ sự trợ giúp
15
của các công cụ hỗ trợ. Đến lúc thi, kiểm tra , chính thói quen trước đây sẽ khiến cho
chúng ta hạn chế năng lực của bản thân, không thể tự mình giải quyết vấn đề. Và lâu dần,
không chỉ kết quả học tập của chúng ta sẽ sa sút mà khả năng thực tiễn của chúng ta cũng
bị ảnh hưởng.
Học không đi đôi được với hành
Do tình hình dịch bệnh, sinh viên không thể đến trường . Điều này đã ảnh hưởng rất
nhiều đến cơ hội thực hành và khả năng giao tiếp, làm việc nhóm của sinh viên. Trên thực
tế, dù thuyết của bạn có vững chắc, cao siêu đến mấy mà không được thực hành thì nó
cũng chỉ lý thuyết suông, nằm trên giấy. Vì vậy chúng ta cần quá trình thực hành để
thể vận dụng những thuyết, kiến thức ta đã học được vào trong thực tiễn, từ đó
phát hiện, rút ra cho bản thân mình những kinh nghiệm, những kiến thức mới nằm ngoài
sách vở. Dịch bệnh đã hạn chế hội tìm tòi, học hỏi kiến thức sinh viên học được
thông qua quá trình thực tiễn. Điều này cũng ít nhiều ảnh hưởng đến khả năng học tập của
sinh viên sau này.
Ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe, tâm lí sinh viên
Việc dạy học trực tuyến kéo dài đã gây ra các vấn đề liên quan đến sức khỏe của
người dạy người học khi phải ngồi tiếp xúc với thiết bị điện tử lâukhông vận động
trong thời gian dài.
Theo thống vào năm 2022 của Bệnh viện Sức khỏe tâm thần, tỷ lệ học sinh, sinh
viên đến thăm khám điều trị tại bệnh viện tặng vọt, chiếm đến 30% trên tổng số bệnh
nhân. Còn theo nghiên cứu của Đại học Quốc gia TP.HCM, 56,8% thiếu tập trung
không hứng thú học tập; 48% thấy tự ti, mất phương hướng; 56,2% bị rối loạn giấc ngủ;
35,7% thấy tính tình thay đổi, hay cáu gắt, lo lắng không lý do.
Không những thế, ngồi học trực tuyến quá lâu dễ ảnh hưởng đến mắt, cột sống, xương
khớp. Khi chúng ta ngồi quá lâu nhìn vào màn hình, sinh viên sẽ cảm thấy cùng mệt
mỏi, gây ra tâm chán nản, không muốn học. Dần dần, sức khỏe sinh viên bị giảm sút
làm ảnh hưởng đến khả năng học tập của sinh viên.
16
| 1/29

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH  TIỂU LUẬN
NHẬP MÔN XÃ HỘI HỌC
Các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên
trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
trong thời kì dịch Covid-19 kéo dài
GVHD: TS. Nguyễn Thị Như Thúy
NHÓM SINH VIÊN THỰC HIỆN: Nguyễn Đình Bình An 22151168 Tiêu Viết Đạt 22151203 Đoàn Phan Bảo Huy 22151220
MÃ HỌC PHẦN: INSO321005_22_2_03
TP.Hồ Chí Minh, tháng 5, năm 2023
DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIUT TIỂU LUÂWN
HỌC KỲ 2 NĂM HỌC 2022-2023
MÃ HỌC PHẦN: INSO321005_22_2_03
Tên đề tài:
Các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên trường Đại học
Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh trong thời kì dịch Covid-19 kéo dài TỈ LỆ % STT
HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN MÃ SỐ SINH VIÊN HOÀN Ký tên THÀNH 1 Nguyễn Đình Bình An 22151168 100% 2 Hà Tấn Đạt 22151199 100% 3 Tiêu Viết Đạt 22151203 100% 4 Đoàn Phan Bảo Huy 22151220 100% Ghi chú:
Tỷ lệ %: Mức độ phần trăm hoàn thành của từng sinh viên tham gia.
Trưởng nhóm: Nguyễn Đình Bình An
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
Điểm: …………………………….. Giảng viên ký tên MỤC LỤC
PHẦN 1: MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
1.1. Lí do chọn đề tài.......................................................................................................1
1.2. Mục đích nghiên cứu................................................................................................1
1.3. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................................2
PHẦN 2: NỘI DUNG.......................................................................................................3
2.1. Các khái niệm liên quan.........................................................................................3
2.1.1. Khái niệm nhân tố ảnh hưởng............................................................................3
2.1.2. Khái niệm kết quả học tập..................................................................................3
2.1.3. Khái niệm trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh............5
2.1.4. Khái niệm và đặc điểm của Sinh viên................................................................5
2.1.5. Khái niệm Covid 19...........................................................................................8
2.2. Liên hệ thực tiễn.....................................................................................................8
2.2.1. Thực trạng vấn đề...............................................................................................8
2.2.2. Những nguyên nhân của vấn đề.......................................................................10
2.2.3. Hệ quả..............................................................................................................14
2.2.4. Giải pháp..........................................................................................................17
PHẦN 3: KUT LUẬN.....................................................................................................22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................24 PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Kể từ khi COVID – 19 bùng phát vào cuối tháng 12 năm 2019 đến nay, dịch viêm
đường hô hấp cấp do chủng mới của virus corona (nCoV) (gọi tắt là Đại dịch COVID –
19) đã tạo ra một bước ngoặt và sự thay đổi lớn trong đời sống kinh tế - xã hội ở hầu hết
các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Trong đó, giáo dục được xem là một
trong những lĩnh vực chịu tác động nặng nề nhất. Theo tổ chức UNESCO, kể từ khi đại
dịch bùng phát đến ngày 8/4/2020, trên thế giới có gần 1,6 tỉ học sinh và sinh viên bị ảnh
hưởng; 188 quốc gia buộc phải đóng cửa các trường học trên toàn quốc, gây tác động đến
91.3% tổng số học sinh, sinh viên trên toàn thế giới [12]. Đến thời điểm hiện tại, Việt
Nam đã trải qua 4 đợt bùng phát dịch bệnh COVID – 19 ở hầu hết các tỉnh, thành trên cả
nước. Giống như các quốc gia khác, đại dịch COVID – 19 không chỉ tác động mạnh mẽ
đến các hoạt động kinh tế - xã hội, mà còn ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động giáo dục ở Việt Nam.
