Chứng minh tính thống nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội | Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Chứng minh tính thống nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội | Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (LLTT1101)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45568214
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
______________________________________
BÀI TẬP LỚN MÔN HỌC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI: Chứng minh tính thống nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội.
Sinh viên thực hiện: Vũ Thùy Linh - 11213495
Lớp học phần: LLTT1101(221)CLC_29
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Hoa
Hà Nội, ngày 23/02/2022 LỜI MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề
cơ bản của Cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng lOMoAR cPSD| 45568214
xã hội chủ nghĩa, là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin
vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời
đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người
Trong đó, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc sắc, là sợi
chỉ đỏ xuyên suốt và bao trùm trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong nhiều văn kiện
của Đảng ta, vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội luôn được khẳng định
một cách mạnh mẽ và dứt khoát. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội đã nêu rõ: “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là
bài học xuyên suốt quá trình cách mạng của nước ta.
Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội
là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc”. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: chỉ có chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những
người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ; chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại,
đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc có một xã hội tốt lành gắn
liền với tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no; bảo đảm việc làm cho mọi người, tất cả
vì niềm vui, hòa bình, hạnh phúc của con người.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện một cách tập trung những luận điểm
sáng tạo lớn về lý luận của Hồ Chí Minh. Những luận điểm đó có giá trị lâu dài chỉ đạo
đường lối cách mạng Việt Nam và đóng góp quan trọng vào việc phát triển lý luận về cách mạng vô sản.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội phản ánh tính triệt để cách mạng của tư tưởng
Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó đặt vấn đề giải phóng con người, hạnh phúc của con người ở
mục tiêu cao nhất của sự nghiệp cách mạng.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không chỉ là mục tiêu là nhu cầu, là cương
lĩnh hành động mà còn là động lực, là niềm tin sắt son của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Có thể nói, đối với Việt Nam, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là sự
gắn kết hai sức mạnh thành một sức bật mới, là cội nguồn thắng lợi của cách mạng Việt
Nam hôm qua, hôm nay và mai sau. lOMoAR cPSD| 45568214
PHẦN I: CÁCH TIẾP CẬN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP
DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. Về độc lập dân tộc:
a. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả dân tộc:
- Cách tiếp cận từ quyền con người: Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, Hồ
Chí Minh đã tìm hiểu, tiếp thu những nhân tố về quyền con người được nêu trong
Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách
mạng Pháp năm 1791 như quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền
mưu cầu hạnh phúc. “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Từ quyền con
người, Hồ Chí Minh đã khái quát lên chân lý bất diệt về quyền cơ bản của các dân
tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có
quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”
- Độc lập, tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa. Vì vậy, khi
chưacó độc lập thì phải quyết tâm đấu tranh để giành độc lập dân tộc:
+ Năm 1919, nhân cơ hội các nước đồng minh thắng trận trong chiến tranh thế giới
thứ nhất họp ở Hội nghị Vécxây (Pháp) mà ở đó Tổng thống Mỹ V. Wilson Đã kêu
gọi trao quyền tự quyết cho các dân tộc trên thế giới, thay mặt nhóm những người
yêu nước Việt Nam tại Pháp, Hồ Chí Minh đã gửi tới Hội nghị bản Yêu sách của
nhân dân An Nam, với hai nội dung chính là đòi quyền bình đẳng về mặt pháp lý và
đòi các quyền tự do dân chủ cho nhân dân Việt Nam
+ Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng năm 1930, Hồ Chí Minh xác định mục tiêu
chính trị của Đảng là: “a) Đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phong kiến. b) Làm cho
nước Nam hoàn toàn độc lập”
+ Tháng 5/1941, Người chủ trì Hội nghị trung ương VIII Đảng, viết thư kính cáo
đồng bào: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta
phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng”
+ Năm 1945, tình hình Chiến tranh thế giới thứ hai chuyển biến mau lẹ, có lợi cho
