Vấn đề bất bình đẳng giới trong xã hội ngày nay | Tiểu luận môn Xã hội học Trường đại học sư phạm kĩ thuật TP. Hồ Chí Minh

Trong xã hội ngày nay, bất bình đẳng giới là một vấn đề nóng hổi, đáng quan ngại và cần được tìm hiểu sâu hơn. Hằng ngày, chúng ta chứng kiến những tác động tiêu cực của bất bình đẳng giới trong cuộc sống của chúng ta. Từ sự chênh lệch thu nhập, sự kỳ thị và bạo lực, đến sự thiếu công bằng trong cơ hội và quyền lợi, bất bình đẳng giới đã lan rộng và gây ảnh hưởng đến mọi người trên khắp thế giới. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
Học kỳ 2/2021-2022
NHẬP MÔN XÃ HỘI HỌC
VẤN ĐỀ BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG XÃ HỘI
NGÀY NAY
GVHD: GVC.TS NGUYỄN THỊ NHƯ THÚY
MÃ HP: INSO321005_22_2_02
NHÓM SINH VIÊN THỰC HIỆN:
TP.HCM, 5/2023
STT Họ tên MSSV
1 Trần Thị Kim Phượng 22133044
2 Nguyễn Đinh Hồng Phúc 22133041
3 Nguyễn Ngọc Thao 22133051
4 Võ Triệu Phúc 22133043
5 Nguyễn Như Hoàng Tiến 22133061
6 Nguyễn Nam Hy 22133029
7 Dương Thành Sơn 22133048
8 Đặng Văn Huy 22133024
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
Điểm: ……………………………..
KÝ TÊN
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU:..........................................................................................................2
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................................2
2. Mục đích nghiên cứu.................................................................................................3
3. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................................4
PHẦN NỘI DUNG.......................................................................................................5
1. KHÁI NIỆM CHUNG...............................................................................................5
1.1. Bất bình đẳng xã hội...............................................................................................5
1.1.1. Định nghĩa bất bình đẳng....................................................................................5
1.1.2. Phân loại bất bình đẳng.......................................................................................5
1.1.3. Các quan điểm về bất bình đẳng xã hội...............................................................6
1.1.4. Cơ sở tạo nên sự bất bình đẳng............................................................................8
1.2. Bất bình đẳng giới................................................................................................10
2. Bất bình đẳng giới trong xã hội ngày nay................................................................15
2.1. Các thực trạng liên quan đến bất bình đẳng giới trong xã hội...............................16
2.2. Nguyên nhân gây ra bất bình đẳng giới................................................................22
2.2.1. Quan niệm xã hội lạc hậu..................................................................................22
2.2.3. Suy nghĩ, quan niệm chấp nhận của phụ nữ......................................................22
2.3. Kết quả của bất bình đẳng giới.............................................................................23
3. GIẢI PHÁP..............................................................................................................28
3.1. Giải pháp của chính phủ.......................................................................................29
3.2. Giải pháp cá nhân.................................................................................................34
KẾT LUẬN.................................................................................................................35
1
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................37
2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trong xã hội ngày nay, bất bình đẳng giới một vấn đề nóng hổi, đáng quan
ngại cần được tìm hiểu sâu hơn. Hằng ngày, chúng ta chứng kiến những tác động
tiêu cực của bất bình đẳng giới trong cuộc sống của chúng ta. Từ sự chênh lệch thu
nhập, sự kỳ thị và bạo lực, đến sự thiếu công bằng trong hội và quyền lợi, bất bình
đẳng giới đã lan rộng và gây ảnh hưởng đến mọi người trên khắp thế giới.
Đó do tại sao chúng tôi quyết định chọn đề tài "Bất bình đẳng giới trong hội
ngày nay" cho tiểu luận của mình. Chúng tôi tin rằng việc nghiên cứu về vấn đề này sẽ
mang lại những nhận thức mới và đưa ra giải pháp hiệu quả để giảm bớt bất bình đẳng
giới trong xã hội.
Đầu tiên, bất bình đẳng giới không chỉ một vấn đề cục bộ mà còn là một vấn
đề toàn cầu. Bất bình đẳng giới tồn tại mọi quốc gia, trong mọi tầng lớp hội
ảnh hưởng đến cả nam giới nữ giới. Việc tìm hiểu về bất bình đẳng giới trong
hội ngày nay sẽ giúp chúng tôi nhận ra những mô hình xu hướng chung của vấn đề
này, từ đó đề xuất các biện pháp cụ thể nhằm giải quyết vấn đề này trên phạm vi rộng
hơn.
Thứ hai, bất bình đẳng giới không chỉ ảnh hưởng đến nhân còn gây tổn
thương chohội kinh tế. Sự chênh lệch giữa nam giới nữ giới trong việc truy
cập vào giáo dục hội việc làm ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện của một
quốc gia. Đồng thời, sự kỳ thị và bạo lực đối với những nhóm giới tính khác cũng góp
phần làm suy yếu mạng lưới hội. Bằng cách nghiên cứu về bất bình đẳng giới,
chúng tôi hy vọng có thể đưa ra những giải pháp và chính sách thích hợp để xóa bỏ sự
bất bình đẳng và thúc đẩy sự phát triển bền vững của xã hội.
Thứ ba, việc nghiên cứu về bất bình đẳng giới cũng mang lại hội để chúng
tôi nâng cao nhận thức hiểu biết về vấn đề này. Điều này giúp chúng tôi nhìn nhận
rõ hơn về các thách thức phụ nữ những nhóm giới tính khác đang phải đối mặt
hàng ngày, từ việc xâm phạm đến quyền tự quyết tự do nhân cho đến sự thiếu
đại diện trong các lĩnh vực quyền lực. Chúng tôi hy vọng tiểu luận này cũng sẽ góp
3
phần nâng cao nhận thức của mọi người về vai trò của họ trong việc thay đổi xây
dựng một xã hội công bằng và đồng tâm.
Trên sở những do trên, chúng tôi đã quyết định chọn đề tài "Bất bình
đẳng giới trong hội ngày nay" cho tiểu luận của mình. Chúng tôi tin rằng việc
nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này sẽ mang lại những góc nhìn mới, đóng góp vào việc
giải quyết và xóa bỏ bất bình đẳng giới trong xã hội, góp phần xây dựng một tương lai
tươi sáng và công bằng hơn cho mọi người.
2. Mục đích nghiên cứu.
Mục đích của tiểu luận "Bất bình đẳng giới trong hội ngày nay" tìm hiểu,
phân tích đánh giá tình hình bất bình đẳng giới hiện tại trong hội. Đây một
vấn đề quan trọng đòi hỏi sự quan tâm và thảo luận sâu hơn để xác định những nguyên
nhân và hậu quả của bất bình đẳng giới, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm giảm bớt
loại bỏ hiện tượng này.
Mục đích đầu tiên của tiểu luậnnghiên cứu để hiểu hơn về các yếu tố góp
phần vào sự xuất hiện duy trì của bất bình đẳng giới trong hội ngày nay. Qua
việc phân tích các vấn đề như sự chênh lệch trong việc tiếp cận giáo dục hội
việc làm, định kiến hội, vai trò truyền thống và skỳ thị giới tính, chúng ta thể
xác định được các nguyên nhân cụ thể gây ra sự bất bình đẳng giới.
Mục đích thứ hai đánh giá tác động của bất bình đẳng giới lên nhân, gia
đình, hội kinh tế. Tìm hiểu về những hệ quả của bất bình đẳng giới giúp chúng
ta nhìn thấy mức độ tổn thương hạn chế gây ra, từ việc ảnh hưởng đến sự
phát triển nhân, thăng tiến nghề nghiệp, cho đến sự suy yếu của mạng lưới hội
ng cường bất bình đẳng thu nhập. Đánh giá này cung cấp sở để thể hiện tầm
quan trọng của việc giải quyết bất bình đẳng giới trong xã hội ngày nay.
Mục đích cuối cùng đề xuất các giải pháp chính sách nhằm giảm bớt
loại bỏ bất bình đẳng giới. Dựa trên những nghiên cứu và phân tích đã được thực hiện,
tiểu luận sẽ đưa ra những khuyến nghị giải pháp cụ thể, từ các biện pháp giáo dục
y dựng nhận thức cho đến việc thay đổi quy định pháp luật chính sách cung
cấp hội công bằng cho cả nam nữ. Mục tiêu tạo ra một hội công bằng
bền vững, nơi mọi nhân, bất kể giới tính, thể phát triển tham gia vào sự
4
phát triển toàn diện của xã hội.
Tổng kết lại, mục đích của tiểu luận "Bất bình đẳng giới trong xã hội ngày nay"
là tìm hiểu, đánh giá và đề xuất các giải pháp nhằm giảm bớt loại bỏ bất bình đẳng
giới. Qua đó, tiểu luận hướng đến mục tiêu xây dựng một hội công bằng đồng
tâm, nơi mà mọi nhân hội phát triển đóng góp vào sphát triển toàn diện
của xã hội.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Để hoàn thành đề tài tiểu luận "Vấn đề bất bình đẳng giới trong hội ngày
nay" một cách tốt nhất, chúng tôi sử dụng một sự kết hợp linh hoạt của nhiều phương
pháp và công cụ nghiên cứu khác nhau:
- Phương pháp phân tích liệu: Xem xét các tài liệu sẵn trong kho thông tin lưu
trữ và các nguồn khác để nghiên cứu vấn đề một cách chi tiết. Điều này giúp thu thập
số liệu, tư liệu thứ cấp và thậm chí những phân tích, kết luận có sẵn để hỗ trợ cho quá
trình nghiên cứu và xây dựng luận cứ rõ ràng.
- Phương pháp tổng hợp logic: Chúng tôi sử dụng phương pháp tổng hợp kết hợp
với phương pháp phân tích. Cụ thể, từ các kết quả thu được thông qua phân tích,
chúng tôi sử dụng phương pháp tổng hợp để kết hợp chúng lại với nhau, nhằm tạo ra
một sự nhận thức rõ ràng và hợp lý về vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp chuyên gia: Chúng tôi áp dụng phương pháp này để thu thập ý kiến
của các chuyên gia về vấn đề hội liên quan. Ý kiến của các chuyên gia thường
mang tính chất thực tiễn giàu kiến thức chuyên môn. Điều này đảm bảo tính thực
tiễn và sự đa chiều trong quá trình nghiên cứu.
Bằng việc kết hợp các phương pháp nghiên cứu này, chúng tôi áp dụng quan
điểm toàn diện hệ thống, từ khái quát tả cho đến phân tích tổng hợp.
Chúng tôi cũng sử dụng các phương pháp liên ngành xã hội và nhân văn để hoàn thiện
bài tiểu luận một cách khách quan nhất thể. Nhờ vào sự kết hợp này, chúng tôi hy
vọng đạt được một cái nhìn toàn diện về vấn đề bất bình đẳng giới trong hội ngày
nay.
5
PHẦN NỘI DUNG
1. KHÁI NIỆM CHUNG.
1.1. Bất bình đẳng xã hội.
1.1.1. Đ nh nghĩa bấất bình đ ng .
Tất cả các hội đều được đặc trưng bởi sự khác biệt hội. Đó quá trình
mà con người tạo nên khoảng cách do cách ứng xử khác nhau bởi vị thế, vai trò cùng
những đặc điểm khác. Quá trình đó chuẩn bị cho bất bình đẳng xã hội, là điều kiện
con người hội không ngang bằng nhau về sdụng của cải, quyền lực và uy tín.
