CÂU HỎI ÔN TẬP THI CUỐI MÔN TRIẾT
HỌC MÁC LÊNIN
Thi 2 câu Thời gian: 70p
Câu 1: Triết học gì? Phân tích những nội dung bản của vấn đề bản triết học. Từ đó
xác định vai trò của triết học Mác Leenin trong đời sống hội?
Triết học một bộ môn nghiên cứu về những vấn đề chung bản của con người, thế giới
quan vị trí của con người trong thế giới quan, những vấn đề kết nối với chân sự tồn
tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức ngôn ngữ. Nguồn gốc về triết học gồn nhận thức
hội. Về nhận thức, nhận thức thế giới nhu cầu tự nhiên khách quan của con người. Nguồn
lực khái quát trong nhận thức của con người. Về hội, Triết học không ra đời trong hội
mông muội triết học ra đời khi nền sản xuất hội đã sự phân công lao động và loài
người đã xuất hiện tầng lớp giai cấp. Chính vậy, rất nhiều định nghĩa về triết học, nhưng
các định nghĩa thường bao hàm những nội dung như sau: triết học một hình thái ý thức hội,
khách thể khám phá của triết học thế giới.
Vấn đề bản của triết học những vấn đề xung quanh mối quan hệ giữa duy tồn tại giữa
vật chất ý thức. do những vấn đề bảnvì việc giải quyết sẽ quyết định được
sở, tiền đề để giải quyết những vấn đề của triết học khác. Điều này đã được chứng minh rất
rang trong lịch sử phát triên lâu dài phức tạp của triết học. Vấn đề bản của triết học bao
gồm hai mặt. Mặt thứ nhất (bản thể luận), Giữa vật chất ý thức cái nào trước, cái nào
quyết định cái nào. Mặt thứ hai (nhận thức luận), con người khả năng nhận thức được thế
giới hay không?
Câu 2: Hãy nêu phân tích nội dung định nghĩa vật chất của Leenin. Từ đó rút ra ý nghĩa
phương pháp luận của nó?
Vật chất một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, được đem lại cho con người
trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh tồn tại không lệ thuộc vào
cảm giác.
Theo định nghĩa của Lênin vvật chất:
Cần phân biệt “vật chất” với cách phạm trù triết học với những dạng biểu hiện cụ thể của vật
chất. Vật chất với cách phạm trù triết học kết quả của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa
những thuộc tính, những mối liên hệ vốn của các sự vật, hiện tượng nên phản ánh cái chung,
hạn, tận, không sinh ra, không mất đi; còn tất cả những sự vật, những hiện tượng những
dạng biểu hiện cụ thể của vật chất nên quá trình phát sinh, phát triển, chuyển hóa. vậy,
không thể đồng nhất vật chất với một hay một số dạng biểu hiện cụ thể của vật chất.
Đặc trưng quan trọng nhất của vật chất thuộc tính khách quan tức thuộc tính tồn tại ngoài ý
thức, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức của con người, cho con người nhận thức được hay
không nhận thức được nó.
Vật chất (dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó) cái thể gây nên cảm giác con người khi
trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người; ý thức của con người sự
phản ánh đối với vật chất, còn vật chất cái được ý thức phản ánh.
Định nghĩa của Lênin về vật chất ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của chủ nghĩa duy vật
nhận thức khoa học:
Bằng việc tìm ra thuộc tính quan trọng nhất của vật chất thuộc tính khách quan, Lênin đã phân
biệt sự khác nhau giữa vật chất vật thể, khắc phục được trong quan niệm vềhạn chế
vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ; cung cấp nhận thức khoa học để xác định những thuộccăn c
về vật chất; tạo lập sở luận cho việc xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử, khắc phục được
những hạn chế duy tâm trong quan niệm về lịch sử của chủ nghĩa duy vật trước Mác.
Khi khẳng định vật chất thực tại khách quan “được đem lại cho con người trong cảm giác”
“được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lai, phản ánh”, Lênin không những đã khẳng định tính
thứ nhất của vật chất, tính thứ hai của ý thức theo quan điểm duy vật còn khẳng định khả năng
con người thể nhận thức được thực tại khách quan thông qua sự “chép lại, chụp lại, phản ánh”
của con người đối với thực tại khách quan.
Phân tích định nghĩa vật chất
Theo định nghĩa vật chất của Lê-nin, thì cần phải phân biệt vật chất với cách mộttrước tiên
phạm trù triết học với “vật chất toàn bộ thực tại khách quan”. khái quát những thuộc tính
bản nhất, phổ biến nhất của mọi dạng tồn tại của vật chất với khái niệm vật chất được sử dụng trong
các khoa học chuyên ngành, hay nói cách khác khác dùng để chỉ những dạng vật chất cụ thể như:
nước lửa không khí, nguyên tử, thịt bò…
Thứ hai thuộc tính bản nhất, phổ biến nhất của mọi dạng vật chất chính thuộc tính tồn tại
khách quan, nghĩa sự tồn tại vận động phát triển của không lệ thuộc vào tâm tư, nguyện
vọng, ý chí nhận thức của con người.
Thứ ba vật chất ( dưới những hình thức tồn tại cụ thể của nó) là nguồn gốc khách quan của cảm giác,
ý thức; những cái thể gây nên cảm giác con người khi trực tiếp hay gián tiếp tác động đến
các giác quan của con người.
Thứ trong định nghĩa này, Lê-nin đã giải quyết triệt để vấn đề bản của triết học . Cthể vật
chất cái trước, ý thức cái sau thể hiện câu“ ”;được đem lại cho con người trong cảm giác
con người khả năng nhận thức được thế giới thông qua câu được cảm giác của chúng ta chép
lại, chụp lại, phản ánh”, Lê-nin khẳng định bằng nhiều cách thức khác nhau, bằng nhiều trình độ khác
nhau con người tiến hành nhận thức thế giới.
Ý nghĩa phương pháp luận của định nghĩa vật chất
Định nghĩa này đã bao quát cả 2 mặt của vấn đề bản của TH, thể hiện lập trường DV biện
chứng. Lenin đã giải đáp toàn bộ vấn đề bản của triết học đứng trên lập trường của Chủ nghĩa
duy vật biện chứng.
Coi vật chất trước, ý thức sau, vật chất nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức, ý
thức con người sự phản ánh của thực tại khách quan đó. Con người khả năng nhận thức thế
giới.
Định nghĩa này bác bỏ quan điểm duy tâm về phạm trù vật chất. (Vật chất trước, ý thức có sau,
vật chất nguồn gốc của ý thức).
Định nghĩa này khắc phục tính chất siêu hình, máy móc trong quan niệm về vật chất của CNDV
trước Mac (quan niệm vật chất về các vật thể cụ thể, về nguyên tử, không thấy vật chất trong đời
sống hội tồn tại).
Định nghĩa vật chất của Nin bác bỏ quan điểm của CNDV tầm thường về vật chất (coi ý thức
cũng 1 dạng vật chất)
Định nghĩa này bác bỏ thuyết không thể biết.
Định nghĩa này đã liên kết CNDV biện chứng với CNDV lịch sử thành một thể thống nhất. (vật chất
trong TN, vật chất trong hội đều những dạng cụ thể của vật chất thôi, đều thực tại khách
quan).
Mở đường cổ cho KH đi sâu khám phá ra những kết cấu phức tạp hơn của thế giới vật chất
(Định nghĩa này không quy vật chất về vật thể cụ thể, thế sẽ tạo ra kẻ hở cho CNDT tấn công, cũng
không thể quy vật chất vào 1 khái niệm nào rộng hơn đ định nghĩa nó, không khái niệm nào
rộng hơn khái niệm vật chất. thế chỉ định nghĩa bằng cách đối lập với ý thức để định nghĩa
vạch tính thứ nhất và tính thứ 2, cái trước cái sau).
Định nghĩa vật chất của Lê-nin hai ý nghĩa quan trọng sau đây.
Thứ nhất bằng việc chỉ ra thuộc tính bản nhất, phổ biến nhất thuộc tính tồn tại
khách quan, đã giúp chúng ta phân biệt được sự khác nhau căn bản giữa phạm trù vật
chất với cách phạm trù triết học, khoa học chuyên ngành, từ đó khắc phục được
hạn chế trong các quan niệm của các nhà triết học trước đó, cung cấp căn cứ khoa
học để xác định những thuộc không thuộc về vật chất.
Thứ hai khi khẳng định vật chất thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại phản ánh, Lê-nin đã giải
quyết triệt đ vấn đề bản của triết học đó vật chất cái trước, ý thức cái
sau, vật chất quyết định ý thức. Đó con người thể nhận thức được thế giới
khách quan thông qua sự chép lại, chụp lại, phản ánh của con người đối với thực tại
khách quan. Định nghĩa vật chất của Lê-nin đã tạo sở nền tảng, tiền đề để y dựng
quan niệm duy vật về xã hội,về lịch sử
Mặc định nghĩa vật chất của Lê-nin đã ra đời gần hai thế kỷ nhưng vẫn giữ nguyên thựcgiá trị
tiễn khoa học.
Các tìm kiếm liên quan đến Phân tích định nghĩa đặc điểm cơ bản của vật chất từ đó rút ra ý
nghĩa: ý nghĩa của định nghĩa vật chất, giá trị khoa học của định nghĩa vật chất, nguồn gốc bản
chất của ý thức, định nghĩa vật chất ý thức, vật chất theo nghĩa thông thường, định nghĩa ý thức,
phương thức tồn tại của vật chất, thuộc tính bản của vật chất
Câu 3: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất ý thức theo quan điểm của triết
học Mác Leeenin? Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận của nó?
PHÂN TÍCH MQH GIỮA VẬT CHẤT Ý THỨC:
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, vật chất ý thức mqh biện chứng, trong đó vật chất
quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất
- Vật chất quyết định ý thức:
-Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức nên vật chất cái trước, tính thứ nhất. Ý
thức chỉ hình thức phản ánh của vật chất vào trong bộ óc con người nên ý thức cái sau,
tính thứ hai.
Phải sự vận động của vật chất trong tự nhiên (bộ óc người thế giới khách quan) vật
chất trong hội (lao động ngôn ngữ) thì mới sự ra đời ý thức.
-Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
Dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều phản ánh hiện thực khách quan. Nội dung của ý thức
kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan trong đầu óc con người.
Sự phát triển của hoạt động thực tiễn động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú
độ sâu sắc nội dung của ý thức con người qua các thế hệ.
-Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Bản chất của ý thức phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan, tức thế giới vật chất
được dịch chuyển vào bộ óc con người được cải biên trong đó. Vậy nên vật chất là sở để hình
thành bản chất của ý thức.
-Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với sự biến đổi của vật chất. Vật chất thay đổi
thì ý thức cũng phải thay đổi theo.
Vật chất luôn vận động biến đổi nên con người cũng ngày càng phát triển cả về thể chất lẫn
tinh thần, thì nhiên ý thức cũng phát triển cả về nội dung hình thức phản ánh.
dụ: Tục ngữ câu thực mới vực được đạo”, nghĩa ăn uống đầy đủ tmới sức để
đi theo đạo, hoàn cảnh sẽ quyết định lối suy nghĩ, đời sống vật chất phải được đáp ng thì chúng ta
mới hướng tới đời sống tinh thần. Điều này đã chứng minh cho quan niệm vật chất trước, ý thức
sau, vật chất quyết định ý thức.
Ý thức tính độc lập tương đói tác động trở lại vật chất:
-Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thhiện chỗ ý thức sự phản ánh thế giới vật
chất vào trong đầu óc con người nhưng khi đã ra đời tý thức “đời sống” riêng, không lệ thuộc
máy móc vào vật chất tác động trở lại thế giới vật chất.
-Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con
người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh vật chất để
phục vụ cho cuộc sống con người.
-Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện chỗ chỉ đạo hoạt động, hành động của con người, thể
quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại. Ý thức không
trực tiếp tạo ra hay làm thay đổi thế giới trang bị cho con người tri thức về hiện tượng khách
quan để con người xác định mục tiêu, kế hoạch, hành động nên làm. Sự tác động của ý thức đối với
vật chất diễn ra theo hai hướng:
Tích cực: Khi phản ánh đúng đắn hiện thực, ý thức sẽ động lực thúc đẩy vật chất phát triển.
Tiêu cực: Khi phản ánh sai lạc hiện thực, ý thức thể kìm hãm sự phát triển của vật chất.
-Thứ tư, hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất trong thời đại ngày
nay, khi tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
-Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc rất to lớn nhưng không thể ợt quá tính quy định
của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều kiện khách quan và năng lực chủ quan
của các chủ thể hoạt động.
dụ: nhận thức đúng đắn về thực tế kinh tế đất nước, từ sau Đại hội VI, Đảng ta chuyển nền
kinh tế tự cung, quan liêu sang nền kinh tế thị trường để phát triển đất ớc như hôm nay. Điều này
cho thấy ý thức đã phản ánh được thực tiễn đưa ra mục tiêu, phương hướng để tác động lại vật
chất, tạo sự phát triển cho vật chất.
Ý NGHĨA PPL:th c
-Tôn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính năng động chủ quan. Mọi nhận thức, hành
động, chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ
những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có. Cần phải tránh chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy ý
chí. Không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược sách lược cách mạng.
-Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của nhân tcon người, chống
tưởng, thái độ thụ động, lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo. Điều này đòi hỏi con
người phải coi trọng ý thức, coi trọng vai trò của tri thức, phải tích cực học tập, nghiên cứu khoa học,
đồng thời phải tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý chí, nghị lực của bản thân.
-Phải nhận thức giải quyết đúng đắn các mối quan hệ lợi ích, kết hợp hài hòa lợi ích
nhân với lợi ích tập thể, hội dựa trên thái độ khách quan.
Câu 4: Hãy phân tích nội dung bản của nguyên về mối liên hệ phổ biến. Từ đó rút ra ý
nghĩa phương pháp luận của liên hệ với thực tiễn của bản thân ?
Khái niệm về mối liên hệ phổ biến:
Khi phạm vi bao quát của mối liên hệ không chỉ giới hạn các đối tượng vật chất mà còn mở
rộng sang các dối tượng tinh thần giữa chúng với đối tượng vật chất sinh ra chúng
ĐẶC ĐIỂM CỦA MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN:
- Tính khách quan của mlh phổ biến: cái vốn của bản thân thế giới, bản thân các sự
vật không phụ thuộc vào các yếu tố con người
- Tính phổ biến của mlhpb: bất kỳ sự vật hiện tượng nào bất kỳ không gian nào, thgian
nào cũng mlh với những svat, hutong khác. Ngay trong cùng 1 sự vật, hiện tượng thì
cũng mối lh vs các bộ phận cấu thành
- Tính đa dạng phong phú của mlhpb: sv, hutong khác nhau trong các không gian, thgian
khác nhau thì sẽ sự biểu hiện các mlh khác nhau
Ý NGHĨA PPL MLHPB:
- Nhân thức sự vật trong mlh giữacác yếu tố, c mặt của chính sự vật và trong sự tác
động giữa sự vật đó với các sự vật khác
- Biết phloai từng mlh, xem xét trọng tâm, trọng điểm, làm nổi bật cái bản nhất của
sv hiện tượng.
- Từ việc rút ra mlh bản chất của sv, ta lại đặt mlh bản chất đó trong tổng thể các mlh của
sv, xem xét cụ thtrong từng giai đoạn lsu cụ thể
- Cần tránh phiến diện siêu hình chiết trung ngụy biện
- LIÊN HỆ THỰC TIỄN VỚI BẢN THÂN MLHPB:
Khi nhìn nhận 1 vde cần nhìn đa chiều, đặt trong nhiều mối liên hệ với các sự vật theo
khuynh hướng đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từu kém hoàn thiện
đến hoàn thiện hơn
Câu 5: Hãy phân tích nội dung cặp phạm trù bản chất hiện tượng. Từ đó rút ra ý nghĩa
phương pháp luận của liên hệ thực tiễn của bản thân?
Phạm trù những khái niệm nội hàm rộng lớn, phản ánh những mặt, những thuộc tính, những
mối liên hệ chung, bản nhất của các sự vật hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất định.
Trong triết học, phạm trù được hiểu những khái niệm chung nhất, rộng nhất phản ánh những mặt,
những mối liên hệ bản chất của các sự vật, hiện ợng trong tự nhiên, hội và duy.
Phạm trù bản chất là gì:
Khi tìm hiểu về , chúng ta cần tìm hiểu, nhìn nhận chúng mộtcặp phạm trù bản chất hiện tượng
cách riêng rẽ sau đó tìm ra mối quan hệ biện chứng giữa chúng.
Phạm trù bản chất phạm trù dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất
nhiên, tương đối ổn định bên trong, quy định sự vận động phát triển của sự vật, hiện tượng đó.
dụ: Bản chất của con người tổng hòa của các mối quan hệ của hội. Do đó, một con người
thực sự phải người các mối quan hệ hội. Các mối quan hệ đó rất đa dạng phong phú
chẳng hạn như quan hệ huyết thống, quan hệ bạn bè, quan hệ đồng nghiệp.
Hay, bản chất của giai cấp sản bóc lột giai cấp công nhân người lao động bằng các quy luật
như quy luật giá trị thặng dư, quy luật lợi nhuận,…
Phạm trù hiện tượng gì:
Nếu bản chất cái bên trong quy định sự vận động sự phát triển của sự vật, hiện tượng thì phạm
trù hiện tượng lại được dùng để chỉ cái biểu hiện ra bên ngoài của bản chất.
dụ: Bản chất của hội bản sự mâu thuẫn giữa tính hội lực lượng sản xuất tính chất
chiếm hữu nhân đối với liệu sản xuất. Hay nói cách khác sự mâu thuẫn giữa giai cấp sản
giai cấp sản.
Bản chất đó được thể hiện thông qua các hiện tượng như nạn thất nghiệp, đời sống khổ cực của giai
cấp vo sản người lao động, sự giàu của giai cấp sản.
Quan hệ biện chứng giữa bản chất hiện tượng:
Qua tìm hiểu định nghĩa về , ta thấy hai phạm trù này đều tồncặp phạm trù bản chất hiện tượng
tại khách quan. Mối quan hệ giữa chúng hai mặt vừa thống nhất, vừa đối lập.
Sự thống nhất giữa bản chất hiện tượng:
Qua dụ đã nêu, ta thấy bản chất cái bên trong chỉ được biểu hiện thông qua hiện tượng. Hay nói
cách khác, hiện tượng luôn thể hiện một bản chất nhất định. Như vậy, không bản chất tồn tại
thuần túy tách rời hiện tượng, cũng như không hiện tượng lại không biểu hiện của một bản chất
nào. nin khẳng định: “Bản chất hiện ra, hiện tương tường tính bản chất”.
Chính vậy, bản chất thay đổi thì hiện tượng cũng thay đổi theo. Chúng sẽ luôn tồn tại cùng nhau,
nếu bản chất mất đi thì các hiện tượng do sinh ra cũng mất theo. Ngược lại, khi bản chất mới
xuất hiện thì lại sản sinh ra các hiện tượng phù hợp với nó.
Sự đối lập giữa bản chất hiện tượng:
Sự đối lập của cặp phạm trù bản chất hiện tượng được thể hiện thông qua các yếu tố sau:
+ Bản chất cái chung, cái tất yếu, còn hiện tượng cái riêng biệt phong phú đa dạng.
+ Bản chất cái bên trong, hiện tượng cái n ngoài.
+ Bản chất cái tương đói ổn định, còn hiện tượng là cái thường xuyên biến đổi.
Ý nghĩa ppl:
Qua tìm hiểu cặp phạm trù bản chất hiện tượng ta rút ra được những kết luận sau:
Trong hoạt động nhận thức, để hiểu đầy đủ về sự vật, phải đi sâu tìm bản chất, không dừng hiện
tượng, bởi bản chất cái bên trong hiện tượng.
Khi kết luận về bản chất của sự vật, cần tránh những nhận định chủ quan, tùy tiện. bản chất tồn
tại một cách khách quan ngay trong bản thân sự vật nên chỉ thể tìm ra sự vật bênbản chất
trong sự vật ấy chứ không phải bên ngoài nó.
Bản chất không tồn tại thuần túy ngoài hiện tượng, do đó, tìm bản chất phải thông qua tìm hiểu
các hiện tượng bên ngoài. Cần lưu ý, trong quá trình nhận thức bản chất của sự vật phải xem xét
nhiều hiện tượng khác nhau từ nhiều góc độ khác nhau.
Đặc biệt, để cái tạo sự vật phải thay đổi bản chất của chứ không chỉ thay đổi hiện tượng. Bởi
thay đổi được bản chất thì hiện tượng sẽ thay đổi theo. thể thấy, đây một quá trình cùng
phức tạp, do đó cần kiên nhẫn, không chủ quan, nóng vội.