cách mạng, trong nước nhân dân ta sống trong nỗi thống khổ, lầm than, vấn đề giành
được độc lập dân tộc được đặt ra cấp bách hơn bao giờ hết. Trong bối cảnh đó, Hồ
Chí Minh đã nêu lên quyết tâm phải đứng lên đấu tranh, giành bằng được độc lập
dân tộc, Người nói: “Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường
Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”
- Khi đã giành độc lập, tự do, phải kiên quyết giữ vững quyền độc lập, tự do ấy:
+ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, trong bản Tuyên ngôn độc lập, Hồ
Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trịnh
trọng tuyên bố với thế giới và toàn thể quốc dân đồng bào rằng: “Nước Việt Nam có lOMoAR cPSD| 45568214
quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn
thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để
giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”
+ Ý chí và quyết tâm trên còn được thể hiện trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và Mỹ. Trong thư gửi Liên hợp quốc năm 1946, một lần nữa Hồ Chí Minh
Khẳng định: “Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân
chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng
nhất: Toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”. Khi thực dân Pháp
Xâm lược lần thứ hai, trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19/12/1946,
Người ra lời hiệu triệu, thể hiện quyết tâm bằng được nền độc lập dân tộc – giá trị
thiêng liêng mà nhân dân Việt Nam mới giành được: “Không! Chúng ta thà hy sinh
tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
+ Năm 1966, khi quân viễn chinh Mỹ và chư hầu ồ ạt vào miền Nam và gây chiến
tranh phá hoại ở miền Bắc, Hồ Chí Minh tiếp tục kêu gọi toàn dân Việt Nam Kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, trong đó đã nêu lên một chân lý thời đại, một tuyên ngôn
bất hủ của các dân tộc khát khao nền độc lập, tự do trên thế giới: “Không có gì quý
hơn độc lập, tự do”4.Với tư tưởng trên của Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã anh
dũng chiến đấu, đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, buộc chúng phải ký kết Hiệp
định Paris, cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, rút quân Mỹ về nước.
b. Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm và hạnh phúc của nhândân:
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước nhà được độc lập, Hồ Chí Minh
tiếp tục khẳng định độc lập phải gắn với tự do. Người nói: “Nước độc lập mà dân
không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”. Dân chúng chỉ
cảm nhận được những giá trị thực sự của độc lập, tự do khi họ được ăn no, mặc ấm,
được học hành để phát triển, có hiểu biết để thực hành dân chủ, quyền và nghĩa vụ của người công dân.
Ngoài ra, theo Hồ Chí Minh, độc lập cũng phải gắn với cơm no, áo ấm và hạnh phúc
của nhân dân. Ngay sau khi cách mạng Tháng Tám năm 1945 trong hoàn cảnh nhân
dân đói, rét, mù chữ,... Hồ Chí Minh yêu cầu Chính phủ phải: “Làm cho dân có ăn.
Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành”.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh Luôn coi độc lập
gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm cho nhân dân. Đó là một sự ham muốn đầy tính
nhân văn và thấm đượm tình thương yêu dân tộc và đó cũng là mục tiêu tối thượng
trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. lOMoAR cPSD| 45568214
c. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để:
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để trên
tất cả các lĩnh vực. Người nhấn mạnh: độc lập mà người dân không có quyền tự
quyết về ngoại giao, không có quân đội riêng, không có nền tài chính riêng..., thì
độc lập chẳng có ý nghĩa gì. Trên tinh thần đó và trong hoàn cảnh đất nước ta sau
Cách mạng Tháng Tám còn gặp nhiều khó khăn, nhất là nạn thù trong giặc ngoài
bao vây, để bảo vệ nền độc lập thực sự mới giành được, Người đã thay mặt Chính
phủ ký với đại diện Chính phủ Pháp Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946, theo đó: “Chính
phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do có
Chính phủ của mình, Nghị viện của mình, quân đội của mình, tài chính của mình”.
Đây là thắng lợi bước đầu của một sách lược ngoại giao hết sức khôn khéo, mềm
dẻo, linh hoạt nhưng có nguyên tắc, một phương pháp biết thắng từng bước của Hồ
Chí Minh và là một minh chứng cho tính đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh.
d. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ:
Trong lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân tộc ta luôn đứng trước âm mưu
chia cắt đất nước của kẻ thù. Thực dân Pháp khi xâm lược nước ta đã chia nước ta
thành ba kỳ, mỗi kỳ có chế độ cai trị riêng. Sau cách mạng Tháng Tám, miền Bắc
nước ta thì bị quân Tưởng Giới Thạch chiếm đóng, miền Nam bị thực dân Pháp xâm
lược, một lần thực dân Pháp lại bày ra cái gọi là “Nam kỳ tự trị” hòng chia cắt nước
ta một lần nữa. Trong hoàn cảnh đó, trong bức Thư gửi đồng bào Nam Bộ (1946),
Hồ Chí Minh khẳng định: “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể
cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi!”.