Bất bình đẳng một hiện tượng mang tính kế thừa mọi thời đại tồn tại trong
mọi xã hội do cấu xã hội mang lại. Bất bình đẳng không phải là một hiện tượng tự
nhiên, tồn tại một cách ngẫu nhiên giữa các mối quan hệ tronghội, tồn tại “khi
có một nhóm xã hội kiểm soát và khai thác các nhóm xã hội khác.” Trong sự vận động
phát triển của hội thì bất bình đẳng hội luôn một vấn đề trung tâm. Bất
bình đẳng hội hình thành nên một hệ thống tồn tại song song với sự phát triển qua
những hội khác nhau. Điều đó cũng cho ta nhận biết được rằng hệ thống bất bình
đẳng sẽ khác nhau trong những hội khác nhau nguyên nhân chính do thể chế
chính trị và hoàn cảnh, điều kiện sinh sống của từng nơi quyết định.
Từ khái niệm bất bình đẳng đã nêu phần trên, ta thể suy ra bất bình đẳng
xã hội là sự không bằng nhau về mặt hội, tức sự khác nhau về những lợi ích,
hội về mặt vật chất lẫn tinh thần cũng như thỏa mãn các lợi ích đó của nhân
trong một nhóm xã hội hay nhiều nhóm xã hội khác nhau.
1.1.2. Phấn lo i bấất bình đ ng .
Bất bình đẳng có thể được phân thành 2 loại: bất bình đẳng mang tính tự nhiên
và bất bình đẳng mang tính xã hội.
- Bất bình đẳng mang tính tự nhiên: sự khác biệt của nhân về một hoặc một số
đặc điểm sẵn có như giới, tuổi, chủng tộc, trí lực,…
- Bất bình đẳng mang tính xã hội:sự phân công lao động dẫn đến phân tầng, tạo ra
lợi ích khác nhau giữa các cá nhân.
1
1 HaNoi1000, “Bất bình đẳng xã hội là gì? Nguyên nhân, Các quan điểm”, https://hanoi1000.vn/bat-binh-dang-
xa-hoi-la-gi-nguyen-nhan-cac-quan-diem, ngày truy cập 11/03/2022.
6
Theo quan điểm của các nhà hội học nghiên cứu về cấu hội thì bất
bình đẳng xã hội có vai trò hết sức quan trọng:
i. Bất bình đẳng được xem như là điều kiện để tổ chức xã hội.
ii. Bất bình đẳng là cơ sở cho việc điều chỉnh các quan hệ xã hội.
iii. Bất bình đẳng đảm bảo cho đời sống và phát triển xã hội.
Bất bình đẳng hội một khái niệm rất rộng, bao hàm cả công bằng
hội bất công bằng hội. Công bằng hội sự bất bình đẳng hợp lý, hợp pháp,
chủ yếu dựa vào sự khác biệt khách quan, tự nhiên giữa các thành viên trong xã hội về
mặt năng lực (thể chất, trí tuệ), sự khác biệt về cái tài, cái đức sự cống hiến, đóng
góp thực tế của mỗi cá nhân cho xã hội.
Bất công bằng hội sự bất bình đẳng bất hợp lý, bất hợp pháp, không dựa
trên sự khác biệt tự nhiên giữa các nhân, cũng không chủ yếu được tạo ra do sự
khác nhau về tài đức và sự đóng góp cống hiến một cách thực tế của mỗi người cho xã
hội mà dựa vào những hành vi trái pháp luật, tham nhũng, lừa gạt, trộm cắp, buôn bán
phi pháp để trở nên giàu có, luồn lọt, xu nịnh, để vị trí cao trong hội hoặc lười
biếng, ỷ lại để rơi vào sự nghèo khổ, hèn kém.
Tóm lại, thể kết luận rằng, bất bình đẳng hội mang theo cả mặt tích cực
và tiêu cực. Một mặt, đó động lực thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội, góp phần ổn định
và tạo ra bộ mặt xã hội, mặt khác đây cũng là nguyên nhân gây tích tụ bất bình xã hội,
cản trở sự phát triển chung của cộng đồng. Do đó, nghiên cứu về bất bình đẳng xã hội
là việcm cần thiết nhằm củng cố, tổ chức hội ngày một công bằng, dân chủ, văn
minh, tiến bộ hơn.
1.1.3. Các quan đi m vềề bấất bình đ ng xã h i .
Bất bình đẳng phải một hiện tượng hội không thể nào tránh khỏi?
Xung quanh vấn đề này, nhiều quan điểm khác nhau. Dưới đây một số quan
điểm:
+ Quan điểm dựa vào yếu tố sinh học của cá nhân:
Bất bình đẳng xã hội hiện tượng xã hội không thể nào tránh khỏi - đây là vấn đề
nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng, bất bình đẳng luôn hiện diện bởi
sự khác biệt nhân cách giữa những nhân. Nếu một hội mở nếu con người
7
khác nhau về tài năng và nhu cầu thì điều đó sẽ hàm ý rằng bất bình đẳng là không thể
tránh được. Đó một thực tế của hội. Một số bất bình đẳng đến như kết quả
không thể tránh về bất bình đẳng sinh học của kỹ năng, thể chất, khả năng tinh
thần những khía cạnh của nhân cách.
2
Nhà triết học Hy Lạp cổ đại Aritstốt (384–
322 TCN) cho rằng có những khác biệt tự nhiên giữa các cá nhân; thực tế, vẫn còn tồn
tại những khác biệt trong kiểu phân chia giới như kết quả không thể tránh được của
bất bình đẳng: “Đàn ông bản chất là thống trị, đàn bà là bị trị, và đó là một luật lệ”. Sự
thống trịsự thành đạt cao của nam giới khả năng không thể đảo ngược, bởi
những khác biệt về sinh học giữa nam và nữ.
3
+ Quan điểm dựa vào yếu tố kinh tế:
Một số nhà xã hội học khác đã cho rằng bất bình đẳng không thể tránh khỏi;
nhưng họ luận nguyên nhân của do hội những nhiệm vụ này cần thiết
hơn những nhiệm vụ khác. Khả năng thực hiện những nhiệm vụ này khác nhau. Họ
lập luận rằng bất bình đẳng xã hội về lợi ích giữa các nhân là cần thiết để thúc đẩy
người tài nhất thực hiện những nhiệm vụ khó khăn nhất. Do vậy trong những điều
kiện đó, không thể thủ tiêu bất bình đẳng, vì bình đẳng có nguy hiểm cho xã hội.
quan điểm cho rằng bất bình đẳng chủ yếu do cấu trúc của hệ thống
hội gây ra chứ không phải do sự khác biệt về tài năng, đặc điểm và nhu cầu cá nhân.
Nguồn gốc của bất bình đẳng liên quan tới sở hữu nhân về của cải. Những
đặc điểm về kinh tế, chính trị thị trường lao động tạo ra những khác biệt trong thu
nhập và của cải. Thực chất, sự khác biệt về vị trí của các nhân trong cấu hội
gây ra bất bình đẳng kinh tế.
4
+ Quan điểm của Karl Marx:
Học thuyết của Karl Marx dựa trên nghiên cứu các học thuyết kinh tế, được coi là nền
tảng của cơ cấu giai cấp. Mối quan hệ giai cấp đóng vai trò quan trọng trong mọi khía
cạnh của hội. Marx khẳng định rằng "Những tưởng thống trị của một thời đại
luôn là tư tưởng của giai cấp thống trị," phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị.
luận của Marx xoay quanh hoạt động tổ chức sản xuất và phân công lao động trong xã
2 Kenneth Cauthen (1987), The Passion for Equality, NXB Rowman & Littlefield, tr.8.
3 Steven Goldberg (1973), The Inevitability of Patriarchy, NXB William Morrow and Company, tr.133.
4 Jean-Jacques Rousseau (1753), Về nguồn gốc của sự bất bình đẳng.
8
hội, cùng với việc phân tích cấu trúc xã hội, nhằm làm sáng tỏ tính chất giai cấp và bất
bình đẳng trong quan hệ xã hội. Từ việc phân tích cấu trúc hội này, ta thể rút ra
hai kết luận quan trọng. Đầu tiên, cần loại bỏthay thế chế độ sở hữunhân bằng
chế độ sở hữu hội đểy dựng một hội phát triển. Thứ hai, hội học cần tập
trung vào phân tích cấu trúc hội để xác định ai những người hưởng lợi ai
những người chịu thiệt từ cách tổ chức cấu xã hội hiện tại. Tóm lại, cấu trúc
hội, phân tầng hội bất bình đẳng hội những đề tài bản của hội học
hiện đại.
+ Quan điểm của Max Weber :
Max Weber, một nhà xã hội học khác với Marx, không xem mọi cấu trúc xã hội
như một hệ thống bất bình đẳng dựa trên giai cấp. Theo Weber, sự phân hạng trong
hội phụ thuộc vào các yếu tố đặc biệt về địa vị xã hội dựa trên nền tảng tôn giáo. Ông
nhấn mạnh rằng quyền lực kinh tế thể phát sinh từ quyền lực được xây dựng trên
các nền tảng khác. Địa vị xã hội và uy tín xã hội có thể bắt nguồn từ quyền lực kinh tế,
nhưng không nhất thiết duy nhất. dụ, một người giàu nhưng không kiến
thức hay giáo dục thể không đạt được vị trí cao trong hội, trong khi ngược lại,
địa vị thể sở cho quyền lực chính trị. Weber cho rằng đây một vấn đề lịch
sử hội cần được phân tích để tìm ra nguyên nhân thực sự của bất bình đẳng
hội.
Quan điểm của Weber nhấn mạnh tầm quan trọng của thị trường thay tái sản
xuất là nền tảng kinh tế của giai cấp. Theo Weber, nguyên nhân chính gây ra bất bình
đẳng trong xã hội bản sự khác biệt về khả năng thị trường. Điều này nghĩa
khả năng chiếm lĩnh thị trường của mỗinhân phụ thuộc vào tri thức, tài năng và kỹ
năng nghề nghiệp của họ.
1.1.4. C s t o nền s bấất bình đ ng.ơ
Giới tínhmột khái niệm hội được xác định bởi các quy tắc, giá trị và vai
trò hội gán cho các nhân dựa trên đặc điểm sinh của họ. Tuy nhiên, bất
bình đẳng giới tính vẫn là một vấn đề lớn trong xã hội hiện đại của chúng ta.
Cơ sở tạo nên bất bình đẳng giới tính trong hội bao gồm những giá trị, quan
niệm, vai trò hội các quy tắc được đặt ra cho mỗi giới tính. Trong hội, nam
9
giới thường được xem là mạnh mẽ, năng động và quyền lực, trong khi nữ giới thường
bị xem yếu đuối, nhạy cảm và nên có vai trò chăm sóc gia đình. Điều này đã tạo ra
sự bất bình đẳng giới tính trong hội ảnh hưởng đến cuộc sống của các nhân,
đặc biệt là những người không tuân thủ quy tắc xã hội đối với giới tính.
Các ảnh hưởng của bất bình đẳng giới tính trên hội rất lớn đa dạng, bao
gồm cả ảnh hưởng đến kinh tế, sức khỏe, hạnh phúc sự phát triển nhân. Các
nghiên cứu đã chỉ ra rằng, phụ nữ thường bị thiệt hại hơn so với nam giới về mặt kinh
tế, đặc biệt trong những nền kinh tế phát triển ít. Họ cũng nguy cao n bị
bạo lực và xâm hại tình dục, và thường không được đối xử công bằng trong việc tuyển
dụng thăng tiến trong công việc. Ngoài ra, những người thuộc cộng đồng LGBT
(Lesbian, Gay, Bisexual, Transgender) cũng thường phải đối mặt với sự kì thị phân
biệt đối xử từ xã hội, gây ra áp lực tâm lý và ảnh hưởng đến cuộc sống của họ.
Để giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới tính trong hội, trước hết chúng ta
cần hiểu sở tạo nên s bất bình đẳng này. Một trong những sở quan trọng
nhất là tư tưởng xã hội hóa giới tính, tức là quan niệm xã hội về vai trò và đặc tính của
từng giới tính. tưởng này đã được tạo dựng truyền tai từ thế kỷ trước đến nay,
khi mà xã hội đặt giá trị và yêu cầu khác nhau cho nam và nữ.
dụ, đối với phụ nữ, hội thường kỳ vọng họ phải ngoại hình đẹp, biết
nấu ăn, làm việc nhà, chăm sóc gia đình, trong khi đối với nam giới thì yêu cầu
thường là phải mạnh mẽ, can đảm, làm chủ được tình hình, kiếm tiền để nuôi gia đình.