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hồ Chí Minh nằm ở vị trí có dân cư đông đúc và có số
lượng sinh viên lớn với gần 30 000 sinh viên các bậc, hệ đào tạo khác nhau. Do đó khi đại
dịch COVID – 19 bùng nổ có rất nhiều nhân tố đã ảnh hưởng rất lớn đến việc học tập,
nghiên cứu của sinh viên.
Từ những vấn đề được đặt ra ở trên nhóm chúng em quyết định chọn đề tài “ Các
nhân tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ
thuật Thành phố Hồ Chí Minh trong thời kì dịch covid-19 kéo dài” làm đề tài nghiên cứu.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Vấn đề nghiên cứu nhằm đưa ra thực trạng về vấn đề học tập của sinh viên trường Đại
học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh trong đại dịch Covid- 19. Bên cạnh đó,
tìm hiểu, đánh giá và phân tích những nhân tố tác động của đại dịch Covid- 19 đến việc
học tập của sinh viên. Từ vấn đề đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị những cách giải 1
quyết thích hợp nhằm giải quyết vấn đề cho việc học tập của sinh viên trường Đại học Sư
phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh.
1.3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập tài liệu: Bài nghiên cứu tham khảo nguồn tài liệu từ nhiều trang
uy tín như UNESCO, Tổng cục Thống kê, Bộ giáo dục,…cùng các trang Website giáo
dục, luận văn, tài liệu nghiên cứu trong và ngoài nước.
Phương pháp thu thập và xử lý số liệu: Thông tin và số liệu được lấy từ bài khảo sát
của nhóm với sự tham gia khảo sát của sinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành
Phố Hồ Chí Minh được tiến hành chắt lọc thông tin và xử lý. 2 PHẦN 2: NỘI DUNG
2.1. Các khải niệm liên quan
2.1.1. Khái niệm nhân tố ảnh hưởng
Trong xã hội học, nhân tố ảnh hưởng là các yếu tố gây ra sự thay đổi hoặc tác động
đến hành vi, tư tưởng, hoạt động, và quan điểm của con người trong xã hội. Các nhân tố
này có thể bao gồm văn hóa, tôn giáo, địa lý, kinh tế, chính trị, công nghệ, giáo dục, gia
đình, giới tính, tuổi tác, và nhiều yếu tố khác.
Các nhà xã hội học nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng để hiểu các tác động của
chúng đến sự phát triển của xã hội và cách mà các yếu tố này tương tác với nhau để tạo ra
các hiện tượng xã hội lớn hơn. Ví dụ, một nhân tố như địa lý có thể ảnh hưởng đến văn
hóa và kinh tế của một khu vực. Nhân tố kinh tế có thể tác động đến cách mà mọi người
tìm kiếm việc làm và tạo ra thu nhập của họ, và nhân tố giáo dục có thể tác động đến kiến
thức và tư duy của một cá nhân.
Bằng cách nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng, nhà xã hội học có thể cung cấp cái nhìn
toàn diện hơn về xã hội và tìm ra các giải pháp cho các vấn đề xã hội quan trọng.
2.1.2. Khái niệm kết quả học tập
Kết quả học tập đề cập đến việc đánh giá kiến thức thu được trong trường, đại học
hoặc đại học. Một sinh viên có kết quả học tập tốt là một người đạt điểm tích cực trong
các kỳ thi phải được đưa ra trong một khóa học.
Nói cách khác, kết quả học tập là thước đo khả năng của học sinh, thể hiện những
gì học sinh đã học trong suốt quá trình hình thành. Nó cũng giả định khả năng đáp ứng
các kích thích giáo dục của học sinh. Theo nghĩa này, hiệu suất học tập được liên kết với năng khiếu .
Có những yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến kết quả học tập. Từ khó khăn của một số
môn học, đến số lượng lớn các bài kiểm tra có thể trùng vào một ngày, thông qua việc mở
rộng một số chương trình giáo dục, có nhiều lý do có thể khiến học sinh thể hiện kết quả học tập kém. 3
Các vấn đề khác liên quan trực tiếp đến yếu tố tâm lý, chẳng hạn như động lực thấp,
không quan tâm hoặc mất tập trung trong lớp, gây khó khăn cho việc hiểu kiến thức mà
giáo viên giảng dạy và cuối cùng ảnh hưởng đến kết quả học tập tại thời điểm đánh giá.