Sau khi Hiệp định Giơnevơ năm 1954 được ký kết, đất nước Việt Nam tạm thời bị
chia cắt làm hai miền, Hồ Chí Minh tiếp tục kiên trì đấu tranh chống lại âm mưu
chia cắt đất nước để thống nhất Tổ quốc với một quyết tâm, ý chí sắt đá, không gì
lay chuyển: “Kiên quyết bảo vệ nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của nước Việt Nam. Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, không ai
được xâm phạm đến quyền thiêng liêng ấy của nhân dân ta”
2. Về chủ nghĩa xã hội:
a. Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ chủ nghĩa yêu nước:
Xuyên suốt lịch sử Việt Nam từ thời các vua Hùng, có thể thấy rằng lịch sử Việt
Nam luôn gắn liền với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta có thể thấy
phong trào yêu nước truyền thống Việt Nam là tư tưởng tiên quyết và chủ đạo dẫn
Hồ Chí Minh đến với quyết định ra nước ngoài tìm đường cứu nước. Người lúc bấy
giờ nhận ra các hạn chế cũng như sai lầm của các bậc cha anh khi làm cách mạng lOMoAR cPSD| 45568214
nên quyết định của người là “sang mẫu quốc và các nước đế quốc khác, xem họ làm
như thế nào để trở về giúp đồng bào mình”.
Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã đọc được “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương
về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V. I. Lênin đăng trên báo Nhân đạo. Tác
phẩm này đã đưa đến cho Nguyễn Ái Quốc những nhận thức mới về con đường giải
phóng dân tộc ở thuộc địa. Đồng thời, Người tìm ra ở chủ nghĩa xã hội sự thống nhất
biện chứng chặt chẽ giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người. Người cho rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có thẻ giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và toàn nhân loại.
Trước khi đến với chủ nghĩa xã hội, Người đã đi qua nhiều quốc gia, trong đó có các
nước tư bản rất phát triển lúc bấy giờ. Người nhận ra rằng những người lao động ở
các quốc gia tư bản đó cũng khổ cực, bị áp bức và bóc lột trong hoàn cảnh tương tự
như đồng bào của mình. Chính vì vậy nên đối với các quan điểm, các trường phái lý
luận của giai cấp tư sản khi phát động cách mạng thì Hồ Chí Minh đều không đồng
thuận và cho rằng không phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam đương thời.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh thì ba tiêu chí của chủ nghĩa xã hội Việt Nam là giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Còn với quan điểm của
Mác - Lênin thì cho rằng chủ nghĩa xã hội tiến tới giải phóng giai cấp và giải phóng
con người. Quan điểm giải phóng dân tộc mà Hồ Chí Minh quan niệm và áp dụng
trong cách mạng Việt Nam là sáng tạo và thực tế đã chứng minh tính hiệu quả của
nó. Nguyên nhân chính là vì khác với bối cảnh xã hội của các nước phương Tây thì
ở Việt Nam xung đột chính là giữa chính quyền thực dân nửa phong kiến với người
dân lao động. Tuy nhiên, tại thời điểm bấy giờ, tư tưởng Hồ Chí Minh lại bị Quốc tế
Cộng sản cho rằng là chủ nghĩa dân tộc cực đoan tương tự như ở các nước phát xít
khi lại đưa yếu tố độc lập dân tộc lên trên giải phóng giai cấp.
b. Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội theo phương diện đạo đức xã hội:
Hồ Chí Minh tiếp xúc với nhiều dân tộc cũng bị áp bức, bóc lột trên thế giới. Người
nhận thấy rằng giai cấp vô sản trên toàn thế giới đều có hoàn cảnh tương tự giống
như nhân dân Việt Nam, đều sống trong nghèo nàn, lạc hậu và bị bóc lột, đè nén
nặng nề bởi xiềng xích của thực dân cũng như sự thối nát của hệ thống nhà nước phong kiến đương thời.
Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo Hồ Chí Minh là một xã hội mới công bằng, tốt
đẹp nhằm mục tiêu cụ thể là: “Làm sao cho nhân dân được đủ ăn, đủ mặc, ngày càng
sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động thì được
nghỉ… Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng
tốt”. Để đạt được mục tiêu đó, Hồ Chí Minh đã đề ra một loạt biện pháp thực hiện.