Như vậy, ta thấy một cặp phạm trù quan trọng, thể hiệncặp phạm trù bản chất và hiện tượng
tính khoa học đúng đắn. Xuất phát từ các đặc điểm của chúng, mỗi chúng ta cần nhìn nhận các
vấn đề một cách khách quan, khoa học thông qua tìm hiểu đầy đủ, toàn diện các hiện tượng bên
ngoài. T đó đưa ra các kết luận đúng đắn về bản chất bên trong. Nhờ vậy giúp chúng ra được
nhận thức một cách đúng đắn nhất về sự vật hiện ợng.
Câu 6: Hãy phân tích nội dung quy luật chuyển a từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến
những thay đổi về chất và ngược lại? Từ đó hãy rút ra ý nghĩa phương pháp luận của
liên hệ thực tiễn của bản thân ?
KHÁI NIỆM:
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng:
- Chất phạm trù triết học dung để chỉ tính quy định khách quan vốn của sự vật, là sự
thống nhất hữu những thuộc tính làm cho sự vật chứ không phải cái khác.
- Lượng phạm trù triết học dung để chỉ tính quy định vốn của sự vật về mặt số lượng,
quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động phát triển cũng như các thuộc tính của
sự vật.
- Lượng chất hia mặt cơ bản của mọi sự vật hiện tượng. Trong bản thân sự vật thì hai
mặt này luôn tác động qua lại, một mức độ nào đó, làm cho sự vật phát triển.
- Khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng trong sự vật chảu đủ làm thay đổi cnaw
bản chất của sự vật được gọi độ. Chỉ trong TH khi sự thay đổi về lượng đạt mức đủ
để dẫn tới sự thay đổi về chất thì độ bị phá vỡ và sự vật phát triển sang một giai đoạn
mới khác hẳn về chất.
- Mọi sự vật trong thế giới chất đều vận động phát triển không ngừng. việc ch lũy về
lượng cũng chính một trong những cách vận động của sự vật. việc thích lũy về lượng
cũng chính một trong những cách vận động của sự vật. thế, nhanh hay chậm,
sớm hay muộn thì việc tích lũy về lượng của sự vật cũng sẽ đến một giới hạn mà đó
làm cho chất của sự vật thay đổi về căn bản. thời điểm đó sự thay đổi về ợng đã
đủ để làm thay đổi về chất của sự vật được gọi điểm nút. Chất của sự vật thay đổi do
lượng của thay đổi trước đó gây ra gọi ớc nhảy.
NỘI DUNG CỦA QUY LUẬT:
Sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, hội cũng như sự phát triển
nhận thức trong duy con người đều đi từ sự thay đổi dần về lượng khi ợt qua giới
hạn về độ tới điểm nút thì gây ra sự thay đổi bản về chất, làm cho sự vật, hiện tượng
phát triển cao hơn hoặc thay thế bằng sự vật , hiện tượng khác. Sở như vậy chất
lượng hai mặt thống nhất hữu nhưng cũng mang trong mình tính mâu thuẫn vốn
trong sự vật. Lượng thì thường xuyên biến đổi còn chất xu thế ổn định. Do đó,
lượng phát triển tới một mức nào đó thì mâu thuẫn với chất cũ, yêu cầu tất yếu phải
thay đổi chất cũ, mra một độ mới cho sự phát triển của lượng. Sự chuyển hóa từ
những sự thay đổi về ợng dẫn đến những sự thay đổi vchất, diễn ra một cách phổ
biến trong tự nhiên, hội và duy.
Quy luật này còn diễn ra theo chiều ngược lại, tức không chỉ thay đổi về ợng dẫn
đến thay đổi về chất sau khi chất mới ra đời, do sự biến đổi về lượng trước đó gây
nên thì lại quay trở lại, tác động đến sự biến đổi của lượng mới. Ảnh hưởng của chất
mới đến lượng thể hiện quy mô, mức độ, nhịp điệu phát triển mới. Nội dung của quy
luật được phát biểu như sau: Mọi sự vật đều sự thống nhất giữa lượng chất, sự
thay đổi dần dần về ợng trong khuôn khổ của độ tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi
về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi của
lượng mới. Quá trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng phát
triển, biến đổi.
Như chúng ta đã biết, quy luật về sự thay đổi của lượng dẫn đến sự thay đổi vchất
ngược lại một trong ba quy luật bản của chnghĩa duy vật biện chứng. Nội dung
của không chỉ giới hạn trong một hay một số lĩnh vực cụ thể bao trùm lên mọi sự
vật, hiện tượng trong tự nhiên, hội duy con người.
Trước hết, ta hãy xét dụ về sự chuyển a thành các dạng tồn tại khác nhau của nước.
Nước (ở đây chỉ xét ớc tinh khiết) xét trên phương diện cấu tạo hóa học một hợp
chất được cấu tạo nên bởi hai nguyên tố hiđro oxi. Nước công thức cấu tạo hóa
học H2O. điều kiện bình thường nước tồn tại dạng lỏng nhưng những điều kiện
đặc biệt, nước còn thtồn tại những dạng khác như rắn, khí hay plasma. Quy luật
lượng chất thể hiện nhất trong quá trình chuyển a giữa những dạng tồn tại khác
nhau của nước. Trước hết, ta hãy xét đồ sau: thể plasma H2O thể khí H2O thể
lỏng H2O thể rắn 273oC 0oC 100oC 550oC to đồ: các trạng thái tồn tại của nước.
dụ này, trong mối quan hệ giữa các trạng thái tồn tại của nước ta thể thấy rằng
chất của nước chính trạng thái tồn tại (rắn, lỏng, khí hay plasma) còn lượng chính là
nhiệt độ nước, vận tốc của các phân tử nước.
thể nhận thấy rõ rằng, trạng thái của nước luôn ơng ứng với nhiệt độ của nó. Khi
nhiệt độ của nước -273oC thì nước thể rắn, nhiệt độ tăng thêm tới -270oC, 250oC
hay thậm chí lên tới -10C thì nước vẫn thể rắn thôi. Cũng trong khoảng nhiệt đ
này, vận tốc của các phân tử nước cũng tăng dần theo nhiệt độ của nước nhưng chưa đủ
để tạo nên sự thay đổi trong trạng thái tồn tại của nước, tức mặc lượng của nước
đã thay đổi nhưng vbản thì chất của vẫn được giữ ổn định. Tuy nhiên, Khi nhiệt
độ của nước tăng lên đến 0oC cao hơn nữa thì trạng thái của nước bắt đầu sự thay
đổi, chuyển từ thể rắn sang thể lỏng, tức về cơ bản, chất của nước đã thay đổi. Quá
trình chuyển hóa giữa c dạng của nước cũng diễn ra tương tự những nhiệt độ khác
nhau.
Như vậy, thể thấy rằng, Khoảng nhiệt độ từ -273oC đến 0oC chính độ của nước.
Đây khoảng giới hạn ợng của nước đựơc ch lũy nhưng không làm thay đổi chất
căn bản của nước. Đến 0oC thì sự thay đổi về chất diễn ra, như vậy, 0oC chính điểm
nút đó, sự tích lũy về lượng của nước đã đđể làm sự thay đổi về chất. Từ
0oC, nước không còn thể rắn nữa chuyển hoàn toàn sang thể lỏng, vậy, đây
chính bước nhảy của ớc trong quá trình chuển từ thể rắn sang thể lỏng. Chất mới
được sinh ra lại tiếp tục quay trở lại tác động đến lượng mới, điều này thể hiện vận tốc
của các phân tử nước trạng thái lỏng được tăng n đáng kể so với trạng thái rắn khi
nhiệt độ của ớc tiếp tục được nâng lên… Tương tự nsự phân tích trên, căn c
vào đồ ta sẽ được những độ, những điểm nút (100oC, 550oC) những chất mới.
Quy luật này của ớc được thể hiện ràng nhất vòng tuần hoàn của nước trong tự
nhiên.
dụ về nước chỉ một trong vàn dụ về quy luật lượng chất trong tự nhiên. Việc
nhận thức đúng đắn quy luật này ý nghĩa rất to lớn, trước hết, giúp con người
được nhận thức đúng đắn đầy đủ về thế giới tự nhiên từ đó đem những nhận
thức được quay trở lại, cải tạo tự nhiên, phục vcho cuộc sống của con người.
Quy luật lượng chất trong quá trình học tập rèn luyện của học sinh, sinh viên:
Biển lớn tri thức nhân loại thật bao la tận. Con người, bên cạnh việc phát triển về thể xác, tinh
thần còn phải luôn tự mình tiếp thu những tri thức của nhân loại, trước hết để phục vụ cho bản
thân. Tri thức tồn tại dưới nhiều hình thức đa dạng phong phú, do vậy con người thể tiếp thu
bằng nhiều cách khác nhau. Quá trình tích lũy tri thức, kinh nghiệm diễn ra mỗi người khác
nhau khác nhau, tùy thuộc vào mục đích, khả năng, điều kiện… của mỗi người. Quá trình tích lũy
tri thức của con người cũng không nằm ngoài quy luật lượng chất. Bởi vì, nhanh hay chậm thì
sớm muộn, sự tích lũy về tri thức cũng sẽ làm con người được sự thay đổi nhất định, tức có sự
biến đổi về chất. Quá trình biến đổi này trong bản thân con người diễn ra cùng đa dạng phong
phú, dụ này chúng tôi chỉ xin giới hạn việc làm quy luật lượng chất thông qua quá trình học
tập rèn luyện của học sinh, sinh viên.
sinh viên, ai cũng phải trải qua quá trình học tập các bậc học phổ thông kéo dài trong suốt 12
năm. Trong 12 năm ngồi trên ghế nhà trường, mỗi học sinh đều được trang bị những kiến thức
bản của các môn học thuộc hai lĩnh vực bản khoa học tự nhiên khoa học hội. Bên cạnh đó,
mỗi học sinh lại tự trang bị cho mình những năng, những hiểu biết riêng về cuộc sống, về tự nhiên,
hội. Quá trình tích lũy về lượng (tri thức) của mỗi học sinh một quá trình dài, đòi hỏi nỗ lực
không chỉ từ phía gia đình, nhà trường còn chính từ sự nỗ lực khả năng của bản thân người
học. Quy luật lượng chất thể hiện chỗ, mỗi học sinh dần tích lũy cho mình một khối lượng kiến
thức nhất định qua từng bài học trên lớp cũng như trong việc giải bài tập nhà. Việc tích lũy kiến
thức sẽ được đánh giá qua các kì, trước hết các thi học sau đó thi tốt nghiệp. Việc tích
lũy đủ lượng kiến thức cần thiết sẽ giúp học sinh vượt qua các thi chuyển sang một giai đoạn
học mới. Như vậy, thể thấy rằng, trong quá trình học tập, rèn luyện của học sinh thì quá trình học
tập tích lũy kiến thức chính độ, các thi chính điểm nút, việc vượt qua các thi chính bước
nhảy làm cho việc tiếp thu tri thức của học sinh bước sang giai đoạn mới, tức sự thay đổi về
chất.
Trong suốt 12 m học phổ thông, mỗi học sinh đều phải tích lũy đủ khối lượng kiến thức vượt
qua những điểm nút khác nhau, nhưng điểm nút quan trọng nhất, đánh dấu bước nhảy vọt về chất
lượng học sinh nào cũng muốn vượt qua đó thi đại học. Vượt qua thi tốt nghiệp cấp 3
đã một điểm nút quan trọng, nhưng vượt qua được thi đại học lại còn điểm nút quan trọng
hơn, việc vượt qua điểm nút này chứng tỏ học sinh đã sự tích lũy đầy đủ về lượng, tạo nên bước
nhảy vọt, mở ra một thời phát triển mới của lượng chất, từ học sinh chuyển thành sinh viên.
Cũng giống như phổ thông, để được tấm bằng đại học thì sinh viên cũng phải tích lũy đủ các học
phần theo quy định. Tuy nhiên, việc tích lũy kiến thức bậc đại học sự khác biệt về chất so với
học phổ thông. sự khác biệt nằm chỗ, sinh viên không chỉ tiếp thu kiến thức một cách đơn thuần
phải tự mình tìm tòi nghiên cứu, dựa trên những năng giảng viên đã cung cấp. Nói cách
khác, bậc đại học, việc học tập của sinh viên khác hẳn về chất so với học sinh phổ thông. Việc
tiếp thu tri thức diễn ra dưới nhiều hình thức đa dạng phong phú, từ bản đến chuyên sâu, từ
đơn giản đến phức tạp, từ ít đến nhiều. Từ sự thay đổi về chất do sự tích lũy lượng trước đó (ở
bậc học phổ thông) tạo nên, chất mới cũng tác động trở lại.Trên nền tảng mới, trình độ, kết cấu cũng
như quy nhận thức của sinh viên cũng thay đổi, tiếp tục hướng sinh viên lên tầm tri thức cao
hơn. Cũng giống như bậc học phổ thông, quá trình tích lũy các học phần của sinh viên chính độ,
các thi chính điểm nút việc vượt qua các thi chính bước nhảy, trong đó bước nhảy quan
trọng nhất chính thi tốt nghiệp.
Vượt qua thi tốt nghiệp lại đưa sinh viên chuyển sang một giai đoạn mới, khác về chất so với giai
đoạn trước. Quá trình đó cứ liên tục tiếp diễn, tạo nên sự vận động phát triển không ngừng ngay
trong chính bản thân con người, tạo nên động lực không nhỏ cho sự phát triển của hội. Việc nhận
thức quy luật lượng chất trong quá trình học tập của học sinh sinh viên ý nghĩa rất to lớn trong
thực tiễn, không chỉ với bản thân người học còn rất có ý nghĩa với công tác quản đào tạo.
Thực tế tong nhiều năm qua, giáo dục nước ta đã mắc phải nhiều sai lầm trong duy quản cũng
như trong hoạt động đào tạo thực tiễn.
Việc chạy theo bệnh thành tích chính thực tế đáng báo động của ngành giáo dục bởi mặc sự
tích lũy về lượng của học sinh chưa đủ nhưng lại vẫn được “tạo điều kiện” để thực hiện “thành
công” bước nhảy, tức không học vẫn đỗ, không học nhưng vẫn bằng. Kết quả trong nhiều
năm liền, giáo dục nước ta đã cho ra những lớp người không “lượng” cũng chẳng “chất”.
Xuất phát từ việc nhận thức một cách đúng đắn quy luật trên cho phép chúng ta thực hiện những cải
cách quan trọng trong giáo dục. Tiêu biểu việc chống lại căn bệnh thành tích trong giáo dục vẫn
tồn tại hàng thập kỉ qua. Bên cạnh đó việc thay đổi phương giáo dục bậc phổ thông đào tạo
đại học. Việc chuyển từ đào tạo niên chế sang đào tạo tín chỉ cho phép người học được học vượt
tiến độ chính việc áp dụng đúng đắn quy luật lượng chất trong duy con người.
Câu 7: Thực tiễn gì? Phân tích vai trò giữa thực tiễn đối với nhận thức. Từ đó rút ra ý nghĩa
phương pháp luận giữa liên hệ thực tiễn của bản thân?
THỰC TIỄN: toàn bộ hoạt động nhận thức,cản tính mục đích, tính lịch sử, hội của
con người nhằm cải thiện tự nhiên hội
VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC:
- Thực tiễn sở, động lực mục đích của nhận thức chính con người nhu cầu
tất yếu khách quan phải giải thích thế giới nên con người tất yếu phải tác động vào các
sự vật, hiện ợng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Sự tác động đó làm cho các sự
vật, hiện tượng bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hquan hệ khác nhau giữa
chúng, đem lại những tài liệu cho nhận thức, giúp cho nhận thức nắm bắt được bản
chất, các quy luật n động phát triển của thế giới. trên sở đó hình thành nên các
thuyết khoa học.
- Thực tiễn tiêu chuẩn của tính chất chân lý, nghĩa thực tiễn thước đo giá trcủa
những tri thức đã đạt được trong nhận thức. đồng thời, thực tiễn không ngừng phát
triển hoàn thiện nhận thức
Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA THỰC TIỄN:
- Trong quá trình nhận thức phải luôn thấy vai trò của hoạt động thực tiễn, không được
xa rời thực tiễn. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí,
giáo điều, máy c,… Ngược lại, nếu tuyệt đối a vai trò cả thực tiễn sẽ rơi vào chủ
nghĩa thực dụng kinh nghiệm chủ nghĩa.
- Trong học tập nghiên cứu khoa học phải kết hợp với hoạt động sản xuất thực tiễn
theo phương châm học đi đôi với hành” thì mới thạo ra kết quả tốt nhất. luận mà
không thực tiễn làm cơ sở tiêu chuẩn để xác định tính chân của thì chỉ
luận suông. Ngược lại, thực tiễn không luận khoa học, cách mạng soi sáng thì
nhất định sẽ biến thành thực tiễn quáng
Câu 8: Phân tích nguồn gốc, bản chất đặc trưng của nhà nước. Từ đó liên hệ với việc xây
dựng nhà nước phát quyền của hội nhà nước ta hiện nay?
NGUỒN GỐC CỦA NNƯỚC: Lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn đến sự ra đời chế độ
hữu từ đó hội phân chia thành các giai cấp đối kháng cuộc đấu tranh giai cấp không
thể điều hòa được xuất hiện. Điều đó dẫn đến nguy các giai cấp không thể điều hòa được
xuất hiện. Điều đó dẫn đến nguy các giai cấp chẳng những tiêu diệt lẫn nhau còn tiêu
diệt luôn cả hội. Để thảm họa đó không diễn ra, một quan quyền lực đặc biệt đã ra đời.
Đó nhà nước.
BẢN CHẤT CỦA NHÀ ỚC: một tổ chức chính trị của một giai cấp thống trvề mặt kinh tế
đàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác
ĐẶC TRƯNG CỦA NHÀ NƯỚC: - Quản dân trên một vùng lãnh thổ nhất định
Khá với các tổ chức hội thị tộc xưa, nhà ớc phân chia dân không theo quan hệ huyết
thống theo lãnh thổ quốc gia. Quyền lực của nhà nước tác động đến mọi bộ phận dân
trong lãnh thổ quốc gia, bất kể người dân thuộc quan hệ nào. Việc đi từ lãnh thổ này đến
lãnh thổ khác phải thông qua xuất nhập cảnh.
- hệ thống các quan quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế
Nhà nước quản hội dựa vào pháp luật. Bằng hệ thống luật pháp nhà nước “cưỡng
bức” mọi nhân, tổ chức trong hội phapr thực hiên các chính sách lợi cho giai cấp
thống trị.
- hệ thống thuế khóa: để duy trì được giai cấp thống trị phải đảm bảo hoặt động của
bộ máy nhà nước. Theo leenin: muốn duy trì được quyền lực xh đặc biệt, đặt lên trên
xh thì phải thuế khóa quốc trái”. Các nước khác nhau các chế độ thuế khóa khác
nhau.
LIÊN HỆ VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN HỘI CHỦ NGHĨA NƯỚC TA HIỆN
NAY:
- Cần cách hành chính, đổi mới thchế, chế
- Nâng cao chất lượng hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bmáy nhà nước.
- Thực hiện chính phủ liêm chính, kiến tạo, năng động.
- Thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng
Câu 9: Phân tích quan điểm của triết học Mác leenin về con người bản chất con người >
Theo anh chị chúng ta cần làm để con người phát triển toàn diện?
CON NGƯỜI: Sinh vật nh hội cao nhất của thế giới tự nhiên lịch sử hội
chủ thể của lịch sử
Sáng tạo nên tất cả thành tựu của văn minh văn hóa
BẢN CHẤT CỦA CON NGƯỜI: - thực thể sinh học hội
Mặt sinh vật (nền tảng vật chất tự nhiên):
thể cùng với những nhu cầu thể
Quy luật sinh hoạt chi phối của thể con người
Mặt hội (vai trò quy định bản chất của con người):
tổng hòa những quan hệ xã hội”
Những hoạt động hội
Đời sống tinh thần của con người
Hai mặt này mqh khắng khít không thể tách rời nhau
- Vừa chủ thể lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử
Trong quá trình cải biến giới tự nhiên, con người cũng m nên lịch sử của chính mình.
Con người sản phẩm của lịch sử, đồng thời chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản
thân con người. Bản chất của con người không phải một hệ thống đóng kín, hệ
thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người
- tổng hòa của các mối quan hệ hội
Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trông một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định.
Trong điều kiện lịch sử cụ thđó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra
những giát trị vật chất tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và duy trí tuệ.
Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ hội, con người mới bộc lộ toàn bộ bản hcatas
hội của mình.
Những việc cần làm cho con người phát triển toàn diện:
- Tạo ra một hệ thống chính sách, biện pháp chế vận hành đảm bảo sự phối hợp
đúng đắn lợi ích nhân lợi ích hội
- Nâng cao chất lượng cuộc sống con người, nâng cao trình độ năng lực lao động, nâng
cao tay nghề
- Tạo ra môi trường ng bằng, dân chủ, quan tâm đến lợi ích của từng người lợi của
cộng đồng

Preview text:

CÂU HỎI ÔN TẬP THI CUỐI KÌ MÔN TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN
Thi 2 câu – Thời gian: 70p  Câu 1:
Triết học là gì? Phân tích những nội dung cơ bản của vấn đề cơ bản triết học. Từ đó
xác định vai trò của triết học Mác Leenin trong đời sống xã hội?
Triết học là một bộ môn nghiên cứu về những vấn đề chung và cơ bản của con người, thế giới
quan và vị trí của con người trong thế giới quan, những vấn đề có kết nối với chân lý và sự tồn
tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức và ngôn ngữ. Nguồn gốc về triết học gồn nhận thức và xã
hội. Về nhận thức, nhận thức thế giới là nhu cầu tự nhiên và khách quan của con người. Nguồn
gốc nhận thức của triết học là nói đến sự hình thành, phát triển của tư duy trừu tượng, của năng
lực khái quát trong nhận thức của con người. Về xã hội, Triết học không ra đời trong xã hội
mông muội mà triết học ra đời khi nền sản xuất xã hội đã có sự phân công lao động và loài
người đã xuất hiện tầng lớp giai cấp. Chính vì vậy, có rất nhiều định nghĩa về triết học, nhưng
các định nghĩa thường bao hàm những nội dung như sau: triết học là một hình thái ý thức xã hội,
và khách thể khám phá của triết học là thế giới.

Vấn đề cơ bản của triết học là những vấn đề xung quanh mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại giữa
vật chất và ý thức. Lý do nó là những vấn đề cơ bảnvì việc giải quyết nó sẽ quyết định được cơ
sở, tiền đề để giải quyết những vấn đề của triết học khác. Điều này đã được chứng minh rất rõ
rang trong lịch sử phát triên lâu dài và phức tạp của triết học. Vấn đề cơ bản của triết học bao
gồm hai mặt. Mặt thứ nhất (bản thể luận), Giữa vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào
quyết định cái nào. Mặt thứ hai (nhận thức luận), con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
 Câu 2:
Hãy nêu và phân tích nội dung định nghĩa vật chất của Leenin. Từ đó rút ra ý nghĩa
phương pháp luận của nó?
Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, được đem lại cho con người
trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Theo định nghĩa của Lênin về vật chất:
– Cần phân biệt “vật chất” với tư cách là phạm trù triết học với những dạng biểu hiện cụ thể của vật
chất. Vật chất với tư cách là phạm trù triết học là kết quả của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa
những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của các sự vật, hiện tượng nên nó phản ánh cái chung,
vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi; còn tất cả những sự vật, những hiện tượng là những
dạng biểu hiện cụ thể của vật chất nên nó có quá trình phát sinh, phát triển, chuyển hóa. Vì vậy,
không thể đồng nhất vật chất với một hay một số dạng biểu hiện cụ thể của vật chất.
– Đặc trưng quan trọng nhất của vật chất là thuộc tính khách quan tức là thuộc tính tồn tại ngoài ý
thức, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức của con người, cho dù con người có nhận thức được hay
không nhận thức được nó.
– Vật chất (dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó) là cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi nó
trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người; ý thức của con người là sự
phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái được ý thức phản ánh.
Định nghĩa của Lênin về vật chất có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của chủ nghĩa duy vật và nhận thức khoa học:
– Bằng việc tìm ra thuộc tính quan trọng nhất của vật chất là thuộc tính khách quan, Lênin đã phân
biệt sự khác nhau giữa vật chất và vật thể, khắc phục được hạn chế trong quan niệm về
vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ; cung cấp căn cứ nhận thức khoa học để xác định những gì thuộc
về vật chất; tạo lập cơ sở lý luận cho việc xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử, khắc phục được
những hạn chế duy tâm trong quan niệm về lịch sử của chủ nghĩa duy vật trước Mác.
– Khi khẳng định vật chất là thực tại khách quan “được đem lại cho con người trong cảm giác” và
“được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lai, phản ánh”, Lênin không những đã khẳng định tính
thứ nhất của vật chất, tính thứ hai của ý thức theo quan điểm duy vật mà còn khẳng định khả năng
con người có thể nhận thức được thực tại khách quan thông qua sự “chép lại, chụp lại, phản ánh”
của con người đối với thực tại khách quan.
Phân tích định nghĩa vật chất
Theo định nghĩa vật chất của Lê-nin, thì trước tiên cần phải phân biệt vật chất với tư cách là một
phạm trù triết học với “vật chất là toàn bộ thực tại khách quan”. Nó khái quát những thuộc tính cơ
bản nhất, phổ biến nhất của mọi dạng tồn tại của vật chất với khái niệm vật chất được sử dụng trong
các khoa học chuyên ngành, hay nói cách khác là khác dùng để chỉ những dạng vật chất cụ thể như:
nước lửa không khí, nguyên tử, thịt bò…
Thứ hai thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi dạng vật chất chính là thuộc tính tồn tại
khách quan, nghĩa là sự tồn tại vận động và phát triển của nó không lệ thuộc vào tâm tư, nguyện
vọng, ý chí và nhận thức của con người.
Thứ ba vật chất ( dưới những hình thức tồn tại cụ thể của nó) là nguồn gốc khách quan của cảm giác,
ý thức; những cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến
các giác quan của con người.
Thứ tư trong định nghĩa này, Lê-nin đã giải quyết triệt để vấn đề cơ bản của triết học . Cụ thể là vật
chất là cái có trước, ý thức là cái có sau thể hiện ở câu“ được đem lại cho con người trong cảm giác”;
con người có khả năng nhận thức được thế giới thông qua câu “ được cảm giác của chúng ta chép
lại, chụp lại, phản ánh
”, Lê-nin khẳng định bằng nhiều cách thức khác nhau, bằng nhiều trình độ khác
nhau con người tiến hành nhận thức thế giới.
Ý nghĩa phương pháp luận của định nghĩa vật chất
Định nghĩa này đã bao quát cả 2 mặt của vấn đề cơ bản của TH, thể hiện rõ lập trường DV biện
chứng. Lenin đã giải đáp toàn bộ vấn đề cơ bản của triết học đứng trên lập trường của Chủ nghĩa duy vật biện chứng.
– Coi vật chất là có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức, ý
thức con người là sự phản ánh của thực tại khách quan đó. Con người có khả năng nhận thức thế giới.
– Định nghĩa này bác bỏ quan điểm duy tâm về phạm trù vật chất. (Vật chất có trước, ý thức có sau,
vật chất là nguồn gốc của ý thức).
– Định nghĩa này khắc phục tính chất siêu hình, máy móc trong quan niệm về vật chất của CNDV
trước Mac (quan niệm vật chất về các vật thể cụ thể, về nguyên tử, không thấy vật chất trong đời
sống xã hội là tồn tại).
– Định nghĩa vật chất của Lê Nin bác bỏ quan điểm của CNDV tầm thường về vật chất (coi ý thức
cũng là 1 dạng vật chất)
– Định nghĩa này bác bỏ thuyết không thể biết.
– Định nghĩa này đã liên kết CNDV biện chứng với CNDV lịch sử thành một thể thống nhất. (vật chất
trong TN, vật chất trong xã hội đều là những dạng cụ thể của vật chất mà thôi, đều là thực tại khách quan).
– Mở đường cổ vũ cho KH đi sâu khám phá ra những kết cấu phức tạp hơn của thế giới vật chất
(Định nghĩa này không quy vật chất về vật thể cụ thể, vì thế sẽ tạo ra kẻ hở cho CNDT tấn công, cũng
không thể quy vật chất vào 1 khái niệm nào rộng hơn để định nghĩa nó, vì không có khái niệm nào
rộng hơn khái niệm vật chất. Vì thế chỉ định nghĩa nó bằng cách đối lập nó với ý thức để định nghĩa
vạch rõ tính thứ nhất và tính thứ 2, cái có trước và cái có sau).
Định nghĩa vật chất của Lê-nin có hai ý nghĩa quan trọng sau đây. 
Thứ nhất bằng việc chỉ ra thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất là thuộc tính tồn tại
khách quan, đã giúp chúng ta phân biệt được sự khác nhau căn bản giữa phạm trù vật
chất với tư cách là phạm trù triết học, khoa học chuyên ngành, từ đó khắc phục được
hạn chế trong các quan niệm của các nhà triết học trước đó, cung cấp căn cứ khoa
học để xác định những gì thuộc và không thuộc về vật chất. 
Thứ hai khi khẳng định vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại phản ánh, Lê-nin đã giải
quyết triệt để vấn đề cơ bản của triết học đó là vật chất là cái có trước, ý thức là cái
có sau, vật chất quyết định ý thức. Đó là con người có thể nhận thức được thế giới
khách quan thông qua sự chép lại, chụp lại, phản ánh của con người đối với thực tại
khách quan. Định nghĩa vật chất của Lê-nin đã tạo cơ sở nền tảng, tiền đề để xây dựng
quan niệm duy vật về xã hội,về lịch sử
Mặc dù định nghĩa vật chất của Lê-nin đã ra đời gần hai thế kỷ nhưng nó vẫn giữ nguyên giá trị thực tiễn và khoa học.
Các tìm kiếm liên quan đến Phân tích định nghĩa đặc điểm cơ bản của vật chất và từ đó rút ra ý
nghĩa: ý nghĩa của định nghĩa vật chất, giá trị khoa học của định nghĩa vật chất, nguồn gốc và bản
chất của ý thức, định nghĩa vật chất và ý thức, vật chất theo nghĩa thông thường, định nghĩa ý thức,
phương thức tồn tại của vật chất, thuộc tính cơ bản của vật chất  Câu 3:
Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức theo quan điểm của triết
học Mác Leeenin? Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận của nó?
PHÂN TÍCH MQH GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC:
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, vật chất và ý thức có mqh biện chứng, trong đó vật chất
quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất -
Vật chất quyết định ý thức:
 -Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
  Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức nên vật chất là cái có trước, là tính thứ nhất. Ý
thức chỉ là hình thức phản ánh của vật chất vào trong bộ óc con người nên ý thức là cái có sau, là tính thứ hai.
  Phải có sự vận động của vật chất trong tự nhiên (bộ óc người và thế giới khách quan) và vật
chất trong xã hội (lao động và ngôn ngữ) thì mới có sự ra đời ý thức.
 -Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
  Dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều là phản ánh hiện thực khách quan. Nội dung của ý thức
là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan trong đầu óc con người.
  Sự phát triển của hoạt động thực tiễn là động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú và
độ sâu sắc nội dung của ý thức con người qua các thế hệ.