Mặt khác, kết quả học tập có thể gắn liền với sự chủ quan của giáo viên khi được sửa
chữa. Một số môn học, đặc biệt là những môn thuộc về khoa học xã hội, có thể tạo ra
những cách hiểu hoặc giải thích khác nhau, mà giáo viên phải biết cách phân tích trong
hiệu chỉnh để xác định xem học sinh có hiểu các khái niệm hay không.
Trong mọi trường hợp, các chuyên gia khuyên bạn nên áp dụng thói quen học tập lành
mạnh để cải thiện thành tích học tập; ví dụ, không phải học nhiều giờ liên tục vào đêm
trước ngày thi, mà để phân chia thời gian dành cho việc học.
Hiệu suất thấp không đồng nghĩa với năng lực thấp
Đã nhiều lần chứng minh rằng tâm trí con người rất phức tạp và các phản ứng và hành
vi của chúng ta không nên được phân tích một cách hời hợt. Đó là kiến thức công cộng
rằng Albert Einstein có thành tích học tập kém và ông đã nghi ngờ năng lực trí tuệ của
mình. Nhưng những trường hợp như của anh ta liên tục xảy ra ở mọi nơi trên thế giới, ít
nhất là về sự hiểu lầm của giáo viên về hành vi học thuật đáng trách.
Shigeru Miyamoto, được coi là cha đẻ của trò chơi điện tử, đã lo lắng cho gia đình về
việc ông không gắn bó với việc học; Người ta nói rằng khi anh đang học đại học, anh đã
dành nhiều thời gian để chơi nhạc và vẽ, trong số những trò tiêu khiển nghệ thuật khác, và
điều này đã ảnh hưởng đến việc anh không thể chuẩn bị đầy đủ cho các kỳ thi. Ngày nay,
thiên tài giải trí kỹ thuật số này đang nghĩ về việc nghỉ hưu của mình, sau khi đã cung cấp
cho thế giới một di sản không thể so sánh được, trong hơn một lần, đã đặt nền móng cho thiết kế trò chơi.
Có thể nói sau đó Einstein và Miyamoto không đủ thông minh để theo đuổi việc học?
Vì khả năng này là vô lý, câu trả lời nhất thiết phải nằm trong một thành phần khác
của phương trình . Trong cả hai trường hợp, họ là những người có tiềm năng sáng tạo phi
thường và hoạt động, giống như một ngọn núi lửa sắp phun trào. Một cá nhân cảm thấy sự
thúc đẩy để tạo ra, để tìm ra con đường của riêng mình khi đối mặt với sự không hài lòng
do môi trường của anh ta, rất dễ nổi loạn trước sự áp đặt của một hệ thống giáo dục khép 4
kín, buộc anh ta phải ghi nhớ ngày và tên thay vì giúp anh ta truy tố năng lực sáng tạo của họ.
Mặt khác, nhiều quốc gia tố cáo việc sử dụng ngôn ngữ ngày càng kém của giới trẻ,
thiếu ơn gọi và cảm giác bất hạnh lan rộng một khi cuộc sống trưởng thành đạt được.
Các hệ thống giáo dục được cấu hình theo cách mà cùng một người truyền ngôn
ngữ thành công sẽ mắc phải những lỗi chính tả khủng khiếp và bất cứ ai quản lý để vượt
qua tất cả các đối tượng liên quan đến các con số đều không thể thực hiện phép chia đơn
giản nếu không có sự trợ giúp của máy tính.
Nói tóm lại, dựa vào kết quả học tập để đánh giá khả năng trí tuệ của một người là
hoàn toàn sai lầm. Nếu giáo dục được điều chỉnh theo nhu cầu của từng cá nhân, nếu kiến
thức không bị ép buộc mà được khuyến khích học hỏi và điều tra, thì rất có thể không ai
thích giải trí để học.
2.1.3. Khái niệm trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh là một trường đại học đa
ngành tại Việt Nam, là cơ sở đào tạo nguồn nhân lực trọng điểm của cả nước nói chung
và khu vực Đông Nam Bộ nói riêng. Với thế mạnh về đào tạo kỹ thuật, được đánh giá là
một trong những trường đại học kỹ thuật hàng đầu về đào tạo khối ngành kỹ thuật tại miền Nam.
Trường là một trong 6 Đại học Sư phạm Kỹ thuật của cả nước – đào tạo kỹ thuật lấy
ứng dụng làm trọng tâm để giảng dạy, có chức năng đào tạo kỹ sư công nghệ và giáo viên
kỹ thuật. Đồng thời trường cũng là trung tâm nghiên cứu khoa học và chuyển giao công
nghệ của miền Nam Việt Nam.
2.1.4. Khái niệm và đặc điểm của Sinh viên
Sinh viên là người học tập tại các trường đại học, cao đẳng, trung cấp. Ở đó họ được
truyền đạt kiến thức bài bản về một ngành nghề, chuẩn bị cho công việc sau này của họ.
Họ được xã hội công nhận qua những bằng cấp đạt được trong quá trình học. 5
Theo nghĩa rộng hơn, sinh viên là bất kỳ ai đăng ký chính mình để được tham gia các
khóa học trí tuệ chuyên sâu với một số chủ đề cần thiết để làm chủ nó như là một phần
của một số vấn đề ngoài thực tế trong đó việc làm chủ các kiến thức như vậy đóng vai trò
cơ bản hoặc quyết định.
Tại Vương quốc Anh và Ấn Độ, thuật ngữ “sinh viên” dành cho những người đăng ký
vào các trường trung học trở lên (ví dụ: cao đẳng hoặc đại học);
Một số đặc điểm cơ bản của sinh viên
Về thể chất: Đây là giai đoạn phát triển ổn định, đồng đều về hệ xương, cơ bắp, tạo ra
nét đẹp hoàn mỹ ở người thanh niên. Các tố chất về thể lực: sức mạnh, sức bền, dẻo dai,
linh hoạt đều phát triển mạnh nhờ sự phát triển ổn định của các tuyến nội tiết cũng như sự
tăng trưởng các hoóc môn nam và nữ.
Sự phát triển về nhận thức, trí tuệ: Sinh viên là giai đoạn hoàn thiện về sự phát triển
thể chất và sinh lý. Hoạt động của hệ thần kinh ở vào thời kỳ sung mãn nhất giúp sinh
viên có thể tiến hành hoạt động học tập, lĩnh hội tri thức của mình ở mức độ chuyên sâu.
Bản chất của hoạt động nhận thức của lứa tuổi này ở các trường Đại học, Cao đẳng là đi
sâu tìm hiểu những lĩnh vực, chuyên ngành khoa học cụ thể nhằm trở thành những
chuyên gia trong những lĩnh vực đó. Hoạt động này phải kế thừa những thành tựu đã có,
đồng thời tiếp nhận và phát huy những thành tựu tri thức khoa học đương đại cũng như
góp phần sáng tạo ra các tri thức mới. Vì vậy, hoạt động nhận thức của sinh viên thường
đòi hỏi sự căng thẳng, mệt mỏi về trí tuệ và phối hợp nhiều thao tác tư duy như so sánh,
phân tích, khái quát hoá, trừu tượng hoá...
Sự phát triển về tự ý thức: Tự ý thức là một đặc điểm tâm lý quan trọng của con
người, bắt đầu manh nha hình thành từ tuổi ấu thơ. Đặc điểm này giúp cá nhân tự nhận
thức, đánh giá mình trong các mối quan hệ với người khác, từ đó tự điều chỉnh mình để
thích nghi với xã hội và phù hợp với những định hướng giá trị của chính mình. Đối với
sinh viên, tự ý thức là một nét phẩm chất không thể thiếu. Sự phát triển cao của đặc điểm 6
tâm lý này giúp cho sinh viên có thể đánh giá động cơ, kết quả hành động, cũng như đánh
giá tư tưởng, tình cảm, phong cách đạo đức và hứng thú của chính mình, từ đó hiểu biết
và có thái độ đúng đắn với chính mình và với xã hội. Tự ý thức giúp sinh viên đánh giá
toàn diện và hoàn thiện nhân cách của mình cũng như tạo nên những nét độc đáo riêng
của cá nhân để tự khẳng định mình trong xã hội.
Đời sống xúc cảm, tình cảm: Thời kỳ sinh viên là thời kỳ phát triển tích cực nhất về
tình cảm trí tuệ, tình cảm thẩm mỹ và tình cảm đạo đức. Những tình cảm này biểu hiện rất
phong phú trong quá trình học tập và đời sống của họ. Tình cảm trí tuệ biểu hiện rõ thái
độ tích cực đối với việc chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo; ở việc tự khám phá, lựa
chọn, vận dụng sáng tạo các phương pháp và phương tiện học tập phù hợp với điều kiện
môi trường và hình thức tổ chức dạy học…nhằm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ học tập.
Đồng thời, tình cảm trí tuệ của sinh viên còn thể hiện ở việc họ tích cực học tập để trở
thành chuyên gia của lĩnh vực chuyên ngành, vừa học tập chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo của chuyên ngành khoa học khác đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của nghề nghiệp trong t ơng ƣ
lai, của xã hội và cuộc sống bản thân. Tình cảm đạo đức và tình cảm thẩm mỹ của
sinh viên có chiều sâu rõ rệt, biểu hiện ở chỗ: Sinh viên có thể lý giải, phân tích một cách
có cơ sở những gì mà họ yêu thích, họ có cách cảm, cách nghĩ riêng, có phong cách riêng.
Sự phát triển về động cơ học tập: Một trong các hoạt động chủ đạo của sinh viên là
học tập. Vì vậy động cơ học tập là một nét tâm lý quan trọng của sinh viên. Nó mang
những nét đặc trưng khác với các lứa tuổi khác. Đối với sinh viên, động cơ học tập bị chi
phối bởi nhiều yếu tố cá nhân như nhu cầu, tình cảm, định hướng giá trị, thế giới quan,
niềm tin... Ngoài ra, nó còn thể hiện rõ tính hệ thống. Hoạt động học tập của sinh viên
không chỉ do một động cơ thúc đẩy mà thường là rất nhiều động cơ được sắp xếp theo hệ
thống. Ví dụ: các sinh viên thường tham gia học tập vì động cơ nghề nghiệp, động cơ kinh
tế, động cơ chiếm lĩnh tri thức, động cơ thể hiện mình,... các động cơ này ở mỗi sinh viên
khác nhau thì đượcsắp xếp theo thứ tự ưu tiên khác nhau. Chẳng hạn, có sinh viên thì đặt 7
động cơ chiếm lĩnh tri thức lên hàng đầu, có sinh viên thì coi trọng động cơ thể hiện mình hơn cả.
2.1.5. Khái niệm Covid 19
COVID-19 là viêm phổi do chủng virus Corona mới (SARS-CoV-2) gây ra. Nó được
phát hiện đầu tiên ở thành phố Vũ Hán, Trung Quốc vào cuối năm 2019 và đã lan rộng ra
khắp thế giới, gây ra một đại dịch toàn cầu.
Các triệu chứng của COVID-19 có thể bao gồm sốt, ho, khó thở, mệt mỏi, đau đầu,
đau họng, đau cơ, mất khứu giác hoặc vị giác và các triệu chứng khác. Nhiều người bị
nhiễm virus có triệu chứng nhẹ hoặc không có triệu chứng nào, trong khi một số người
khác có thể trải qua các triệu chứng nghiêm trọng và cần được điều trị tại bệnh viện.
COVID-19 lây lan từ người này sang người kia thông qua giọt bắn, tiếp xúc gần, và
qua các bề mặt bị nhiễm bẩn. Để ngăn chặn sự lây lan của COVID-19, các biện pháp
phòng ngừa như giữ khoảng cách xã hội, đeo khẩu trang, rửa tay thường xuyên bằng xà
phòng và tổ chức các hoạt động ở nơi không có nguy cơ lây nhiễm cao đã được khuyến cáo.
Để chẩn đoán COVID-19, các bác sĩ sử dụng kết quả xét nghiệm PCR (Polymerase
Chain Reaction) để phát hiện virus SARS-CoV-2 trong mẫu dịch từ mũi hoặc họng của
bệnh nhân. Hiện nay, đã có các loại vắc xin được phát triển để phòng ngừa COVID-19 và
được sử dụng trên toàn thế giới.
2.2. Liên hệ thực tiễn
2.2.1. Thực trạng vấn đề
Trong thời kỳ dịch bệnh Covid 19, thứ được đại bộ phận sinh viên quan tâm chính là
chất lượng học tập và kết quả học tập trong quá trình học online tại nhà. Có rất nhiều khó 8
khăn trong quá trình theo học tập trực tuyến như: chất lượng đường truyền không ổn định,
trục trặc thiết bị học tập, vấn đề tương tác với giảng viên và thành viên trong lớp; Tâm lý
“bão hòa”, chán nản khi phải học tập trước màn hình điện tử trong thời gian dài. Việc này
vừa ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên, vừa ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần
khi không thể trò chuyện với bạn bè như trên lớp trực tiếp.
Do tình hình dịch bệnh căng thẳng, nhà trường đã cho tạm ngừng cho sinh viên đến
trường và thực hiện các đề tài. Điều này đã ảnh hưởng rất nhiều đến cơ hội thực hành và
khả năng giao tiếp, làm việc nhóm của sinh viên. Ngoài ra với một số trường hợp đang
thực tập, làm luận án tốt nghiệp hoặc đang tham gia đề tài, sinh viên gặp rất nhiều khó
khăn khi bị tạm ngưng các lớp thực hành, điều này có thể làm thay đổi kế hoạch và định
hướng tương lai của sinh viên.
Là chủ thể của quá trình học tập, việc chuyển đổi từ hình thức học tập truyền thống
sang học tập trực tuyến đặt ra cho sinh viên những thay đổi cần thiết để đảm bảo hoạt
động trực tiếp được diễn ra đúng yêu cầu. Theo đó, sinh viên cũng đã có những thích nghi
nhất định trong việc sử dụng các phương tiện/thiết bị học tập trực tuyến. Điện thoại di
động được xem là thiết bị học tập trực tuyến được sử dụng rộng rãi và phổ biến hơn cả vì
tính tiện lợi của nó. Một số công trình nghiên cứu khác cũng đã cho thấy sự thuận tiện của
việc lựa chọn điện thoại di động như là thiết bị hỗ trợ học tập trực tuyến.
Nhìn chung trong thời gian nghỉ dịch, phần lớn sinh viên dành nhiều thời gian nhất
cho việc học trực tuyến, sau đó là thời gian các em tự học. Về thời gian học, trung bình
các ban có 2 đến dưới 4 tiếng học trực tuyến, 1 đến dưới 2 tiếng tự học. Điều này cho
thấy,sinh viên dành khoảng 3 đến 6 tiếng dành cho việc học tập mỗi ngày. Kết quả cho
thấy, cần tăng cường hơn nữa thói quen và năng lực tự học của sinh viên, vì việc dành
thời gian cho tự học không chỉ quan trọng trong học trực tuyến mà còn cả trong quá trình
học tập của các bạn sau này.
Sinh viên vùng thành thị đánh giá hiệu quả của việc học trực tuyến cao hơn đánh giá
của sinh viên khu vực nông thôn và vùng sâu/xa/hải đảo. Điều này có thể giải thích bởi
điều kiện kinh tế, khó khăn về địa hình đã ảnh hưởng đến hiệu quả học trực tuyến của sinh viên. 9
Việc dạy học chỉ tập trung vào một số môn có thể ảnh hưởng đến sự phát triển toàn
diện của sinh viên, mặc dù điều này có thể xuất phát từ nguyên nhân khách quan như hạn
chế về thời gian học trực tuyến nên phải giảm tải lượng các môn học.
Trong quá trình dạy học trực tuyến, địa điểm học tập được xem là một trong những
yếu tố quan trọng quyết định đến chất lượng học tập của sinh viên. Đa phần sinh viên trải
qua hoạt động học tập trực tuyến tại gia đình. Tuy nhiên, đáng chú ý là có 1 bộ phận nhỏ
sinh viên vẫn phải học nhờ nhà bạn do thiếu phương tiện học tập, thiết bị kết nối hoặc có
vấn đề về đường truyền mạng.
Một số sinh viên gặp khó khăn trong quyết định là ở lại hay đi về quê trong mùa dịch.
Chính vì băn khoăn, đã khiến kết quả học tập của nhiều bạn bị sa sút, ảnh hưởng không
nhỏ trong quá trình học tập lâu dài và toàn diện của các bạn.
Ngoài ra, nhiều bạn gặp khó khăn trong quá trình sinh hoạt tại TPHCM hoặc tại quê
nhà. Kết quả học tập của các bạn này trước đó dù rất cao, nhưng đã bị giảm sút rõ rệt do
mối lo cơm áo gạo tiền hàng ngày trong mùa dịch.
COVID-19 còn tác động đến cơ hội nghề nghiệp của mỗi sinh viên, đặc biệt là sinh
viên sắp tốt nghiệp. Dịch bệnh làm nhiều đơn vị, doanh nghiệp đóng cửa ngừng hoạt động
hoặc cắt giảm nhân sự, nên nhu cầu tuyển dụng không còn nhiều và đa dạng như trước,
dẫn đến nỗi lo không có cơ hội việc làm và thất nghiệp. Dịch bệnh cũng ảnh hưởng ít
nhiều đến việc làm thêm của một số sinh viên, nhất là là các sinh viên xa nhà, dẫn đến
những mối lo trong sinh hoạt và chi tiêu hằng ngày. Hơn thế nữa, vì nhu cầu việc làm để
trang trải cuộc sống mà có sinh viên đã trở thành nạn nhân của lừa đảo tiền và sức lao động.
 Có thể thấy, nhiều sinh viên vẫn cho rằng bản thân còn gặp phải một số khó khăn
và rào cản nhất định trong quá trình học tập trực tuyến xuất phát từ từ chủ thể là người
học và các tác động từ môi trường bên ngoài.
2.2.2. Những nguyên nhân của vấn đề a. Nguyên nhân chủ quan 10
Kết quả Khảo sát về các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của Trường Đại học
sư phạm kỹ thuật Tp. HCM trong thời kỳ dịch covid-19 kéo dài.
Do sự chủ quan trong mùa dịch của sinh viên. Các bạn mang tâm thế: “Học online thì
điểm sẽ tự cao, không cần phải học nhiều” hay “Thi online thì sẽ mở tài liệu, việc gì phải
học để mệt ?”. Chính từ những suy nghĩ chủ quan, duy ý chí này đã khiến một số lượng
không nhỏ sinh viên bị rớt môn, điểm số giảm, ảnh hưởng đến kết quả học tập,.. Chính
các bạn sinh viên là chủ thể của học tập cũng thấy rõ được điều này, có tới hơn 30,3% các
bạn học sinh đã vì chủ quan, thiếu động lực học mà ảnh hưởng đến kết quả học tập.
Để hỗ trợ cho việc học trực tuyến một cách hiệu quả, sinh viên cần có một mức độ
thành thạo công nghệ nhất định và phương pháp học tập phù hợp để tham gia vào các lớp
học và tương tác trên không gian mạng. Trong các lớp học truyền thống, quá trình truyền
đạt và tiếp nhận thông tin được diễn ra trực tiếp và nhanh chóng, sinh viên có thể trực tiếp
phản hồi và nêu ý kiến. Sự tương tác trực tiếp này giúp quá trình học tập dễ dàng hơn,
phong phú và dễ tiếp thu hơn. Tuy nhiên, khi chuyển đổi hoàn toàn sang hình thức học
trực tuyến đã khiến cho người học gặp nhiều khó khăn do thiếu một số kỹ năng cần thiết
trong học tập. Theo khảo sát, có hơn 27,3% các bạn sinh viên cho rằng: đây chính là lý do
ảnh hướng đến kết quả học tập của các bạn. 11
Việc học trực tuyến trong thời gian dài, liên tục ngồi trước màn hình máy tính, thiếu
sự giao tiếp giữa giảng viên và học sinh đã tạo ra tâm lý chán nản, lười học, thiếu sự chủ
động. Điều này cũng đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình học tập và kết quả của sinh
viên. Theo khảo sát được thực hiện, có hơn 33% các bạn sinh viên cho rằng: Đại dịch đã
làm tăng căng thẳng và mất tập trung cho sinh viên, chẳng hạn như mất việc làm, lo lắng
về sức khỏe và trách nhiệm gia đình, những điều này có thể tác động tiêu cực đến sự tập
trung và kết quả học tập của họ.
