CHƯƠNG 1 KINH TẾ VI MÔ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ CƠ BẢN CỦA DOANH NGHIỆP | Đại học Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp

Chương 1 cung cấp những kiến thức cơ bản về kinh tế vi mô và những vấn đề kinh tế mà doanh nghiệp phải đối mặt. Việc hiểu rõ các yếu tố này là rất quan trọng để các doanh nghiệp có thể đưa ra quyết định kinh doanh hiệu quả và bền vững. Các doanh nghiệp hiện nay phải đối mặt với thách thức từ thị trường toàn cầu như cạnh tranh quốc tế, biến đổi khí hậu, và thay đổi trong hành vi tiêu dùng.

CHƯƠNG 1
KINH TẾ VI MÔ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ
CƠ BẢN CỦA DOANH NGHIỆP
MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG
- Trang bị những kiến thức cơ bản về kinh tế vi mô, đối tượng, nội dung, phạm vi và phương
pháp nghiên cứu của kinh tế học nói chung và kinh tế vi mô nói riêng.
- Phân biệt được kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô, kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn
tắc
- Cách thức giải quyết những vấn đề kinh tế cơ bản của doanh nghiệp trong các mô hình kinh tế,
ảnh hưởng của các quy luật đến sự lựa chọn kinh tế tối ưu; vận dụng đường giới hạn khả năng
sản xuất để phân tích vấn đề nguồn lực khan hiếm và chi phí cơ hội.
NỘI DUNG LÝ THUYẾT
1.1. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KINH TẾ VI MÔ
1.1.1Khái niệm kinh tế học và kinh tế học vi mô
Kinh tế học thực sự ra đời từ năm 1776 đánh dấu mốc quan trọng là tác phẩm “Bàn về nguồn
gốc của cải” của Adam Smith nhà kinh tế học người Anh. Kinh tế học môn khoa học nghiên
cứu cách thức mà cá nhân và xã hội lựa chọn việc sử dụng nguồn lực khan hiếm của mình như thế
nào. Các nhà kinh tế cho rằng vấn đề trọng tâm của kinh tế học sự khan hiếm. Sự khan hiếm
nguồn lực đòi hỏi các nhân hội phải đưa ra quyết định lựa chọn. Kinh tế học nghiên cứu
sự lựa chọn trong điều kiện nguồn lực khan hiếm. Sự khan hiếm xảy ra khi nguồn lực của nền kinh
tế không đủ để thỏa mãn cầu của tất cả các chủ thể trong nền kinh tế đó.
Trong thực tế không phải bất cứ cái gì chúng ta muốn đều có thể đạt được mà ngược lại, khả năng
đáp ứng nhu cầu của chúng ta luôn bị giới hạn, ít nhất bị giới hạn bởi thu nhập, điều này thể
hiện sự khan hiếm về tiền bạc, đòi hỏi chúng ta phải sự phân bổ hợp thu nhập sao cho nhu
cầu của chúng ta được thỏa mãn ở mức cao nhất. Nếu xét ở góc độ một doanh nghiệp hay một nền
kinh tế cũng vậy, cũng luôn phải đối mặt với sự khan hiếm về nguồn lực để sản xuất ra hàng
hóa, dịch vụ trong việc đáp ứng nhu cầu hội. Doanh nghiệp nền kinh tế cũng phải tìm cách
phân bổ các nguồn lực sao cho có hiệu quả cao nhất.
Như vậy, vấn đề khan hiếm nguồn lực yêu cầu các nền kinh tế hay các doanh nghiệp phải giải
quyết đối với sự lựa chọn. Các nhà kinh tế cho rằng: “Kinh tế học là khoa học của sự lựa chọn”.
Kinh tế học tập trung vào việc sử dụng và quản lý các nguồn lực hạn chế để đạt được thỏa mãn tối
đa nhu cầu vật chất của con người. Kinh tế học nghiên cứu hành vi trong sản xuất, phân phối
tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ trong điều kiện nguồn lực hạn chế.
Như vậy, Kinh tế học là môn khoa học xã hội nghiên cứu cách thức phân bổ và sử dụng nguồn
tài nguyên khan hiếm để đáp ứng nhu cầu vô hạn của con người.
Dựa vào hành vi kinh tế, các nhà kinh tế phân kinh tế học theo hai nhánh là Kinh tế học vi
mô và Kinh tế học vĩ mô.
Kinh tế vi một môn khoa học quan tâm đến việc nghiên cứu, phân tích, lựa chọn các
vấn đề kinh tế cụ thể của các tế bào kinh tế trong một nền kinh tế. Kinh tế học vi nghiên cứu
những vấn đề tiêu dùng nhân, cung, cầu, sản xuất, chi phí, giá cả thị trường, lợi nhuận, cạnh
tranh của từng tế bào kinh tế. Còn kinh tế học tìm hiểu để cải thiện kết quả hoạt động của
toàn bộ nền kinh tế, nghiên cứu cả một bức tranh lớn, kinh tế vĩ mô quan tâm đến mục tiêu kinh tế
của cả một quốc gia .
Kinh tế học vi tập trung nghiên cứu đến từng thể các doanh nghiệp ... thực tế
đã tạo nên nền kinh tế.Nói một cách cụ thể là kinh tế học vi mô nghiên cứu xem họ đạt được mục
đích với nguồn tài nguyên hạn chế bằng cách nào sự tác động của họ đến toàn bộ nền kinh tế
quốc dân ra sao.
Kinh tế học vi kinh tế học tuy khác nhau nhưng đều những nội dung quan
trọng của kinh tế học, không thể chia cắt nhau, mà bổ sung cho nhau, tạo thành hệ thống kiến thức
của kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Thực tế đã chứng minh, kết quả của kinh tế vĩ
mô phụ thuộc vào các hành vi của kinh tế vi mô, kinh tế quốc dân phụ thuộc vào sự phát triển của
doanh nghiệp, của tế bào kinh tế trong sự tác động ảnh hưởng của kinh tế mô, của nền kinh tế.
Kinh tế tạo hành lang, tạo môi trường, tạo điều kiện cho kinh tế vi phát triển. Trong
thực tiễn kinh tế và quản lý kinh tế, nếu chỉ giải quyết những vấn đề kinh tế vi mô hay quản lý sản
xuất kinh doanh mà không có sự điều chỉnh cần thiết của kinh tế vĩ mô, quản lý vĩ mô hay quản lý
nhà nước về kinh tế thì chẳng khác nào chỉ thấy từng cây không thấy cả rừng cây, chỉ thấy
từng tế bào kinh tế mà không thấy cả nền kinh tế.
Dựa vào cách tiếp cận kinh tế học được phân tích từ hai góc độ thực chứng và chuẩn tắc.
Kinh tế học thực chứng mô tả, phân tích, giải thích các sự kiện, hiện tượng kinh tế một cách
khách quan, khoa học. Để thể nhận biết đâu nghiên cứu kinh tế học thực chứng, chúng ta
xem xét nghiên cứu đó có trả lời cho các câu hỏi sau hay không? Vấn đề đó là gì? Là như thế nào?
Tại sao lại như vậy? Điềusẽ xảy ra nếu? Khi nghiên cứu kinh tế học thực chứng chúng ta xem
xét những luận điểm dưới dạng: Nếu điều này thay đổi thì điều kia sẽ xảy ra.
Ví dụ: Tỷ lệ thất nghiệp tang cao làm cho đời sống của người lao động gặp khó khăn.
Mục đích của kinh tế học thực chứng là muốn biết lý do vì sao nền kinh tế lại hoạt động như vậy.
Trên sở đó dự đoán phản ứng của khi sự thay đổi của hoàn cảnh, đồng thời chúng ta
thể sử dụng các công cụ điều chỉnh để hạn chế tác động tiêu cực khuyến khich mặt tích cực
nhằm đạt được những kết quả mong muốn.