Các quan niệm này đã được xây dựng theo thời gian trở thành một phần không thể
thiếu của xã hội.
Tuy nhiên, những quan niệm này đã tạo ra sự bất bình đẳng giới tính, khiến cho
phụ nữ những người khác không phù hợp với quy chuẩn giới tính của hội bị
thị phân biệt đối xử. Chính thế, để giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới tính,
chúng ta cần xây dựng một xã hội đa dạng và tôn trọng sự khác biệt giới tính.
Để đạt được điều này, chúng ta cần tạo ra một môi trường giáo dục và văn hóa, nơi
những quan niệm truyền thống về giới tính không còn được coi là chính thống. Chúng
ta cần truyền tải thông điệp rằng mỗi người đều quyền được sống theo cáchhọ
mong muốn, không phải dựa trên giới tính mà xã hội quy định.
Bên cạnh đó, chúng ta cần cung cấp hỗ trợ tạo điều kiện cho những người
10
thuộc cộng đồng LGBT, những người thường nạn nhân của sự thị phân biệt
đối xử. Chúng ta cần đưa ra các chính sách và luật pháp bảo vệ quyền lợi của họ, đồng
thời tạo ra một môi trường công bằng và đa dạng để họ có thể tự do thể hiện bản thân
mình không sợ bị thị hay phân biệt đối xử. Ngoài ra, cần phải tăng cường giáo
dục về giới tính sự đa dạng giới tính, nhằm nâng cao nhận thức kiến thức của
mọi người về vấn đề này, từ đó giảm thiểu sự kì thị và phân biệt đối xử.
Tuy nhiên, giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới tính không thể chỉ dừng lại
những biện pháp trên còn cần phải thay đổi cách suy nghĩ duy của mọi
người. Chúng ta cần phải thay đổi những quan điểm sai lầm, giảm thiểu sự thị
phân biệt đối xử trong hội, xây dựng một cộng đồng văn minh, đa dạng tôn
trọng giới tính. Chỉ khi chúng ta đồng lòng hành động, thay đổi duy thay đổi
cách suy nghĩ của mọi người, chúng ta mới thể giải quyết được vấn đề bất bình
đẳng giới tính và xây dựng một xã hội công bằng và bình đẳng cho tất cả mọi người.
1.2. Bất bình đẳng giới.
1.2.1. Khái ni m c b n vềề bấất bình đ ng gi i. ơ
Bất bình đẳng giới một tình trạng hội phổ biến, cho thấy sự khác biệt
không công bằng giữa các giới tính. bao gồm những định kiến hội, quy định
pháp luật, thái độ phân biệt giới tính và những hành động kì thị và phân biệt đối xử.
Bất bình đẳng giới thường xảy ra mọi lĩnh vực trong hội, từ công việc,
giáo dục, chính trị, gia đình đến cuộc sống nhân. dụ, trong công việc, phụ nữ
thường bị trả lương thấp hơn so với nam giới, cùng trình độ kinh nghiệm.
Trong giáo dục, nhiều trường học vẫn các quy tắc phân biệt giới tính, giới hạn sự
lựa chọn của học sinh dựa trên giới tính của họ. Trong gia đình, phụ nữ thường bị đặt
vào vị trí kém hơn so với nam giới và phải chịu trách nhiệm chăm sóc gia đình và nuôi
dạy con cái một cách nặng nhọc hơn.
Bất bình đẳng giớinh hưởng không chỉ đến những người bị phân biệt đối xử,
mà còn đến toàn bộ xã hội. Nó làm giảm hiệu quả và sản lượng lao động, tạo ra những
căng thẳng, xung đột và gây ra những vấn đề về tâm lý và sức khỏe của các nạn nhân.
11
1.2.2. Quan đi m c a ch nghĩa Mác - Lềnin vềề bình đ ng gi i.
Chủ nghĩa Mác - Lênin một trường phái tư tưởng chính trị kinh tế có ảnh
hưởng lớn trong lịch sử thế giới. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bình đẳng
giới được hình thành dựa trên quan niệm về vai trò của giai cấp cách bất bình
đẳng giới phản ánh bất bình đẳng kinh tế, xã hội.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, bất bình đẳng giới một hình
thức bất bình đẳng hội, phản ánh sự chia rẽ giữa các giai cấp tầng lớp trong
hội. Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng bất bình đẳng giới được tạo ra bởi cấu trúc giai
cấp và tầng lớp của hội. Theo đó, bất bình đẳng giới không phải là một hiện tượng
độc lập, mà được phản ánh và bị tác động bởi các yếu tố kinh tế, xã hội, chính trị khác
nhau.
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng để giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới, cần
phải xóa bỏ các yếu tố gây ra sự chia rẽ phân biệt đối xử giữa các tầng lớp giai
cấp trong hội. Ngoài ra, chủ nghĩa Mác - Lênin cũng coi trọng việc giáo dục
nâng cao nhận thức của nhân dân về bình đẳng giới, nhằm thay đổi tưởng và tạo ra
một tầng lớp lao động phản đối bất bình đẳng giới.
Trong lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lênin đã lãnh đạo cách mạng ở nhiều quốc gia,
đưa ra nhiều biện pháp để giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới. Các biện pháp này bao
gồm việc phân bổ tài nguyên hội công bằng hơn giữa các giai cấp tầng lớp,
đồng thời đưa ra các chính sách về giáo dục đào tạo để tăng cường nhận thức
giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới.
Tuy nhiên, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bình đẳng giới cũng không
được chấp nhận hoàn toàn bởi một số người. Một số nhà phê bình cho rằng quan điểm
này thiếu nhạy cảm với vấn đề đa dạng giới tính và bất bình đẳng giới định kiến trong
xã hội hiện đại.
Ngoài ra, trong thực tế, các chính sách và luật pháp bảo vệ quyền lợi của người
đồng tính, người chuyển giới, những người khác thuộc cộng đồng LGBT vẫn còn
nhiều hạn chếkhó khăn. Những người này vẫn thường bị kì thị và phân biệt đối xử
trong nhiều lĩnh vực của đời sống, bao gồm cả giáo dục, công việc, y tế, và gia đình.
vậy, chúng ta cần cùng nhau đấu tranh thực hiện các biện pháp để đảm
bảo bình đẳng giới đa dạng giới tính, bao gồm việc giáo dục, tuyên truyền, đưa ra
12
chính sách luật pháp bảo vệ quyền lợi của người LGBT, cung cấp hỗ trợ cho
những người bị phân biệt đối xử kì thị. Chỉ khi mà tất cả chúng ta đều được đối xử
bình đẳng và có cơ hội phát triển sẽ xã hội được coi là văn minh và phát triển.
1.2.3. T t ng Hồề Chí Minh vềề bình đ ng gi i.ư ưở
thể thấy, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa sử dụng cụm từ “bình đẳng
giới”. Người chỉ bàn về vấn đề giải phóng phụ nữ thực hiện nam nữ bình quyền.
Nhưng đây cũng chính nội dung cốt lõi của vấn đề bình đẳng giới hiện nay thế
giới Việt Nam đang quyết tâm theo đuổi một xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh. Những tưởng cốt lõi về bình đẳng giới của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện ở
một số luận điểm sau:
- Thứ nhất, phụ nữ phân nửa hội, muốn xây dựng chủ nghĩa hội phải giải
phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình quyền. học trò xuất sắc của C.Mác
V.I.Lênin, am hiểu lịch sử dân tộc và trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định: “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như
già, ra sức dệt thêu thêm tốt đẹp, rực rỡ”. Chủ tịch Hồ Chí Minh người Việt
Nam đầu tiên gắn liền cuộc đấu tranh độc lập dân tộc với cuộc đấu tranh cho bình
đẳng, tự do và phát triển của phụ nữ Việt Nam. Trong những năm đi bôn ba tìm đường
cứu nước, Người đã có dịp tìm hiểu nhiều cuộc cách mạng diễn ra trên thế giới. Người
rút ra kết luận, chỉ Cách mạng Tháng Mười Nga là cuộc cách mạng “đến nơi”, hay
còn gọi là cuộc cách mạng triệt để, nghĩa là đem lại quyền làm chủ xã hội thực sự cho
người dân. “Chính nhờ cuộc cách mạng này sở của quyền tự do chân chính và
quyền bình đẳng thực sự đã được đặt ra cho loài người. Chính nhờ cuộc cách mạng
này sự giải phóng phụ nữ sẽ giá trị những ý nghĩa đầy đủ, trọn vẹn”
vậy, Hồ Chí Minh đã lựa chọn con đường cách mạng sản, nhằm giành lại độc lập
hoàn toàn cho dân tộc, ấm no tự do hạnh phúc thực sự cho nhân dân và để thực sự giải
phóng cho phụ nữ thoát khỏi cả ách áp bức dân tộc lẫn ách áp bức xã hội. Người luôn
động viên phụ nữ tham gia vào s nghiệp cách mạng cùng dân tộc, bởi theo Người,
giải phóng phụ nữ - bản thân nó cũng là một cuộc cách mạng, là một trong những mục
tiêu lớn của cách mạng, nó luôn gắn với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp. Trong Văn kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930, Hồ Chí Minh chỉ
13
rõ nhiệm vụ của cách mạng không chỉ giành độc lập cho dân tộc,... các quyền dân chủ
tự do cho nhân dân, còn nhằm “thực hiện nam nữ bình quyền”. Người nhấn mạnh
rằng dưới chế độ phong kiến thực n, phụ nữ bị áp bức tàn tệ. Ngoài hội thì phụ
nữ bị xem khinh lệ. gia đình thì họ bị kìm hãm trong xiềng xích “tam tòng”;
cũng dưới chế độ thực dân, phong kiến, nhân dân ta bị áp bức, bóc lột thì phụ nữ ta bị
áp bức, bóc lột nặng nề hơn... “Điều đó chứng tỏ rằng vì quyền lợi của đàn bà con gái
An Nam chúng ta làm cách mạng”. Từ cảm nhận sâu sắc nỗi “khổ nhục” của
người phụ nữ dưới chế độ thựcn phong kiến, Người càng ý thức hơn chính phụ nữ
lực lượng “một nửa” thành công của cách mạng. Người luôn nhấn mạnh khả năng
cách mạng của phụ nữ sớm nhận thấy nhân tố góp phần thắng lợi của cuộc cách
mạng ấy chính phụ nữ: “Xem trong lịch sử cách mệnh, chẳng lần nào không
đàn bà, con gái tham gia” “An Nam cách mệnh cũng phải nữ giới tham gia
mới thành công”. Người có những luận điểm thể hiện tầm nhìn chiến lược khi đặt vấn
đề giải phóng phụ nữ, thực hiện quyền bình đẳng nam nữ trong tương quan phát triển
của xã hội mới, của chủ nghĩahội: “Nói phụ nữnói phân nửa xã hội. Nếu không
giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng
phụ nữ y dựng chủ nghĩa hội chỉ một nửa”. Đánh giá cao vai trò của phụ nữ
khi nhìn nhận họ lực lượng lao động đông đảo của hội, Người còn thấy khả
năng làm việc không thua kém nam giới của phụ nữ. Người nêu những tấm gương tiêu
biểu của phụ nữ như: Hai Trưng, Triệu, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Thị
Định... Người nói, trên thế giới chưa nơi nào phụ nữ làm Phó Tổnglệnh như
miền Nam nước ta. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, kính trọng phụ nữ, thực hiện
quyền bình đẳng nam nữ, bảo đảm quyền lợi của phụ nữ bản chất của chế độ ta;
trong đó, vị trí xã hội của chị em được Người đặc biệt quan tâm.