Chính sự phong phú đó cho ta thấy sự tìm tòi, tận dụng mọi cơ hội để hướng tới mục lOMoAR cPSD| 45568214
tiêu, để hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ bảo đảm cho mỗi cá nhân phát triển lành mạnh nhân
cách của mình trong sự hài hòa giữa cá nhân và xã hội. Đây là trình độ phát triển
cao của xã hội xã hội chủ nghĩa. Bản chất đó thuộc về chủ nghĩa xã hội. Nhìn nhận
bản chất quan trọng này, Hồ Chí Minh đưa ra một quan niệm, chủ nghĩa xã hội là xã
hội trong đó mình vì mọi người và mọi người vì mình. Do đó, một trong những nét
nổi bật của con người mới xã hội chủ nghĩa là phải đạt tới trình độ phát triển cao về
đạo đức, về nhân cách, đủ sức chiến thắng chủ nghĩa cá nhân.
Hồ Chí Minh coi công bằng xã hội là một trong những đặc trưng mang tính nhân
văn của chế độ xã hội mới. Chỉ dưới chế độ xã hội tốt đẹp ấy, nhân dân lao động
mới được hưởng ngày càng nhiều hơn, đầy đủ hơn sự công bằng và bình đẳng, vừa
có nghĩa vụ đồng thời có quyền lợi. Trong hoàn cảnh đời sống vật chất còn rất nhiều
khó khăn, Người vẫn quan tâm xây dựng đời sống văn hóa, phát triển khoa học kỹ
thuật. Đặc biệt, Người rất quan tâm tới xây dựng và phát triển đời sống tinh thần của
nhân dân. Trong sự nghiệp cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn đấu tranh để bảo
vệ các quyền tự nhiên và chính đáng của con người, trước hết là của nhân dân lao
động, coi nội dung công bằng xã hội là chất lượng và mục tiêu của một cơ cấu đạo
đức mới, của trật tự xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản. Như thế, chủ nghĩa xã hội là
một xã hội nhân văn cao cả nhất, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
phát triển. Đó còn là một xã hội văn hóa và không ngừng trở thành một xã hội văn
hóa cao. Nó kết hợp được truyền thống nhân ái, nhân nghĩa, khoan dung văn hóa
của cha ông với tầm cao tư tưởng, băm hóa của xã hội hiện đại, đảm bảo cho người
lao động cho cuộc sống xứng đáng nhất trong độc lập - tự do - hạnh phúc.
Như vậy, tựu trung lại thì tư tưởng Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa xã hội không chỉ
đơn thuần như quan điểm Marxist cơ bản cho rằng mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là
giải phóng giai cấp, xóa bỏ bóc lột mà Hồ Chí Minh còn tiếp cận với chủ nghĩa xã
hội như một con đường đưa đất nước, đưa dân tộc vùng lên thoát khỏi nghèo nàn lạc
hậu, đem đến những giá trị tốt đẹp nhất cho con người trong xã hội mới như tự do,
bình đẳng, ấm no và hạnh phúc.
c. Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội theo phương diện lịch sử, văn hóa truyền
thống của dân tộc Việt Nam và văn hóa phương Đông:
Cũng xuất phát từ quan điểm cho rằng sự phát triển của các nền văn hóa gắn liền với
sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nhìn thấy ngoài tính chất toàn nhân loại, còn có đặc thù của mỗi
giai đoạn phát triển lịch sử là phản ánh ý thức hệ tư tưởng của giai cấp cầm quyền
trong xã hội ở giai đoạn ấy. Định nghĩa của Hồ Chí Minh về văn hóa thể hiện rõ ràng lOMoAR cPSD| 45568214
quan điểm của Người về tầm ảnh hưởng, mối liên hệ biện chứng giữa văn hóa với
kinh tế, chính trị. Học thuyết Mác - Lênin về văn hóa được dựa trên những nguyên
tắc cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử về các hình thái kinh tế - xã hội như những
giai đoạn phát triển tuần tự của xã hội loài người, về mối quan hệ tương hỗ giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Mang trong mình truyền thống văn hóa phương
Đông, lại được tiếp thu những tinh hoa của các nền văn minh trên thế giới, Hồ Chí
Minh đã đúc kết quan điểm của mình về chủ nghĩa xã hội với quan điểm cho rằng
chủ nghĩa xã hội phải được xây dựng dựa trên nền tảng những giá trị đạo đức, tư
tưởng truyền thống của dân tộc Việt Nam. lOMoAR cPSD| 45568214
PHẦN II: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA ĐỘC LẬP DÂN
TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. Độc lập dân tộc là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội:
Vào đầu thế kỷ XX, vấn đề giải phóng dân tộc là vấn đề cấp bách, sống còn của dân
tộc Việt Nam. Những phong trào yêu nước chống thực dân Pháp lúc bấy giờ lâm vào
hoàn cảnh “một trăm lần thất bại mà không một lần thành công”. Sự thất bại một
mặt là do đường lối cách mạng sai lầm, thiếu một giai cấp tiên tiến lãnh đạo cách
mạng, mặt khác là không nhận thức và đi theo quy luật phát triển của thời đại, nhất
là sau Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.