Kinh tế học chuẩn tắc đề cập đến mặt đạo được giải quyết bằng sự lựa chọn, nghĩa
nó đưa ra quan điểm đánh giá hoặc lựa chọn cách thức giải quyết các vấn đề kinh tế. Phân tích
chuẩn tắc trả lời cho câu hỏi: Nên làm gì? Nên làm như thế nào? phụ thuộc vào giá trị cảm
nhận của mỗi cá nhân và rất khó có thể kiểm định được là đúng hay sai.
dụ: Chính phủ nên mở rộng các chương trình đào tạo, nâng cao tay nghề cho người lao
động để giảm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên cho nền kinh tế.
Quan điểm thực chứng được hình thành dựa trên sự thống nhất mang tính phổ biến
khách quan, sở cho các quan điểm về chuẩn tắc về những quyết định, chính sách nào
nên làm. Hay nói cách khác, kinh tế học thực chứng trung tâm của kinh tế học kinh tế học
chuẩn tắc sẽ là nhân tố thúc đẩy và tạo ra hướng nghiên cứu mới cho kinh tế học thực chứng.
Việc nghiên cứu kinh tế thường được tiến hành từ kinh tế học thực chứng rồi chuyển sang kinh tế
học chuẩn tắc
1.1.2. Đối tượng và nội dung nghiên cứu của kinh tế vi mô
Kinh tế học vi một môn khoa học kinh tế, một môn khoa học bản cung cấp kiến
thức luận phương pháp kinh tế cho các môn quản doanh nghiệp trong các ngành kinh tế
quốc dân. khoa học về sự lựa chọn hoạt động kinh tế vi trong sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp. Đó là sự lựa chọn để giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản của một doanh nghiệp,
một tế bào kinh tế: Sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai.
Kinh tế học vi mô nghiên cứu tính quy luật, xu thế vận động tất yếu của các hoạt động kinh
tế vi mô, những khuyết tật của kinh tế thị trường va vai trò của sư điều tiết. Do đó, tuy nó khác với
môn khoa học về kinh tế học mô, về kinh tế quản doanh nghiệp, nhưng mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Các môn khoa học về quản lý kinh tếquản doanh nghiệp được xây dựng
cụ thể trên những sở luận phương pháp luận tính khách quan của kinh tế học vi mô.
Mặt khác, khoa học kinh tế vĩ mô phải xuất phát và phải thúc đẩy cho kinh tế học vi mô phát triển
hoàn thiện không ngừng.
Để thực sự trở thành một môn khoa học về sự lựa chọn, kinh tế học vi mô nghiên cứu
ba vấn đề cốt lõi trên, lựa chọn các vấn đề cơ bản, tính quy luật xu hướng vận động của
kinh tế vi mô, những khuyết tật của kinh tế thị trường vai trò của chính phủ, kinh tế vi
mô sẽ nghiên cứu tập trung vào một số nội dung quan trọng nhất như vấn đề kinh tế cơ bản:
cung cầu, cạnh tranh và độc quyền, cầu về hàng hoá,cung và cầu về lao động, sản xuất
và chi phí, lợi nhuận và quyết định cung cấp, hạn chế của kinh tế thị trường và sự can thiệp
của chính phủ, doanh nghiệp nhà nước và tư nhân hoá...
1.1.3. Phương pháp nghiên cứu kinh tế vi mô
Kinh tế học vi khoa học về kinh tế, khoa học về sự lựa chọn các hoạt động
kinh tế vi tối ưu trong từng doanh nghiệp, từng tế bào kinh tế. Việc nghiên cứu kinh tế
vi mô cần căn cứ vào các luận điểm của Mác về kinh tế thị trường. Nó quan hệ chặt chẽ
với môn khoa học kinh tế vĩ mô và kinh tế doanh nghiệp , cho nên cũng có phương pháp
nghiên cứu chung, đồng thời cũng có những phương pháp cụ thể khác nhau.
a) Nghiên cứu những vấn đề lý luận, phương pháp luận và phương pháp lựa chọn kinh tế tối
ưu trong các hoạt động kinh tế vi mô. Muốn vậy, cần nắm vững khái niệm, định nghĩa, nội dung,
công thức tính toán, sở hình thành các hoạt động kinh tế vi mô, quan trọng hơn rút ra được
tính tất yếu và xu thế phát triển của nó. Lựa chọn kinh tế tối ưu các hoạt động kinh tế vi mô là vấn
đề cốt lõi xuyên suốt của kinh tế học vi mô, cho nên nghiên cứu các vấn đề cụ thể của kinh tế vi
mô phải luôn nắm vững bản chất và phương pháp lựa chọn.
b) Gắn chặt việc nghiên cứu luận, phương pháp luận với thực hành trong quá trình học
tập. Thực hành một phương pháp rất quan trọng để củng cố, nâng cao những nhận thức về
luận, tập vận dụng lỹ luận, phương pháp luận để giải quyết những vấn đề cụ thể, các tình huống cụ
thể trong hoạt động kinh tế vi mô. Muốn vậy, phải làm các bài tập tình huống, chuẩn bị tham
gia thảo luận, tranh luận khoa học các đề tài, nghiên cứu các tiểu luận và chuyên đề; tập giải thích;
phân tích chứng minh các tình huống xảy ra trong hoạt động vi của các doanh nghiệp; tập
xây dựng các dữ kiện, các tình huống, phân tích và kiến nghị xử lý các tình huống đó một cách tối
ưu trong những điều kiện cho phép; xây dựng các sơ đồ, đồ thị phản ánh, biểu diễn tính quy luật,
xu thế phát triển của các hoạt động kinh tế vi mô trên đồ thị để làm rõ và sâu sắc hơn luận cứ khoa
học của các quyết định lựa chọn kinh tế.
c) Gắn chặt việc nghiên cứu lý luận, phương pháp luận với thực tiễn sinh động phong phú,
phức tạp của các hoạt động kinh tế vi mô của các doanh nghiệp ở Việt nam và các nước.
d) Cần hết sức coi trọng việc nghiên cứu, tiếp thu những kinh nghiệm thực tiễn về các hoạt
động kinh tế vi mô trong các doanh nghiệp tiên tiến của Việt Nam và của các nước trên thế giới.
e) Ngoài những phương pháp chung đã được vận dụng đối với môn học kinh tế vi nêu
trên, chúng ta thấy việc nghiên cứu kinh tế vi cần được áp dụng các phương pháp riêng như
sau:
- Phương pháp mô hình hóa: Bao gồm việc xây dựng mô hình, phát triển mô hình bằng cách phân
tích dựa trên các dữ liệu thu thập được, kiểm chứng thực tế.
- Phương pháp so sánh tĩnh: Theo phương pháp này, các giả thuyết kinh tế về mối quan hệ giữa
các biến luôn phải đi kèm với giả định các yếu tố khác không đổi (Ceteris Paribus) tronghình
đưa ra.
- Phương pháp phân tích cận biên: Đây là phương pháp đặc thù của kinh tế học nói chung và kinh
tế học vi nói riêng. cũng phương pháp bản của sự lựa chọn kinh tế tối ưu bởi bất
cứ sự lựa chọn nào cũng phải dựa trên sự so sánh giữa lợi ích mang lại chi phí bỏ ra. Phương
pháp phân tích cận biên được sử dụng để tìm ra điểm tối ưu của sự lựa chọn. Theo phương pháp
này, chúng ta phải so sánh lợi ích và chi phí tại mỗi đơn vị hàng hóa, dịch vụ được sản xuất (hoặc
tiêu dùng) tăng thêm. Lợi ích và chi phí đó được gọi là lợi ích cận biên và chi phí cận biên.
Bằng việc sử dụng tổng hợp các phương pháp nối trên, việc nghiên cứu kinh tế học vi mô sẽ
đạt chất lượng, hiệu quả caothể kết luận rằng, muốn học tập tốt phải nắm được quy luật
tính quy luật của các hoạt động biết sử dụng tốt khoa học về sự lựa chọn trong các tình huống
khác nhau, trong hoạt động kinh doanh phức tạp của các doanh nghiệp .
1.2. Doanh nghiệp và những vấn đề kinh tế cơ bản của doanh nghiệp
1.2.1. Doanh nghiệp và chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp
a. Doanh nghiệp .