Việc thiếu các mối quan hệ trực tiếp ngăn cản sự tương tác trong quá trình học và có
thể khiến sinh viên cảm thấy thiếu động lực học tập. Theo khảo sát được thực hiện, có
hơn 33,3% các bạn sinh viên cho rằng điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng học 12
tập của sinh viên, bởi vì tâm lý được xem là yếu tố cốt lõi và đóng vai trò rất quan trọng
quyết định đến hiệu quả học tập. b. Nguyên nhân khách quan
Các thiết bị và không gian hỗ trợ học tập được xem là một trong những khó khăn lớn
nhất của sinh viên trong học tập trực tuyến. Đường truyền mạng và kết nối internet không
ổn định là khó khăn của hầu hết sinh viên trong việc học trực tuyến. Đối với sinh viên khi
tham gia học tập trực tuyến, một kết nối internet đáng tin cậy là điều kiện tiên quyết đối
với việc học của bản thân. Việc đường truyền internet yếu có thể ảnh hưởng đến rất lớn
đến việc theo dõi và tiếp thu kiến thức của sinh viên trong các buổi học.
Trên thực tế, việc triển khai có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều nguyên nhân như kĩ năng
tổ chức dạy học trực tuyến của giáo viên, điều kiện cơ sở hạ tầng và thiết bị học tập.
Những khó khăn khác về điều kiện học tập như không gian địa điểm học tập bất lợi;
cũng như việc không có hoặc phương tiện học tập không đảm bảo đã gây ảnh hưởng
không nhỏ đến quá trình học tập trực tuyến của sinh viên. Ngoài ra, khi học tập tại nhà, có
nhiều sinh viên cho rằng: “Bản thân bị ảnh hưởng bởi tiếng ồn xung quanh trong quá trình học trực tuyến.”
 Có thể thấy rằng, sinh viên đã chịu nhiều yếu tố tác động chủ quan lẫn khách quan,
ảnh hưởng đến hoạt động học tập trực tuyến của bản thân. Tuy nhiên, nhìn chung, nguyên
nhân chính được chỉ ra là do vấn đề kết nối internet, kỹ năng học tập và một số biểu hiện 13
liên quan đến yếu tố tâm lý trong quá trình học tập của sinh viên. Do đó, việc đề xuất các
hướng giải pháp hỗ trợ sinh viên trong quá trình học tập trực tuyến là cần thiết trong bối
cảnh dịch bệnh COVID-19 vẫn còn diễn biến phức tạp như hiện nay. 2.2.3. Hệ quả
Thời kỳ dịch bệnh COVID-19 đã gây ra tác động rất lớn đối với giáo dục Đại học bởi
quá trình chuyển đổi gần như hoàn toàn từ hình thức đào tạo trực tiếp sang trực tuyến. Chỉ
với một thiết bị có thể kết nối Internet, bạn có thể dễ dàng tham gia lớp học ở bất cứ đâu,
vào bất cứ lúc nào. Chính vì vậy mà hình thức đào tạo này đang được áp dụng rất phổ
biến, đặc biệt là vào thời điểm dịch Covid-19 bùng phát mạnh mẽ thì cách học này càng
nhận được sự quan tâm của nhiều người. Tuy mang lại nhiều lợi ích cho chúng ta nhưng
bên cạnh đó, việc học trực tuyến đã vô tình gây ra vô vàng hậu quả, khó khăn làm ảnh
hưởng đến kết quả học tập của học sinh, sinh viên.
Giảm khả năng tương tác giữa giáo viên và sinh viên
Những người học không muốn bị gò bó vào khuôn khổ của một nhà trường, những
người luôn cần một “lực đẩy” từ các giáo viên của mình để có thể học tốt hơn sẽ gặp khá
nhiều vấn đề khi tham gia vào các trường trực tuyến. Bởi một trong những hạn chế của
việc học trực tuyến là sinh viên sẽ không nhận được sự tương tác với các sinh viên khác
và thầy cô giáo như trong các lớp học thông thường.
Khi học tập tại lớp, các chủ đề khác nhau sẽ được thảo luận và xem xét từ nhiều góc
độ. Tất cả các sinh viên đều có thể nêu quan điểm của mình, có thể lắng nghe và suy nghĩ
dựa trên ý kiến của người khác. Đối với người thầy, người cô đứng lớp thì giảng dạy
trước mặt sinh viên rất quan trọng. Thầy cô trực tiếp truyền đạt tới sinh viên bằng sự ân
cần, bằng đôi mắt say sưa khi nói về bài dạy, từ đó các em có thể dễ dàng cảm nhận được
ngọn lửa cảm hứng từ người thầy truyền sang, mới cảm thấy yêu thích và say mê môn học của họ.
Đây chính là thứ mà việc dạy học trực tuyến không thể có khi mà lúc nào sinh viên
cũng chỉ có thể nhìn người thầy, người cô của mình qua màn hình, không thể trao đổi
những gì mình thắc mắc với giáo viên một cách tự nhiên nhất. Những bài giảng của thầy 14
cô cũng mất đi sự truyền cảm khi chúng chỉ được truyền đạt thông qua các văn bản chẳng
hạn như email hoặc diễn đàn thảo luận, có thể khiến việc nhận phản hồi ngay lập tức từ
giáo viên trở nên khó khăn hơn. Điều này phần nào ảnh hưởng đến khả năng tiếp thu kiến
thức, kết quả học tập của sinh viên.
Học sinh dễ bị phân tâm, sao nhãng nếu có ý thức học tập kém
Với các vấn đề kỹ thuật công nghệ, hay các vấn đề về đường truyền Internet và các
bài giảng đơn điệu, việc tham dự các buổi học tập trực tuyến đã giảm mạnh. Không có sự
ồn ào của bối cảnh lớp học, một số học sinh có thể bắt đầu cảm thấy cảm giác bị cô lập
mạnh mẽ dần dần làm mất đi ham muốn học hỏi của họ. Hầu hết sinh viên thấy việc học
trực tuyến nhàm chán và thường phàn nàn về việc thiếu động lực để tham gia một lớp học
trực tuyến. Dần dần, những sinh viên không có ý thức tự giác sẽ mất đi ham muốn học tập
và dễ bị ảnh hưởng bởi các tác nhân xấu bên ngoài.
Hơn nữa, với việc thiếu kỷ luật trong phương pháp giảng dạy trực tuyến, chất lượng
giáo dục thường bị ảnh hưởng. Việc sử dụng điện thoại di động trong giờ học hay làm
việc riêng trong giờ học, người dạy sẽ không thể kiểm soát và quản lý tại các lớp học trực
tuyến. Điều đó dẫn đến hiệu quả lớp học kém, có thể nói đây là một thách thức và khó
khăn khi dạy online mà tất cả người dạy có thể phải đối mặt.
Hình thành thái độ, thói quen học tập không tốt
Trong suốt quá trình học online, sinh viên rất dễ mất tập trung vào việc học. Vì không
ai có thể kiểm soát được mình nên sinh viên chỉ cần tắt cam, tắt mic, treo máy đi làm việc
riêng mà không ai biết. Đến giờ thì chỉ cần lên điểm danh xong sau đó lại bỏ đi. Một khi
việc này diễn ra liên tục thì sinh viên dần mất đi cho mình ý thức tự giác, mất đi tâm trí
học tập. Hơn nữa, việc học kiểm tra online càng dễ cho sinh viên để bản thân lệ thuộc vào
người khác, mất dần khả năng tư duy, sáng tạo, xử lí vấn đề. Một khi chúng ta gặp một
bài toán, một câu hỏi, một tình huống hóc búa, thay vì trước đây trên lớp chúng ta bàn
luận, trao đổi, suy nghĩ tìm câu trả lời thì giờ đây mọi thứ trở nên quá dễ dàng khi có
Internet. Không biết gì chúng ta cứ tra google, không biết gì chúng ta cứ nhờ sự trợ giúp 15
của các công cụ hỗ trợ. Đến lúc thi, kiểm tra , chính thói quen trước đây sẽ khiến cho
chúng ta hạn chế năng lực của bản thân, không thể tự mình giải quyết vấn đề. Và lâu dần,
không chỉ kết quả học tập của chúng ta sẽ sa sút mà khả năng thực tiễn của chúng ta cũng bị ảnh hưởng.
Học không đi đôi được với hành
Do tình hình dịch bệnh, sinh viên không thể đến trường . Điều này đã ảnh hưởng rất
nhiều đến cơ hội thực hành và khả năng giao tiếp, làm việc nhóm của sinh viên. Trên thực
tế, dù lý thuyết của bạn có vững chắc, cao siêu đến mấy mà không được thực hành thì nó
cũng chỉ là lý thuyết suông, nằm trên giấy. Vì vậy chúng ta cần có quá trình thực hành để
có thể vận dụng những lý thuyết, kiến thức mà ta đã học được vào trong thực tiễn, từ đó
phát hiện, rút ra cho bản thân mình những kinh nghiệm, những kiến thức mới nằm ngoài
sách vở. Dịch bệnh đã hạn chế cơ hội tìm tòi, học hỏi kiến thức mà sinh viên học được
thông qua quá trình thực tiễn. Điều này cũng ít nhiều ảnh hưởng đến khả năng học tập của sinh viên sau này.
Ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe, tâm lí sinh viên
Việc dạy và học trực tuyến kéo dài đã gây ra các vấn đề liên quan đến sức khỏe của
người dạy và người học khi phải ngồi tiếp xúc với thiết bị điện tử lâu và không vận động trong thời gian dài.
Theo thống kê vào năm 2022 của Bệnh viện Sức khỏe tâm thần, tỷ lệ học sinh, sinh
viên đến thăm khám và điều trị tại bệnh viện tặng vọt, chiếm đến 30% trên tổng số bệnh
nhân. Còn theo nghiên cứu của Đại học Quốc gia TP.HCM, có 56,8% thiếu tập trung và
không hứng thú học tập; 48% thấy tự ti, mất phương hướng; 56,2% bị rối loạn giấc ngủ;
35,7% thấy tính tình thay đổi, hay cáu gắt, lo lắng không lý do.
Không những thế, ngồi học trực tuyến quá lâu dễ ảnh hưởng đến mắt, cột sống, xương
khớp. Khi chúng ta ngồi quá lâu nhìn vào màn hình, sinh viên sẽ cảm thấy vô cùng mệt
mỏi, gây ra tâm lí chán nản, không muốn học. Dần dần, sức khỏe sinh viên bị giảm sút
làm ảnh hưởng đến khả năng học tập của sinh viên. 16