Trong bối cảnh đó, Hồ Chí Minh đã tiếp thu và vận dụng sáng tạo lý luận cách mạng
không ngừng của chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong việc xác định phương hướng
chiến lược của cách mạng Việt Nam, trong Chánh cương vắn tắt của Đảng (1930),
Người “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới
xã hội cộng sản”. Tư tưởng trên của Người xuất phát từ nhận thức thực tế nước ta là
một nước thuộc địa và phong kiến, cho nên nhiệm vụ đầu tiên của cách mạng phải
là tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng, tức đánh đổ đế quốc - phong
kiến rồi sau đó mới quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Vậy, theo
Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc sẽ là mục tiêu đầu tiên của cách mạng, là cơ sở tiền
đề cho mục tiêu tiếp theo: xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Tư
tưởng trên của Hồ Chí minh đúng đắn và sáng tạo vì không chỉ đáp ứng được yêu
cầu khách quan, cụ thể của cách mạng Việt Nam mà còn phù hợp với quy luật phát triển của thời đại.
Mặt khác, theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao gồm cả nội dung dân tộc và dân
chủ; độc lập dân tộc cũng phải gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm, hòa bình; độc lập
phải gắn liền với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Cho nên, khi đề cao
mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh không coi đó là mục tiêu cuối cùng của cách
mạng, mà là tiền đề cho một cuộc cách mạng tiếp theo - cách mạng xã hội chủ nghĩa,
cuộc cách mạng mang lại hạnh phúc, cơm no, áo ấm cho nhân dân. Vì vậy, cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân càng sâu sắc, triệt để thì càng tạo ra những tiền đề
thuận lợi, sức mạnh to lớn cho cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa, cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc Việt Nam ngay từ đầu đã được Hồ Chí Minh xác định đi
theo con đường cách mạng vô sản, cho nên bản thân cuộc cách mạng này đã mang
tính định hướng xã hội chủ nghĩa, được nhân dân đồng thuận và tin tưởng. Độc lập
dân tộc vì vậy không những là tiền đề mà còn là nguồn sức mạnh cho lớn cho cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
2. Chủ nghĩa xã hội là điều kiện để đảm bảo nền độc lập dân tộc vững chắc:
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc mà dân vẫn không có cơm ăn, áo mặc, không lOMoAR cPSD| 45568214
được học hành thì độc lập đó không có ý nghĩa gì, độc lập đó trước sau gì cũng
không tồn tại, cho nên sau khi tiếp thu học thuyết cách mạng vô sản, Người khẳng
định: độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Năm 1960, Hồ Chí Minh
tiếp tục khẳng định: chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng
được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.