 -Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
  Bản chất của ý thức là phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan, tức là thế giới vật chất
được dịch chuyển vào bộ óc con người và được cải biên trong đó. Vậy nên vật chất là cơ sở để hình
thành bản chất của ý thức.
 -Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
  Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với sự biến đổi của vật chất. Vật chất thay đổi
thì ý thức cũng phải thay đổi theo.
  Vật chất luôn vận động và biến đổi nên con người cũng ngày càng phát triển cả về thể chất lẫn
tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức cũng phát triển cả về nội dung và hình thức phản ánh.
 Ví dụ: Tục ngữ có câu “có thực mới vực được đạo”, nghĩa là có ăn uống đầy đủ thì mới có sức để
đi theo đạo, hoàn cảnh sẽ quyết định lối suy nghĩ, đời sống vật chất phải được đáp ứng thì chúng ta
mới hướng tới đời sống tinh thần. Điều này đã chứng minh cho quan niệm vật chất có trước, ý thức
có sau, vật chất quyết định ý thức.
Ý thức có tính độc lập tương đói và tác động trở lại vật chất:
 -Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ ý thức là sự phản ánh thế giới vật
chất vào trong đầu óc con người nhưng khi đã ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng, không lệ thuộc
máy móc vào vật chất mà tác động trở lại thế giới vật chất.
 -Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con
người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh vật chất để
phục vụ cho cuộc sống con người.
 -Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động, hành động của con người, nó có thể
quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại. Ý thức không
trực tiếp tạo ra hay làm thay đổi thế giới mà nó trang bị cho con người tri thức về hiện tượng khách
quan để con người xác định mục tiêu, kế hoạch, hành động nên làm. Sự tác động của ý thức đối với
vật chất diễn ra theo hai hướng:
  Tích cực: Khi phản ánh đúng đắn hiện thực, ý thức sẽ là động lực thúc đẩy vật chất phát triển.
  Tiêu cực: Khi phản ánh sai lạc hiện thực, ý thức có thể kìm hãm sự phát triển của vật chất.
 -Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là trong thời đại ngày
nay, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
 -Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn nhưng không thể vượt quá tính quy định
của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều kiện khách quan và năng lực chủ quan
của các chủ thể hoạt động.
 Ví dụ: Có nhận thức đúng đắn về thực tế kinh tế đất nước, từ sau Đại hội VI, Đảng ta chuyển nền
kinh tế tự cung, quan liêu sang nền kinh tế thị trường để phát triển đất nước như hôm nay. Điều này
cho thấy ý thức đã phản ánh được thực tiễn và đưa ra mục tiêu, phương hướng để tác động lại vật
chất, tạo sự phát triển cho vật chất. Ý NGHĨA PPL:thức
 -Tôn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính năng động chủ quan. Mọi nhận thức, hành
động, chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ
những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có. Cần phải tránh chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy ý
chí. Không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng.
 -Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của nhân tố con người, chống
tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo. Điều này đòi hỏi con
người phải coi trọng ý thức, coi trọng vai trò của tri thức, phải tích cực học tập, nghiên cứu khoa học,
đồng thời phải tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý chí, nghị lực của bản thân.
 -Phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ lợi ích, kết hợp hài hòa lợi ích cá
nhân với lợi ích tập thể, xã hội dựa trên thái độ khách quan.  Câu 4:
Hãy phân tích nội dung cơ bản của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Từ đó rút ra ý
nghĩa phương pháp luận của nó và liên hệ với thực tiễn của bản thân ?
Khái niệm về mối liên hệ phổ biến:
Khi phạm vi bao quát của mối liên hệ không chỉ giới hạn ở các đối tượng vật chất mà còn mở
rộng sang các dối tượng tinh thần và giữa chúng với đối tượng vật chất sinh ra chúng
ĐẶC ĐIỂM CỦA MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN: -
Tính khách quan của mlh phổ biến: là cái vốn có của bản thân thế giới, bản thân các sự
vật không phụ thuộc vào các yếu tố con người -
Tính phổ biến của mlhpb: bất kỳ sự vật hiện tượng nào ở bất kỳ không gian nào, thgian
nào cũng có mlh với những svat, hutong khác. Ngay trong cùng 1 sự vật, hiện tượng thì
cũng có mối lh vs các bộ phận cấu thành -
Tính đa dạng phong phú của mlhpb: sv, hutong khác nhau ở trong các không gian, thgian
khác nhau thì sẽ có sự biểu hiện các mlh khác nhau Ý NGHĨA PPL MLHPB: -
Nhân thức sự vật trong mlh giữacác yếu tố, các mặt của chính sự vật và trong sự tác
động giữa sự vật đó với các sự vật khác -
Biết phloai từng mlh, xem xét có trọng tâm, trọng điểm, làm nổi bật cái cơ bản nhất của sv hiện tượng. -
Từ việc rút ra mlh bản chất của sv, ta lại đặt mlh bản chất đó trong tổng thể các mlh của
sv, xem xét cụ thể trong từng giai đoạn lsu cụ thể -
Cần tránh phiến diện siêu hình và chiết trung ngụy biện -
LIÊN HỆ THỰC TIỄN VỚI BẢN THÂN MLHPB:
Khi nhìn nhận 1 vde cần nhìn đa chiều, đặt nó trong nhiều mối liên hệ với các sự vật theo
khuynh hướng đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từu kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn  Câu 5:
Hãy phân tích nội dung cặp phạm trù bản chất và hiện tượng. Từ đó rút ra ý nghĩa
phương pháp luận của nó và liên hệ thực tiễn của bản thân?
Phạm trù là những khái niệm có nội hàm rộng lớn, phản ánh những mặt, những thuộc tính, những
mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất định.
Trong triết học, phạm trù được hiểu là những khái niệm chung nhất, rộng nhất phản ánh những mặt,
những mối liên hệ bản chất của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Phạm trù bản chất là gì:
Khi tìm hiểu về cặp phạm trù bản chất và hiện tượng, chúng ta cần tìm hiểu, nhìn nhận chúng một
cách riêng rẽ sau đó tìm ra mối quan hệ biện chứng giữa chúng.
Phạm trù bản chất là phạm trù dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất
nhiên, tương đối ổn định ở bên trong, quy định sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng đó.
Ví dụ: Bản chất của con người là tổng hòa của các mối quan hệ của xã hội. Do đó, một con người
thực sự phải là người có các mối quan hệ xã hội. Các mối quan hệ đó rất đa dạng và phong phú
chẳng hạn như quan hệ huyết thống, quan hệ bạn bè, quan hệ đồng nghiệp.
Hay, bản chất của giai cấp tư sản là bóc lột giai cấp công nhân và người lao động bằng các quy luật
như quy luật giá trị thặng dư, quy luật lợi nhuận,…
Phạm trù hiện tượng là gì:
Nếu bản chất là cái bên trong quy định sự vận động và sự phát triển của sự vật, hiện tượng thì phạm
trù hiện tượng lại được dùng để chỉ cái biểu hiện ra bên ngoài của bản chất.
Ví dụ: Bản chất của xã hội tư bản là sự mâu thuẫn giữa tính xã hội lực lượng sản xuất và tính chất
chiếm hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất. Hay nói cách khác là sự mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản.
Bản chất đó được thể hiện thông qua các hiện tượng như nạn thất nghiệp, đời sống khổ cực của giai
cấp vo sản và người lao động, sự giàu có của giai cấp tư sản.
Quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng:
Qua tìm hiểu định nghĩa về cặp phạm trù bản chất và hiện tượng, ta thấy hai phạm trù này đều tồn
tại khách quan. Mối quan hệ giữa chúng là hai mặt vừa thống nhất, vừa đối lập.
– Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
Qua ví dụ đã nêu, ta thấy bản chất là cái bên trong chỉ được biểu hiện thông qua hiện tượng. Hay nói
cách khác, hiện tượng luôn thể hiện một bản chất nhất định. Như vậy, không có bản chất tồn tại
thuần túy tách rời hiện tượng, cũng như không có hiện tượng lại không biểu hiện của một bản chất
nào. Lê – nin khẳng định: “Bản chất hiện ra, hiện tương tường là có tính bản chất”.
Chính vì vậy, bản chất thay đổi thì hiện tượng cũng thay đổi theo. Chúng sẽ luôn tồn tại cùng nhau,
nếu bản chất cũ mất đi thì các hiện tượng do nó sinh ra cũng mất theo. Ngược lại, khi bản chất mới
xuất hiện thì nó lại sản sinh ra các hiện tượng phù hợp với nó.
– Sự đối lập giữa bản chất và hiện tượng:
Sự đối lập của cặp phạm trù bản chất và hiện tượng được thể hiện thông qua các yếu tố sau:
+ Bản chất là cái chung, cái tất yếu, còn hiện tượng là cái riêng biệt phong phú và đa dạng.
+ Bản chất là cái bên trong, hiện tượng là cái bên ngoài.
+ Bản chất là cái tương đói ổn định, còn hiện tượng là cái thường xuyên biến đổi. Ý nghĩa ppl:
Qua tìm hiểu cặp phạm trù bản chất và hiện tượng ta rút ra được những kết luận sau:
– Trong hoạt động nhận thức, để hiểu đầy đủ về sự vật, phải đi sâu tìm bản chất, không dừng ở hiện
tượng, bởi bản chất là cái ở bên trong hiện tượng.
– Khi kết luận về bản chất của sự vật, cần tránh những nhận định chủ quan, tùy tiện. Vì bản chất tồn
tại một cách khách quan ở ngay trong bản thân sự vật nên chỉ có thể tìm ra bản chất sự vật ở bên
trong sự vật ấy chứ không phải ở bên ngoài nó.
– Bản chất không tồn tại thuần túy ngoài hiện tượng, do đó, tìm bản chất phải thông qua tìm hiểu
các hiện tượng bên ngoài. Cần lưu ý, trong quá trình nhận thức bản chất của sự vật phải xem xét
nhiều hiện tượng khác nhau từ nhiều góc độ khác nhau.
– Đặc biệt, để cái tạo sự vật phải thay đổi bản chất của nó chứ không chỉ thay đổi hiện tượng. Bởi
thay đổi được bản chất thì hiện tượng sẽ thay đổi theo. Có thể thấy, đây là một quá trình vô cùng
phức tạp, do đó cần kiên nhẫn, không chủ quan, nóng vội.