5
Thứ hai, giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình quyền nhiệm vụ của
Đảng, Nhà nước bản thân chị em phụ nữ. Người luôn theo dõi sát sao tạo mọi
điều kiện cho phụ nữ tham gia vào sự nghiệp bảo vệ nền độc lập dân tộc xây dựng
nhà nước. Đặc biệt, Người rất quan tâm đến công tác phát triển đảng trong quần chúng
phụ nữ. Khi làm việc với các cấp ủy đảng từ Trung ương đến địa phương, Người luôn
5 Tạp chí tổ chức Nhà nước, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng giới và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt
Nam”,
https://tcnn.vn/news/detail/33823/Tu_tuong_Ho_Chi_Minh_ve_binh_dang_gioi_va_su_van_dung_cua_Dang_C
ong_san_Viet_Namall.html, ngày truy cập 07/07/2016
14
chú ý đến số lượng cán bộ nữ. Người hiểu khả năng to lớn của phụ nữ trong các
lĩnh vực của đời sốnghội: “Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, hàng vạn phụ nữ đã trở
thành cán bộ chuyên môn các ngành cán bộ lãnh đạo, làm giám đốc phó giám
đốc các nghiệp, chủ nhiệm hợp tác nông nghiệp, chủ tịch ủy ban hành chính,
thư chi bộ đảng, v.v..” và Người vui mừng trước việc ngày càng có nhiều phụ nữ tham
gia vào công việc quản lý: “Từ ngày nước ta được giải phóng đến nay, phụ nữ đều tiến
bộ rõ về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Nhưng một trong những tiến bộ rõ
rệt nhất là phụ nữ ta hiện nay tham gia chính quyền ngày càng nhiều”. Thực hiện nam
nữ bình quyền, theo Hồ Chí Minh: “Đó một cuộc cách mạng khá to khó.
trọng trai khinh gái một thói quen mấy nghìn năm để lại. Vì ăn sâu trong đầu óc
của mọi người, mọi gia đình, mọi tầng lớp hội”. Để thực hiện 100% bình quyền,
bình đẳng nam nữ, Hồ Chí Minh nhắc nhở chị em “phải nâng cao tinh thần làm chủ,
cố gắng học tập phấn đấu; phải xóa bỏ tưởng bảo thủ, tự ti; phải phát triển chí
khí tự cường, tự lập”10. Người chỉ cho các cấp ủy đảng chính quyền “phải
phương pháp đào tạo giúp đỡ để nâng cao hơn nữa địa vị của phụ nữ”. Quan tâm
tới vị trí của phụ nữ trong xã hội, Hồ Chí Minh cũng đồng thời nhắc nhở cán bộ, đảng
viên rằng, một trong những nhiệm vụ của phụ nữ dưới chế độ ta phải “hăng hái
tham gia chính quyền”. Người còn nói, nếu cán bộ lãnh đạo nữ ít, đấy một
thiếu sót của Đảng. Nguyên nhân của tình trạng phụ nữ ít được tham gia lãnh đạo
quản lý, theo Người vì: “Nhiều người còn đánh giá không đúng khả năng của phụ
nữ, hay thành kiến, hẹp hòi. Như vậy rất sai” Không chỉ phê bình những tưởng
hẹp hòi đối với phụ nữ, Người còn đòi hỏi phải tích cực sửa chữa. Người đã đặt trách
nhiệm của Đảng đối với sự phát triển của phụ nữ. Người khẳng định: Phải giải phóng
phụ nữ thực sự, giải phóng phụ nữ thì bằng pháp luật, chính sách, biện pháp cụ thể:
“Từ nay, các cấp đảng, chính quyền địa phương khi giao công tác cho phụ nữ, phải
căn cứ vào trình độ của từng người cần phải tích cực giúp đỡ phụ nữ nhiều hơn
nữa”, “phải thực sự giải phóng phụ nữtôn trọng quyền lợi của phụ nữ”... “Đảng
Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc giúp đỡ để ngày
thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ
thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự
cho phụ nữ”. Hồ Chí Minh còn đặt vấn đề về phụ nữ, phát huy vai trò phát triển
15
năng lực sáng tạo của phụ nữ, coi đó là trách nhiệm của toàn xã hội, trong đó có sự tự
vươn lên của chị em phụ nữ: Đảng Chính phủ ta cần phải có kế hoạch thiết thực để
bồi dưỡng, cân nhắc và giúp đỡ để người phụ nữ phụ trách ngày càng thêm nhiều mọi
công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân người phụ nữ thì phải cố gắng. Đó
một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng cho phụ nữ.
6
Như vậy, bình đẳng giới theo tư tưởng của Hồ Chí Minh: Thứ nhất, phụ nữ
vai trò rất quan trọng trong hội không chỉ họ lực lượng lao động to lớn,
còn vì họ là những người tham gia xây dựng, cải tạo xã hội. Ngoài thiên chức làm mẹ,
thì khả năng làm việc, sức sáng tạo khi làm việc cho cộng đồng của phụ nữ không
thua kém đàn ông. Thứ hai, sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội sẽ không
mang tính cách mạng đầy đủ nếu không thực sự giải phóng phụ nữ, bởi vì, họ một
nửa nhân loại, một nửa hội. Thứ ba, dưới chế độ ta - chế độ mọi người n đều
chủ xã hội, nam nữ bình đẳng về vị trí, bình đẳng về quyền lợi, thì phụ nữ phải vị
trí xứng đáng với vai trò của mình. Lịch sử dân tộc ta cũng đã chứng minh rằng, phụ
nữ Việt Nam có thể làm được làm tốt mọi công việc to lớn lịch sử đòi hỏi, đất
nước trao cho. Thứ tư, cần phải xóa bỏ tàn phong kiến trọng nam khinh nữ, coi
thường, xem nhẹ khả năng làm việc hội của phụ nữ; chỉ vậy mới thực sự giải
phóng phụ nữ, để cuộc cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo ý nghĩa
cách mạng đầy đủ, có tính nhân văn sâu sắc.
Đối với Chủ tịch Hồ C Minh, tưởng giải phóng phụ nữ thực hiện nam
nữ bình đẳng đã trở thành tưởng cách mạng, vừa thể hiện ý thức chính trị, lòng
nhân ái vừa thể hiện giá trị văn hóa, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản của Người.
6 Tạp chí tổ chức Nhà nước, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng giới và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt
Nam”,
https://tcnn.vn/news/detail/33823/Tu_tuong_Ho_Chi_Minh_ve_binh_dang_gioi_va_su_van_dung_cua_Dang_C
ong_san_Viet_Namall.html, ngày truy cập 07/07/2016
16
2. Bất bình đẳng giới trong xã hội ngày nay.
2.1. Các thực trạng liên quan đến bất bình đẳng giới trong xã hội.
2.1.1. T l gi i tính khi sinh (SRB).
Một trong những chỉ số quan trọng được Tổng cục Thống tiến hành điều tra
trong cuộc Tổng điều tra dân số nhà năm 2019 là Tỷ số giới tính khi sinh - SRB
(Chỉ số SRB phản ánh cân bằng giới tính của số bé traigái khi được sinh ra. Tỷ
số này thông thường 104-106 trai/100 gái sinh ra sống). Bất kỳ sự thay đổi
đáng kể nào của SRB chệch khỏi mức sinh học bình thường đều phản ánh những can
thiệp chủ ý sẽ làm ảnh hưởng đến smất cân bằng tự nhiên, đe dọa sự ổn định
dân số của quốc gia và toàn cầu.
(Phạm Thị Huyền, Bất bình đẳng giới từ những thách thức mang tính văn hoá tình
trạng mất cân bằng giới tính, https://cpcs.vn/ty-so-gioi-tinh-khi-sinh-bat-binh-thuong-
cua-viet-nam-va-nhung-hau-qua-co-the-xay-ra-d38282.html, ngày truy cập 14–9–
2021)
Theo Tổng cục Thống kê, SRB của Việt Nam có xu hướng tăng hơn so với mức
sinh học tự nhiên từ năm 2006 đến nay, đưa ra bằng chứng về mất cân bằng giới tính
khi sinh tại Việt Nam. Trong đó, SRB m 2019 giảm so với năm 2018 nhưng vẫn
mức cao (năm 2018: 114,8 bé trai/100 bé gái; năm 2019: 111,5 bé trai/100 bé gái).
Sự gia tăng bất thường về SRB của Việt Nam trong những năm gần đây đang là
17
mối quanm hàng đầu của các nhà lập chính sách. Theo đó, những cảnh báo về hệ
lụy của sự mất cân bằng giới tính khi sinh sự quyết liệt thực hiện các chính sách
nhằm xóa bỏ sự can thiệp chủ đích trong lựa chọn giới tính khi mang thai Việt
Nam trong thời gian qua chưa đem lại hiệu quả; tình trạng mất cân bằng giới tính khi
sinh chưa được khắc phục.
Kết quả điều tra cho thấy, SRB của khu vực thành thị thấp hơn nông thôn,
tương ứng 110,8 111,8 trai/100 gái. SRB giữa các vùng sự chênh lệch
đáng kể, SRB cao nhất ở Đồng bằng sông Hồng (115,5 bé trai/100 bé gái) và thấp nhất
Đồng bằng sông Cửu Long (106,9 trai/100 gái). Sự khác biệt của SRB giữa
khu vực thành thị và nông thôn thuộc Đồng bằng sông Hồng cũng cao nhất cả nước.
SRB của Trung du miền núi phía Bắc năm 2009 108,5 trai/100 gái, tăng
lên 114,2 trai/100 gái năm 2019. SRB của Đồng bằng sông Hồng năm 2009
115,3 bé trai/100 bé gái, tăng nhẹ lên 115,5 bé trai/100 bé gái năm 2019. Qua 10 năm,
mức tăng SRB của Trung du và miền núi phía Bắc nhiều hơn mức tăng SRB của Đồng
bằng sông Hồng.
Có thể thấy, mất cân bằng giới tính khi sinh Việt Nam do một số nguyên
nhân như: Sự ưa thích sinh con trai trong bối cảnh giảm sinh, văn hóa Nho giáo với
phong tục về việc mong muốn có con trai để nối dõi tông đường, thờ cúng tổ tiên cũng
như đánh giá thấp giá trị của nữ giới trong gia đình hội tại mỗi vùng, miền
việc tiếp cận các dịch vụ y tế dễ dàng hơn trong lựa chọn giới tính thai nhi khi mang
thai hoặc chuẩn đoán giới tính thai nhi dẫn tới nạo phá thai vì lý do lựa chọn giới tính,
Việc lựa chọn giới tính trước khi sinh phản ánh tình trạng bất bình đẳng giới
sâu sắc. Các nghiên cứu của quốc tế và Việt Nam cũng đã chỉ ra các hệ lụy tới cấu trúc
gia đình các vấn đề hội trong tương lai của tình trạng mất cân bằng giới tính
hiện nay, tình trạng thiếu hụt số trẻ em gái quan sát được gần đây nhiều quốc gia sẽ
dẫn đến tình trạng thiếu hụt phụ nữ ở tất cả các nhóm tuổi trong tương lai.
