Câu 1: phân tích Quy luật giá trị trong nền sản xuất hàng hóa | Đại học Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp

Quy luật giá trị là một nguyên lý cơ bản trong nền sản xuất hàng hóa, ảnh hưởng đến giá cả, sản xuất, và tiêu dùng. Việc hiểu rõ quy luật này giúp các nhà kinh tế, doanh nhân và người tiêu dùng có cái nhìn sâu sắc hơn về cơ chế vận hành của thị trường và đưa ra các quyết định kinh tế hợp lý

MÔN 2: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Câu 1: phân tích Quy luật giá trị trong nền sản xuất hàng hóa?
Lý giải tại sao sản xuất hàng hóa là khởi điểm ra đời của TBCN?
Trong nền kinh tế hàng hóa, những quy luật kinh tế ràng buộc chi phối
hoạt động của những người sản xuất hàng hóa, trong đó quy luật giá trị quy luật
kinh tế quan trọng nhất, giữ vai trò chi phối nền sản xuất hàng hóa. Ở đâu có sản xuất
và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị. Vì
vậy việc tìm hiểu, nắm bắt nội dung và tác động của quy luật giá trị có ý nghĩa hết sức
to lớn. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước ta đang tiến hành xây dựng nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Khái niệm quy luật giá trị: là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao
đổi hàng hóa quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên
cơ sở giá trị của tức là trênsở hao phí lao động xã hội cần thiết mọi người
đều bình đẳng.
Nội dung của quy luật giá trị
Yêu cầu của quy luật giá trị
Trong sản xuất người sản xuất phải đảm bảo chi phí sx của mình bằng chi
phí xã hội
Lưu thông trao đổi ngang giá
Sản xuấttrao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở giá trị của nó tứctrên
cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết cụ thể
Khối lượng sản phẩm những người sản xuất tạo ra phải phù hợp nhu
cầu có khả năng thanh toán của xã hội
Còn trong trao đổi phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá hai hàng hóa
trao đổi với nhau, khi cùng kết tinh một lượng lao động như nhau hoặc trao đổi
mua bán hàng hóa phải thực hiện theo nguyên tắc giá cả phù hợp với giá trị
Quy luật giá trị quy luật kinh tế bản nhất cuả sản xuất trao đổi hàng
hoá .Chừng nào còn sản xuất và trao đổi hàng hoá thì chừng đó còn quy luật giá trị
Trong sản xuất thì hao phí lao động biệt phải phù hợp với hao phí lao
động xã hội cần thiết.Vì trong nền sản xuất hàng hóa ,vấn đề đặc biệt quan trọng
hàng hóa sản xuất ra bán được hay không. Để thể bán được thao phí
lao động để sản xuất ra hàng hóa cuả các chủ thể kinh doanh phải phù hợp với
mức hao plao động hội thể chấp nhận được .Mức hao phí càng thấp thì
họ càng có khả năng phát triển kinh doanh,thu được nhiều lợi nhuận,ngược lại sẽ
bị thua lỗ,phá sản…
Trong trao đổi hàng hoá cũng phải dựa vào hao p lao động xã hội cần
thiết, tức tuân theo nguyên tắc trao đổi ngang giá,hai hàng hoá giá trị sử
dụng khác nhau,nhưng có lương giá trị bằng nhau thì phải trao đổi ngang nhau.
Cơ chế biểu hiện của quy luật giá trị
Quy luật giá trị hoạt động được thể hiện ở sự biến đổi lên xuống của giá cả
xoay quanh giá trị dưới tác động của quan hệ cung - cầu hàng hóa trên thị
trường. Sự biến đổi giá cả một cách tự phát, tự do sự phản ánh hoạt động của
quy luật giá trị.
Nếu sức mua đồng tiền không đổi, không kể đến điều tiết của nhà nước và
độc quyền thì xảy ra 03 trường hợp sau:
Khi cung = cầu, thì giá cả = giá trị
Khi cung > cầu, thì giá cả < giá trị ( sản phẩm nhiều)
Khi cung < cầu, thì giá cả > giá trị (sản phẩm ít)
Cầu khối lượng hàng hóa dịch vụ người tiêu dùng cần mua trong
một thời kỳ nhất định tương ứng với giá cả và thu nhập xác định
Cung khối lượng hàng hóa dịch vhiện trên thị trường chuẩn bị
đưa ra thị trường trong một thời kỳ nhất định tương ứng mức giá cả khả năng sản
xuất và chi phí sản xuất xác định
Sự thay đổi của giá cả xoay quanh trục giá trị làm nên vđẹp sinh động
của thị trường”, tạo sự hấp dẫn cho sản xuất và tiêu dùng.
Xét tổng thể thì tổng giá cả luôn bằng tổng giá trị.
Trong nền sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa
tác động tiêu cực. Đó là: điều tiết sản xuất lưu thông hàng hóa; kích thích
tiến bộ, nâng cao năng suất lao động; phân hóa những người sản xuất hàng hóa
thành giàu - nghèo.
Chức năng, tác dụng của quy luật giá trị
- Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Quy luật giá trị tự động điều tiết sản xuất thể hiện ở chỗ thu hút vốn tư liệu sản
xuất sức lao động vào các ngành sản xuất khác nhau theo sự biến động cung cầu
giá cả tạo nên cơ cấu kinh tế hiệu quả hơn và đất ứng nhu cầu của xã hội
Vận dụng quy luật giá trị đảm bảo lợi nhuận giá trị cá biệt của sản phẩm
Phân phối lực lượng sản xuất sức lao động vào các ngành vùng khác
nhau quy luật giá trị điều tiết một cách tự phát thông qua sự lên xuống của giá cả
Điều tiết lưu thông phân phối nguồn hàng hóa từ nơi giá cả thấp đến
nơi có giá cả cao
- Thứ hai, Khuyến khích tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao năng suất
lao động.
Mục đích sản xuất lợi nhuận tiến tới cải tiến thuật nâng cao trình độ
cho người lao
Phân hóa những người sản xuất hàng hóa thành giầu nghèo từ đó làm
nãy sinh quan hệ tư bản chủ nghĩa
Kích thích cải tiến thuật hợp hóa sản xuất nhằm tăng năng suất lao
động hạ giá thành sản phẩm
Sản xuất nào hao phí lao động biệt nhỏ hơn hao phí lao động hội
cần thiết sẽ trở nên giầu muốn vậy phải cải tiến thuật cải tiến tổ chức quản
sản xuất thúc đẩy lực lượng sản xuất của xã hội phát triển
- Thứ ba, phân hoá người sản xuất hàng hoá thành người giàu, người
nghèo.
Những chủ thể sản xuất hàng hóa mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn
mức hao phí lao động hội cần thiết thì thể thắng tế trong cạnh tranh, họ sẽ giàu
lên, có thể mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh trở thành chủ
thể giàu có hưn, và có thể sử dụng được nhiều hơn lao động làm thuê.
Ngược lại, những chủ thể sản xuất hàng hóa mức hao phí lao động cá
biệt lớn hơn mức hao phí lao động hội cần thiết, sẽ rơi vào tình trạng thua lỗ,
phá sản.
Các tác động nhiều mặt tích cực của quy luật giá trị đã làm cho sản xuất
hàng hóa thực sự là khởi điểm ra đời của chủ nghĩa tư bản.
Như vậy quy luật giá trị vừa có tác động tích cực vừa tác động tích cực
một cách tự phát khách quan.
Trước thời kỳ đổi mới chúng ta phủ nhận sản xuất hàng hóa quy luật
giá trị nên không khai thác được các nguồn lực nền kinh tế kém phát triển rơi
vào khủng hoảng nhất.
trong thời kỳ đổi mới chúng ta phát triển sản xuất hàng hóa quy luật giá trị
hoạt động tạo nên cạnh tranh, phát triển kinh tế. Bên cạnh đó mặt trái phát sinh
như phân hóa giàu nghèo, buồn gian bán lận,...
vậy nhà nước điều tiết bằng luật pháp chính sách đầu thuế đào tạo
năng lực để đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường
ở nước ta
Tại sao sản xuất hàng hóa khởi điểm ra đời của chủ nghĩa tư bản?
Khái niệm sản xuất hàng hóa một kiểu tổ chức kinh tế đó sản
phẩm được sản xuất ra đ bán trên thị trường phải sản xuất cho người khác,
cho xã hội. đem ra thị trường trao đổi mua bán.
Hàng hóa Quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào
tự nhiên, biến đổi các vật thể t nhiên nhằm tạo ra các sản phẩm phù hợp với
nhu cầu của mình
Sản xuất vật chất quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. đảm bảo những
nhu cầu thiết yếu cho toàn xã hội, sản xuất vật chất và tái sản xuất vật chất
Ví dụ: con người sản xuất ra vật chất và đói phải sử dụng vật chất để tạo ra
tái sản xuất vật chất
Đảm bảo cho quá trình tái sản xuất tái diễn liên tục sản, xuất vật chất này
chưa được gọi là sản xuất hàng hóa mà chỉ được gọi là sản xuất vật chất
Sản xuất hàng hóa không xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện của hội
loài người. Nền kinh tế hàng hóa thể hình thành phát triển khi các điều
kiện:
Một là,có sự phân công lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động trong xã hội thành các
ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hóa của những
người sản xuất thành những ngành, nghề khác nhau.
Phân công lao động hội chế đhữu các hình thức sở hữu khác
về tư liệu sản xuất
Hình thành các ngành kinh tế như: ngành giao thông vận tải, ngành y tế, ngành
giáo dục, ngành thương nghiệp, ngành nông nghiệp, ngành công nghiệp,…
Khi có sự phân hóa khác nhau sẽ tạo ra các sản phẩm hàng hóa khác nhau,
có sự trao đổi hàng hóa giữa người với người
sở của phân công lao động hội đó là: dựa trên những ưu thế v tự
nhiên, thuật, năng khiếu, sở trường của từng người cũng như của từng vùng;
dựa trên những đặc điểm, ưu thế về mặthội như phong tục, tập quán, ăn ở,…
của từng vùng.
Việc trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu khi phân công lao động
hội thì mỗi người, mỗi sở chỉ sản xuất một hoặc một vài thứ sản phẩm nhất
định nhưng nhu cầu cuộc sống đòi hỏi nhiều sản phẩm dẫn đến họ phải trao đổi
sản phẩm với nhau. Ngoài ra còn làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên, do
đó ngày càng nhiều sản phẩm thặng dư lên trao đổi.
Nhờ sự phân công lao động hội, chuyên môn hóa sản xuất năng suất
lao động tăng lên, làm ra nhiều sản phẩm để trao đổi và tiêu dùng. Phân công
lao động hội càng phát triển, thì sản xuất trao đổi hàng hóa càng mở rộng
hơn, đa dạng hơn.
Tuy nhiên, phân công lao động xã hội mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa
đủ để sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại. Vì vậy, muốn sản xuất hàng hóa ra đời
và tồn tại phải có điều kiện thứ hai.
Sản xuất ra nhiều hơn có lợi cho người kinh doanh và tiêu dùng chất lượng
sản phẩm cao hơn những người lao động phải phụ thuộc vào nhau
Hai là, có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những chủ thể sản
xuất khác nhau
Những người sản xuất trở thành những chủ thể sản xuất độc lập, do đó sản
phẩmm ra thuộc quyền sở hữu hoặc do họ chi phối vậy người này muốn tiêu
dùng sản phẩm của người khác phải thông qua trao đổi mua bán
Tuy độc lập nhưng trong hội những người sản xuất kinh doanh vẫn phụ
thuộc vào nhau
dụ: công ty giày độc lập với công ty sản xuất bánh kẹo, nhưng họ trao
đổi những thứ không có, nhưng vẫn phụ thuộc vào nhau, sản xuất hàng hóa ra
để bán ra thị trường tiêu thụ
Sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu hoặc chi phối của người khác cần
phải thông qua trao đổi, mua bán hàng hóa. Có basở của điều kiện này, là do
chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất quy định, sự tách biệt này còn do các hình thức
sở hữu khác nhau về liệu sản xuất sự tách rời giữa quyền sở hữu quyền
sử dụng đối với tư liệu sản xuất quy định.
hữu về liệu sản xuất thì liệu sản xuất thuộc sở hữu của mỗi
nhân kết quảsản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của họ. Trong điều kiện
ấy người này muốn tiêu dùng sản phẩm cùa người khác phải thông qua việc mua
- bán hàng hóa, tức là phải trao đổi dưới những hình thái hàng hóa.
Khi sự tách biệt về kinh tế giữa những chủ thể sản xuất tồn tại trong điều
kiện có sự phân công lao động hội thì việc trao đổi sản phẩm giữa những chủ
thể khác nhau phải đảm bảo được lợi ích của họ. Điều đó chỉ có thể có được khi
trao đổi dựa trên nguyên tắc ngang giá,đi lại tức là trao đổi hàng hóa, sản
phẩm của lao động trở thành hàng hóa.
Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất, sản
phẩmm ra phải mang hình thức trao đổi theo nguyên tắc ngang giá mới công
bằng, bình đẳng, đảm bảo lợi ích của các chủ thể đó.
Sự phân hóa của quy luật giá trị tạo nên xuất hiện tư bản và người làm thuê
Quá trình tích lũy nguyên thủy đẫm máu của tư bản chủ nghĩa dẫn đến bạo
lực, các đạo luật, chiếm đất …
Quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản là quy luật (m).Mục đích của
tư bản là giá trị thặng dư
Giá trị thặng sở tồn tại phát triển của chủ nghĩa bản không
những phản ánh mục đích cả phương pháp thủ đoạn phương tiện để đạt
mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa
Mục đích trực tiếp của sản xuất bản chủ nghĩa không phải sản xuất ra giá
trị sử dụng và cũng không phải vì sản xuất ra giá trị nói chung mà là sản xuất ra giá trị
thặng dư đối với tất cả các nhà tư bản giá trị thặng dư càng nhiều càng tốt
Phương pháp thủ đoạn bóc lột công nhân làm thuê để giá trị thặng
ngày càng lớn kéo dài ngày lao động tăng cường độ lao động tăng năng suất lao
động phương tiện để đạt được mục đích trên là ứng dụng kỹ thuật công nghệ hiện đại
trên sở hình thành phát triển nền đại công nghiệp khí, sản xuất giá trị thặng
dư là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
Quy luật giá trị thặngtác động mạnh đến mọi mặt của xã hộibản nó
quyết định toàn bộ quá trình phát sinh phát triển của chủ nghĩa tư bản và sự thay
thế chủ nghĩa tư bản bằng một xã hội mới cao hơnlà động lực mạnh mẽ nhất
thúc đẩy phát triển kỹ thuật công nghệ phân công lao động hội hóa sản xuất
lôi cuốn một mọi hoạt động sản xuất thu hút toàn bộ lao động hội vào
phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản
Xuất khẩubản là đưabản thừa của các tổ chức độc quyền của bản
tài chính của nhà nước tư sản sang các nước khác nhằm mở rộng quan hệ bóc lột
của chủ nghĩa tư bản
Xuất khẩu tư bản qua hai hình thức suất khẩu tư bản lao động tìm kiếm giá
trị thặng bóc lột lao động; suất khẩu bản cho vay nhằm mục đích kinh tế
thu z(tỷ suất lợi tức), cho vay mục đích chính trị ODA
Quy luật giá trị hoạt động được thể hiện ở sự biến đổi lên xuống của giá cả
xoay quanh giá trị dưới tác động của quan hệ cung - cầu hàng hóa trên thị
trường. Sự biến đổi giá cả một cách tự phát, tự do sự phản ánh hoạt động của
quy luật giá trị.
Nếu sức mua đồng tiền không đổi, không kể đến điều tiết của nhà nước và
độc quyền thì xảy ra 03 trường hợp giữa cung và cầu
Cầu khối lượng hàng hóa dịch vụ người tiêu dùng cần mua trong
một thời kỳ nhất định tương ứng với giá cả và thu nhập xác định
Cung khối lượng hàng hóa dịch vhiện trên thị trường chuẩn bị
đưa ra thị trường trong một thời kỳ nhất định tương ứng mức giá cả khả năng sản
xuất và chi phí sản xuất xác định
Sự thay đổi của giá cả xoay quanh trục giá trị làm nên vđẹp sinh động
của thị trường”, tạo sự hấp dẫn cho sản xuất và tiêu dùng.
Xét tổng thể thì tổng giá cả luôn bằng tổng giá trị.
Trong nền sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa
tác động tiêu cực. Đó là: điều tiết sản xuất lưu thông hàng hóa; kích thích
tiến bộ, nâng cao năng suất lao động; phân hóa những người sản xuất hàng hóa
thành giàu - nghèo.
Sự chuyển hóa thành tư bản
- Tiền là loại hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cố
định cho tất cả các loại hàng hóa, sự thể hiện chung của giá trị. Đồng thời,
nó biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa
Chủ nghĩa tư bản ra đời khi và chỉ khi có có hai điều kiện
+ Thứ nhất: Tiền của phải được tập trung vào tay một số người với số
lượng đủ lớn để lập ra xí nghiệp TBCN;
+Thứ hai: Người lao động phải không còn TLSX để kết hợp với lao động
bản thân để làm ra hàng hóa nên buộc phải bán sức lao động để sinh sống. Sức
lao động trở thành hàng hóa.
Trong đó, điều kiện thứ 2- Sức lao động trở thành hàng hóa đk quyết
định chuyển hóa tiền thành bản. Để làm nội dung này ta đi phân tích công
thức chung của Tư bản:
- Người ta gọi đây là công thức chung của TB vì mọi tư bản đều vận động
theo công thức này:
Công thức: T – H – T’
Mác rút ra kết luận: "Hình thái đầy đủ của quá trình đó T - H - T',
trong đó T' = T + Δt, nghĩa là bằng số tiền ứng ra ban đầu cộng với một số tăng
thêm nào đó. Số tăng thêm đó, hay số dư so với giá trị lúc ban đầu, tôi gọi là giá
trị thặng dư. Như vậygiá trị được ứng ra lúc ban đầu không những được bảo
tồn trong lưu thông, còn thay đổi đại lượng của nó, còn cộng thêm một giá
trị thặng dư, hay là đã tự tăng thêm giá trị. Chính sự vận động ấy đã biến giá trị
đó thành tư bản". C.Mác
Công thức T - H - T' Trong đó:
T: là số tiền ứng ra ban đầu;
T’: là số tiền thu về sau khi lưu thông (T’ = T + Dt)
Dt: là số tiền tăng thêm so với lúc ban đầu, gọi là GTTD (ký hiệu: m)
Công thức T - H - T' là công thức chung của tư bản, nó biểu hiện tư bản là:
Giá trị mang lại giá trị thặng dư.
+ Bản thân tiền chưa phải bản. Tiền chỉ trở thành tư bản khi được
sử dụng để bóc lột lao động lao động của người khác và thông qua quá trình lưu
thông nhằm đem lại giá trị tăng thêm cho người sở hữu tiền tệ.
+ Tiền để trở thành tư bản cần phải có một lượng đủ lớn và phải vận
động theo công thức T - H - T
Vận dụng quy luật giá trị ở Việt Nam hiện nay
Liên hệ: Hiện nay nước ta đang hội nhập theo nền kinh tế thế giới với
chính sách mở cửa hợp c với các nước. Một trong những nhân tố ảnh hưởng
đến sự phát triển kinh tế nước ta đó quy luật giá trị. Việc vân dụng quy luật
giá trị được thể hiện trên những lĩnh vực như sau:
Vận dụng quy luật giá trị vào lĩnh vực sản xuất.
Thứ nhất: Đối với việc hoạch toán kinh tế của các doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường nước ta, mỗi doanh nghiệp người sản xuất
hàng hóa cạnh tranh gay gắt với nhau, để đứng vững được trên thị trường, chiến thắng
đối thủ cạnh tranh thì họ phải tính đến hiệu quả sản xuất kinh doanh thông qua các
hình thức giá trị, giá cả, lợi nhuận, chi phí… Để lợi nhuận, các doanh nghiệp phải
tìm cách hạ thấp chi phí sản xuất bằng cách hợp lý hóa sản xuất, tiết
kiệm chi phí vật chất, tăng năng suất lao động… Để làm được điều đó, doanh nghiệp
phải nắm vững vận dụng tốt quy luật giá trị trong hoạch toán kinh tế. Thời gian
qua ta thấy có rất nhiều doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, điều đó cho thấy các doanh
nghiệp đã vận dụng khá tốt quy luật giá trị vào hoạch toán kinh tế.
Đối với các doanh nghiệp Nhà nước, để tăng hiệu quả sản xuất kinh
doanh, Nhà nước ta đã quyết định cổ phần hóa phần lớn các doanh nghiệp Nhà
nước, Nhà nước chỉ giữ lại một số ngành tính chất an ninh quốc gia. Các
doanh nghiệp rồi sẽ dần chuyển thành các công ty cổ phần với nhiều chủ sở hữu
và mỗi cổ đông sẽ vì lợi ích của mình để đầu tư vào sản xuất, hoạch toán kinh tế
sao cho lợi nhuận càng nhiều càng tốt.
Thứ hai: Đối với việc hình thành giá cả sản xuất
Tuy nhiên, trên tực tế giá cả hàng hóa chịu tác động của nhiều yếu tố như
cung – cầu, cạnh tranh, sức mua đồng tiền, giá các mặt hàng liên quan…
Vận dụng quy luật giá trị vào lĩnh vực lưu thông hàng hóa.
Trong lĩnh vực lưu thông, quy luật giá trị yêu cầu trao đổi phải theo nguyên tắc
ngang giá, tức giá cả bằng giá trị. Dưới tác động quy luật giá trị, hàng hóa trong nền
kinh tế sẽ được đưa từ nơi có giá cả thấp đến nơigiá cả cao, từ nơi cung nhiều đến
nơi cầu nhiều. Thông qua sự biến động về giá c trên thị trường, luồng hàng hóa sẽ
lưu thông từ đó tạo sự cân đối về nguồn hàng giữa các vùng miền.
Đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam,
thông qua hệ thống giá cả quy luật giá trị ảnh hưởng nhất định đến việc lưu
thông của một hàng hóa nào đó. Giá mua cao sẽ khơi thêm nguồn hàng, giá bán
hạ sẽ thúc đẩy mạnh việc tiêu thụ ngược lại. Do đó Nhà nước ta đã vận
dụng vào việc định giá cả sát giá trị, xoay quanh giá trị để kích thích cải tiến kỹ
thuật, tăng cường quản lý. Không những thế Nhà nước ta còn chủ động tách giá
cả khỏi giá trị với từng loại hàng hóa trong từng thời kỳ nhất định, lợi dụng sự
chênh lệch giữa giá cả và giá trị để điều tiết một phần sản xuất và lưu thông, điều
chỉnh cung cầu phân phối. Giá cả được coi là một công cụ kinh tế quan trọng
để kế hoạch hóa sự tiêu dùng của xã hội.
Câu 2: Giá trị thặng dư:
1. Khái niệm:
Giá trị thặng dư là toàn bộ giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động
do công nhân làm thuê tạo ra và thuộc về nhà tư bản
Để có được giá trị thặng dư nhà tư bản vận dụng theo công thức: T-H-T’
T’=T+ tѦ
2. SX GTTD là quy luật của CNTB
Giá trị thặng sở để tồn tại phát triển của chủ nghĩa bản,
không những phản ánh mục đích cả phương pháp, thủ đoạn phương tiện
để đạt mục đích của nền sản xuất TBCN
Mục đích trực tiếp của SX TBCN không phải là sản xuất ra giá trị sử dụng
và cũng không phải là sản xuất ra giá trị nói chung mà là sản xuất ra giá trị thặng
dư, đối với tất cả các nhà tư bản, giá trị thặng dư càng nhiều càng tốt.
Phương pháp thủ đoạn bóc lột công nhân làm thuê để giá trị thặng
ngày càng lớn o dài ngày lao động, tăng cường độ lao động, tăng ng suất lao
động. Phương tiện để đạt được mục đích trên là ứng dụng kỹ thuật, công nghệ hiện đại
trên cơ sở hình thành và phát triển nền đại công nghiệp cơ khí. Do vậy, sản xuất giá trị
thặng dư là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Quy luật giá trị thặng tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của hội
bản. nó quyết định toàn bộ quá trình phát sinh, phát triển của chủ nghĩa tư bản và
sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng một xã hội mới, cao hơn. Nó là động lực mạnh
mẽ nhất thúc đẩy phát triển kỹ thuật, công nghệ, phân công lao động, xã hội hoá
sản xuất, lôi cuốn mọi hoạt động sx thu hút toàn bộ lao động hội vào
phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản.
Song do tác động của quy luật giá trị thặng nên sự phát triển của nền
sản xuất bản chủ nghĩa diễn ra dưới hình thức mâu thuẫn đối kháng. Sự tác
động của quy luật này làm cho mâu thuẫn bản mâu thuẫn giữa tính chất
hội hoá của sản xuất vói hình thức chiếm hữu nhân bản chủ nghĩa. Nói
chung , toàn bộ mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc tạo cơ sở kinh
tế, xã hội quyết định địa vị lịch sử của CNTB.
Từ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, nền sản xuất
tính chất xã hội hoá ngày càng cao, mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất
với hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa ngày càng gay gắt.
Tất cả những yếu tố đó đưa xã hội tư bản đến chỗ phủ định chính mình.
4. Vai trò của GTTD
- Quy luật sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ
nghĩa tư bản, là động lực của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
- Trong nền kinh tế, việc tạo ra giá trị thặng về lâu dài sẽ đẩy mạnh tốc
độ tăng trưởng kinh tế của tổ chức, công ty, doanh nghiệp hay thậm chí của
một quốc gia.
- Bên cạnh đó, việc tạo ra giá trị thặng dư sẽ giúp doanh nghiệp được
một nguồn tiền ổn định để đầu vào trang thiết bị, vật chất, từ đó hỗ trợ được
và tiết kiệm sức lao động của công nhân.
- Không những thế, nguồn tiền của một doanh nghiệp càng ổn định thì chế
độ lương thưởng của nhân viên sẽ trở nên hấp dẫn xứng đáng với sức lao
động của họ hơn.
5. Giải pháp
Một là, trong thời k quá độ nền kinh tế nước ta, trong một chừng mực
nào đó, quan hệ bóc lột chưa thể b xóa bỏ ngay, sạch trơn theo cách tiếp cận
giáo điều cứng cũ. Càng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta
càng thấy rõ, chừng nào quan hệ bóc lột còn có tác dụng giải phóng sức sản xuất
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, thì chừng đó chúng ta còn phải chấp
nhận sự hiện diện của nó.
Hai là, trong thực tế nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa
nước ta hiện nay, mọi phương án tìm cách định lượng rành mạch, máy móc
cứng về mức độ bóc lột trong việc hoạch định các chủ trương chính sách,
cũng như thái độ phân biệt đối xử với tầng lớp doanh nhân mới đều xa rời
thực tế và không thể thực hiện được. Điều có sức thuyết phục hơn cả hiện nay là
quan hệ phân phối phải được thể chế hóa bằng luật.
Theo C.Mác, sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức hoạt động kinh tế mà ở đó,
những người sản xuất ra sản phẩm nhằm mục đích trao đồi, mua bán.
Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa
Hàng hóa Quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào
tự nhiên, biến đổi các vật thể t nhiên nhằm tạo ra các sản phẩm phù hợp với
nhu cầu của mình
Sản xuất vật chất quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. đảm bảo những
nhu cầu thiết yếu cho toàn xã hội, sản xuất vật chất và tái sản xuất vật chất
Ví dụ: con người sản xuất ra vật chất và đói phải sử dụng vật chất để tạo ra
tái sản xuất vật chất
Đảm bảo cho quá trình tái sản xuất tái diễn liên tục sản, xuất vật chất này
chưa được gọi là sản xuất hàng hóa mà chỉ được gọi là sản xuất vật chất
Sản xuất hàng hóa không xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện của hội
loài người. Nền kinh tế hàng hóa thể hình thành phát triển khi các điều
kiện:
Một là,có sự phân công lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động trong xã hội thành các
ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hóa của những
người sản xuất thành những ngành, nghề khác nhau.
Phân công lao động hội chế đhữu các hình thức sở hữu khác
về tư liệu sản xuất
Hình thành các ngành kinh tế như: ngành giao thông vận tải, ngành y tế, ngành
giáo dục, ngành thương nghiệp, ngành nông nghiệp, ngành công nghiệp,…
Khi có sự phân hóa khác nhau sẽ tạo ra các sản phẩm hàng hóa khác nhau,
có sự trao đổi hàng hóa giữa người với người
Cơ sở của phân công lao động xã hội đó là: dựa trên những ưu thế về tự nhiên,
kĩ thuật, năng khiếu, sở trường của từng người cũng như của từng vùng; dựa
trên những đặc điểm, ưu thế về mặt hội như phong tục, tập quán, ăn ở,… của
từng vùng.
Việc trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu khi phân công lao động
hội thì mỗi người, mỗi sở chỉ sản xuất một hoặc một vài thứ sản phẩm nhất
định nhưng nhu cầu cuộc sống đòi hỏi nhiều sản phẩm dẫn đến họ phải trao đổi
sản phẩm với nhau. Ngoài ra còn làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên, do
đó ngày càng nhiều sản phẩm thặng dư lên trao đổi.
Nhờ sự phân công lao động xã hội, chuyênn hóa sản xuất năng
suất lao động tăng lên, làm ra nhiều sản phẩm để trao đổi tiêu dùng. Phân
công lao động hội càng phát triển, thì sản xuất trao đổi hàng hóa càng mở
rộng hơn, đa dạng hơn.
Sản xuất ra nhiều hơn có lợi cho người kinh doanh và tiêu dùng chất lượng
sản phẩm cao hơn những người lao động phải phụ thuộc vào nhau
Hai là, có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những chủ thể sản
xuất khác nhau
Những người sản xuất trở thành những chủ thể sản xuất độc lập, do đó sản
phẩmm ra thuộc quyền sở hữu hoặc do họ chi phối vậy người này muốn tiêu
dùng sản phẩm của người khác phải thông qua trao đổi mua bán
Tuy độc lập nhưng trong hội những người sản xuất kinh doanh vẫn phụ
thuộc vào nhau
dụ: công ty giày độc lập với công ty sản xuất bánh kẹo, nhưng họ trao
đổi những thứ không có, nhưng vẫn phụ thuộc vào nhau, sản xuất hàng hóa ra
để bán ra thị trường tiêu thụ
Sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu hoặc chi phối của người khác cần phải
thông qua trao đổi, mua bán hàng hóa. chế độ hữu về liệu sản xuất quy định, sự
tách biệt này còn do các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sự tách rời
giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đối với tư liệu sản xuất quy định.
Tư hữu về tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của mỗi cá nhân và sản phẩm làm
ra thuộc quyền sở hữu của họ. người này muốn tiêu dùng sản phẩm cùa người
khác phải thông qua việc mua - bán hàng hóa, tức là phải trao đổi hàng hóa.
Khi sự tách biệt về kinh tế giữa những chủ thể sản xuất tồn tại trong điều
kiện có sự phân công lao động hội thì việc trao đổi sản phẩm giữa những chủ
thể khác nhau phải đảm bảo nguyên tắc ngang giá, trao đổi hàng hóa, sản phẩm
của lao động trở thành hàng hóa.
Muốn đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường một địa bàn, ngành cũng
cần thúc đẩy phân công lao động thông qua hướng nghiệp, đào tạo tạo quyền
tự chủ về quyền sở hữu, sử dụng các yếu tố sản xuất.
Đặc trưng của sản xuất hàng hóa
Hàng hóa là sản xuất để trao đổi mua bán
Lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính tư nhân vừa mang tính
xã hội
Do phân công lao động hội nên sản phẩm lao động của người này trở
nên cần thiết với người khác, thị trường, hội. Hơn nữa việc sản xuất ra sản
phẩm có sự tham gia của những người khác, nên mang tính xã hội
Do sự tách biệt vkinh tế nên chủ thể sản xuất độc lập với nhau. Mỗi
chủ thể sản xuất phải tự xác định, sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất
cho ai? lên lao động sản xuất hàng hóa mang tính tư nhân
Các yếu tố cơ bản của sản xuất hàng hóa
Sức lao động toàn bộ những năng lực thể chất tinh thần được tồn tại
trong một thể con người đang sống được người đó mang ra vận dụng mỗi
khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó
Sức lao động cộng tư liệu lao động, có đối tượng lao động tạo ra sản phẩm
hàng hóa
Lao động là hoạt động mục đích, ý thức của con người nhằm tạo ra
các sản phẩm phục vụ nhu cầu của đời sống con người
Người lao động là yếu tố quan trọng nhất của quá trình sản xuất
Trong lịch sử loài tồn tại hai kiểu t chức kinh tế khác nhau sản xuất tự
cung, tự cấp sản xuất hàng hóa. Sản xuất tự cung, tự cấpkiểu tổ chức kinh
tế trong đó sản phẩm được sản xuất ra nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
chính bản thân người sản xuất như sản xuất của người dân trong thời kỳ công
nguyên thủy, sản xuất của những người nông dân gia trưởng dưới chế độ phong
kiến… Ngược lại, sản xuất hàng hóa kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm
được sản xuất ra để bán chứ không phải đ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
chính người trực tiếp sản xuất ra nó, tức đ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán.
Thứ hai, lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính nhân, vừa
mang tính xã hội.
Lao động của người sản xuất hàng hóa mang tính chất hội sản phẩm
làm ra để cho hội, đáp ứng nhu cầu của người khác trong hội. Nhưng với
sự tách biệt tương đối về kinh tế, thì lao động của người sản xuất hàng hóa đồng
thời lại mang tính chất nhân, việc sản xuất cái gì, như thế nào công việc
riêng, mang tính độc lập của mỗi người. Tính chất nhân đó thể phù hợp
hoặc không phù hợp với tính chất hội. Đó chính mâu thuẫn bản của sản
xuất hàng hóa. Mâu thuẫn giữa lao động nhân lao động hội sở,
mầm mống của khủng hoảng trong nền kinh tế hàng hóa.
Ưu thế của sản xuất hàng hóa
So với sản xuất tự cung, tự cấp, sản xuất hàng hóa có những ưu thế hơn hẳn:
Thứ nhất: Sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở của phân công lao động xã hội,
chuyên môn hóa sản xuất. Do đó, nó khai thác được những lợi thế về tự nhiên,hội,
kỹ thuật của từng người, từng cơ sở sản xuất cũng như từng vùng, từng địa phương.
Đồng thời, sự phát triển của sản xuất hàng hóa lại có tác động trở lại, thúc đẩy sự phát
triển của phân công lao động hội, làm cho chuyên môn hóa lao động ngày càng
tăng, mối liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng trở nên mở rộng, sâu sắc. Từ đó,
phá vỡ tính tự cấp tự túc, bảo thủ, trì trệ, lạc hậu của mỗi ngành, mỗi địa phương
làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên nhanh chóng, nhu cầu của xã hội được đáp
ứng đầy đủ hơn. Khi sản xuất trao đổing hóa mở rộng giữa các quốc gia, thì
còn khai thác được lợi thế của các quốc gia với nhau.
Thứ hai: Trong nền sản xuất hàng hóa, quy sản xuất không còn bị giới
hạn bởi nhu cầu và nguồn lực mang tính hạn hẹp của mỗi cá nhân, gia đình, mỗi
sở, mỗi vùng, mỗi địa phương, được mở rộng, dựa trên cơ sở nhu cầu
nguồn lực của hội. Điều đó lại tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng
những thành tựu khoa học – kỹ thuật vào sản xuất… thúc đẩy sản xuất phát triển.
Thứ ba: Trong nền sản xuất hàng hóa, sự tác động của quy luật vốn của sản
xuất và trao đổi hàng hóaquy luật giá trị, cung – cầu, cạnh tranh… buộc người sản
xuất hàng hóa phải luôn luôn năng động, nhạy n, biết tính toán, cải tiến kỹ thuật,
hợp lý hoá sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế, cải
Giới hạn: Thể chất của người lao động giảm sút; Tinh thần của người lao
động giảm mệt mỏi căng thẳng
Do đó sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối bị giới hạn bởi thời gian trong ngày và
tình trạng sức khỏe tâm của công nhân việc áp dụng phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư tuyệt đối thường gây ra sự phản kháng của công nhân làm thuê
d ngày lao động độ dài 08.00 thời gian lao động tất yếu 04.00
thời gian lao động thặng 04.00 gtrị thặng tuyệt đối được tạo ra trong
thời gian lao động thặng dư là 04 giờ 1tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là 100 %
Nếu ngày lao động kéo dài thành 10.00 trong khi sản xuất lao động thời
gian lao động tất yếu giá trị sức lao động không đổi giá trị thặng tuyệt đối
được tạo ra trong thời gian lao động thặng 06 giờ 1 tỷ suất giá trị thặng
dư sẽ tăng lên thành 150%
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Khái niệm là phương pháp sản xuất ra (m) bằng cách rút ngắn thời gian lao
động cần thiết để kéo dài thời gian lao động thặng trên sở tăng năng suất
lao động xã hội trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi
Ví dụ ngày lao động có độ dài 08 giờ thời gian lao động tất yếu là 04h thời
gian lao động thặng 04h giá trị thặng tuyệt đối được tạo ra trong thời
gian lao động thặng dư là 04h 1 tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là 100%
Nếu ngày lao động không đổi thời gian lao động tất yếu giảm xuống còn
03h thì 1tỷ suất giá trị thặng dư sẽ tăng lên thành 167%
Nếu người lao động rút ngắn còn 07h thời gian lao động tất yếu giảm
xuống 02h thì 1 tỷ suất giá trị thặng dư sẽ tăng lên thành 250%
| 1/17

Preview text:

MÔN 2: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Câu 1: phân tích Quy luật giá trị trong nền sản xuất hàng hóa?
Lý giải tại sao sản xuất hàng hóa là khởi điểm ra đời của TBCN?
Trong nền kinh tế hàng hóa, có những quy luật kinh tế ràng buộc và chi phối
hoạt động của những người sản xuất hàng hóa, trong đó quy luật giá trị là quy luật
kinh tế quan trọng nhất, giữ vai trò chi phối nền sản xuất hàng hóa. Ở đâu có sản xuất
và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị. Vì
vậy việc tìm hiểu, nắm bắt nội dung và tác động của quy luật giá trị có ý nghĩa hết sức
to lớn. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước ta đang tiến hành xây dựng nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Khái niệm quy luật giá trị: là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao
đổi hàng hóa quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên
cơ sở giá trị của nó tức là trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết mọi người đều bình đẳng.
Nội dung của quy luật giá trị
Yêu cầu của quy luật giá trị
Trong sản xuất người sản xuất phải đảm bảo chi phí sx của mình bằng chi phí xã hội
Lưu thông trao đổi ngang giá
Sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở giá trị của nó tức là trên
cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết cụ thể
Khối lượng sản phẩm mà những người sản xuất tạo ra phải phù hợp nhu
cầu có khả năng thanh toán của xã hội
Còn trong trao đổi phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá hai hàng hóa
trao đổi với nhau, khi cùng kết tinh một lượng lao động như nhau hoặc trao đổi
mua bán hàng hóa phải thực hiện theo nguyên tắc giá cả phù hợp với giá trị
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản nhất cuả sản xuất và trao đổi hàng
hoá .Chừng nào còn sản xuất và trao đổi hàng hoá thì chừng đó còn quy luật giá trị
Trong sản xuất thì hao phí lao động cá biệt phải phù hợp với hao phí lao
động xã hội cần thiết.Vì trong nền sản xuất hàng hóa ,vấn đề đặc biệt quan trọng
là hàng hóa sản xuất ra có bán được hay không. Để có thể bán được thì hao phí
lao động để sản xuất ra hàng hóa cuả các chủ thể kinh doanh phải phù hợp với
mức hao phí lao động xã hội có thể chấp nhận được .Mức hao phí càng thấp thì
họ càng có khả năng phát triển kinh doanh,thu được nhiều lợi nhuận,ngược lại sẽ bị thua lỗ,phá sản…
Trong trao đổi hàng hoá cũng phải dựa vào hao phí lao động xã hội cần
thiết, tức là tuân theo nguyên tắc trao đổi ngang giá,hai hàng hoá có giá trị sử
dụng khác nhau,nhưng có lương giá trị bằng nhau thì phải trao đổi ngang nhau.
Cơ chế biểu hiện của quy luật giá trị
Quy luật giá trị hoạt động được thể hiện ở sự biến đổi lên xuống của giá cả
xoay quanh giá trị dưới tác động của quan hệ cung - cầu hàng hóa trên thị
trường. Sự biến đổi giá cả một cách tự phát, tự do là sự phản ánh hoạt động của quy luật giá trị.
Nếu sức mua đồng tiền không đổi, không kể đến điều tiết của nhà nước và
độc quyền thì xảy ra 03 trường hợp sau:
Khi cung = cầu, thì giá cả = giá trị
Khi cung > cầu, thì giá cả < giá trị ( sản phẩm nhiều)
Khi cung < cầu, thì giá cả > giá trị (sản phẩm ít)
Cầu là khối lượng hàng hóa dịch vụ mà người tiêu dùng cần mua trong
một thời kỳ nhất định tương ứng với giá cả và thu nhập xác định
Cung là khối lượng hàng hóa dịch vụ hiện có trên thị trường và chuẩn bị
đưa ra thị trường trong một thời kỳ nhất định tương ứng mức giá cả khả năng sản
xuất và chi phí sản xuất xác định
Sự thay đổi của giá cả xoay quanh trục giá trị làm nên “ vẻ đẹp sinh động
của thị trường”, tạo sự hấp dẫn cho sản xuất và tiêu dùng.
Xét tổng thể thì tổng giá cả luôn bằng tổng giá trị.
Trong nền sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa
có tác động tiêu cực. Đó là: điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa; kích thích
tiến bộ, nâng cao năng suất lao động; phân hóa những người sản xuất hàng hóa thành giàu - nghèo.
Chức năng, tác dụng của quy luật giá trị
- Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Quy luật giá trị tự động điều tiết sản xuất thể hiện ở chỗ thu hút vốn tư liệu sản
xuất và sức lao động vào các ngành sản xuất khác nhau theo sự biến động cung cầu
giá cả tạo nên cơ cấu kinh tế hiệu quả hơn và đất ứng nhu cầu của xã hội
Vận dụng quy luật giá trị đảm bảo lợi nhuận giá trị cá biệt của sản phẩm
Phân phối lực lượng sản xuất và sức lao động vào các ngành vùng khác
nhau quy luật giá trị điều tiết một cách tự phát thông qua sự lên xuống của giá cả
Điều tiết lưu thông phân phối nguồn hàng hóa từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao -
Thứ hai, Khuyến khích tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao năng suất lao động.
Mục đích sản xuất là lợi nhuận tiến tới cải tiến kĩ thuật nâng cao trình độ cho người lao
Phân hóa những người sản xuất hàng hóa thành giầu và nghèo từ đó làm
nãy sinh quan hệ tư bản chủ nghĩa
Kích thích cải tiến kĩ thuật hợp lý hóa sản xuất nhằm tăng năng suất lao
động hạ giá thành sản phẩm
Sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội
cần thiết sẽ trở nên giầu muốn vậy phải cải tiến kĩ thuật cải tiến tổ chức quản lý
sản xuất thúc đẩy lực lượng sản xuất của xã hội phát triển -
Thứ ba, phân hoá người sản xuất hàng hoá thành người giàu, người nghèo.
Những chủ thể sản xuất hàng hóa có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn
mức hao phí lao động xã hội cần thiết thì có thể thắng tế trong cạnh tranh, họ sẽ giàu
lên, có thể mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh trở thành chủ
thể giàu có hưn, và có thể sử dụng được nhiều hơn lao động làm thuê.
Ngược lại, những chủ thể sản xuất hàng hóa có mức hao phí lao động cá
biệt lớn hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, sẽ rơi vào tình trạng thua lỗ, phá sản.
Các tác động nhiều mặt tích cực của quy luật giá trị đã làm cho sản xuất
hàng hóa thực sự là khởi điểm ra đời của chủ nghĩa tư bản.
Như vậy quy luật giá trị vừa có tác động tích cực vừa có tác động tích cực
một cách tự phát khách quan.
Trước thời kỳ đổi mới chúng ta phủ nhận sản xuất hàng hóa và quy luật
giá trị nên không khai thác được các nguồn lực nền kinh tế kém phát triển rơi vào khủng hoảng nhất.
trong thời kỳ đổi mới chúng ta phát triển sản xuất hàng hóa quy luật giá trị
hoạt động tạo nên cạnh tranh, phát triển kinh tế. Bên cạnh đó mặt trái phát sinh
như phân hóa giàu nghèo, buồn gian bán lận,...
Vì vậy nhà nước điều tiết bằng luật pháp chính sách đầu tư thuế đào tạo
năng lực để đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta
Tại sao sản xuất hàng hóa khởi điểm ra đời của chủ nghĩa tư bản?
Khái niệm sản xuất hàng hóa là một kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản
phẩm được sản xuất ra để bán trên thị trường phải là sản xuất cho người khác,
cho xã hội. đem ra thị trường trao đổi mua bán.
Hàng hóa là Quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào
tự nhiên, biến đổi các vật thể tự nhiên nhằm tạo ra các sản phẩm phù hợp với nhu cầu của mình
Sản xuất vật chất quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. đảm bảo những
nhu cầu thiết yếu cho toàn xã hội, sản xuất vật chất và tái sản xuất vật chất
Ví dụ: con người sản xuất ra vật chất và đói phải sử dụng vật chất để tạo ra tái sản xuất vật chất
Đảm bảo cho quá trình tái sản xuất tái diễn liên tục sản, xuất vật chất này
chưa được gọi là sản xuất hàng hóa mà chỉ được gọi là sản xuất vật chất
Sản xuất hàng hóa không xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện của xã hội
loài người. Nền kinh tế hàng hóa có thể hình thành và phát triển khi có các điều kiện:
Một là,có sự phân công lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động trong xã hội thành các
ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hóa của những
người sản xuất thành những ngành, nghề khác nhau.
Phân công lao động xã hội là chế độ tư hữu và các hình thức sở hữu khác về tư liệu sản xuất
Hình thành các ngành kinh tế như: ngành giao thông vận tải, ngành y tế, ngành
giáo dục, ngành thương nghiệp, ngành nông nghiệp, ngành công nghiệp,…
Khi có sự phân hóa khác nhau sẽ tạo ra các sản phẩm hàng hóa khác nhau,
có sự trao đổi hàng hóa giữa người với người
Cơ sở của phân công lao động xã hội đó là: dựa trên những ưu thế về tự
nhiên, kĩ thuật, năng khiếu, sở trường của từng người cũng như của từng vùng;
dựa trên những đặc điểm, ưu thế về mặt xã hội như phong tục, tập quán, ăn ở,… của từng vùng.
Việc trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu vì khi có phân công lao động xã
hội thì mỗi người, mỗi cơ sở chỉ sản xuất một hoặc một vài thứ sản phẩm nhất
định nhưng nhu cầu cuộc sống đòi hỏi nhiều sản phẩm dẫn đến họ phải trao đổi
sản phẩm với nhau. Ngoài ra còn làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên, do
đó ngày càng nhiều sản phẩm thặng dư lên trao đổi.
Nhờ có sự phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản xuất mà năng suất
lao động tăng lên, làm ra nhiều sản phẩm để trao đổi và tiêu dùng. Phân công
lao động xã hội càng phát triển, thì sản xuất và trao đổi hàng hóa càng mở rộng hơn, đa dạng hơn.
Tuy nhiên, phân công lao động xã hội mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa
đủ để sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại. Vì vậy, muốn sản xuất hàng hóa ra đời
và tồn tại phải có điều kiện thứ hai.
Sản xuất ra nhiều hơn có lợi cho người kinh doanh và tiêu dùng chất lượng
sản phẩm cao hơn những người lao động phải phụ thuộc vào nhau
Hai là, có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những chủ thể sản xuất khác nhau
Những người sản xuất trở thành những chủ thể sản xuất độc lập, do đó sản
phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu hoặc do họ chi phối vậy người này muốn tiêu
dùng sản phẩm của người khác phải thông qua trao đổi mua bán
Tuy độc lập nhưng trong xã hội những người sản xuất kinh doanh vẫn phụ thuộc vào nhau
Ví dụ: công ty giày độc lập với công ty sản xuất bánh kẹo, nhưng họ trao
đổi những thứ không có, nhưng vẫn phụ thuộc vào nhau, vì sản xuất hàng hóa ra
để bán ra thị trường tiêu thụ
Sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu hoặc chi phối của người khác cần
phải thông qua trao đổi, mua bán hàng hóa. Có ba cơ sở của điều kiện này, là do
chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất quy định, sự tách biệt này còn do các hình thức
sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền
sử dụng đối với tư liệu sản xuất quy định.
Tư hữu về tư liệu sản xuất thì tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của mỗi cá
nhân và kết quả là sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của họ. Trong điều kiện
ấy người này muốn tiêu dùng sản phẩm cùa người khác phải thông qua việc mua
- bán hàng hóa, tức là phải trao đổi dưới những hình thái hàng hóa.
Khi sự tách biệt về kinh tế giữa những chủ thể sản xuất tồn tại trong điều
kiện có sự phân công lao động xã hội thì việc trao đổi sản phẩm giữa những chủ
thể khác nhau phải đảm bảo được lợi ích của họ. Điều đó chỉ có thể có được khi
trao đổi dựa trên nguyên tắc ngang giá, có đi có lại tức là trao đổi hàng hóa, sản
phẩm của lao động trở thành hàng hóa.
Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất, sản
phẩm làm ra phải mang hình thức trao đổi theo nguyên tắc ngang giá mới công
bằng, bình đẳng, đảm bảo lợi ích của các chủ thể đó.
Sự phân hóa của quy luật giá trị tạo nên xuất hiện tư bản và người làm thuê
Quá trình tích lũy nguyên thủy đẫm máu của tư bản chủ nghĩa dẫn đến bạo
lực, các đạo luật, chiếm đất …
Quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản là quy luật (m).Mục đích của
tư bản là giá trị thặng dư
Giá trị thặng dư là cơ sở tồn tại phát triển của chủ nghĩa tư bản không
những phản ánh mục đích mà cả phương pháp thủ đoạn và phương tiện để đạt
mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa
Mục đích trực tiếp của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là sản xuất ra giá
trị sử dụng và cũng không phải vì sản xuất ra giá trị nói chung mà là sản xuất ra giá trị
thặng dư đối với tất cả các nhà tư bản giá trị thặng dư càng nhiều càng tốt
Phương pháp và thủ đoạn bóc lột công nhân làm thuê để có giá trị thặng dư
ngày càng lớn và kéo dài ngày lao động tăng cường độ lao động tăng năng suất lao
động phương tiện để đạt được mục đích trên là ứng dụng kỹ thuật công nghệ hiện đại
trên cơ sở hình thành và phát triển nền đại công nghiệp cơ khí, sản xuất giá trị thặng
dư là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
Quy luật giá trị thặng dư tác động mạnh đến mọi mặt của xã hội tư bản nó
quyết định toàn bộ quá trình phát sinh phát triển của chủ nghĩa tư bản và sự thay
thế chủ nghĩa tư bản bằng một xã hội mới cao hơn nó là động lực mạnh mẽ nhất
thúc đẩy phát triển kỹ thuật công nghệ phân công lao động xã hội hóa sản xuất
nó lôi cuốn một mọi hoạt động sản xuất và thu hút toàn bộ lao động xã hội vào
phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản
Xuất khẩu tư bản là đưa tư bản thừa của các tổ chức độc quyền của tư bản
tài chính của nhà nước tư sản sang các nước khác nhằm mở rộng quan hệ bóc lột của chủ nghĩa tư bản
Xuất khẩu tư bản qua hai hình thức suất khẩu tư bản lao động tìm kiếm giá
trị thặng dư bóc lột lao động; suất khẩu tư bản cho vay nhằm mục đích kinh tế
thu z(tỷ suất lợi tức), cho vay mục đích chính trị ODA
Quy luật giá trị hoạt động được thể hiện ở sự biến đổi lên xuống của giá cả
xoay quanh giá trị dưới tác động của quan hệ cung - cầu hàng hóa trên thị
trường. Sự biến đổi giá cả một cách tự phát, tự do là sự phản ánh hoạt động của quy luật giá trị.
Nếu sức mua đồng tiền không đổi, không kể đến điều tiết của nhà nước và
độc quyền thì xảy ra 03 trường hợp giữa cung và cầu
Cầu là khối lượng hàng hóa dịch vụ mà người tiêu dùng cần mua trong
một thời kỳ nhất định tương ứng với giá cả và thu nhập xác định
Cung là khối lượng hàng hóa dịch vụ hiện có trên thị trường và chuẩn bị
đưa ra thị trường trong một thời kỳ nhất định tương ứng mức giá cả khả năng sản
xuất và chi phí sản xuất xác định
Sự thay đổi của giá cả xoay quanh trục giá trị làm nên “ vẻ đẹp sinh động
của thị trường”, tạo sự hấp dẫn cho sản xuất và tiêu dùng.
Xét tổng thể thì tổng giá cả luôn bằng tổng giá trị.
Trong nền sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa
có tác động tiêu cực. Đó là: điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa; kích thích
tiến bộ, nâng cao năng suất lao động; phân hóa những người sản xuất hàng hóa thành giàu - nghèo.
Sự chuyển hóa thành tư bản
- Tiền là loại hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cố
định cho tất cả các loại hàng hóa, là sự thể hiện chung của giá trị. Đồng thời,
nó biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa
Chủ nghĩa tư bản ra đời khi và chỉ khi có có hai điều kiện
+ Thứ nhất: Tiền của phải được tập trung vào tay một số người với số
lượng đủ lớn để lập ra xí nghiệp TBCN;
+Thứ hai: Người lao động phải không còn TLSX để kết hợp với lao động
bản thân để làm ra hàng hóa nên buộc phải bán sức lao động để sinh sống. Sức
lao động trở thành hàng hóa.
Trong đó, điều kiện thứ 2- Sức lao động trở thành hàng hóa là đk quyết
định chuyển hóa tiền thành tư bản. Để làm rõ nội dung này ta đi phân tích công thức chung của Tư bản:
- Người ta gọi đây là công thức chung của TB vì mọi tư bản đều vận động theo công thức này:
Công thức: T – H – T’
Mác rút ra kết luận: "Hình thái đầy đủ của quá trình đó là T - H - T',
trong đó T' = T + Δt, nghĩa là bằng số tiền ứng ra ban đầu cộng với một số tăng
thêm nào đó. Số tăng thêm đó, hay số dư so với giá trị lúc ban đầu, tôi gọi là giá
trị thặng dư. Như vậy là giá trị được ứng ra lúc ban đầu không những được bảo
tồn trong lưu thông, mà còn thay đổi đại lượng của nó, còn cộng thêm một giá
trị thặng dư, hay là đã tự tăng thêm giá trị. Chính sự vận động ấy đã biến giá trị
đó thành tư bản". C.Mác
Công thức T - H - T' Trong đó:
T: là số tiền ứng ra ban đầu;
T’: là số tiền thu về sau khi lưu thông (T’ = T + Dt)
Dt: là số tiền tăng thêm so với lúc ban đầu, gọi là GTTD (ký hiệu: m)
Công thức T - H - T' là công thức chung của tư bản, nó biểu hiện tư bản là:
Giá trị mang lại giá trị thặng dư.
+ Bản thân tiền chưa phải là tư bản. Tiền chỉ trở thành tư bản khi được
sử dụng để bóc lột lao động lao động của người khác và thông qua quá trình lưu
thông nhằm đem lại giá trị tăng thêm cho người sở hữu tiền tệ.
+ Tiền để trở thành tư bản cần phải có một lượng đủ lớn và phải vận
động theo công thức T - H - T
Vận dụng quy luật giá trị ở Việt Nam hiện nay
Liên hệ: Hiện nay nước ta đang hội nhập theo nền kinh tế thế giới với
chính sách mở cửa hợp tác với các nước. Một trong những nhân tố ảnh hưởng
đến sự phát triển kinh tế nước ta đó là quy luật giá trị. Việc vân dụng quy luật
giá trị được thể hiện trên những lĩnh vực như sau:
Vận dụng quy luật giá trị vào lĩnh vực sản xuất.
Thứ nhất: Đối với việc hoạch toán kinh tế của các doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, mỗi doanh nghiệp là người sản xuất
hàng hóa cạnh tranh gay gắt với nhau, để đứng vững được trên thị trường, chiến thắng
đối thủ cạnh tranh thì họ phải tính đến hiệu quả sản xuất kinh doanh thông qua các
hình thức giá trị, giá cả, lợi nhuận, chi phí… Để có lợi nhuận, các doanh nghiệp phải
tìm cách hạ thấp chi phí sản xuất bằng cách hợp lý hóa sản xuất, tiết
kiệm chi phí vật chất, tăng năng suất lao động… Để làm được điều đó, doanh nghiệp
phải nắm vững và vận dụng tốt quy luật giá trị trong hoạch toán kinh tế. Thời gian
qua ta thấy có rất nhiều doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, điều đó cho thấy các doanh
nghiệp đã vận dụng khá tốt quy luật giá trị vào hoạch toán kinh tế.
Đối với các doanh nghiệp Nhà nước, để tăng hiệu quả sản xuất kinh
doanh, Nhà nước ta đã quyết định cổ phần hóa phần lớn các doanh nghiệp Nhà
nước, và Nhà nước chỉ giữ lại một số ngành có tính chất an ninh quốc gia. Các
doanh nghiệp rồi sẽ dần chuyển thành các công ty cổ phần với nhiều chủ sở hữu
và mỗi cổ đông sẽ vì lợi ích của mình để đầu tư vào sản xuất, hoạch toán kinh tế
sao cho lợi nhuận càng nhiều càng tốt.
Thứ hai: Đối với việc hình thành giá cả sản xuất
Tuy nhiên, trên tực tế giá cả hàng hóa chịu tác động của nhiều yếu tố như
cung – cầu, cạnh tranh, sức mua đồng tiền, giá các mặt hàng liên quan…
Vận dụng quy luật giá trị vào lĩnh vực lưu thông hàng hóa.
Trong lĩnh vực lưu thông, quy luật giá trị yêu cầu trao đổi phải theo nguyên tắc
ngang giá, tức giá cả bằng giá trị. Dưới tác động quy luật giá trị, hàng hóa trong nền
kinh tế sẽ được đưa từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao, từ nơi cung nhiều đến
nơi cầu nhiều. Thông qua sự biến động về giá cả trên thị trường, luồng hàng hóa sẽ
lưu thông từ đó tạo sự cân đối về nguồn hàng giữa các vùng miền.
Đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam,
thông qua hệ thống giá cả quy luật giá trị có ảnh hưởng nhất định đến việc lưu
thông của một hàng hóa nào đó. Giá mua cao sẽ khơi thêm nguồn hàng, giá bán
hạ sẽ thúc đẩy mạnh việc tiêu thụ và ngược lại. Do đó mà Nhà nước ta đã vận
dụng vào việc định giá cả sát giá trị, xoay quanh giá trị để kích thích cải tiến kỹ
thuật, tăng cường quản lý. Không những thế Nhà nước ta còn chủ động tách giá
cả khỏi giá trị với từng loại hàng hóa trong từng thời kỳ nhất định, lợi dụng sự
chênh lệch giữa giá cả và giá trị để điều tiết một phần sản xuất và lưu thông, điều
chỉnh cung cầu và phân phối. Giá cả được coi là một công cụ kinh tế quan trọng
để kế hoạch hóa sự tiêu dùng của xã hội.
Câu 2: Giá trị thặng dư: 1. Khái niệm:
Giá trị thặng dư là toàn bộ giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động
do công nhân làm thuê tạo ra và thuộc về nhà tư bản
Để có được giá trị thặng dư nhà tư bản vận dụng theo công thức: T-H-T’ T’=T+ Ѧ t
2. SX GTTD là quy luật của CNTB
Giá trị thặng dư là cơ sở để tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản,
không những phản ánh mục đích mà cả phương pháp, thủ đoạn và phương tiện
để đạt mục đích của nền sản xuất TBCN
Mục đích trực tiếp của SX TBCN không phải là sản xuất ra giá trị sử dụng
và cũng không phải là sản xuất ra giá trị nói chung mà là sản xuất ra giá trị thặng
dư, đối với tất cả các nhà tư bản, giá trị thặng dư càng nhiều càng tốt.
Phương pháp và thủ đoạn bóc lột công nhân làm thuê để có giá trị thặng dư
ngày càng lớn là kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động, tăng năng suất lao
động. Phương tiện để đạt được mục đích trên là ứng dụng kỹ thuật, công nghệ hiện đại
trên cơ sở hình thành và phát triển nền đại công nghiệp cơ khí. Do vậy, sản xuất giá trị
thặng dư là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Quy luật giá trị thặng dư tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của xã hội tư
bản. nó quyết định toàn bộ quá trình phát sinh, phát triển của chủ nghĩa tư bản và
sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng một xã hội mới, cao hơn. Nó là động lực mạnh
mẽ nhất thúc đẩy phát triển kỹ thuật, công nghệ, phân công lao động, xã hội hoá
sản xuất, nó lôi cuốn mọi hoạt động sx và thu hút toàn bộ lao động xã hội vào
phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản.
Song do tác động của quy luật giá trị thặng dư nên sự phát triển của nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa diễn ra dưới hình thức mâu thuẫn đối kháng. Sự tác
động của quy luật này làm cho mâu thuẫn cơ bản – mâu thuẫn giữa tính chất xã
hội hoá của sản xuất vói hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Nói
chung , toàn bộ mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc tạo cơ sở kinh
tế, xã hội quyết định địa vị lịch sử của CNTB.
Từ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, nền sản xuất có
tính chất xã hội hoá ngày càng cao, mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất
với hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa ngày càng gay gắt.
Tất cả những yếu tố đó đưa xã hội tư bản đến chỗ phủ định chính mình. 4. Vai trò của GTTD
- Quy luật sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ
nghĩa tư bản, là động lực của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
- Trong nền kinh tế, việc tạo ra giá trị thặng dư về lâu dài sẽ đẩy mạnh tốc
độ tăng trưởng kinh tế của tổ chức, công ty, doanh nghiệp hay thậm chí là của một quốc gia.
- Bên cạnh đó, việc tạo ra giá trị thặng dư sẽ giúp doanh nghiệp có được
một nguồn tiền ổn định để đầu tư vào trang thiết bị, vật chất, từ đó hỗ trợ được
và tiết kiệm sức lao động của công nhân.
- Không những thế, nguồn tiền của một doanh nghiệp càng ổn định thì chế
độ lương thưởng của nhân viên sẽ trở nên hấp dẫn và xứng đáng với sức lao động của họ hơn. 5. Giải pháp
Một là, trong thời kỳ quá độ nền kinh tế ở nước ta, trong một chừng mực
nào đó, quan hệ bóc lột chưa thể bị xóa bỏ ngay, sạch trơn theo cách tiếp cận
giáo điều và xơ cứng cũ. Càng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta
càng thấy rõ, chừng nào quan hệ bóc lột còn có tác dụng giải phóng sức sản xuất
và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, thì chừng đó chúng ta còn phải chấp
nhận sự hiện diện của nó.
Hai là, trong thực tế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay, mọi phương án tìm cách định lượng rành mạch, máy móc và
xơ cứng về mức độ bóc lột trong việc hoạch định các chủ trương chính sách,
cũng như có thái độ phân biệt đối xử với tầng lớp doanh nhân mới đều xa rời
thực tế và không thể thực hiện được. Điều có sức thuyết phục hơn cả hiện nay là
quan hệ phân phối phải được thể chế hóa bằng luật.
Theo C.Mác, sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức hoạt động kinh tế mà ở đó,
những người sản xuất ra sản phẩm nhằm mục đích trao đồi, mua bán.
Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa
Hàng hóa là Quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào
tự nhiên, biến đổi các vật thể tự nhiên nhằm tạo ra các sản phẩm phù hợp với nhu cầu của mình
Sản xuất vật chất quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. đảm bảo những
nhu cầu thiết yếu cho toàn xã hội, sản xuất vật chất và tái sản xuất vật chất
Ví dụ: con người sản xuất ra vật chất và đói phải sử dụng vật chất để tạo ra tái sản xuất vật chất
Đảm bảo cho quá trình tái sản xuất tái diễn liên tục sản, xuất vật chất này
chưa được gọi là sản xuất hàng hóa mà chỉ được gọi là sản xuất vật chất
Sản xuất hàng hóa không xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện của xã hội
loài người. Nền kinh tế hàng hóa có thể hình thành và phát triển khi có các điều kiện:
Một là,có sự phân công lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động trong xã hội thành các
ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hóa của những
người sản xuất thành những ngành, nghề khác nhau.
Phân công lao động xã hội là chế độ tư hữu và các hình thức sở hữu khác về tư liệu sản xuất
Hình thành các ngành kinh tế như: ngành giao thông vận tải, ngành y tế, ngành
giáo dục, ngành thương nghiệp, ngành nông nghiệp, ngành công nghiệp,…
Khi có sự phân hóa khác nhau sẽ tạo ra các sản phẩm hàng hóa khác nhau,
có sự trao đổi hàng hóa giữa người với người
Cơ sở của phân công lao động xã hội đó là: dựa trên những ưu thế về tự nhiên,
kĩ thuật, năng khiếu, sở trường của từng người cũng như của từng vùng; dựa
trên những đặc điểm, ưu thế về mặt xã hội như phong tục, tập quán, ăn ở,… của từng vùng.
Việc trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu vì khi có phân công lao động xã
hội thì mỗi người, mỗi cơ sở chỉ sản xuất một hoặc một vài thứ sản phẩm nhất
định nhưng nhu cầu cuộc sống đòi hỏi nhiều sản phẩm dẫn đến họ phải trao đổi
sản phẩm với nhau. Ngoài ra còn làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên, do
đó ngày càng nhiều sản phẩm thặng dư lên trao đổi.
Nhờ có sự phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản xuất mà năng
suất lao động tăng lên, làm ra nhiều sản phẩm để trao đổi và tiêu dùng. Phân
công lao động xã hội càng phát triển, thì sản xuất và trao đổi hàng hóa càng mở rộng hơn, đa dạng hơn.
Sản xuất ra nhiều hơn có lợi cho người kinh doanh và tiêu dùng chất lượng
sản phẩm cao hơn những người lao động phải phụ thuộc vào nhau
Hai là, có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những chủ thể sản xuất khác nhau
Những người sản xuất trở thành những chủ thể sản xuất độc lập, do đó sản
phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu hoặc do họ chi phối vậy người này muốn tiêu
dùng sản phẩm của người khác phải thông qua trao đổi mua bán
Tuy độc lập nhưng trong xã hội những người sản xuất kinh doanh vẫn phụ thuộc vào nhau
Ví dụ: công ty giày độc lập với công ty sản xuất bánh kẹo, nhưng họ trao
đổi những thứ không có, nhưng vẫn phụ thuộc vào nhau, vì sản xuất hàng hóa ra
để bán ra thị trường tiêu thụ
Sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu hoặc chi phối của người khác cần phải
thông qua trao đổi, mua bán hàng hóa. chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất quy định, sự
tách biệt này còn do các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sự tách rời
giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đối với tư liệu sản xuất quy định.
Tư hữu về tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của mỗi cá nhân và sản phẩm làm
ra thuộc quyền sở hữu của họ. người này muốn tiêu dùng sản phẩm cùa người
khác phải thông qua việc mua - bán hàng hóa, tức là phải trao đổi hàng hóa.
Khi sự tách biệt về kinh tế giữa những chủ thể sản xuất tồn tại trong điều
kiện có sự phân công lao động xã hội thì việc trao đổi sản phẩm giữa những chủ
thể khác nhau phải đảm bảo nguyên tắc ngang giá, trao đổi hàng hóa, sản phẩm
của lao động trở thành hàng hóa.
Muốn đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường ở một địa bàn, ngành cũng
cần thúc đẩy phân công lao động thông qua hướng nghiệp, đào tạo và tạo quyền
tự chủ về quyền sở hữu, sử dụng các yếu tố sản xuất.
Đặc trưng của sản xuất hàng hóa
Hàng hóa là sản xuất để trao đổi mua bán
Lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính tư nhân vừa mang tính xã hội
Do phân công lao động xã hội nên sản phẩm lao động của người này trở
nên cần thiết với người khác, thị trường, xã hội. Hơn nữa việc sản xuất ra sản
phẩm có sự tham gia của những người khác, nên mang tính xã hội
Do có sự tách biệt về kinh tế nên chủ thể sản xuất độc lập với nhau. Mỗi
chủ thể sản xuất phải tự xác định, sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất
cho ai? lên lao động sản xuất hàng hóa mang tính tư nhân
Các yếu tố cơ bản của sản xuất hàng hóa
Sức lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần được tồn tại
trong một cơ thể con người đang sống và được người đó mang ra vận dụng mỗi
khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó
Sức lao động cộng tư liệu lao động, có đối tượng lao động tạo ra sản phẩm hàng hóa
Lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm tạo ra
các sản phẩm phục vụ nhu cầu của đời sống con người
Người lao động là yếu tố quan trọng nhất của quá trình sản xuất
Trong lịch sử loài tồn tại hai kiểu tổ chức kinh tế khác nhau là sản xuất tự
cung, tự cấp và sản xuất hàng hóa. Sản xuất tự cung, tự cấp là kiểu tổ chức kinh
tế trong đó sản phẩm được sản xuất ra nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
chính bản thân người sản xuất như sản xuất của người dân trong thời kỳ công xã
nguyên thủy, sản xuất của những người nông dân gia trưởng dưới chế độ phong
kiến… Ngược lại, sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm
được sản xuất ra để bán chứ không phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
chính người trực tiếp sản xuất ra nó, tức là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán.
Thứ hai, lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính tư nhân, vừa mang tính xã hội.
Lao động của người sản xuất hàng hóa mang tính chất xã hội vì sản phẩm
làm ra để cho xã hội, đáp ứng nhu cầu của người khác trong xã hội. Nhưng với
sự tách biệt tương đối về kinh tế, thì lao động của người sản xuất hàng hóa đồng
thời lại mang tính chất tư nhân, vì việc sản xuất cái gì, như thế nào là công việc
riêng, mang tính độc lập của mỗi người. Tính chất tư nhân đó có thể phù hợp
hoặc không phù hợp với tính chất xã hội. Đó chính là mâu thuẫn cơ bản của sản
xuất hàng hóa. Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là cơ sở,
mầm mống của khủng hoảng trong nền kinh tế hàng hóa.
Ưu thế của sản xuất hàng hóa
So với sản xuất tự cung, tự cấp, sản xuất hàng hóa có những ưu thế hơn hẳn:
Thứ nhất: Sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở của phân công lao động xã hội,
chuyên môn hóa sản xuất. Do đó, nó khai thác được những lợi thế về tự nhiên, xã hội,
kỹ thuật của từng người, từng cơ sở sản xuất cũng như từng vùng, từng địa phương.
Đồng thời, sự phát triển của sản xuất hàng hóa lại có tác động trở lại, thúc đẩy sự phát
triển của phân công lao động xã hội, làm cho chuyên môn hóa lao động ngày càng
tăng, mối liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng trở nên mở rộng, sâu sắc. Từ đó,
nó phá vỡ tính tự cấp tự túc, bảo thủ, trì trệ, lạc hậu của mỗi ngành, mỗi địa phương
làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên nhanh chóng, nhu cầu của xã hội được đáp
ứng đầy đủ hơn. Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa mở rộng giữa các quốc gia, thì nó
còn khai thác được lợi thế của các quốc gia với nhau.
Thứ hai: Trong nền sản xuất hàng hóa, quy mô sản xuất không còn bị giới
hạn bởi nhu cầu và nguồn lực mang tính hạn hẹp của mỗi cá nhân, gia đình, mỗi
cơ sở, mỗi vùng, mỗi địa phương, mà nó được mở rộng, dựa trên cơ sở nhu cầu
và nguồn lực của xã hội. Điều đó lại tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng
những thành tựu khoa học – kỹ thuật vào sản xuất… thúc đẩy sản xuất phát triển.
Thứ ba: Trong nền sản xuất hàng hóa, sự tác động của quy luật vốn có của sản
xuất và trao đổi hàng hóa là quy luật giá trị, cung – cầu, cạnh tranh… buộc người sản
xuất hàng hóa phải luôn luôn năng động, nhạy bén, biết tính toán, cải tiến kỹ thuật,
hợp lý hoá sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế, cải
Giới hạn: Thể chất của người lao động giảm sút; Tinh thần của người lao
động giảm mệt mỏi căng thẳng
Do đó sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối bị giới hạn bởi thời gian trong ngày và
tình trạng sức khỏe tâm lý của công nhân việc áp dụng phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư tuyệt đối thường gây ra sự phản kháng của công nhân làm thuê
Ví dụ ngày lao động có độ dài 08.00 thời gian lao động tất yếu là 04.00
thời gian lao động thặng dư là 04.00 giá trị thặng dư tuyệt đối được tạo ra trong
thời gian lao động thặng dư là 04 giờ 1tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là 100 %
Nếu ngày lao động kéo dài thành 10.00 trong khi sản xuất lao động thời
gian lao động tất yếu và giá trị sức lao động không đổi giá trị thặng dư tuyệt đối
được tạo ra trong thời gian lao động thặng dư là 06 giờ và 1 tỷ suất giá trị thặng
dư sẽ tăng lên thành 150%
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Khái niệm là phương pháp sản xuất ra (m) bằng cách rút ngắn thời gian lao
động cần thiết để kéo dài thời gian lao động thặng dư trên cơ sở tăng năng suất
lao động xã hội trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi
Ví dụ ngày lao động có độ dài 08 giờ thời gian lao động tất yếu là 04h thời
gian lao động thặng dư là 04h giá trị thặng dư tuyệt đối được tạo ra trong thời
gian lao động thặng dư là 04h 1 tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là 100%
Nếu ngày lao động không đổi thời gian lao động tất yếu giảm xuống còn
03h thì 1tỷ suất giá trị thặng dư sẽ tăng lên thành 167%
Nếu người lao động rút ngắn còn 07h thời gian lao động tất yếu giảm
xuống 02h thì 1 tỷ suất giá trị thặng dư sẽ tăng lên thành 250%