Kết hợp lí luận chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn Việt Nam, Hồ Chí Minh cho
rằng, chủ nghĩa xã hội trước hết là một chế độ dân chủ, do nhân dân làm chủ, dưới
sự lãnh đạo của Đảng, tư tưởng này thê rhieenj điểm khác biệt và tính ưu việt của
chủ nghĩa xã hội so với các chế độ chính trị trước đó. Chế độ dân chủ thể hiện
trong tất cả mọi mặt của đời sống xã hội từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, xã hội…
và được thể chế hóa bằng hiến pháp, pháp luật. Đây là điều kiện quan trọng nhất để
đảm bảo nền độc lập dân tộc, tạo ra nền tảng ý thức xã hội bảo vệ chủ quyền dân
tộc, kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu thôn tính, đe dọa nền độc lập, tự
do của dân tộc. Và cũng chính chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa đã làm cho người
dân tin tưởng, thiết tha với chế độ hơn, kiên định với mục tiêu chiến lược mà Hồ
Chí Minh vạch ra cho cách mạng Việt Nam: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Mặt khác, theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội còn là một xã hội đạt tới mức hoàn
chỉnh, hoàn toàn tốt đẹp, là một chế độ không còn tình trạng người bóc lột người,
một xã hội bình đẳng, công bằng và hợp lý: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít,
không làm không hưởng, đảm bảo phúc lợi xã hội cho người già, trẻ em và những
người còn khó khăn trong cuộc sống; mọi người đều có điều kiện để phát triển như
nhau. Chủ nghĩa xã hội theo Người, còn là một xã hội có nền kinh tế phát triển cao,
gắn liền với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, đảm bảo đời sống vật chất và tinh
thần cho nhân dân, là một xã hội phát triển cao về đạo đức và văn hóa, thể hiện
những giá trị tư tưởng, truyền thống quý báu của dân tộc và hơn thế nữa là một thế
độ có mối quan hệ hữu nghị, hòa bình, sẵn sàng đoàn kết với các nước trên thế giới
đấu tranh vì mục tiêu chung của cách mạng: độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa
xã hội. Chủ nghĩa xã hội với chế độ công hữu về tư liệu sản xuất cũng sẽ đi đến xóa
bỏ hoàn toàn, tận gốc mọi sự áp bức, bóc lột, bất công về giai cấp, dân tộc.
Tóm lại, theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng những cơ sở
vững chắc về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội cho sự phát triển đất nước
và nó cũng là nền tảng, điều kiện để bảo vệ nền độc lập dân tộc.
3. Điều kiện để đảm bảo độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội:
Để đảm bảo độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh cần có
những điều kiện cơ bản sau: lOMoAR cPSD| 45568214
Một là, phải bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt tiến
trình cách mạng, từ cách mạng giải phóng dân tộc đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Hai là, phải củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc mà nền tảng là khối
liên minh công - nông - trí. Đây được coi là mục tiêu và nhiệm vụ chiến lược hàng đầu của cách mạng.
Ba là, phải đoàn kết quốc tế. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng
thế giới, đoàn kết gắn bó chặt chẽ với cách mạng thế giới.
Ba điều kiện trên thống nhất biện chứng với nhau, trong đó điều kiện đầu tiên là
quan trọng nhất, quyết định sự thành công của cách mạng, góp phần giữ vững nền
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta. lOMoAR cPSD| 45568214
PHẦN III: KẾT LUẬN: QUAN ĐIỂM CỦA BẢN THÂN
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mục tiêu xuyên suốt và chủ đạo trong quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội là một trong những nguyên nhân của mọi thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp nghiệp
cách mạng của dân tộc và mãi là sợi chỉ đỏ chỉ dẫn cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng ngày
nay. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục coi đây là quan điểm chỉ đạo để thực hiện
đường lối đổi mới: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định
đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, đặc biệt là sau 35 năm đổi mới, dù trong hoàn
cảnh khó khăn, thử thách thế nào, Đảng ta vẫn luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội. Ðó là con đường hợp quy luật phát triển của lịch sử Việt Nam,
của cách mạng Việt Nam để có một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh, con đường hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, nhân
dân hạnh phúc. Qua 35 năm đổi mới, nhờ vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhờ sự lãnh đạo đúng đắn của Ðảng, sự nỗ lực phấn đấu,
chung sức đồng lòng của toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân và sự giúp đỡ, hợp tác của cộng
đồng quốc tế, nhân dân ta đã đạt được “những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát
triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới”, tạo ra thế và lực mới để đất
nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Những thành tựu về đổi mới cho chúng ta niềm
tin về sự lựa chọn đúng đắn của mô hình chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam: “Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020, đạt 342,7 tỷ đô
la Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người
tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD. Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập
thấp từ năm 2008, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020, đạt trên 540 tỷ
USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỷ USD. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt
100 tỷ USD vào năm 2020. Đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỷ USD
vào cuối năm 2020… Văn kiện Ðại hội XIII của Ðảng nhận định: “lý luận về đường lối đổi
mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng
hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Ðất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm
lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay". Tất nhiên trong suốt hành trình cách mạng sáng
tạo nhưng cũng gặp phải rất nhiều trở ngại, gian nan, không phải chúng ta không có một số
hạn chế, yếu kém khi thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể của việc xây dựng nền độc lập dân lOMoAR cPSD| 45568214
tộc và hướng tới chủ nghĩa xã hội; song chúng ta đã sớm nhận ra để điều chỉnh và khắc
phục, từ đó tự hoàn thiện để vững vàng đi tiếp trên con đường cách mạng.