Tổng cục Thống kê nhận định, cấu trúc dân số trong những thập kỷ tới sẽ mang
dấu ấn của việc lựa chọn giới tính hiện tại, với quy mô dân số nam vượt trội trong một
thời gian dài. Theo các nhà khoa học hội, tác động chính của hiện tượng mất cân
bằng giới tính khi sinh sẽ liên quan tới quá trình hình thành cấu trúc gia đình, đặc
18
| 1/41

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN Học kỳ 2/2021-2022
NHẬP MÔN XÃ HỘI HỌC
VẤN ĐỀ BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG XÃ HỘI NGÀY NAY
GVHD: GVC.TS NGUYỄN THỊ NHƯ THÚY
MÃ HP: INSO321005_22_2_02
NHÓM SINH VIÊN THỰC HIỆN: STT Họ tên MSSV 1 Trần Thị Kim Phượng 22133044 2 Nguyễn Đinh Hồng Phúc 22133041 3 Nguyễn Ngọc Thao 22133051 4 Võ Triệu Phúc 22133043 5 Nguyễn Như Hoàng Tiến 22133061 6 Nguyễn Nam Hy 22133029 7 Dương Thành Sơn 22133048 8 Đặng Văn Huy 22133024 TP.HCM, 5/2023
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
Điểm: …………………………….. KÝ TÊN MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU:..........................................................................................................2
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................................2
2. Mục đích nghiên cứu.................................................................................................3
3. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................................4
PHẦN NỘI DUNG.......................................................................................................5
1. KHÁI NIỆM CHUNG...............................................................................................5
1.1. Bất bình đẳng xã hội...............................................................................................5
1.1.1. Định nghĩa bất bình đẳng....................................................................................5
1.1.2. Phân loại bất bình đẳng.......................................................................................5
1.1.3. Các quan điểm về bất bình đẳng xã hội...............................................................6
1.1.4. Cơ sở tạo nên sự bất bình đẳng............................................................................8
1.2. Bất bình đẳng giới................................................................................................10
2. Bất bình đẳng giới trong xã hội ngày nay................................................................15
2.1. Các thực trạng liên quan đến bất bình đẳng giới trong xã hội...............................16
2.2. Nguyên nhân gây ra bất bình đẳng giới................................................................22
2.2.1. Quan niệm xã hội lạc hậu..................................................................................22
2.2.3. Suy nghĩ, quan niệm chấp nhận của phụ nữ......................................................22
2.3. Kết quả của bất bình đẳng giới.............................................................................23
3. GIẢI PHÁP..............................................................................................................28
3.1. Giải pháp của chính phủ.......................................................................................29
3.2. Giải pháp cá nhân.................................................................................................34
KẾT LUẬN.................................................................................................................35 1
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................37 2 PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trong xã hội ngày nay, bất bình đẳng giới là một vấn đề nóng hổi, đáng quan
ngại và cần được tìm hiểu sâu hơn. Hằng ngày, chúng ta chứng kiến những tác động
tiêu cực của bất bình đẳng giới trong cuộc sống của chúng ta. Từ sự chênh lệch thu
nhập, sự kỳ thị và bạo lực, đến sự thiếu công bằng trong cơ hội và quyền lợi, bất bình
đẳng giới đã lan rộng và gây ảnh hưởng đến mọi người trên khắp thế giới.
Đó là lý do tại sao chúng tôi quyết định chọn đề tài "Bất bình đẳng giới trong xã hội
ngày nay" cho tiểu luận của mình. Chúng tôi tin rằng việc nghiên cứu về vấn đề này sẽ
mang lại những nhận thức mới và đưa ra giải pháp hiệu quả để giảm bớt bất bình đẳng giới trong xã hội.
Đầu tiên, bất bình đẳng giới không chỉ là một vấn đề cục bộ mà còn là một vấn
đề toàn cầu. Bất bình đẳng giới tồn tại ở mọi quốc gia, trong mọi tầng lớp xã hội và
ảnh hưởng đến cả nam giới và nữ giới. Việc tìm hiểu về bất bình đẳng giới trong xã
hội ngày nay sẽ giúp chúng tôi nhận ra những mô hình và xu hướng chung của vấn đề
này, từ đó đề xuất các biện pháp cụ thể nhằm giải quyết vấn đề này trên phạm vi rộng hơn.
Thứ hai, bất bình đẳng giới không chỉ ảnh hưởng đến cá nhân mà còn gây tổn
thương cho xã hội và kinh tế. Sự chênh lệch giữa nam giới và nữ giới trong việc truy
cập vào giáo dục và cơ hội việc làm ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện của một
quốc gia. Đồng thời, sự kỳ thị và bạo lực đối với những nhóm giới tính khác cũng góp
phần làm suy yếu mạng lưới xã hội. Bằng cách nghiên cứu về bất bình đẳng giới,
chúng tôi hy vọng có thể đưa ra những giải pháp và chính sách thích hợp để xóa bỏ sự
bất bình đẳng và thúc đẩy sự phát triển bền vững của xã hội.
Thứ ba, việc nghiên cứu về bất bình đẳng giới cũng mang lại cơ hội để chúng
tôi nâng cao nhận thức và hiểu biết về vấn đề này. Điều này giúp chúng tôi nhìn nhận
rõ hơn về các thách thức mà phụ nữ và những nhóm giới tính khác đang phải đối mặt
hàng ngày, từ việc xâm phạm đến quyền tự quyết và tự do cá nhân cho đến sự thiếu
đại diện trong các lĩnh vực quyền lực. Chúng tôi hy vọng tiểu luận này cũng sẽ góp 3
phần nâng cao nhận thức của mọi người về vai trò của họ trong việc thay đổi và xây
dựng một xã hội công bằng và đồng tâm.
Trên cơ sở những lý do trên, chúng tôi đã quyết định chọn đề tài "Bất bình
đẳng giới trong xã hội ngày nay" cho tiểu luận của mình. Chúng tôi tin rằng việc
nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này sẽ mang lại những góc nhìn mới, đóng góp vào việc
giải quyết và xóa bỏ bất bình đẳng giới trong xã hội, góp phần xây dựng một tương lai
tươi sáng và công bằng hơn cho mọi người.
2. Mục đích nghiên cứu.
Mục đích của tiểu luận "Bất bình đẳng giới trong xã hội ngày nay" là tìm hiểu,
phân tích và đánh giá tình hình bất bình đẳng giới hiện tại trong xã hội. Đây là một
vấn đề quan trọng đòi hỏi sự quan tâm và thảo luận sâu hơn để xác định những nguyên
nhân và hậu quả của bất bình đẳng giới, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm giảm bớt và
loại bỏ hiện tượng này.
Mục đích đầu tiên của tiểu luận là nghiên cứu để hiểu rõ hơn về các yếu tố góp
phần vào sự xuất hiện và duy trì của bất bình đẳng giới trong xã hội ngày nay. Qua
việc phân tích các vấn đề như sự chênh lệch trong việc tiếp cận giáo dục và cơ hội
việc làm, định kiến xã hội, vai trò truyền thống và sự kỳ thị giới tính, chúng ta có thể
xác định được các nguyên nhân cụ thể gây ra sự bất bình đẳng giới.
Mục đích thứ hai là đánh giá tác động của bất bình đẳng giới lên cá nhân, gia
đình, xã hội và kinh tế. Tìm hiểu về những hệ quả của bất bình đẳng giới giúp chúng
ta nhìn thấy mức độ tổn thương và hạn chế mà nó gây ra, từ việc ảnh hưởng đến sự
phát triển cá nhân, thăng tiến nghề nghiệp, cho đến sự suy yếu của mạng lưới xã hội
và tăng cường bất bình đẳng thu nhập. Đánh giá này cung cấp cơ sở để thể hiện tầm
quan trọng của việc giải quyết bất bình đẳng giới trong xã hội ngày nay.
Mục đích cuối cùng là đề xuất các giải pháp và chính sách nhằm giảm bớt và
loại bỏ bất bình đẳng giới. Dựa trên những nghiên cứu và phân tích đã được thực hiện,
tiểu luận sẽ đưa ra những khuyến nghị và giải pháp cụ thể, từ các biện pháp giáo dục
và xây dựng nhận thức cho đến việc thay đổi quy định pháp luật và chính sách cung
cấp cơ hội công bằng cho cả nam và nữ. Mục tiêu là tạo ra một xã hội công bằng và
bền vững, nơi mà mọi cá nhân, bất kể giới tính, có thể phát triển và tham gia vào sự 4
phát triển toàn diện của xã hội.
Tổng kết lại, mục đích của tiểu luận "Bất bình đẳng giới trong xã hội ngày nay"
là tìm hiểu, đánh giá và đề xuất các giải pháp nhằm giảm bớt và loại bỏ bất bình đẳng
giới. Qua đó, tiểu luận hướng đến mục tiêu xây dựng một xã hội công bằng và đồng
tâm, nơi mà mọi cá nhân có cơ hội phát triển và đóng góp vào sự phát triển toàn diện của xã hội.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Để hoàn thành đề tài tiểu luận "Vấn đề bất bình đẳng giới trong xã hội ngày
nay" một cách tốt nhất, chúng tôi sử dụng một sự kết hợp linh hoạt của nhiều phương
pháp và công cụ nghiên cứu khác nhau:
- Phương pháp phân tích tư liệu: Xem xét các tài liệu có sẵn trong kho thông tin lưu
trữ và các nguồn khác để nghiên cứu vấn đề một cách chi tiết. Điều này giúp thu thập
số liệu, tư liệu thứ cấp và thậm chí những phân tích, kết luận có sẵn để hỗ trợ cho quá
trình nghiên cứu và xây dựng luận cứ rõ ràng.
- Phương pháp tổng hợp và logic: Chúng tôi sử dụng phương pháp tổng hợp kết hợp
với phương pháp phân tích. Cụ thể, từ các kết quả thu được thông qua phân tích,
chúng tôi sử dụng phương pháp tổng hợp để kết hợp chúng lại với nhau, nhằm tạo ra
một sự nhận thức rõ ràng và hợp lý về vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp chuyên gia: Chúng tôi áp dụng phương pháp này để thu thập ý kiến
của các chuyên gia về vấn đề xã hội liên quan. Ý kiến của các chuyên gia thường
mang tính chất thực tiễn và giàu kiến thức chuyên môn. Điều này đảm bảo tính thực
tiễn và sự đa chiều trong quá trình nghiên cứu.
Bằng việc kết hợp các phương pháp nghiên cứu này, chúng tôi áp dụng quan
điểm toàn diện và hệ thống, từ khái quát và mô tả cho đến phân tích và tổng hợp.
Chúng tôi cũng sử dụng các phương pháp liên ngành xã hội và nhân văn để hoàn thiện
bài tiểu luận một cách khách quan nhất có thể. Nhờ vào sự kết hợp này, chúng tôi hy
vọng đạt được một cái nhìn toàn diện về vấn đề bất bình đẳng giới trong xã hội ngày nay. 5 PHẦN NỘI DUNG 1. KHÁI NIỆM CHUNG.
1.1. Bất bình đẳng xã hội.
1.1.1. Đ nh nghĩa bấất bình đ ng ẳ .
Tất cả các xã hội đều được đặc trưng bởi sự khác biệt xã hội. Đó là quá trình
mà con người tạo nên khoảng cách do cách ứng xử khác nhau bởi vị thế, vai trò cùng
những đặc điểm khác. Quá trình đó chuẩn bị cho bất bình đẳng xã hội, là điều kiện mà
con người có cơ hội không ngang bằng nhau về sử dụng của cải, quyền lực và uy tín.
Bất bình đẳng là một hiện tượng mang tính kế thừa ở mọi thời đại vì nó tồn tại trong
mọi xã hội do cơ cấu xã hội mang lại. Bất bình đẳng không phải là một hiện tượng tự
nhiên, tồn tại một cách ngẫu nhiên giữa các mối quan hệ trong xã hội, nó tồn tại “khi
có một nhóm xã hội kiểm soát và khai thác các nhóm xã hội khác.” Trong sự vận động
và phát triển của xã hội thì bất bình đẳng xã hội luôn là một vấn đề trung tâm. Bất
bình đẳng xã hội hình thành nên một hệ thống tồn tại song song với sự phát triển qua
những xã hội khác nhau. Điều đó cũng cho ta nhận biết được rằng hệ thống bất bình
đẳng sẽ khác nhau trong những xã hội khác nhau và nguyên nhân chính là do thể chế
chính trị và hoàn cảnh, điều kiện sinh sống của từng nơi quyết định.
Từ khái niệm bất bình đẳng đã nêu ở phần trên, ta có thể suy ra bất bình đẳng
xã hội là sự không bằng nhau về mặt xã hội, tức là sự khác nhau về những lợi ích, cơ
hội về mặt vật chất lẫn tinh thần cũng như là thỏa mãn các lợi ích đó của cá nhân
trong một nhóm xã hội hay nhiều nhóm xã hội khác nhau.
1.1.2. Phấn lo i bấất bình đ ng ẳ .
Bất bình đẳng có thể được phân thành 2 loại: bất bình đẳng mang tính tự nhiên
và bất bình đẳng mang tính xã hội.
- Bất bình đẳng mang tính tự nhiên: là sự khác biệt của cá nhân về một hoặc một số
đặc điểm sẵn có như giới, tuổi, chủng tộc, trí lực,…
- Bất bình đẳng mang tính xã hội: là sự phân công lao động dẫn đến phân tầng, tạo ra
lợi ích khác nhau giữa các cá nhân.1
1 HaNoi1000, “Bất bình đẳng xã hội là gì? Nguyên nhân, Các quan điểm”, https://hanoi1000.vn/bat-binh-dang-
xa-hoi-la-gi-nguyen-nhan-cac-quan-diem, ngày truy cập 11/03/2022. 6
Theo quan điểm của các nhà xã hội học nghiên cứu về cơ cấu xã hội thì bất
bình đẳng xã hội có vai trò hết sức quan trọng:
i. Bất bình đẳng được xem như là điều kiện để tổ chức xã hội.
ii. Bất bình đẳng là cơ sở cho việc điều chỉnh các quan hệ xã hội.
iii. Bất bình đẳng đảm bảo cho đời sống và phát triển xã hội.
Bất bình đẳng xã hội là một khái niệm rất rộng, nó bao hàm cả công bằng xã
hội và bất công bằng xã hội. Công bằng xã hội là sự bất bình đẳng hợp lý, hợp pháp,
chủ yếu dựa vào sự khác biệt khách quan, tự nhiên giữa các thành viên trong xã hội về
mặt năng lực (thể chất, trí tuệ), sự khác biệt về cái tài, cái đức và sự cống hiến, đóng
góp thực tế của mỗi cá nhân cho xã hội.
Bất công bằng xã hội là sự bất bình đẳng bất hợp lý, bất hợp pháp, không dựa
trên sự khác biệt tự nhiên giữa các cá nhân, cũng không chủ yếu được tạo ra do sự
khác nhau về tài đức và sự đóng góp cống hiến một cách thực tế của mỗi người cho xã
hội mà dựa vào những hành vi trái pháp luật, tham nhũng, lừa gạt, trộm cắp, buôn bán
phi pháp để trở nên giàu có, luồn lọt, xu nịnh, để có vị trí cao trong xã hội hoặc lười
biếng, ỷ lại để rơi vào sự nghèo khổ, hèn kém.
Tóm lại, có thể kết luận rằng, bất bình đẳng xã hội mang theo cả mặt tích cực
và tiêu cực. Một mặt, đó là động lực thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội, góp phần ổn định
và tạo ra bộ mặt xã hội, mặt khác đây cũng là nguyên nhân gây tích tụ bất bình xã hội,
cản trở sự phát triển chung của cộng đồng. Do đó, nghiên cứu về bất bình đẳng xã hội
là việc làm cần thiết nhằm củng cố, tổ chức xã hội ngày một công bằng, dân chủ, văn minh, tiến bộ hơn.
1.1.3. Các quan đi m vềề bấất bình đ ng xã h i ộ .
Bất bình đẳng có phải là một hiện tượng xã hội không thể nào tránh khỏi?
Xung quanh vấn đề này, có nhiều quan điểm khác nhau. Dưới đây là một số quan điểm:
+ Quan điểm dựa vào yếu tố sinh học của cá nhân:
Bất bình đẳng xã hội là hiện tượng xã hội không thể nào tránh khỏi - đây là vấn đề có
nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng, bất bình đẳng luôn hiện diện bởi
sự khác biệt nhân cách giữa những cá nhân. Nếu có một xã hội mở và nếu con người 7
khác nhau về tài năng và nhu cầu thì điều đó sẽ hàm ý rằng bất bình đẳng là không thể
tránh được. Đó là một thực tế của xã hội. Một số bất bình đẳng đến như là kết quả
không thể né tránh về bất bình đẳng sinh học của kỹ năng, thể chất, khả năng tinh
thần và những khía cạnh của nhân cách.2 Nhà triết học Hy Lạp cổ đại Aritstốt (384–
322 TCN) cho rằng có những khác biệt tự nhiên giữa các cá nhân; thực tế, vẫn còn tồn
tại những khác biệt trong kiểu phân chia giới như là kết quả không thể tránh được của
bất bình đẳng: “Đàn ông bản chất là thống trị, đàn bà là bị trị, và đó là một luật lệ”. Sự
thống trị và sự thành đạt cao của nam giới là khả năng không thể đảo ngược, bởi có
những khác biệt về sinh học giữa nam và nữ.3
+ Quan điểm dựa vào yếu tố kinh tế:
Một số nhà xã hội học khác đã cho rằng bất bình đẳng là không thể tránh khỏi;
nhưng họ lý luận nguyên nhân của nó là do xã hội có những nhiệm vụ này cần thiết
hơn những nhiệm vụ khác. Khả năng thực hiện những nhiệm vụ này khác nhau. Họ
lập luận rằng bất bình đẳng xã hội về lợi ích giữa các cá nhân là cần thiết để thúc đẩy
người tài nhất thực hiện những nhiệm vụ khó khăn nhất. Do vậy trong những điều
kiện đó, không thể thủ tiêu bất bình đẳng, vì bình đẳng có nguy hiểm cho xã hội.
Có quan điểm cho rằng bất bình đẳng chủ yếu là do cấu trúc của hệ thống xã
hội gây ra chứ không phải do sự khác biệt về tài năng, đặc điểm và nhu cầu cá nhân.
Nguồn gốc của bất bình đẳng liên quan tới sở hữu tư nhân về của cải. Những
đặc điểm về kinh tế, chính trị và thị trường lao động tạo ra những khác biệt trong thu
nhập và của cải. Thực chất, sự khác biệt về vị trí của các cá nhân trong cơ cấu xã hội
gây ra bất bình đẳng kinh tế.4
+ Quan điểm của Karl Marx:
Học thuyết của Karl Marx dựa trên nghiên cứu các học thuyết kinh tế, được coi là nền
tảng của cơ cấu giai cấp. Mối quan hệ giai cấp đóng vai trò quan trọng trong mọi khía
cạnh của xã hội. Marx khẳng định rằng "Những tư tưởng thống trị của một thời đại
luôn là tư tưởng của giai cấp thống trị," phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị. Lý
luận của Marx xoay quanh hoạt động tổ chức sản xuất và phân công lao động trong xã
2 Kenneth Cauthen (1987), The Passion for Equality, NXB Rowman & Littlefield, tr.8.
3 Steven Goldberg (1973), The Inevitability of Patriarchy, NXB William Morrow and Company, tr.133.
4 Jean-Jacques Rousseau (1753), Về nguồn gốc của sự bất bình đẳng. 8
hội, cùng với việc phân tích cấu trúc xã hội, nhằm làm sáng tỏ tính chất giai cấp và bất
bình đẳng trong quan hệ xã hội. Từ việc phân tích cấu trúc xã hội này, ta có thể rút ra
hai kết luận quan trọng. Đầu tiên, cần loại bỏ và thay thế chế độ sở hữu tư nhân bằng
chế độ sở hữu xã hội để xây dựng một xã hội phát triển. Thứ hai, xã hội học cần tập
trung vào phân tích cấu trúc xã hội để xác định ai là những người hưởng lợi và ai là
những người chịu thiệt từ cách tổ chức và cơ cấu xã hội hiện tại. Tóm lại, cấu trúc xã
hội, phân tầng xã hội và bất bình đẳng xã hội là những đề tài cơ bản của xã hội học hiện đại.
+ Quan điểm của Max Weber :
Max Weber, một nhà xã hội học khác với Marx, không xem mọi cấu trúc xã hội
như một hệ thống bất bình đẳng dựa trên giai cấp. Theo Weber, sự phân hạng trong xã
hội phụ thuộc vào các yếu tố đặc biệt về địa vị xã hội dựa trên nền tảng tôn giáo. Ông
nhấn mạnh rằng quyền lực kinh tế có thể phát sinh từ quyền lực được xây dựng trên
các nền tảng khác. Địa vị xã hội và uy tín xã hội có thể bắt nguồn từ quyền lực kinh tế,
nhưng không nhất thiết là duy nhất. Ví dụ, một người giàu có nhưng không có kiến
thức hay giáo dục có thể không đạt được vị trí cao trong xã hội, trong khi ngược lại,
địa vị có thể là cơ sở cho quyền lực chính trị. Weber cho rằng đây là một vấn đề lịch
sử và xã hội cần được phân tích để tìm ra nguyên nhân thực sự của bất bình đẳng xã hội.
Quan điểm của Weber nhấn mạnh tầm quan trọng của thị trường thay vì tái sản
xuất là nền tảng kinh tế của giai cấp. Theo Weber, nguyên nhân chính gây ra bất bình
đẳng trong xã hội tư bản là sự khác biệt về khả năng thị trường. Điều này có nghĩa là
khả năng chiếm lĩnh thị trường của mỗi cá nhân phụ thuộc vào tri thức, tài năng và kỹ
năng nghề nghiệp của họ. 1.1.4. C s ơ t ở o nền s
bấất bình đ ng.
Giới tính là một khái niệm xã hội được xác định bởi các quy tắc, giá trị và vai
trò mà xã hội gán cho các cá nhân dựa trên đặc điểm sinh lý của họ. Tuy nhiên, bất
bình đẳng giới tính vẫn là một vấn đề lớn trong xã hội hiện đại của chúng ta.
Cơ sở tạo nên bất bình đẳng giới tính trong xã hội bao gồm những giá trị, quan
niệm, vai trò xã hội và các quy tắc được đặt ra cho mỗi giới tính. Trong xã hội, nam 9
giới thường được xem là mạnh mẽ, năng động và quyền lực, trong khi nữ giới thường
bị xem là yếu đuối, nhạy cảm và nên có vai trò chăm sóc gia đình. Điều này đã tạo ra
sự bất bình đẳng giới tính trong xã hội và ảnh hưởng đến cuộc sống của các cá nhân,
đặc biệt là những người không tuân thủ quy tắc xã hội đối với giới tính.
Các ảnh hưởng của bất bình đẳng giới tính trên xã hội rất lớn và đa dạng, bao
gồm cả ảnh hưởng đến kinh tế, sức khỏe, hạnh phúc và sự phát triển cá nhân. Các
nghiên cứu đã chỉ ra rằng, phụ nữ thường bị thiệt hại hơn so với nam giới về mặt kinh
tế, đặc biệt là trong những nền kinh tế phát triển ít. Họ cũng có nguy cơ cao hơn bị
bạo lực và xâm hại tình dục, và thường không được đối xử công bằng trong việc tuyển
dụng và thăng tiến trong công việc. Ngoài ra, những người thuộc cộng đồng LGBT
(Lesbian, Gay, Bisexual, Transgender) cũng thường phải đối mặt với sự kì thị và phân
biệt đối xử từ xã hội, gây ra áp lực tâm lý và ảnh hưởng đến cuộc sống của họ.
Để giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới tính trong xã hội, trước hết chúng ta
cần hiểu rõ cơ sở tạo nên sự bất bình đẳng này. Một trong những cơ sở quan trọng
nhất là tư tưởng xã hội hóa giới tính, tức là quan niệm xã hội về vai trò và đặc tính của
từng giới tính. Tư tưởng này đã được tạo dựng và truyền tai từ thế kỷ trước đến nay,
khi mà xã hội đặt giá trị và yêu cầu khác nhau cho nam và nữ.
Ví dụ, đối với phụ nữ, xã hội thường kỳ vọng họ phải có ngoại hình đẹp, biết
nấu ăn, làm việc nhà, chăm sóc gia đình, trong khi đối với nam giới thì yêu cầu
thường là phải mạnh mẽ, can đảm, làm chủ được tình hình, kiếm tiền để nuôi gia đình.
Các quan niệm này đã được xây dựng theo thời gian và trở thành một phần không thể thiếu của xã hội.
Tuy nhiên, những quan niệm này đã tạo ra sự bất bình đẳng giới tính, khiến cho
phụ nữ và những người khác không phù hợp với quy chuẩn giới tính của xã hội bị kì
thị và phân biệt đối xử. Chính vì thế, để giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới tính,
chúng ta cần xây dựng một xã hội đa dạng và tôn trọng sự khác biệt giới tính.
Để đạt được điều này, chúng ta cần tạo ra một môi trường giáo dục và văn hóa, nơi mà
những quan niệm truyền thống về giới tính không còn được coi là chính thống. Chúng
ta cần truyền tải thông điệp rằng mỗi người đều có quyền được sống theo cách mà họ
mong muốn, không phải dựa trên giới tính mà xã hội quy định.
Bên cạnh đó, chúng ta cần cung cấp hỗ trợ và tạo điều kiện cho những người 10
thuộc cộng đồng LGBT, những người thường là nạn nhân của sự kì thị và phân biệt
đối xử. Chúng ta cần đưa ra các chính sách và luật pháp bảo vệ quyền lợi của họ, đồng
thời tạo ra một môi trường công bằng và đa dạng để họ có thể tự do thể hiện bản thân
mình mà không sợ bị kì thị hay phân biệt đối xử. Ngoài ra, cần phải tăng cường giáo
dục về giới tính và sự đa dạng giới tính, nhằm nâng cao nhận thức và kiến thức của
mọi người về vấn đề này, từ đó giảm thiểu sự kì thị và phân biệt đối xử.
Tuy nhiên, giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới tính không thể chỉ dừng lại ở
những biện pháp trên mà còn cần phải thay đổi cách suy nghĩ và tư duy của mọi
người. Chúng ta cần phải thay đổi những quan điểm sai lầm, giảm thiểu sự kì thị và
phân biệt đối xử trong xã hội, và xây dựng một cộng đồng văn minh, đa dạng và tôn
trọng giới tính. Chỉ khi chúng ta đồng lòng hành động, thay đổi tư duy và thay đổi
cách suy nghĩ của mọi người, chúng ta mới có thể giải quyết được vấn đề bất bình
đẳng giới tính và xây dựng một xã hội công bằng và bình đẳng cho tất cả mọi người.
1.2. Bất bình đẳng giới.
1.2.1. Khái ni m c
ệ bơ n vềề bấất bình đ ng gi ới.
Bất bình đẳng giới là một tình trạng xã hội phổ biến, cho thấy sự khác biệt và
không công bằng giữa các giới tính. Nó bao gồm những định kiến xã hội, quy định
pháp luật, thái độ phân biệt giới tính và những hành động kì thị và phân biệt đối xử.
Bất bình đẳng giới thường xảy ra ở mọi lĩnh vực trong xã hội, từ công việc,
giáo dục, chính trị, gia đình đến cuộc sống cá nhân. Ví dụ, trong công việc, phụ nữ
thường bị trả lương thấp hơn so với nam giới, dù có cùng trình độ và kinh nghiệm.
Trong giáo dục, nhiều trường học vẫn có các quy tắc phân biệt giới tính, giới hạn sự
lựa chọn của học sinh dựa trên giới tính của họ. Trong gia đình, phụ nữ thường bị đặt
vào vị trí kém hơn so với nam giới và phải chịu trách nhiệm chăm sóc gia đình và nuôi
dạy con cái một cách nặng nhọc hơn.
Bất bình đẳng giới ảnh hưởng không chỉ đến những người bị phân biệt đối xử,
mà còn đến toàn bộ xã hội. Nó làm giảm hiệu quả và sản lượng lao động, tạo ra những
căng thẳng, xung đột và gây ra những vấn đề về tâm lý và sức khỏe của các nạn nhân. 11
1.2.2. Quan đi m c a c
ủ h nghĩa Mác - Lềnin vềề bình đ ng gi i.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một trường phái tư tưởng chính trị và kinh tế có ảnh
hưởng lớn trong lịch sử thế giới. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bình đẳng
giới được hình thành dựa trên quan niệm về vai trò của giai cấp và cách mà bất bình
đẳng giới phản ánh bất bình đẳng kinh tế, xã hội.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, bất bình đẳng giới là một hình
thức bất bình đẳng xã hội, phản ánh sự chia rẽ giữa các giai cấp và tầng lớp trong xã
hội. Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng bất bình đẳng giới được tạo ra bởi cấu trúc giai
cấp và tầng lớp của xã hội. Theo đó, bất bình đẳng giới không phải là một hiện tượng
độc lập, mà được phản ánh và bị tác động bởi các yếu tố kinh tế, xã hội, chính trị khác nhau.
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng để giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới, cần
phải xóa bỏ các yếu tố gây ra sự chia rẽ và phân biệt đối xử giữa các tầng lớp và giai
cấp trong xã hội. Ngoài ra, chủ nghĩa Mác - Lênin cũng coi trọng việc giáo dục và
nâng cao nhận thức của nhân dân về bình đẳng giới, nhằm thay đổi tư tưởng và tạo ra
một tầng lớp lao động phản đối bất bình đẳng giới.
Trong lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lênin đã lãnh đạo cách mạng ở nhiều quốc gia,
đưa ra nhiều biện pháp để giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới. Các biện pháp này bao
gồm việc phân bổ tài nguyên và cơ hội công bằng hơn giữa các giai cấp và tầng lớp,
đồng thời đưa ra các chính sách về giáo dục và đào tạo để tăng cường nhận thức và
giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới.
Tuy nhiên, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bình đẳng giới cũng không
được chấp nhận hoàn toàn bởi một số người. Một số nhà phê bình cho rằng quan điểm
này thiếu nhạy cảm với vấn đề đa dạng giới tính và bất bình đẳng giới định kiến trong xã hội hiện đại.
Ngoài ra, trong thực tế, các chính sách và luật pháp bảo vệ quyền lợi của người
đồng tính, người chuyển giới, và những người khác thuộc cộng đồng LGBT vẫn còn
nhiều hạn chế và khó khăn. Những người này vẫn thường bị kì thị và phân biệt đối xử
trong nhiều lĩnh vực của đời sống, bao gồm cả giáo dục, công việc, y tế, và gia đình.
Vì vậy, chúng ta cần cùng nhau đấu tranh và thực hiện các biện pháp để đảm
bảo bình đẳng giới và đa dạng giới tính, bao gồm việc giáo dục, tuyên truyền, đưa ra 12
chính sách và luật pháp bảo vệ quyền lợi của người LGBT, và cung cấp hỗ trợ cho
những người bị phân biệt đối xử và kì thị. Chỉ khi mà tất cả chúng ta đều được đối xử
bình đẳng và có cơ hội phát triển sẽ xã hội được coi là văn minh và phát triển. 1.2.3. T tư
ng Hồề Chí Minh vềề bình đ ưở ng ẳ gi i.
Có thể thấy, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa sử dụng cụm từ “bình đẳng
giới”. Người chỉ bàn về vấn đề giải phóng phụ nữ và thực hiện nam nữ bình quyền.
Nhưng đây cũng chính là nội dung cốt lõi của vấn đề bình đẳng giới hiện nay mà thế
giới và Việt Nam đang quyết tâm theo đuổi vì một xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh. Những tư tưởng cốt lõi về bình đẳng giới của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện ở
một số luận điểm sau:
- Thứ nhất, phụ nữ là phân nửa xã hội, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải giải
phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình quyền. Là học trò xuất sắc của C.Mác và
V.I.Lênin, am hiểu lịch sử dân tộc và trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch
Hồ Chí Minh khẳng định: “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như
già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Việt
Nam đầu tiên gắn liền cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc với cuộc đấu tranh cho bình
đẳng, tự do và phát triển của phụ nữ Việt Nam. Trong những năm đi bôn ba tìm đường
cứu nước, Người đã có dịp tìm hiểu nhiều cuộc cách mạng diễn ra trên thế giới. Người
rút ra kết luận, chỉ có Cách mạng Tháng Mười Nga là cuộc cách mạng “đến nơi”, hay
còn gọi là cuộc cách mạng triệt để, nghĩa là đem lại quyền làm chủ xã hội thực sự cho
người dân. “Chính nhờ cuộc cách mạng này mà cơ sở của quyền tự do chân chính và
quyền bình đẳng thực sự đã được đặt ra cho loài người. Chính nhờ cuộc cách mạng
này mà sự giải phóng phụ nữ sẽ có giá trị và có những ý nghĩa đầy đủ, trọn vẹn” Vì
vậy, Hồ Chí Minh đã lựa chọn con đường cách mạng vô sản, nhằm giành lại độc lập
hoàn toàn cho dân tộc, ấm no tự do hạnh phúc thực sự cho nhân dân và để thực sự giải
phóng cho phụ nữ thoát khỏi cả ách áp bức dân tộc lẫn ách áp bức xã hội. Người luôn
động viên phụ nữ tham gia vào sự nghiệp cách mạng cùng dân tộc, bởi theo Người,
giải phóng phụ nữ - bản thân nó cũng là một cuộc cách mạng, là một trong những mục
tiêu lớn của cách mạng, nó luôn gắn với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp. Trong Văn kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930, Hồ Chí Minh chỉ 13
rõ nhiệm vụ của cách mạng không chỉ giành độc lập cho dân tộc,... các quyền dân chủ
tự do cho nhân dân, mà còn nhằm “thực hiện nam nữ bình quyền”. Người nhấn mạnh
rằng dưới chế độ phong kiến thực dân, phụ nữ bị áp bức tàn tệ. Ngoài xã hội thì phụ
nữ bị xem khinh là nô lệ. Ở gia đình thì họ bị kìm hãm trong xiềng xích “tam tòng”;
cũng dưới chế độ thực dân, phong kiến, nhân dân ta bị áp bức, bóc lột thì phụ nữ ta bị
áp bức, bóc lột nặng nề hơn... “Điều đó chứng tỏ rằng vì quyền lợi của đàn bà con gái
An Nam mà chúng ta làm cách mạng”. Từ cảm nhận sâu sắc nỗi “khổ nhục” của
người phụ nữ dưới chế độ thực dân phong kiến, Người càng ý thức hơn chính phụ nữ
là lực lượng “một nửa” thành công của cách mạng. Người luôn nhấn mạnh khả năng
cách mạng của phụ nữ và sớm nhận thấy nhân tố góp phần thắng lợi của cuộc cách
mạng ấy chính là phụ nữ: “Xem trong lịch sử cách mệnh, chẳng có lần nào là không
có đàn bà, con gái tham gia” và “An Nam cách mệnh cũng phải có nữ giới tham gia
mới thành công”. Người có những luận điểm thể hiện tầm nhìn chiến lược khi đặt vấn
đề giải phóng phụ nữ, thực hiện quyền bình đẳng nam nữ trong tương quan phát triển
của xã hội mới, của chủ nghĩa xã hội: “Nói phụ nữ là nói phân nửa xã hội. Nếu không
giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng
phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa”. Đánh giá cao vai trò của phụ nữ
khi nhìn nhận họ là lực lượng lao động đông đảo của xã hội, Người còn thấy rõ khả
năng làm việc không thua kém nam giới của phụ nữ. Người nêu những tấm gương tiêu
biểu của phụ nữ như: Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Thị
Định... Người nói, trên thế giới chưa có nơi nào phụ nữ làm Phó Tổng Tư lệnh như ở
miền Nam nước ta. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, kính trọng phụ nữ, thực hiện
quyền bình đẳng nam nữ, bảo đảm quyền lợi của phụ nữ là bản chất của chế độ ta;
trong đó, vị trí xã hội của chị em được Người đặc biệt quan tâm. 5
Thứ hai, giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình quyền là nhiệm vụ của
Đảng, Nhà nước và bản thân chị em phụ nữ. Người luôn theo dõi sát sao và tạo mọi
điều kiện cho phụ nữ tham gia vào sự nghiệp bảo vệ nền độc lập dân tộc và xây dựng
nhà nước. Đặc biệt, Người rất quan tâm đến công tác phát triển đảng trong quần chúng
phụ nữ. Khi làm việc với các cấp ủy đảng từ Trung ương đến địa phương, Người luôn
5 Tạp chí tổ chức Nhà nước, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng giới và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam”,
https://tcnn.vn/news/detail/33823/Tu_tuong_Ho_Chi_Minh_ve_binh_dang_gioi_va_su_van_dung_cua_Dang_C
ong_san_Viet_Namall.html, ngày truy cập 07/07/2016 14
chú ý đến số lượng cán bộ nữ. Người hiểu rõ khả năng to lớn của phụ nữ trong các
lĩnh vực của đời sống xã hội: “Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, hàng vạn phụ nữ đã trở
thành cán bộ chuyên môn các ngành và cán bộ lãnh đạo, làm giám đốc và phó giám
đốc các xí nghiệp, chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp, chủ tịch ủy ban hành chính, bí
thư chi bộ đảng, v.v..” và Người vui mừng trước việc ngày càng có nhiều phụ nữ tham
gia vào công việc quản lý: “Từ ngày nước ta được giải phóng đến nay, phụ nữ đều tiến
bộ rõ về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Nhưng một trong những tiến bộ rõ
rệt nhất là phụ nữ ta hiện nay tham gia chính quyền ngày càng nhiều”. Thực hiện nam
nữ bình quyền, theo Hồ Chí Minh: “Đó là một cuộc cách mạng khá to và khó. Vì
trọng trai khinh gái là một thói quen mấy nghìn năm để lại. Vì nó ăn sâu trong đầu óc
của mọi người, mọi gia đình, mọi tầng lớp xã hội”. Để thực hiện 100% bình quyền,
bình đẳng nam nữ, Hồ Chí Minh nhắc nhở chị em “phải nâng cao tinh thần làm chủ,
cố gắng học tập và phấn đấu; phải xóa bỏ tư tưởng bảo thủ, tự ti; phải phát triển chí
khí tự cường, tự lập”10. Người chỉ rõ cho các cấp ủy đảng và chính quyền “phải có
phương pháp đào tạo và giúp đỡ để nâng cao hơn nữa địa vị của phụ nữ”. Quan tâm
tới vị trí của phụ nữ trong xã hội, Hồ Chí Minh cũng đồng thời nhắc nhở cán bộ, đảng
viên rằng, một trong những nhiệm vụ của phụ nữ dưới chế độ ta là phải “hăng hái
tham gia chính quyền”. Người còn nói, nếu cán bộ lãnh đạo là nữ mà ít, đấy là một
thiếu sót của Đảng. Nguyên nhân của tình trạng phụ nữ ít được tham gia lãnh đạo
quản lý, theo Người là vì: “Nhiều người còn đánh giá không đúng khả năng của phụ
nữ, hay thành kiến, hẹp hòi. Như vậy là rất sai” Không chỉ phê bình những tư tưởng
hẹp hòi đối với phụ nữ, Người còn đòi hỏi phải tích cực sửa chữa. Người đã đặt trách
nhiệm của Đảng đối với sự phát triển của phụ nữ. Người khẳng định: Phải giải phóng
phụ nữ thực sự, giải phóng phụ nữ thì bằng pháp luật, chính sách, biện pháp cụ thể:
“Từ nay, các cấp đảng, chính quyền địa phương khi giao công tác cho phụ nữ, phải
căn cứ vào trình độ của từng người và cần phải tích cực giúp đỡ phụ nữ nhiều hơn
nữa”, “phải thực sự giải phóng phụ nữ và tôn trọng quyền lợi của phụ nữ”... “Đảng và
Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày
thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ
thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự
cho phụ nữ”. Hồ Chí Minh còn đặt vấn đề về phụ nữ, phát huy vai trò và phát triển 15
năng lực sáng tạo của phụ nữ, coi đó là trách nhiệm của toàn xã hội, trong đó có sự tự
vươn lên của chị em phụ nữ: Đảng và Chính phủ ta cần phải có kế hoạch thiết thực để
bồi dưỡng, cân nhắc và giúp đỡ để người phụ nữ phụ trách ngày càng thêm nhiều mọi
công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân người phụ nữ thì phải cố gắng. Đó là
một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng cho phụ nữ. 6
Như vậy, bình đẳng giới theo tư tưởng của Hồ Chí Minh: Thứ nhất, phụ nữ có
vai trò rất quan trọng trong xã hội không chỉ vì họ là lực lượng lao động to lớn, mà
còn vì họ là những người tham gia xây dựng, cải tạo xã hội. Ngoài thiên chức làm mẹ,
thì khả năng làm việc, sức sáng tạo khi làm việc cho cộng đồng của phụ nữ không
thua kém đàn ông. Thứ hai, sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội sẽ không
mang tính cách mạng đầy đủ nếu không thực sự giải phóng phụ nữ, bởi vì, họ là một
nửa nhân loại, một nửa xã hội. Thứ ba, dưới chế độ ta - chế độ mọi người dân đều là
chủ xã hội, nam nữ bình đẳng về vị trí, bình đẳng về quyền lợi, thì phụ nữ phải có vị
trí xứng đáng với vai trò của mình. Lịch sử dân tộc ta cũng đã chứng minh rằng, phụ
nữ Việt Nam có thể làm được và làm tốt mọi công việc to lớn mà lịch sử đòi hỏi, đất
nước trao cho. Thứ tư, cần phải xóa bỏ tàn dư phong kiến trọng nam khinh nữ, coi
thường, xem nhẹ khả năng làm việc xã hội của phụ nữ; chỉ có vậy mới thực sự giải
phóng phụ nữ, để cuộc cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo có ý nghĩa
cách mạng đầy đủ, có tính nhân văn sâu sắc.
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, tư tưởng giải phóng phụ nữ và thực hiện nam
nữ bình đẳng đã trở thành lý tưởng cách mạng, vừa thể hiện ý thức chính trị, lòng
nhân ái vừa thể hiện giá trị văn hóa, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản của Người.
6 Tạp chí tổ chức Nhà nước, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng giới và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam”,
https://tcnn.vn/news/detail/33823/Tu_tuong_Ho_Chi_Minh_ve_binh_dang_gioi_va_su_van_dung_cua_Dang_C
ong_san_Viet_Namall.html, ngày truy cập 07/07/2016 16
2. Bất bình đẳng giới trong xã hội ngày nay.
2.1. Các thực trạng liên quan đến bất bình đẳng giới trong xã hội. 2.1.1. Tỉ l gi i tín
h khi sinh (SRB).
Một trong những chỉ số quan trọng được Tổng cục Thống kê tiến hành điều tra
trong cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 là Tỷ số giới tính khi sinh - SRB
(Chỉ số SRB phản ánh cân bằng giới tính của số bé trai và bé gái khi được sinh ra. Tỷ
số này thông thường là 104-106 bé trai/100 bé gái sinh ra sống). Bất kỳ sự thay đổi
đáng kể nào của SRB chệch khỏi mức sinh học bình thường đều phản ánh những can
thiệp có chủ ý và sẽ làm ảnh hưởng đến sự mất cân bằng tự nhiên, đe dọa sự ổn định
dân số của quốc gia và toàn cầu.
(Phạm Thị Huyền, Bất bình đẳng giới từ những thách thức mang tính văn hoá và tình
trạng mất cân bằng giới tính, https://cpcs.vn/ty-so-gioi-tinh-khi-sinh-bat-binh-thuong-
cua-viet-nam-va-nhung-hau-qua-co-the-xay-ra-d38282.html, ngày truy cập 14–9– 2021)
Theo Tổng cục Thống kê, SRB của Việt Nam có xu hướng tăng hơn so với mức
sinh học tự nhiên từ năm 2006 đến nay, đưa ra bằng chứng về mất cân bằng giới tính
khi sinh tại Việt Nam. Trong đó, SRB năm 2019 giảm so với năm 2018 nhưng vẫn ở
mức cao (năm 2018: 114,8 bé trai/100 bé gái; năm 2019: 111,5 bé trai/100 bé gái).
Sự gia tăng bất thường về SRB của Việt Nam trong những năm gần đây đang là 17
mối quan tâm hàng đầu của các nhà lập chính sách. Theo đó, những cảnh báo về hệ
lụy của sự mất cân bằng giới tính khi sinh và sự quyết liệt thực hiện các chính sách
nhằm xóa bỏ sự can thiệp có chủ đích trong lựa chọn giới tính khi mang thai ở Việt
Nam trong thời gian qua chưa đem lại hiệu quả; tình trạng mất cân bằng giới tính khi
sinh chưa được khắc phục.
Kết quả điều tra cho thấy, SRB của khu vực thành thị thấp hơn nông thôn,
tương ứng là 110,8 và 111,8 bé trai/100 bé gái. SRB giữa các vùng có sự chênh lệch
đáng kể, SRB cao nhất ở Đồng bằng sông Hồng (115,5 bé trai/100 bé gái) và thấp nhất
ở Đồng bằng sông Cửu Long (106,9 bé trai/100 bé gái). Sự khác biệt của SRB giữa
khu vực thành thị và nông thôn thuộc Đồng bằng sông Hồng cũng cao nhất cả nước.
SRB của Trung du và miền núi phía Bắc năm 2009 là 108,5 bé trai/100 bé gái, tăng
lên 114,2 bé trai/100 bé gái năm 2019. SRB của Đồng bằng sông Hồng năm 2009 là
115,3 bé trai/100 bé gái, tăng nhẹ lên 115,5 bé trai/100 bé gái năm 2019. Qua 10 năm,
mức tăng SRB của Trung du và miền núi phía Bắc nhiều hơn mức tăng SRB của Đồng bằng sông Hồng.
Có thể thấy, mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam là do một số nguyên
nhân như: Sự ưa thích sinh con trai trong bối cảnh giảm sinh, văn hóa Nho giáo với
phong tục về việc mong muốn có con trai để nối dõi tông đường, thờ cúng tổ tiên cũng
như đánh giá thấp giá trị của nữ giới trong gia đình và xã hội tại mỗi vùng, miền và
việc tiếp cận các dịch vụ y tế dễ dàng hơn trong lựa chọn giới tính thai nhi khi mang
thai hoặc chuẩn đoán giới tính thai nhi dẫn tới nạo phá thai vì lý do lựa chọn giới tính, …
Việc lựa chọn giới tính trước khi sinh phản ánh tình trạng bất bình đẳng giới
sâu sắc. Các nghiên cứu của quốc tế và Việt Nam cũng đã chỉ ra các hệ lụy tới cấu trúc
gia đình và các vấn đề xã hội trong tương lai của tình trạng mất cân bằng giới tính
hiện nay, tình trạng thiếu hụt số trẻ em gái quan sát được gần đây ở nhiều quốc gia sẽ
dẫn đến tình trạng thiếu hụt phụ nữ ở tất cả các nhóm tuổi trong tương lai.
Tổng cục Thống kê nhận định, cấu trúc dân số trong những thập kỷ tới sẽ mang
dấu ấn của việc lựa chọn giới tính hiện tại, với quy mô dân số nam vượt trội trong một
thời gian dài. Theo các nhà khoa học xã hội, tác động chính của hiện tượng mất cân
bằng giới tính khi sinh sẽ liên quan tới quá trình hình thành và cấu trúc gia đình, đặc 18