Như vậy, ta thấy cặp phạm trù bản chất và hiện tượng là một cặp phạm trù quan trọng, thể hiện
tính khoa học và đúng đắn. Xuất phát từ các đặc điểm của chúng, mỗi chúng ta cần nhìn nhận các
vấn đề một cách khách quan, khoa học thông qua tìm hiểu đầy đủ, toàn diện các hiện tượng bên
ngoài. Từ đó đưa ra các kết luận đúng đắn về bản chất bên trong. Nhờ vậy giúp chúng ra có được
nhận thức một cách đúng đắn nhất về sự vật hiện tượng.  Câu 6:
Hãy phân tích nội dung quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến
những thay đổi về chất và ngược lại? Từ đó hãy rút ra ý nghĩa phương pháp luận của nó và
liên hệ thực tiễn của bản thân ? KHÁI NIỆM:
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng: -
Chất là phạm trù triết học dung để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, là sự
thống nhất hữu cơ những thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không phải là cái khác. -
Lượng là phạm trù triết học dung để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng,
quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật. -
Lượng và chất là hia mặt cơ bản của mọi sự vật hiện tượng. Trong bản thân sự vật thì hai
mặt này luôn có tác động qua lại, ở một mức độ nào đó, làm cho sự vật phát triển. -
Khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng trong sự vật chảu đủ làm thay đổi cnaw
bản chất của sự vật được gọi là độ. Chỉ trong TH khi sự thay đổi về lượng đạt ở mức đủ
để dẫn tới sự thay đổi về chất thì độ bị phá vỡ và sự vật phát triển sang một giai đoạn mới khác hẳn về chất. -
Mọi sự vật trong thế giới chất đều vận động và phát triển không ngừng. việc tích lũy về
lượng cũng chính là một trong những cách vận động của sự vật. việc thích lũy về lượng
cũng chính là một trong những cách vận động của sự vật. vì thế, dù nhanh hay chậm,
sớm hay muộn thì việc tích lũy về lượng của sự vật cũng sẽ đến một giới hạn mà ở đó
làm cho chất của sự vật thay đổi về căn bản. thời điểm mà ở đó sự thay đổi về lượng đã
đủ để làm thay đổi về chất của sự vật được gọi là điểm nút. Chất của sự vật thay đổi do
lượng của nó thay đổi trước đó gây ra gọi là bước nhảy. NỘI DUNG CỦA QUY LUẬT:
Sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội cũng như sự phát triển
nhận thức trong tư duy con người đều đi từ sự thay đổi dần về lượng khi vượt qua giới
hạn về độ tới điểm nút thì gây ra sự thay đổi cơ bản về chất, làm cho sự vật, hiện tượng
phát triển cao hơn hoặc thay thế bằng sự vật , hiện tượng khác. Sở dĩ như vậy là vì chất
và lượng là hai mặt thống nhất hữu cơ nhưng cũng mang trong mình tính mâu thuẫn vốn
có trong sự vật. Lượng thì thường xuyên biến đổi còn chất có xu thế ổn định. Do đó,
lượng phát triển tới một mức nào đó thì mâu thuẫn với chất cũ, yêu cầu tất yếu là phải
thay đổi chất cũ, mở ra một độ mới cho sự phát triển của lượng. Sự chuyển hóa từ
những sự thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay đổi về chất, diễn ra một cách phổ
biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Quy luật này còn diễn ra theo chiều ngược lại, tức là không chỉ thay đổi về lượng dẫn
đến thay đổi về chất mà sau khi chất mới ra đời, do sự biến đổi về lượng trước đó gây
nên thì nó lại quay trở lại, tác động đến sự biến đổi của lượng mới. Ảnh hưởng của chất
mới đến lượng thể hiện ở quy mô, mức độ, nhịp điệu phát triển mới. Nội dung của quy
luật được phát biểu như sau: Mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự
thay đổi dần dần về lượng trong khuôn khổ của độ tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi
về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi của
lượng mới. Quá trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng phát triển, biến đổi.
Như chúng ta đã biết, quy luật về sự thay đổi của lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và
ngược lại là một trong ba quy luật cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Nội dung
của nó không chỉ giới hạn trong một hay một số lĩnh vực cụ thể mà bao trùm lên mọi sự
vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy con người.
Trước hết, ta hãy xét ví dụ về sự chuyển hóa thành các dạng tồn tại khác nhau của nước.
Nước (ở đây chỉ xét nước tinh khiết) xét trên phương diện cấu tạo hóa học là một hợp
chất được cấu tạo nên bởi hai nguyên tố là hiđro và oxi. Nước có công thức cấu tạo hóa
học là H2O. Ở điều kiện bình thường nước tồn tại ở dạng lỏng nhưng ở những điều kiện
đặc biệt, nước còn có thể tồn tại ở những dạng khác như rắn, khí hay plasma. Quy luật
lượng chất thể hiện rõ nhất trong quá trình chuyển hóa giữa những dạng tồn tại khác
nhau của nước. Trước hết, ta hãy xét sơ đồ sau: thể plasma H2O ở thể khí H2O ở thể
lỏng H2O ở thể rắn – 273oC 0oC 100oC 550oC to Sơ đồ: các trạng thái tồn tại của nước.
Ở ví dụ này, trong mối quan hệ giữa các trạng thái tồn tại của nước ta có thể thấy rằng
chất của nước chính là trạng thái tồn tại (rắn, lỏng, khí hay plasma) còn lượng chính là
nhiệt độ nước, vận tốc của các phân tử nước.
Có thể nhận thấy rõ rằng, trạng thái của nước luôn tương ứng với nhiệt độ của nó. Khi
nhiệt độ của nước ở -273oC thì nước ở thể rắn, nhiệt độ có tăng thêm tới -270oC, 250oC
hay thậm chí lên tới -10C thì nước vẫn ở thể rắn mà thôi. Cũng trong khoảng nhiệt độ
này, vận tốc của các phân tử nước cũng tăng dần theo nhiệt độ của nước nhưng chưa đủ
để tạo nên sự thay đổi trong trạng thái tồn tại của nước, tức là mặc dù lượng của nước
đã thay đổi nhưng về cơ bản thì chất của nó vẫn được giữ ổn định. Tuy nhiên, Khi nhiệt
độ của nước tăng lên đến 0oC và cao hơn nữa thì trạng thái của nước bắt đầu có sự thay
đổi, chuyển từ thể rắn sang thể lỏng, tức là về cơ bản, chất của nước đã thay đổi. Quá
trình chuyển hóa giữa các dạng của nước cũng diễn ra tương tự ở những nhiệt độ khác nhau.
Như vậy, có thể thấy rằng, Khoảng nhiệt độ từ -273oC đến 0oC chính là độ của nước.
Đây là khoảng giới hạn mà lượng của nước đựơc tích lũy nhưng không làm thay đổi chất
căn bản của nước. Đến 0oC thì sự thay đổi về chất diễn ra, như vậy, 0oC chính là điểm
nút mà ở đó, sự tích lũy về lượng của nước đã đủ để làm nó có sự thay đổi về chất. Từ
0oC, nước không còn ở thể rắn nữa mà chuyển hoàn toàn sang thể lỏng, vì vậy, đây
chính là bước nhảy của nước trong quá trình chuển từ thể rắn sang thể lỏng. Chất mới
được sinh ra lại tiếp tục quay trở lại tác động đến lượng mới, điều này thể hiện ở vận tốc
của các phân tử nước ở trạng thái lỏng được tăng lên đáng kể so với trạng thái rắn khi
mà nhiệt độ của nước tiếp tục được nâng lên… Tương tự như sự phân tích trên, căn cứ
vào sơ đồ ta sẽ có được những độ, những điểm nút (100oC, 550oC) và những chất mới.
Quy luật này của nước được thể hiện rõ ràng nhất ở vòng tuần hoàn của nước trong tự nhiên.
Ví dụ về nước chỉ là một trong vô vàn ví dụ về quy luật lượng chất trong tự nhiên. Việc
nhận thức đúng đắn quy luật này có ý nghĩa rất to lớn, trước hết, nó giúp con người có
được nhận thức đúng đắn và đầy đủ về thế giới tự nhiên và từ đó đem những gì nhận
thức được quay trở lại, cải tạo tự nhiên, phục vụ cho cuộc sống của con người.
Quy luật lượng chất trong quá trình học tập và rèn luyện của học sinh, sinh viên:
Biển lớn tri thức nhân loại thật bao la vô tận. Con người, bên cạnh việc phát triển về thể xác, tinh
thần còn phải luôn tự mình tiếp thu những tri thức của nhân loại, trước hết là để phục vụ cho bản
thân. Tri thức tồn tại dưới nhiều hình thức đa dạng và phong phú, do vậy con người có thể tiếp thu
nó bằng nhiều cách khác nhau. Quá trình tích lũy tri thức, kinh nghiệm diễn ra ở mỗi người khác
nhau là khác nhau, tùy thuộc vào mục đích, khả năng, điều kiện… của mỗi người. Quá trình tích lũy
tri thức của con người cũng không nằm ngoài quy luật lượng chất. Bởi vì, dù nhanh hay chậm thì
sớm muộn, sự tích lũy về tri thức cũng sẽ làm con người có được sự thay đổi nhất định, tức là có sự
biến đổi về chất. Quá trình biến đổi này trong bản thân con người diễn ra vô cùng đa dạng và phong
phú, ở ví dụ này chúng tôi chỉ xin giới hạn việc làm rõ quy luật lượng chất thông qua quá trình học
tập và rèn luyện của học sinh, sinh viên.
Là sinh viên, ai cũng phải trải qua quá trình học tập ở các bậc học phổ thông kéo dài trong suốt 12
năm. Trong 12 năm ngồi trên ghế nhà trường, mỗi học sinh đều được trang bị những kiến thức cơ
bản của các môn học thuộc hai lĩnh vực cơ bản là khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Bên cạnh đó,
mỗi học sinh lại tự trang bị cho mình những kĩ năng, những hiểu biết riêng về cuộc sống, về tự nhiên,
xã hội. Quá trình tích lũy về lượng (tri thức) của mỗi học sinh là một quá trình dài, đòi hỏi nỗ lực
không chỉ từ phía gia đình, nhà trường mà còn chính từ sự nỗ lực và khả năng của bản thân người
học. Quy luật lượng chất thể hiện ở chỗ, mỗi học sinh dần tích lũy cho mình một khối lượng kiến
thức nhất định qua từng bài học trên lớp cũng như trong việc giải bài tập ở nhà. Việc tích lũy kiến
thức sẽ được đánh giá qua các kì, trước hết là các kì thi học kì và sau đó là kì thi tốt nghiệp. Việc tích
lũy đủ lượng kiến thức cần thiết sẽ giúp học sinh vượt qua các kì thi và chuyển sang một giai đoạn
học mới. Như vậy, có thể thấy rằng, trong quá trình học tập, rèn luyện của học sinh thì quá trình học
tập tích lũy kiến thức chính là độ, các kì thi chính là điểm nút, việc vượt qua các kì thi chính là bước
nhảy làm cho việc tiếp thu tri thức của học sinh bước sang giai đoạn mới, tức là có sự thay đổi về chất.
Trong suốt 12 năm học phổ thông, mỗi học sinh đều phải tích lũy đủ khối lượng kiến thức và vượt
qua những điểm nút khác nhau, nhưng điểm nút quan trọng nhất, đánh dấu bước nhảy vọt về chất
và lượng mà học sinh nào cũng muốn vượt qua đó là kì thi đại học. Vượt qua kì thi tốt nghiệp cấp 3
đã là một điểm nút quan trọng, nhưng vượt qua được kì thi đại học lại còn là điểm nút quan trọng
hơn, việc vượt qua điểm nút này chứng tỏ học sinh đã có sự tích lũy đầy đủ về lượng, tạo nên bước
nhảy vọt, mở ra một thời kì phát triển mới của lượng và chất, từ học sinh chuyển thành sinh viên.
Cũng giống như ở phổ thông, để có được tấm bằng đại học thì sinh viên cũng phải tích lũy đủ các học
phần theo quy định. Tuy nhiên, việc tích lũy kiến thức ở bậc đại học có sự khác biệt về chất so với
học phổ thông. sự khác biệt nằm ở chỗ, sinh viên không chỉ tiếp thu kiến thức một cách đơn thuần
mà phải tự mình tìm tòi nghiên cứu, dựa trên những kĩ năng mà giảng viên đã cung cấp. Nói cách
khác, ở bậc đại học, việc học tập của sinh viên khác hẳn về chất so với học sinh ở phổ thông. Việc
tiếp thu tri thức diễn ra dưới nhiều hình thức đa dạng và phong phú, từ cơ bản đến chuyên sâu, từ
đơn giản đến phức tạp, từ ít đến nhiều. Từ sự thay đổi về chất do sự tích lũy vê lượng trước đó (ở
bậc học phổ thông) tạo nên, chất mới cũng tác động trở lại.Trên nền tảng mới, trình độ, kết cấu cũng
như quy mô nhận thức của sinh viên cũng thay đổi, tiếp tục hướng sinh viên lên tầm tri thức cao
hơn. Cũng giống như ở bậc học phổ thông, quá trình tích lũy các học phần của sinh viên chính là độ,
các kì thi chính là điểm nút và việc vượt qua các kì thi chính là bước nhảy, trong đó bước nhảy quan
trọng nhất chính là kì thi tốt nghiệp.
Vượt qua kì thi tốt nghiệp lại đưa sinh viên chuyển sang một giai đoạn mới, khác về chất so với giai
đoạn trước. Quá trình đó cứ liên tục tiếp diễn, tạo nên sự vận động và phát triển không ngừng ngay
trong chính bản thân con người, tạo nên động lực không nhỏ cho sự phát triển của xã hội. Việc nhận
thức quy luật lượng chất trong quá trình học tập của học sinh sinh viên có ý nghĩa rất to lớn trong
thực tiễn, không chỉ với bản thân người học mà còn rất có ý nghĩa với công tác quản lý và đào tạo.
Thực tế tong nhiều năm qua, giáo dục nước ta đã mắc phải nhiều sai lầm trong tư duy quản lý cũng
như trong hoạt động đào tạo thực tiễn.
Việc chạy theo bệnh thành tích chính là thực tế đáng báo động của ngành giáo dục bởi vì mặc dù sự
tích lũy về lượng của học sinh chưa đủ nhưng lại vẫn được “tạo điều kiện” để thực hiện “thành
công” bước nhảy, tức là không học mà vẫn đỗ, không học nhưng vẫn có bằng. Kết quả là trong nhiều
năm liền, giáo dục nước ta đã cho ra lò những lớp người không “lượng” mà cũng chẳng có “chất”.
Xuất phát từ việc nhận thức một cách đúng đắn quy luật trên cho phép chúng ta thực hiện những cải
cách quan trọng trong giáo dục. Tiêu biểu là việc chống lại căn bệnh thành tích trong giáo dục vẫn
tồn tại hàng thập kỉ qua. Bên cạnh đó là việc thay đổi phương giáo dục ở bậc phổ thông và đào tạo
đại học. Việc chuyển từ đào tạo niên chế sang đào tạo tín chỉ và cho phép người học được học vượt
tiến độ chính là việc áp dụng đúng đắn quy luật lượng chất trong tư duy con người.  Câu 7:
Thực tiễn là gì? Phân tích vai trò giữa thực tiễn đối với nhận thức. Từ đó rút ra ý nghĩa
phương pháp luận giữa nó và liên hệ thực tiễn của bản thân?
THỰC TIỄN: Là toàn bộ hoạt động nhận thức,cản tính có mục đích, tính lịch sử, xã hội của
con người nhằm cải thiện tự nhiên và xã hội
VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC: -
Thực tiễn là cơ sở, động lực và mục đích của nhận thức là vì chính con người có nhu cầu
tất yếu khách quan là phải giải thích thế giới nên con người tất yếu phải tác động vào các
sự vật, hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Sự tác động đó làm cho các sự
vật, hiện tượng bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và quan hệ khác nhau giữa
chúng, đem lại những tài liệu cho nhận thức, giúp cho nhận thức nắm bắt được bản
chất, các quy luật vân động và phát triển của thế giới. trên cơ sở đó hình thành nên các lý thuyết khoa học. -
Thực tiễn là tiêu chuẩn của tính chất chân lý, có nghĩa là thực tiễn là thước đo giá trị của
những tri thức đã đạt được trong nhận thức. đồng thời, thực tiễn không ngừng phát
triển và hoàn thiện nhận thức
Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA THỰC TIỄN: -
Trong quá trình nhận thức phải luôn thấy rõ vai trò của hoạt động thực tiễn, không được
xa rời thực tiễn. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí,
giáo điều, máy móc,… Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò cả thực tiễn sẽ rơi vào chủ
nghĩa thực dụng và kinh nghiệm chủ nghĩa. -
Trong học tập và nghiên cứu khoa học phải kết hợp với hoạt động sản xuất thực tiễn
theo phương châm “ học đi đôi với hành” thì mới thạo ra kết quả tốt nhất. Lý luận mà
không có thực tiễn làm cơ sở và tiêu chuẩn để xác định tính chân lý của nó thì chỉ là lý
luận suông. Ngược lại, thực tiễn mà không có lý luận khoa học, cách mạng soi sáng thì
nhất định sẽ biến thành thực tiễn mù quáng  Câu 8:
Phân tích nguồn gốc, bản chất và đặc trưng của nhà nước. Từ đó liên hệ với việc xây
dựng nhà nước phát quyền của xã hội nhà nước ta hiện nay? 
NGUỒN GỐC CỦA NHÀ NƯỚC: Lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn đến sự ra đời chế độ tư
hữu và từ đó xã hội phân chia thành các giai cấp đối kháng và cuộc đấu tranh giai cấp không
thể điều hòa được xuất hiện. Điều đó dẫn đến nguy cơ các giai cấp không thể điều hòa được
xuất hiện. Điều đó dẫn đến nguy cơ các giai cấp chẳng những tiêu diệt lẫn nhau mà còn tiêu
diệt luôn cả xã hội. Để thảm họa đó không diễn ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra đời. Đó là nhà nước.
BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC: là một tổ chức chính trị của một giai cấp thống trị về mặt kinh tế
và đàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác
ĐẶC TRƯNG CỦA NHÀ NƯỚC: - Quản lí cư dân trên một vùng lãnh thổ nhất định
Khá với các tổ chức xã hội thị tộc xưa, nhà nước phân chia dân cư không theo quan hệ huyết
thống mà theo lãnh thổ quốc gia. Quyền lực của nhà nước tác động đến mọi bộ phận dân cư
trong lãnh thổ quốc gia, bất kể người dân thuộc quan hệ nào. Việc đi từ lãnh thổ này đến
lãnh thổ khác phải thông qua xuất – nhập cảnh. -
Có hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế
Nhà nước quản lý xã hội dựa vào pháp luật. Bằng hệ thống luật pháp nhà nước “cưỡng
bức” mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội phapr thực hiên các chính sách có lợi cho giai cấp thống trị. -
Có hệ thống thuế khóa: để duy trì được giai cấp thống trị phải đảm bảo hoặt động của
bộ máy nhà nước. Theo leenin: “ muốn duy trì được quyền lực xh đặc biệt, đặt lên trên
xh thì phải có thuế khóa và quốc trái”. Các nước khác nhau có các chế độ thuế khóa khác nhau.
LIÊN HỆ VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY: -
Cần cách hành chính, đổi mới thể chế, cơ chế -
Nâng cao chất lượng hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. -
Thực hiện chính phủ liêm chính, kiến tạo, năng động. -
Thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng  Câu 9:
Phân tích quan điểm của triết học Mác leenin về con người và bản chất con người >
Theo anh chị chúng ta cần làm gì để con người phát triển toàn diện?
CON NGƯỜI: Sinh vật có tính xã hội cao nhất của thế giới tự nhiên và lịch sử xã hội
Là chủ thể của lịch sử
Sáng tạo nên tất cả thành tựu của văn minh và văn hóa
BẢN CHẤT CỦA CON NGƯỜI: - Là thực thể sinh học – xã hội
Mặt sinh vật (nền tảng vật chất tự nhiên):
cơ thể cùng với những nhu cầu cơ thể
Quy luật sinh hoạt chi phối của cơ thể con người
Mặt xã hội (vai trò quy định bản chất của con người):
“ tổng hòa những quan hệ xã hội”
Những hoạt động xã hội
Đời sống tinh thần của con người
 Hai mặt này có mqh khắng khít không thể tách rời nhau -
Vừa là chủ thể lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử
Trong quá trình cải biến giới tự nhiên, con người cũng làm nên lịch sử của chính mình.
Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản
thân con người. Bản chất của con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ
thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người -
Là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội
Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trông một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định.
Trong điều kiện lịch sử cụ thể đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra
những giát trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ.
Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội, con người mới bộc lộ toàn bộ bản hcatas xã hội của mình.
Những việc cần làm cho con người phát triển toàn diện: -
Tạo ra một hệ thống chính sách, biện pháp và cơ chế vận hành đảm bảo sự phối hợp
đúng đắn lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội -
Nâng cao chất lượng cuộc sống con người, nâng cao trình độ và năng lực lao động, nâng cao tay nghề -
Tạo ra môi trường công bằng, dân chủ, quan tâm đến lợi ích của từng người và lợi của cộng đồng