Ðã qua hai thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, thiên niên kỷ thứ ba của một thế giới đầy biến động
và cũng đồng thời mở ra một kỷ nguyên hội nhập, đua tranh gay gắt của cộng đồng quốc
tế. Dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, dù phải đối mặt với xu thế toàn cầu hóa, với tất
cả mặt tích cực và tiêu cực, bất trắc; dù cho ai đó bị lóa mắt bởi “những bộ áo cánh sặc sỡ”
của chủ nghĩa tư bản thì hệ giá trị độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vẫn là mục tiêu, lý
tưởng trong ý thức và trong hành động, là quốc bảo phù hợp xu thế thời đại. Mãi mãi giương
cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, chắc chắn
nhân dân ta sẽ tiếp tục giành thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đưa Việt Nam đến giữa thế
kỷ XXI “trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” sánh vai cùng các
nước trong khu vực và trên thế giới. lOMoAR cPSD| 45568214
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. https://www.quangbinh.gov.vn/3cms/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-doc-lap-dan-toc-
gan-lien-voi-chu-nghia-xa-hoi*-41392589.htm
Cổng thông tin điện tử Quảng Bình - Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội
2. https://tuyenquang.dcs.vn/DetailView/24668/22/Tu-tuong-Ho-Chi-Minh-ve-doc-
lap-dan-toc-gan-lien-voi-chu-nghia-xa-hoi.html
Cổng thông tin điện tử tỉnh Tuyên Quang - Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
3. https://kmacle.duytan.edu.vn/Home/ArticleDetail/vn/101/798/de-cuong-on-tap-tot- nghiep-tu-tuong-ho-chi-minh
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP TỐT NGHIỆP TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH - Đại học Duy Tân
4. https://moet.gov.vn/content/vanban/Lists/VBDH/Attachments/2730/GT%20h
%E1%BB%8Dc%20ph%E1%BA%A7n%20T%C6%B0%20t%C6%B0%E1%BB
%9Fng%20HCM%20(C)%20Tr71-Tr140.pdf
Giáo trình học phần Tư tưởng HCM
5. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung- dang/-
/2018/823435/vung-buoc-tren-con-duong-chu-tich-ho-chi-minh-da-chon--doc-lap-
dan-toc-gan-lien-voi-chu-nghia-xa-hoi.aspx
CƠ QUAN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CỦA BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - Vững bước trên con đường Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chọn - độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
6. https://hochiminh.vn/tu-tuong-dao-duc-ho-chi-minh/nghien-cuu-tu-tuong-dao-duc-
ho-chi-minh/gia-tri-cot-loi-cua-mo-hinh-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam-trong- tutuong-ho-chi-minh-3767
Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam - Giá trị cốt lõi của mô hình chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh
7. http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/doc-lap-dan-toc-gan-lien-voi-chu-nghia-xa-
hoi-la-quan-diem-nhat-quan-xuyen-suot-cua-cach-mang-viet-nam.html
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam
8. https://www.qdnd.vn/ky-niem-110-nam-ngay-bac-ho-ra-di-tim-duong-cuu-
nuoc/hanh-trinh-lich-su/doc-lap-dan-toc-va-chu-nghia-xa-hoi-tu-tuong-lon-cuachu- tich-ho-chi-minh-661516
Quân đội nhân dân - Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh lOMoAR cPSD| 45568214
9. https://www.hcmcpv.org.vn/tin-tuc/doc-lap-dan-toc-gan-lien-voi-chu-nghia-xa-hoi-
%E2%80%93-su-lua-chon-phu-hop-xu-the-phat-trien-cua-thoi-dai-1491878626
Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội – Sự lựa chọn phù hợp xu thế phát
triển của thời đại, khát vọng thiêng liêng của dân tộc Việt Nam
10. https://tcnn.vn/news/detail/35268/Tu_tuong_Ho_Chi_Minh_ve_chu_nghia_xa_hoi
_va_thoi_ky_qua_do_len_chu_nghia_xa_hoi_bo_qua_che_do_tu_banall.html Tạp
chí nhà nước - Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam.