Câu 1 triết học Chương 1 - Triết học Mác – Lê-nin | Trường Đại học Phenika
Câu 1 triết học Chương 1 - Triết học Mác – Lê-nin | Trường Đại học Phenika được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học mác - lênin (LT1011)
Trường: Đại học Phenika
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Đề 1: Phân tích theo quan điểm triết học Mác – Lênin về vấn đề cơ bản của triết học? BL
Triết học là một loại hình nhận thức đặc thù của con người, triết học ra đời ở cả
phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời gian (khoảng từ thế kỷ VIII
đến thế kỷ VI trước Công nguyên). Triết học có nguồn gốc thực tế từ tồn tại xã hội
với một trình độ nhất định của sự phát triển văn minh, văn hóa và khoa học. Con
người kì vọng được đáp ứng nhu cầu về nhận thức và hoạt động thực tiễn của mình
đã sáng tạo ra những luận thuyết chung nhất, có tính hệ thống, phản ánh thế giới
xung quanh và thế giới của chính con người. Triết học là dạng tri thức lý luận xuất
hiện sớm nhất trong lịch sử các loại hình lý luận của nhân loại (GT trang 12). Với
tư cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học có nguồn gốc nhận thức và nguồn
gốc xã hội. nói đến nguồn gốc nhận thức của triết học là nói đến sự hình thành,
phát triển của tư duy trừu tượng, của năng lực khái quát trong nhận thức con người.
(GT trang 15). Nguồn gốc xã hội: “ Triết học ra đời khi nền sản xuất xã hội đã có
sự phân công lao dộng và loài người đã xuất hiện giai cấp, tức là khi chế độ cộng
sản nguyên thủy tan rã, chế độ chiếm hữu nô lệ đã hình thành, phương thức sản
xuất dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất dã xác định và ở trình độ khá phát triển” (GT trang 15, 16).
Triết học Mác – Lênin ra đời dựa trên điều kiện kinh tế - xã hội (Giáo trình trang
48), nguồn gốc lý luận (giáo trình trang 52) và tiền đề khoa học tự nhiên (Giáo
trình trang 55), nhân tố chủ quan (GT trang 57). Triết học Mác – Lênin được hình
thành và phát triển qua các thời kì hình thành tư tưởng triết học với bước quá độ từ
chủ nghĩa duy tâm và dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật vf chủ nghĩa
cộng sản (1841 - 1844) (GT trang 59), thời kì đề xuất những nguyên lý triết học
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử (GT trang 65), thời kì C.Mác và Ph.Ăngghen
bổ sung và phát triển toàn diện lý luận triết học (1848-1895) (GT trang 70).
Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị
trí, vai trò của con người trong thế giới ấy (Slide trang 10). Vấn đề triết học có hai
mặt. Mặt thứ nhất: Giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái
nào quyết định cái nào? Nói cách khác, khi tìm ra nguyên nhân cuối cùng của hiện
tượng, sự vật, hay sự vận động đang cần phải giải thích, thì nguyên nhân vật chất
hay nguyên nhân tinh thần đóng vai trò quyết định. Mặt thứ hai: con người có khả
năng nhận thức được thế giới hay không? Nói cách khác, khi khám phá sự vật và
hiện tượng, con người có dám tin rằng mình sẽ nhận thức được sự vật và hiện
tượng hay không (GT trang 34, 35). Chủ nghĩa duy vật được thể hiện dưới ba hình
thức cơ bản: chủ nghĩa duy vật chất phác (GT trang 36), chủ nghĩa duy vật siêu
hình (GT trang 36) và chủ nghĩa duy vật biện chứng (GT trang 37). Chủ nghĩa duy
tâm gồm có hai phái: chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách
quan (GT trang 37). Với câu hỏi “Con người có thể nhận thức được thế giới hay
không?”, đa số các nhà triết học trả lời một cách khẳng định: Thừa nhận khả năng
nhận thức được thế giới của con người. Học thuyết triết học khẳng định khả năng
nhận thức của con người được gọi là Thuyết khả tri. Học thuyết phủ nhận khả năng
nhận thức của con người được gọi là Thuyết bất khả tri (GT trang 40). Sự khác
nhau cơ bản của chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm nằm ở khái niệm, hình
thức thể hiện, tư tưởng bản nguyên thế giới. Chủ nghĩa duy tâm có đặc điểm trung
tâm là sự khẳng định thực tế không có gì ngoài những gì được xây dựng bởi tâm trí
của chúng ta đối với chúng ta. Chủ nghĩa duy vật tin rằng mọi thứ xảy ra là do sự
cần thiết, không có gì là tình cờ. Chủ nghĩa duy vật được thể hiện dưới ba hình
thức cơ bản: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa
duy vật biện chứng. Chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà
triết học duy vật thời cổ đại. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khắc phục hạn chế của
chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại, không chỉ phản ánh hiện thực đúng như
chính bản thân nó tồn tại mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp những lực lượng
tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực ấy. Chủ nghĩa duy tâm chia thành hai phái:
chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan. Chủ nghĩa duy tâm
chủ quan thừa nhận ý thức con người, phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện
thực, khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp những cảm giác của cá
nhân, của chủ thể. Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận ý thức nhưng
đấy là tinh thần khách quan có trước tồn tại độc lập với con người. Thực tế tinh
thần khách quan thường mang tên gọi khác nhau như ý niệm,…
Như vậy ta có thể thấy được nội dung trọng tâm của bài chúng ta phải biết khái
lược về triết học và triết học Mác – Lênin, các vấn đề cơ bản của triết học mặt thứ
nhất: Giữa vật chất, ý thức thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định
cái nào? Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
Và phân biệt được phép biện chứng và phép siêu hình.