Doanh nghiêp đơn vị kinh doanh hàng hoá dịch vụ theo nhu cầu thị trường hội để
đạt lợi nhuận tối đa hiệu quả kinh tế hội cao nhất .Một doanh nghiêp tiến hành kinh doanh
có hiệu quả là doanh nghiêp thoả mãn tối đa của thị trườnghội về hàng hoá, dịch vụ trong
giới hạn cho phép của nguồn lực hiện có và thu được lợi nhuận cao nhất, đem lại hiệu quả kinh tế
xã hội cao nhất .
Có thể phân loại doanh nghiệp theo nhiều cách khác nhau:
-Theo ngành kinh tế kỹ thuật, ta doanh nghiêp công nghiệp, xây dựng, doanh nghiêp
nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, doanh nghiệp thương nghiệp, doanh nghiệp vận tải, kinh
doanh du lịch, kinh doanh tiền tệ .v.v…
- Theo cấp quản lý , ta có doanh nghiệp do trung ương quản lý và doanh nghiệp địa phương
quản lý.
-Theo hình thức sở hữu về liệu sản xuất ta đa hình thức tổ chức kinh doanh: Doanh
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp công hợp doanh , doanh nghiệp tập thể ( Hợp tác xã), doanh
nghiệp liên doanh, doanh nghiệp tư nhân, Công ty cổ phần, công ty TNHH. Trong những năm gần
đây chúng ta đã phát triển các tổng công ty và các tập đoàn sản xuất …Trong đó doanh nghiệp nhà
nước có vị trí chủ đạo trong hệ thống doanh nghiệp .
- Theo quy mô sản xuất kinh doanh, ta có doanh nghiệp quy mô lớn, quy mô vừa và quy
nhỏ, trong đó quyvừa nhỏ với kỹ thuật hiện đại nhiều ưu điểm trong điều kiện đổi mới
kinh tế của Việt Nam hiện nay.
- Theo trình độ kỹ thuật, có doanh nghiệp sử dụng lao động thủ công, doanh nghiệp nửa cơ
khí, cơ khí hoá và tự động hoá .
Các doanh nghiệp quyền bình đẳng trước pháp luật của nhà nước trong sản xuất kinh
doanh, được quản theo chế thị trường sự quản của nhà nước. Nhiệm vụ quyền hạn,
quyền lợi của các doanh nghiệp gắn chặt với nhau. Các doanh nghiệp được thành lập, hoạt động
và giải thể theo đúng quy định của của pháp luật. Các doanh nghiệp nhà nước thực hiện những
nhiệm vụ kinh tế, hội quan trọng nhất, được thành lập hoạt động giải thể theo luật doanh
nghiệp nhà nước của mỗi nước. Các doanh nghiệp nhân do các nhân làm chủ tự chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp là đơn vị kinh doanh
mức vốn không thấp hơn vốn pháp định được thành lập, hoạt động giải thể theo luật doanh
nghiệp tư nhân của mỗi nước. Công ty được tổ chức dưới hai hình thức: Công ty trách nhiệm hữu
hạn công ty cổ phần. Công ty trách nhiệm hữu hạn một loại doanh nghiệp , trong đó phần
góp vốn của các thành viên phải đóng góp đủ ngay khi thành lập công ty, công ty không được
phép phát hành bất cứ một loại chứng khoán nào. Công ty cổ phần là một loại doanh nghiêp trong
đó số cổ đông trong suốt thời gian hoạt động không ít hơn mức quy định cho phép của mỗi nước,
vốn điều lệ được chia làm nhiều phần bằng nhau, trị giá mỗi cổ phần được gọi mệnh giá cổ
phiếu, mỗi cổ đông thể mua một hoặc nhiều cổ phần theo quy định, công ty được thành lập,
hoạt động và giải thể theo luật công ty của mỗi nước .
b. Quá trình kinh doanh của doanh nghiệp
Quá trình kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế, kỹ thuật, xã hội của
từng loại doanh nghiêp, chúng ta có thể khái quát quá trình kinh doanh của một doanh nghiệp như
sau:
Đối với các doanh nghiệp sản xuất của cải vật chất: Quá trình kinh doanh gọi quá trình
sản xuất kinh doanh, đó quá trình bao gồm từ việc đầu tiên nghiên cứu, xác định nhu cầu thị
trường về hàng hoá thu tiền về cho doanh nghiêp. Quá trình đó bao gồm rất nhiều giai đoạn,
mỗi giai đoạn phải thực hiện một số công việc cụ thể theo một công nghệ hợp lý, với một thời
gian nhất định, tiêu hao một lượng chi phí nhất định về các nguồn lực được sử dụng. Quá trình
kinh doanh bao gồm các giai đoạn chủ yếu sau:
- Nghiên cứu nhu cầu thị trường về hàng hoá và dịch vụ để quyết định xem sản xuất cái gì .
- Chuẩn bị đồng bộ các yếu tố đầu vào để thực hiện quyết định sản xuất như : lao động đất
đai, thiết bị, vật tư, kỹ thụât, công nghệ.v.v…
- Tổ chức tốt quá trình kết hợp chặt chẽ, khéo léo giữa yếu tố cơ bản của đầu vào để tạo ra
hàng hoá và dịch vụ, trong đó lao động là yết tố quyết định .
- Tổ chứ tốt quá trình tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ , bán hàng hoá thu tiền về .
Đối với các doanh nghiệp thương mại- Dịch vụ thì quá trình kinh doanh diễn ra chủ yếu là
mua và bán hàng hoá dịch vụ nên quá trình kinh doanh bao gồm các giai đoạn sau:
+ Nghiên cứu nhu cầu thị trường về hàng hoá và dịch vụ lựa chọn và giải quyết định
lượng hàng hoá cần mua để bán cho khách hàng theo nhu cầu thị trường .
+ Tổ chức việc mua bán hàng hoá, dịch vụ theo nhu cầu thị trường.
+ Tổ chức việc bao gói hoặc chế biến, bảo quản chuẩn bị hàng hoá, dịch vụ.
+ Tổ chức việc bán hàng hoá và thu tiền về cho doanh nghiệp và chuẩn bị cho quá trình kinh
doanh tếp theo.
Doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ là một loại doanh nghiệp thực chất là làm nhiệm vụ buôn
bán hàng hóa ( tiền) do đó quá trình kinh doanh của nó bao gồm:
+ Nghiên cứu nhu cầu mua bán vay và gửi tiền ngoại tệ, nội tệ để quyết định lượng mua bán
và cho vay ngắn hạn và dài hạn .
+ Quy định các thủ tục cần thiết về mua, bán, vay và gửi tiền để bảo đảm an toàn, hạn chế
tới mức thấp nhất những rủi ro.
+ Tổ chức việc mua bán vay và gửi tiền theo thời gian quy định, tính toán lãi suất cho việc
mua, bán, vay và gửi theo quy định .
+ Bảo quản an toàn tuyệt đối số tiền bán ,mua, vay và gửi và kiểm tra việc thực hiện các quy
định của khách hàng .
+ Phát hiện và xử lý kịp thời những rủi ro trong kinh doanh tiền tệ, rủi ro trong kinh doanh
tiền tệ là tổng hợp của nhiều sự rủi ro.
Như vậy nhìn tổng quát quá trình kinh doanh của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng tổng hợp
của rất nhiều nhân tố chính trị, kinh tế kỹ thuật, tổ chức, tâm hội . Muốn cho quá trình
kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất với chi phí thấp nhất, trong đó nhân tố kinh tế vai trò quyết
định trong nền kinh tế thị trường nhưng không được coi nhẹ những nhân tố hội nhất những
nhân tố mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa.
c. Chu kỳ kinh doanh của doanh nghiêp
Một trong những biện pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả của kinh doanh là rút ngắn chu
kỳ kinh doanh. Chu kỳ kinh doanh khoảng thời gian từ lúc bắt đầu khảo sát, nghiên cứu nhu
cầu thị trường về hàng hoá, dịch vụ, đến lúc bán xong hàng và thu tiền về. Chu kỳ kinh doanh bao
gồm các loại thời gian chủ yếu sau:
- Thời gian nghiên cứu nhu cầu thị trường và quyết định sản xuất (Quyết định mua hàng hoá
dịch vụ)
- Thời gian chuẩn bị các đầu vào cho sản xuất hoặc mua bán các hàng hoá, dịch vụ
- Thời gian tổ chức quá trình sản xuất hoặc bao gói, chế biến và mua bán, hoặc thời gian
bán, mua, thời hạn gửi , vay tiền .v.v..
Như vậy chu kỳ kinh doanh phụ thuộc vào quá trình kinh doanh. Trong chu kỳ kinh doanh,
thời gian sản xuất hàng hoá dịch vụ là lớn nhất, trong thời gian sản xuất hàng hoá, dịch vụ thì thời
gian công nghệ (chế tạo, chế biến) có vị trí quyết định .
Muốn giảm chu kỳ kinh doanh cần áp dụng nhiều biện pháp để đẩy nhanh quá trình kinh
doanh, trong đó phải hết sức coi trọng các biện pháp về kinh tế, tổ chức kỹ thuật công nghệ
quản lý. Việc rút ngắn chu kỳ kinh doanh ý nghĩa rất quan trọng đến việc tăng nhanh kết quả
kinh doanh giảm các chi phí kinh doanh. Đó điều kiện tăng hiệu quả kinh tế của doanh
nghiệp. Điều quan trọng đây là, doanh nghiệp muốn đề ra các biện pháp để đạt được hiệu quả
cao trong kinh doanh tồn tại và phát triển được trong cạnh tranh, cần phải giải quyết tốt những vấn
đề kinh tế cơ bản, những hoạt động có tính quy luật và xu hướng vận động của các hoạt động kinh
tế vi mô trong dn của mình .
1.2.2. Những vấn đề kinh tế cơ bản của một doanh nghiệp
Thực tế phát triển kinh tế ở các nước trên thế giới và Việt Nam đã cho thấy: Muốn phát triển
một doanh nghiệp đều phải giải quyết được ba vấn đề kinh tếbản: Quyết định sản xuất cái gì?
Quyết định sản xuất như thế nào? Và quyết định sản xuất cho ai?
a. Quyết định sản xuất cái gì?
Quyết định sản xuất cái đòi hỏi phải làm nên sản xuất hàng hoá, dịch vụ gì, với số
lượng bao nhiêu, lúc nào thì sản xuất.
Nhu cầu của thị trường về hàng hoá và dịch vụ rất phong phú đa dạngngày càng tăng về
số lượng chất lượng như trên thực tế, nhu cầu khả năng thanh toán lại thấp hơn, cho nên
muốn thoả mãn nhu cầu lớn, trong khi khả năng thanh toán hạn, hội con người phải lựa
chọn từng loại nhu cầu lợi nhất cho hội, cho người tiêu dùng. Tổng số các nhu cầu khả
năng thanh toán của thị trường, đây là căn cứ, là xuất phát điểm định hướng cho các chính phủ và
các nhà kinh doanh quyết định việc sản xuất và cung ứng của mình .
Trên cơ sơ nhu cầu của thị trường, các chính phủ và các nhà kinh doanh tính toán khả năng
sản xuất của nền kinh tế, của doanh nghiệp các chi phí sản xuất tương ứng, để lựa chọn
quyết định sản xuất cung ứng cái thị trường cần để có thể đạt lợi nhuận tối đa. Việc lựa chọn
để quyết định sản xuất cái chính quyết định sản xuất những loại hàng hoá, dịch vụ nào, số
lượng bao nhiêu chất lượng thế nào, khi nào cần sản xuất cung ứng. Cung cầu cạnh tranh trên
thị trường tác động qua lại với nhau để có ảnh hưởng trực tiếp đến việc xác định giá cả thị trường
và số lượng hàng hoá cần cung cấp trên một thị trường.
Giá cả thị trường thông tin ý nghĩa quyết định đối với việc lựa chọn sản xuất cung
ứng những hàng hoá nào lợi nhất cho cả cung cầu trên thị trường.Giá cả trên thị trường
bàn tay vô hình điều chỉnh quan hệ cung cầu và giúp chúng ta lựa chọn và quyết định sản xuất .
b. Quyết định sản xuất như thế nào?
Quyết định sản xuất như thế nào nghĩa do ai với những tài nguyên nào, phương
pháp sản xuất nào.
Sau khi đã lựa chọn được cần sản xuất cái gì, các chính phủ,các nhà kinh doanh phải xem
xét lựa chọn việc sản xuất như thế nào để cạnh tranh thắng lợi trên thị trường lợi nhuận
cao nhất. Động cơ lợi nhuận đã khuyến khích các dn tìm kiếm, lựa chọn các phương pháp sản xuất
có hiệu quả nhất .
Phương pháp đó kết hợp tất cả các đầu vào để sản xuất ra đầu ra nhanh nhất sản xuất được
nhiều nhất chất lượng cao nhất với chi phí thấp nhất. Nói một cách cụ thể phải lựa chọn
quyết định giao cho ai sản xuất hàng hoá dịch vụ này bằng nguyên vật liệu gì, thiết bị dụng cụ
nào, công nghệ sản xuất ra sao để đạt tới lợi nhuận cao nhất, thu nhập quốc dân lớn nhất. Để đứng
vững và cạnh tranh thắng lợi trên thị trường, các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới kỹ thuật
công nghệ, nâng cao trình độ công nhân lao động quản lý, nhằm tăng hàm lượng chất xám
trong hàng hoá và dịch vụ. Chất lượng hàng hoá dịch vụ là vấn đề có ý nghĩa quyết định sống còn
trong cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường, chất lượng cao bảo đảm chữ tín của doanh nghiệp với
bạn hàng chiếm lĩnh được thị trường và cạnh tranh thắng lợi .
c. Quyết định sản xuất cho ai?
Quyết định sản xuất cho ai đòi hỏi phải xác định rõ ai sẽ được hưởng được lợi từ những
hàng hoá và dịch vụ của đất nước .
Thị trường quyết định giá cả của các yếu tố sản xuất, do đó thị trường cũng quyết định thu
nhập của các đầu ra-thu nhập về hàng hoá, dịch vụ, thu nhập của xã hội, thu nhập của tập thể hay
của nhân phụ thuộc vào quyền sở hữu giá trị của các yếu tố sản xuất, phụ thuộc vào lượng
hàng hoá và giá cả của các hàng hoá, dịch vụ. Vấn đề mấu chốt ở đây cần cần giải quyết là những
hàng hoá dịch vụ sản xuất phân phối cho ai để vừa thể kích thích mạnh mẽ sự phát triển
kinh tế có hiệu quả cao, vừa bảo đảm sự công bằng xã hội.
Theo ngôn ngữ kinh tế học thì ba vấn đề kinh tế bản nêu trên đều cần được giải quyết
trong mọi hội, một nhà nước hội chủ nghĩa, một nhà nước công nghiệp bản, một
công xã, một bộ tộc, một địa phương, một ngành hay một doanh nghiệp .
Việc lựa chọn để quyết định tối ưu ba vấn đề ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế- xã
hội, khả năng và điều kiện, phụ thuộc vào việc lựa chọn hệ thống kinh tế để phát triển, vào vai trò,
trình độ và sự can thiệp của các chính phủ, và chế độ chính trị-xã hội của mỗi nước.
Ảnh hưởng của hình kinh tế đến việc lựa chọn các vấn đề kinh tế bản của doanh
nghiệp .
- hình nền kinh tế chỉ huy (kế hoạch hoá tập trung): Đối với nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung, Nhà nước đứng ra giải quyết 3 vấn đề kinh tếbản. Nhà nước giao chỉ tiêu pháp lệnh
cho các ngành, các địa phương và cơ sở sản xuất kinh doanh. Nhà nước tiến hành quốc doanh hóa
và tập thể hóa, xóa bỏ tư nhân, Nhà nước cấp phát vốn và vật tư cho các ngành, các địa phương và
sở thực hiện nhiệm vụ. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ phải giao nộp sản phẩm tích lũy cho
Nhà nước theo chỉ tiêu pháp lệnh. Nhà nước sử dụng chế độ phân phối bằng hiện vật cho các
quan nhà nước, dùng chế độ tem phiếu để phân phối cho người tiêu dùng.
* Đặc trưng:
- Không chấp nhận sự tồn tại của thị trường và sự chi phối của cạnh tranh cung - cầu.
- Việc lựa chọn phương án giải quyết 3 vấn để cơ bản của nền kinh tế cũng như các cơ
sở sản xuất đều do Nhà nước thực hiện. Nhà nước can thiệp trực tiếp toàn diện vào các
hoạt động sản xuất kinh tế và tiêu dùng trong xã hội.
- Nhà nước quản lý tập trung, theo một kế hoạch thống nhất mọi hoạt động sản xuất
- tiêu dùng.
- Người sản xuất - tiêu dùng không mối quan hệ mật thiết các sở sản xuất
thực hiện các quá trình sản xuất giao nộp sản phẩm cho Nhà nước theo các chỉ tiêu kế
hoạch Nhà nước, để Nhà nước thực hiện quá trình phân phối sản phẩm cho người tiêu dùng
chứ không xuất phát từ nhu cầu người tiêu dùng.
* Ưu điểm:
- Giải quyết những nhu cầu công cộng cho xã hội.
- Hạn chế phân hoá giàu nghèo.
* Nhược điểm:
- Không thúc đẩy và kích thích sản xuất phát triển.
- Bộ máy quản lý công kềnh.
- Phân phối và sử dụng các nguồn lực kém hiệu quả.
- Gây ra sự trì trệ và bất công.
- Mô hình nền Kinh tế thị trường:
Là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, nghĩa là nền kinh tế hàng hoá tự điều
chính bằng "bàn tay hình" hay bằng các quy luật khách quan của kinh tế thị trường,
không có sự can thiệp của Chính phủ. Để giải quyết 3 vấn đề kinh tế cơ bản, nền kinh tế th
trường đều phải thông qua hoạt động của quan hệ cung cầu trên thị trường, quan hệ cạnh
tranh, gcả thị trường. Cách thức giải quyết này xuất phát từ tưởng “bàn tay hình”
của Adam Smith. Giá cả thị trường vai trò quyết định trong quá trình lựa chọn ra
quyết định, giá cả thị trường do quan hệ cung cầu quyết định và phản ánh quan hệ cung cầu,
cạnh tranh trên thị trường, giá cả thị trường đóng vai trò quyết định - "là cơ sở để các doanh
nghiệp lựa chọn và quyết định sản xuất cái gì, bao nhiêu, như thế nào để lợi nhuận cực đại.
* Ưu điểm: Tác dụng tích cực trong việc phân phối và sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực của đất nước, ngành, địa phương và từng cơ sở kinh doanh.
* Nhược điểm: vấn đề xã hội, môi trường, phân hoá giàu nghèo, bất công xã hội...
- hình nền kinh tế hỗn hợp: Nếu chỉ phát triển nền kinh tế theo hình nền kinh tế chỉ huy
hay nền kinh tế thị trường tự do sẽ việc chúng ta vỗ tay bằng một bàn tay. Việc vận hành nền
kinh tế theo mô hình hỗn hợp được ví như hình ảnh vỗ tay có đủ cả hai bàn tay.
Nền kinh tế hỗn hợp sự kết hợp giữa bàn tay hình (cơ chế thị trường) bàn tay hữu hình
( Chính phủ) , có nghĩa là cần phát triển các quan hệ cung cầu, cạnh tranh, tôn trọng vai trò của giá
cả thị trường, lấy lợi nhuận làm mục tiêu và động cơ phấn đấu. Tuy nhiên, cũng rất cần thiết đó
sự can thiệp của Nhà nước vào thị trường nhằm điều tiết thị trường hoạt động hiệu quả hơn và
khắc phục được các khuyết tật cuat cơ chế thị trường.
* Đặc trưng:
- Tôn trọng vai trò thị trường
- Tăng cường vai trò can thiệp của Nhà nước
- Các thể chế nhân công cộng cùng kiểm soát nền kinh tế: chế "bàn tay hình"
cho phép thể chế tư nhân kiểm soát nền kinh tế, còn thể chế công cộng kiểm soát nền kinh tế bằng
pháp luật và các chính sách kinh tế vĩ mô.
1.3. Lý thuyết lựa chọn kinh tế
1.3.1. Những vấn đề cơ bản của lý thuyết lựa chọn
Việc lựa chọn kinh tế tối ưu cho các hoạt động kinh tế vi của một doanh nghiệp vấn
đề đầu tiên ý nghĩa quyết định đến vịêc bảo đảm hiệu quả kinh tế của các doanh nghiêp trong
quá trình kinh doanh.Nhưng sự lựa chọn kinh tế tối ưu các hoạt động kinh tế vi đều phải dựa
trên lý thuyết lựa chọn, chỉ có trên cơ sở đó mới xây dựng được các phương pháp ứng dụng trong
các trường hợp cụ thể, trong từng lĩnh vực hoạt động với từng loại doanh nghiệp cụ thể:
a. thuyết lựa chọn tìm cách giải cách thức những nhân vật khác nhau sử dụng để
đưa ra những quyết định của mình. cố gắng giải thích tại sao họ lựa chọn cách thức lựa
chọn của họ.
Khái niệm hữu ích nhất được sử dụng trong thuyết lựa chọn khái niệm chi phí hội.
Đây một ý tưởng đơn giản, nhưng được vận dụng hết sức rộng rãi trong cuộc sống, nếu chúng
ta hiểu rõ khái niệm này, thì ta có được một công cụ xử lý một loạt vấn đề kinh tế khác nhau, một
loạt tình huống khác nhau xẩy ra trong hoạt động kinh tế .
Con người phải đối mặt với sự khan hiế m nguồn lực nên luôn phải lựa chọn tối ưu. Việc lựa
chọn sẽ đưa con người tới sự đánh đổi – Muốn sản xuất thêm một đơn vị hàng hóa này thì phải từ
bỏ một lượng hàng hóa khác. Đây chính chi phí hội để sản xuất một hàng hóa. Vậy chi phí
cơ hội là gì?
Chi phí hội: giá trị của phương án tốt nhất bị bỏ qua khi thực hiện sự lựa chọn. Chi
phí hội luôn xuất hiện khi tình trạng khan hiếm nguồn lực xảy ra, khi đó người ta sẽ buộc
phải đánh đổi, nếu tiến hành hoạt động này thì phải từ bỏ hoạt động khác. Chính vì vậy, khi đưa ra
bất cứ sự lựa chọn kinh tế nào, chúng ta cũng phải cân nhắc so sánh các phương án với nhau dựa
theo chi phí cơ hội của các phương án đó với nguyên tắc chọn phương án có chi phí cơ hội là nhỏ
nhất.
Chúng ta cần chú ý chi phí cơ hội không phải là tổng giá trị các lựa chọn bị bỏ lỡ chỉ
giá trị của lựa chọn tốt nhất thể bởi vì người ta không thể nào cùng một lúc sử dụng nhiều lựa
chọn thay thế được.
Theo quy luật chi phí cơ hội tăng lên, thì để thu nhập được nhiều hơn một loại hàng hoá nào
đó, chúng ta phải hi sinh một lượng lớn hơn các loại hàng hoá khác, do vậy người ta lý giải hành
vi kinh tế bằng cách luận chứng rằng, các tác nhân kinh tế sẽ lựa chọn hành động bằng cách cân
nhắc, so sánh những lợi ích do sự lựa chọn đó đem lạichi phí tính theo những hội đã bị bỏ
qua. dụ khi quyết định sử dụng thời gian của mình trong ngày hôm nay, tôi đã chọn nghe
chuyên gia giảng nghe chuyên đề, những lợi ích đạt được sẽ lớn hơn chi phí hội trong
trường hợp sử dụng thời gian hiện để đọc sách. Nghiên cứu quy luật chi phí cơ hội tăng lên
một căn cứ cho việc lựa chọn tối ưu của nền kinh tế, nhưng sẽ không phải là căn cứ duy nhất cho
việc lựa chọn tối ưu của cả nền kinh tế và xã hội.
Chúng ta hãy phân tích một số góc độ về sự lựa chọn kinh tế. Trước hết, tại sao sự lựa chọn
lại cần thiết ? Sự lựa chọn cần thiết bởi các nguồn lực giới hạn (trong dụ nêu trên
cho thấy, thời gian đã được phân bổ cho một mục đích thì không thể sử dụng vào mục đích khác)
Đối với một người nông dân, đất đai thể bị hạn chế- đã sử dụng trồng loại cây này rồi, thì
không thể dùng trồng loại cây khác. Một doanh nghiệp chỉ có một số vốn nhất định, nếu chúng đã
được sử dụng vào mục đích này thì không thể sử dụng vào mục đích khác. Một quốc gia cũng chỉ
một số lượng nguồn lực hạn chế, nếu chúng được sử dụng vào một mục đích rồi thì không thể
sử dụng cho một mục đích khác .
Vấn đề thứ hai là: Tại sao sự lựa chọn lại thể thực hiện được? Sự lựa chọn thể thực
hiện được là vì một nguồn lực khan hiếm có thể sử dụng vào mục đích này hay mục đích khác.Ví
dụ người tiêu dùng có thể dùng nhiều loại hàng hoá khác nhau. Một doanh nghiệpthể sản xuất
ra nhiều loại sản phẩm khác nhau. Người nông dân có thể sản xuất nhiều loại nông sản khác nhau
.Một hàng hoá nhất định có thể được sản xuất ra bằng nhiều loại đầu vào khác nhau. Vì thế, sự lựa
chọn phải được thực hiện trong tất cả những trường hợp này.
Đôi khi có một số yếu tố sản xuất khan hiếm nhất. Khi lựa chọn, người ta phải tập trung vào
nguồn lực khan hiếm đó- giới hạn ràng buộc, hạn chế khả năng lựa chọn. Đối với một nhà
triệu phú, tiền có thể không phải là một giới hạn ràng buộc khi tiến hành lựa chọn các mặt hàng
tiêu dùng- thời gian có lẽ quan trọng. Ngược lại đối với một người nghèo thất nghiệp, thời gian có
thể là thứ rất sẵn, nhưng tiền lại rất khan hiếm .
Nói một cách chung hơn, các nguồn lực khan hiếm khác nhau có thể thay thế cho nhau trong
quá trình sản xuất, nhưng tổng số nguồn lực hiện bị giới hạn bởi một giới hạn ngân sách nói
chung. Tương tự như vậy các hộ gia đình phải đối phó với một giới hạn ngân sách, khi lựa chọn
các mặt hàng tiêu dùng, sự lựa chọn một gia đình thể thực hiện bị quy luật bởi ngân sách
gia đình và giá cả hàng hoá.
Tóm lại, cả người sản xuất người tiêu dùng đều phải lựa chọn giữa các kết hợp đầu vào
và đầu ra khác nhau ( người sản xuất) và giữa các tập hợp hàng hoá khác nhau ( người tiêu dùng.
Nhưng sự lựa chọn được thực hiện như thế nào, đó là câu hỏi cần đặt ra để tiếp tục nghiên cứu .
b. Mục tiêu của sự lựa chọn
Sự lựa chọn được thực hiện trên cơ sở những mục tiêu của những tác nhân kinh tế, người ta
giả định rằng những mục tiêu này thể được xác định bởi hạn chế về các ngân sách gia đình
giá cả hàng hoá. Chi phí cho tiêu dùng tập hợp hàng hoá là cơ hội bị bỏ qua của sự tiêu dùng một
tập hợp hàng hoá khác hấp dẫn nhất đối với anh ta sau tập hợp hàng hoá đã chọn .
Người ta nhiều cách để đánh giá chi phí hội, dụ như chi phí tiết kiệm thể được
coi hội bị bỏ qua để sử dụng ngay số thu nhập hiện vào mục đích tiêu dùng. Chi phí của
lao động là cơ hội bị bỏ qua để không làm việc(nghỉ ngơi) chi phí của một việc nhận làm một
công việc nào đó là cơ hội bị bỏ qua của việc nhận một công việc hấp dẫn nhất sau công việc đó :
thế khi ước tính số tiền phải trả cho một người công nhân, nhà kinh doanh cần nhận định
những cơ hội khác mà người công nhân có đựơc. Những người dân từ nông thôn di cư ra thành thị
nhận định về những cơ hội kiếm được thu nhập ở thành phố, khi so sánh với thu nhập bị bỏ qua
nông thôn.
Nhà kinh doanh cũng có một hàm mục tiêu, và để đơn giản hoá vấn đề, người ta thường coi
đó sự thay đổi mục tiêu đơn giản, duy nhất lợi nhuận, mặc dầu anh ta thể những mục
tiêu khác, dụ như muốn một cuộc sống yên tĩnh, một chỗ đứng trong hội, hay tránh gặp
phải những điều bất trắc. Đương nhiên cho các nhà kinh doanh muốn tối đa hoá lợi nhuận
hay không, thì trong một nền kinh tế thị trường, kinh doanh vẫn phải kiếm được lợi nhuận để tồn
tại và có điều kiện phát triển trong cạnh tranh.
Khi theo đuổi mục tiêu lợi nhuận của mình, doanh nghiệp phải thường xuyên chạy theo
những hội khác nhau được chi phí hội của việc theo đuổi một hội sẽ sự bỏ
qua hội lợi nhất sau hội đã chọn. Không các hội khác nhau thì cũng không chi
phí cơ hội .
Khi một quyết định đã được thực hiện, những hội trong tương lai cũng thay đổi. Trước
khi đầu những hội người ta thể lựa chọn bao gồm cả những phương án cho những
công trình đầu khác nhau ( hoặc không đầu tư). Một khi đầu tư đã được thực hiện, nhà máy đã
được xây dựng, hội để sử dụng vốn đầu vào các hoạt động khác sẽ không còn nữa. Bây giờ
những phương án lựa chọn chỉ bao gồm việc sử dụng vốn đã được chôn chặt hoặc huỷ bỏ các công
trình đã đầu tư. Một chi phí đã bị chôn chặt không còn chi phí nữa, bởi các hội khác đã
biến mất. Bởi vậy khi quyết định tiếp tục sản xuất, sự chú ý được chuyển sang cho những chi phí
biến đổi hay lưu động, nghĩangười ta chú ý đến những nguồn lực thể sử dụng vào các công
việc khác và có chi phí cơ hội. Đối với một nhà máy đang hoạt động, thì nó có thể tiếp tục sản xuất
chừng nào doanh nghiệp còn tạo ra được một mức thu nhập vượt quá chi phí lưu động. Tuy nhiên
khi xem xét cần thay thế nhà máy hay không, mức thu nhập dự kiến thể phải đủ để đắp
những chi phí về vốn .
Trong nền kinh tế thị trường, nhiều quyết định do các nhân vật khác nhau đưa ra liên
quan đến những chi phí hội được biểu thị bằng giá cả, một nhân tố xác định tỷ lệ thay thế lẫn
nhau của các nguyên liệu (hay đầu vào) thông qua một giao dịch diễn ra trên thị trường. Sự tồn tại
của giá cả việc sử dụng của giá cả làm đơn giản hoá ràng hơn sự lựa chọn các tác
nhân kinh tế có thể thực hiện, đặc biệt là khi tất cả các loại giá đều có thể biểu thị bằng một đơn vị
tính toán tiền tệ. Khi đó gía cả tính bằng tiền khi mua một hàng hoá, thể hiện chi phí hội của
việc bỏ qua không mua một hàng hoá khác. Số lượng đây được xác định bởi giá cả tính bằng
tiền của chúng. Khái niêm chi phí cơ hội cũng được sử dụng trong thương mại quốc tế. biện pháp
bảo hộ thị trường trong nước có liên quan đến việc bỏ qua cơ hội buôn bán. Thị trường quốc tế tạo
ra một hội – một khoản chi phí do sử dụng các nguồn lực để sản xuất cho thị trường một nước
gây ra, hội bị bỏ qua việc tiêu dùng một mặt hàng thay thế được nhập khẩu. Vấn đề này trở
thành cơ sở cho lý thuyết về lợi thế so sánh .
Như vậy chúng ta đã thoả thuận về những cố gắng lý giải hành vi của các tác nhân kinh tế. Những
nội dung về chính sách kinh tế sẽ tập trung vào một mối quan tâm khác: đó là nhiệm vụ chủ quan về xác
định những phương án lựa chọn chính sách tốt nhất. Điều này thể được phân tích thông qua việc vận
dụng khoa học kinh tế học phúc lợi và lý thuyết lựa chọn công cộng. Xã hội được coi là một loạt các mục
tiêu ( một hàm phúc lợi xã hội) nó tìm cách để tối đa hoá trong điều kiện có những giới hạn về nguồn
lực, điều này có thể được thực hiện khi đánh giá chi phí cơ hội của những sự lựa chọn công cộng. Khi đó
vấn đề then chốt cần giải quyết là giá cả hiện hành trên thị trường có thể cung cấp cho chúng ta một cơ sở
đáng tin cậy đến mức nào, để đo lường chi phí cơ hội của xã hội, khi chi phí này chênh lệch với chi phí đo
lường bằng gía cả thị trường .
1.3.2. Bản chất và phương pháp lựa chọn kinh tế tối ưu
a. Bản chất của sự lựa chọn kinh tế tối ưu:
Từ việc nghiên cứu thuyết lựa chọn trên, chúng ta phải hiểu bản chất của mọi sự lựa
chọn kinh tế bởi những quy định của từng nhân doanh nghiệp ảnh hưởng đến toàn bộ
nền kinh tế. Chẳng hạn, chúng ta phải hiểu tại sao chọn sản xuất sản phẩm này mà không sản xuất
sản phẩm khác. Nhưng chúng ta đã biết, để sản xuất bất cứ hàng hóa, dịch vụ nào cũng cần có các
tài nguyên hay các yếu tố sản xuất, các yếu tố sản xuất là những đầu vào, mà chúng ta sử dụng để
sản xuất hàng hoá dịch vụ chúng ta mong muốn- đầu ra. Không các yếu tố sản xuất thì
không thể sản xuất được cái gì cả. Nhưng việc giới hạn cơ bản trong việc lựa chọn sản xuất và tiêu
dùng là sự khan hiếm các nguồn tài nguyên, đều khan hiếm so với mong muốn của chúng ta. Điều
đó chính là những sự lựa chọn khó khăn, trong số nguồn lực có hạn đòi hỏi chúng ta phải lựa chọn
để sản xuất hàng hoá, dịch vụ này thì sẽ mất một cơ hội để sản xuất hàng hoá khác, do đó phải lựa
chọn thế nào cho đạt tới tối ưu trong giới hạn của nguồn lực cho phép. Sự lựa chọn tối ưu cần
trước hết ưu tiên về mặt kinh tế, nhưng phải chú ý thoả đáng các vấn đề về xã hội ngay trong từng
doanh nghiệp .
Chính sự lựa chọn đúng đắn sẽ cho phép chúng ta thể thu nhiều lợi ích nhất từ những
nguồn lực chúng ta có. Lợi ích đây phải xem xét cả về mặt kinh tế, cả về mặt hội cả về
mặt an toàn an ninh quốc gia ... nhưng trong kinh doanh thì lợi ích lợi ích kinh tế cao nhất
của doanh nghiệp, là tiêu chuẩn của sự lựa chọn .
thể nói việc lựa chọn sản xuất cái gì -Kết hợp đầu ra cho phù hợp với đầu vàohạn
những quyết định kinh tế quan trọng nhất của một nền kinh tế, một doanh nghiệp cũng như của
một cá nhân.
Từ nhận thức trên có thể khảng định rằng, bản chất của sự lựa chọn kinh tế là căn cứ
vào nhu cầu vô hạn của con người,của xã hội, của thị trường đề ra các quyết định tối ưu về
sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai trong giới hạn cho phép của nguồn
lực hiện có .
b. Phương pháp tiến hành lựa chọn kinh tế
Trong việc lựa chọn kinh tế tối ưu, thông thường người ta sử dụng mô hình toán với các bài
toán tối ưu. Nhưng ràng buộc quan trọng nhất giới hạn của đường năng lực sản xuât, điều đó
cũng có nghĩa là, việc chúng ta có thể sản xuất cái gì và bao nhiêu trong một khoảng thời gian nào
đó, luôn luôn một giới hạn nhất định của nguồn lực cho phép. trong tương lai giới hạn này
thể bị xóa bỏ hoàn toàn, điều đó không làm cho những sự lựa chọn ngày nay của chúng ta dễ
dàng hơn chút nào cả. Việc lựa chọn kinh tế để có những quyết định tối ưu của chúng ta được tiến
hành được minh hoạ trên đường giới hạn năng lực sản xuất không nói về do chỉ chọn sự
kết hợp này mà lại không chọn sự kết hợp khác. Phải nhấn mạnh rằng tất cả luận cứ khách quan và
chủ quan về sự lựa chọn các quyết định kinh tế tối ưu đều phải nằm trên đường giới hạn của năng
lực sản xuất hiện có.
Đường giới hạn khả năng sản xuất là một trong những công cụ kinh tế đơn giản nhất có thể
minh họa rõ ràng tính khan hiếm nguồn lực và sự lựa chọn kinh tế.
Xây dựng đường giới hạn khả năng sản xuất
Để sản xuất cần phải những nguồn lực công nghệ nhất định. Tuy nhiên, những nguồn
lực công nghệ chúng ta hiện giới hạn chứ không phải hạn. Do đó, hội
không thể có mọi thứ mà họ muốn vì bị giới hạn bởi khả năng sản xuất.
Các giả định cần thiết trong việc xây dựng đường giới hạn khả năng sản xuất (sử dụng phương
pháp trừu tượng hóa, đơn giản hóa để nghiên cứu bản chất vấn đề với những giả thiết):
- Thứ nhất: Nền kinh tế chỉ sản xuất hai loại hàng hóa (quần áo và lương thực).
- Thứ hai: Số lượng nguồn lực sẵn có trong nền kinh tế là cố định.
- Thứ ba: Trình độ công nghệ là cố định.
Ví dụ: Xét một nền kinh tế có các khả năng sản xuất như sau ( các khả năng sản xuất có thể thay
thế nhau)
Khả năng Lương thực Quần áo
(Triệu tấn) (Triệu bộ)
A
0
50
B 5
40
C
10 30
D
15 20
E
20
10
F
25
0
Hình 1.1. Đường giới hạn khả năng sản xuất
Đường giới hạn khả năng sản xuất (PPF- Production Posibilities Frontier) một tập hợp
các phối hợp tối đa số lượng các sản phẩm mà nền kinh tế có thể sản xuất được, là đường gồm tập
hợp tất cả các điểm biểu thị sự kết hợp các nguồn lực thích hợp để sản xuất ra một khối lượng sản
phẩm nhất định của nền kinh tế. Đường PPF cho biết các mức phối hợp tối đa của sản lượng
nền kinh tế có thể sản xuất được khi sử dụng toàn bộ nguồn lực sẵn có.
Những phương án nằm trên đường PPF như A, B, C, D, E, F là những phương án tối ưu. Ta
nhận thấy rằng, đường PPF dáng cong lồi ra phía ngoài (cong lõm về gốc tọa độ). Các khoảng
dịch chuyển từ A B C… mỗi đoạn tương ứng với việc chuyển một phần nguồn lực từ ngành quần
áo sang ngành sản xuất lương thực mỗi lần chuyển này làm giảm sản lượng trong ngành quần
áo nhưng lại tăng sản lượng trong ngành lương thực. Với mỗi một lần chuyển nguồn lực, chúng ta
nhận được ít hơn sản lượng lương thực sản xuất thêm phải chịu mất một lượng tăng thêm của
sản lượng quần áo.
Đường giới hạn khả năng sản xuất cũng cho ta thấy, những điểm nằm phía ngoài đường giới
hạn khả năng sản xuất (ví dụ như điểm J trong hình 1.1) những điểm không thể đạt được
không đủ nguồn lực sản xuất. Còn những điểm nằm phía trong đường giới hạn khả năng sản xuất
(ví dụ như điểm I trong hình 1.1) là những điểm chưa hiệu quảchưa sử dụng hết các nguồn lực
hiện có hay nói cách khác nguồn lực còn dư thừa.
Như vậy hiệu quả sản xuất diễn ra khi hội không thể tăng sản lượng một loại hàng hoá
này, không cắt giảm sản lượng một loại hàng hoá khác. Một nền kinh tế hiệu quả, một
doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thì các điểm lựa chọn đều nằm trên đường giới hạn khả năng sản
xuất của nó.
Đường giới hạn của năng lực sản xuất sẽ ứng dụng để tìm kiếm sự lựa chọn tối ưu, chẳng
hạn: trong nền kinh tế thị trường, theo quan hệ Cung- Cầu, nguồn lực càng khan hiếm thì việc lựa
chọn càng chặt chẽ; cạnh tranh càng gay gắt thì sự lựa chọn càng phức tạp.
- Để lựa chọn tối ưu, cần khai thác, sử dụng đầy đủ và có hiệu quả các nguồn lực hiện có, để
thoả mãn tối đa nhu cầu của thị trường về hội, đạt lợi nhuận cao, đạt hiệu quả kinh tế- hội
lớn.
- Góp phần làm sáng tỏ việc lựa chọn ba vấn đề kinh tế cơ bản: sản xuất cái gì ? sản xuất
như thế nào? sản xuất cho ai ? trong giới hạn của nguồn lực cho phép.
- Giúp cho người lựa chọn tối ưu nhu cầu của cuộc sống, sự thích nghi về phát triển của
mình trong từng thời kỳ từng hoàn cảnh cụ thể.
1.4. Ảnh hưởng của quy luật khan hiếm, lợi suất giảm dần, chi phí cơ hội ngày càng tăng và
hiệu quả đến việc lựa chọn kinh tế tối ưu
Việc lựa chọn kinh tế tối ưu ba vấn đề kinh tế đã nêu trên chịu ảnh hưởng và tác động mạnh
của nhiều quy luật, trong đó quy luật khan hiếm, lợi suất giảm dần, chi phí hội ngày càng
tăng và hiệu quả.
1.4.1. Ảnh hưởng của quy luật khan hiếm
Sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào sản xuất cho ai, sẽ chẳng thành vấn đề nếu tài
nguyên đó không bị hạn chế .
Nếu thế sản xuất một số lượng tận về mọi hàng hoá hoặc nếu thoả mãn được đầy đủ
mọi nhu cầu của con người, thì nếu sản xuất quá nhiều một loại hàng hoá nào đó cũng không
sao: hoặc kết hợp lao động, máy móc thiết bị về vật liệu một cách không khôn ngoan cũng
chẳng sao. Bởi tất cả mọi người muốn bao nhiêu cũng có, nên phân phối hàng hoá về thu nhập
như thế nào giữa các giai cấp con người cũng không sao. Nhưng thực tế cuộc sống lại không
như vậy, mọi hàng hoá đều không cho không, bởi vì nguồn lực hạn chế, tài nguyên ngày một khan
hiếm cạn kiệt. Mặc tiêu dùng của con người hiện vẫn còn nhiều hoang phí, về trên thực tế,
kinh tế học phải xét đến tình trạng hàng hoá còn khan hiếm. Mặc nhiều người giàu có,
nhưng thế giới vẫn còn hàng tỷ người đang sống nghèo khó. Mức sản xuất tăng cao hơn, nhưng
cũng mang theo nó mức tiêu thụ ngày càng tăng, tình trạng khan hiếm còn gay gắt. Nhu cầu ngày
càng tăng, càng đa dạng phong phú, nhất về chất lượng hàng hóa dịch vụ ngày càng cao,
chẳng hạn người ta muốn nước máy trong nhà, hệ thống sưởi ấm, điều hoà nhiệt độ, tủ lạnh,
học hành, phim ảnh, tivi, sách báo…. nhưng tài nguyên để thoả mãn nhu cầu trên lại có hạn, ngày
một khan hiếm và cạn kiệt: Lao động, đất đai, khoán sản, hải sản lâm sản ...
Do vậy, vấn đề lựa chọn kinh tế tối ưu ngày càng phải đặt ra một cách nghiêm túc, gay gắt
và thực hiện rất khó khăn. Đó là đòi hỏi tất yếu của nhu cầu ngày một tăng về tài nguyên ngày một
khan hiếm. Các doanh nghiệp phải chọn lựa các vấn đề kinh tế cơ bản của mình trong giới hạn cho
phép của khả năng sản xuất hiện có mà xã hội đã phân phối cho. Hãy xem một doanh nghiệp có số
người nhất định, trình độ văn hoá và kỹ thuật của họ như vậy: với nhà xưởng, máy móc, thiết
bị phương tiện; cùng với đất đai, nguyên vật liệu nhiên liệu động lực, hoặc vốn cố định
vốn lưu động nhất định, thì khi quyết định sản xuất cái và như thế nào, doanh nghiệp phải thật
sự dựa vào giới hạn của năng lực sản xuất hiện để quyết định xem những nguồn lực đó phải
được phân bổ như thế nào giữa các khâu công việc để làm sao thoả mãn tối đa nhu cầu thị trường
và đạt lợi nhuận cao nhất. Đó là sự lựa chọn của doanh nghiệp trong điều kiện giới hạn của nguồn
lực cho phép .
1.4.2. Ảnh hưởng của quy luật lợi suất giảm dần
Chúng ta thể sử dụng đường giới hạn năng lực sản xuất để minh hoạ một trong những
mối quan hệ kinh tế quan trọng nhất quy luật lợi suất giảm dần. Quy luật này nói nên mối liên hệ
không phải giữa hai loại hàng hoá ( thiết bị bản hàng tiêu dùng) giữa đầu vào của
quá trình sản xuất( như lao động) và đầu ra mà nó góp phần sản xuất .
- Quy luật lợi suất giảm dần đề cập khối lượng đầu ra thêm ngày càng giảm, khi ta liên
tiếp bỏ ra những đơn vị bằng nhau của một đầu vào biến đổi ( như lao động) với một số lượng cố
định của một đầu vào khác (như đất đai ) chẳng hạn một trang trại trồng ngô. Nếu một lao động bỏ
vào đó sản lượng 2000kg ngô: khi tăng thêm một lao động nữa thì sản lượng đạt 3000kg ngô
liên tiếp tăng thêm một lao động nữa thì sản lượng đạt 3500kg ngô …Như vậy, tăng lao động thứ
nhất thì sản lượng tăng thêm 1000kg ngô, nhưng tăng lao động thứ 2 thì sản lượng được tăng lên
500kg ngô.
- Lợi suất theo quy không đổi, tình huống này được giải như sau: Sự tăng thêm cân
đối về quy sản xuất, khi tất cả các đầu vào đều tăng theo một tỷ lệ đầu ra cũng tăng theo
một tỷ lệ đó. Lợi suất theo quy mô không đổi xảy ra khi sự nhân đôi tất cả các đầu vào( lao động,
đất đai, tư bản) đem lại kết quả nhân đôi đầu ra. Nhưng thực tế của sản xuất kinh doanh lại không
đơn giản như vậy, xảy ra như sau: thể thời gian đầu ta tăng các đầu vào đồng bộ sẽ cho ta
tăng tỷ lệ đầu ra tương ứng ( như trên); nếu tiếp tục tăng đầu vào nữa, đến mức sẽ làm cho năng
suất giảm xuống vào núc đó tỷ lệ đầu ra không tương ứng với đầu vào.
Từ đây thể kết luận rằng, quy luật lợi suất giảm dần nội dung chủ yếu một sự tăng
lên của một đầu vào biến đổi so với một đầu vào khác cố định, trong một trình độ kỹ thuật nhất
định, sẽ nâng cao tổng sản lượng; nhưng ở một điểm nào đó, sản lượng tăng thêm được nhờ cùng
một lượng bổ sung ở đầu vào có khả năng ngày một nhỏ hơn.
Quy luật này giúp cho các doanh nghiệp tính toán lựa chọn đầu tư các đầu vào một cách tối
ưu hơn
1.4.3. Ảnh hưởng của quy luật chi phí cơ hội ngày càng tăng
Nếu đường giới hạn năng lực sản xuất là một đường thẳng thì chi phíhội để có thêm vải
khi hi sinh lương thực sẽ không đổi. Đây là trường hợp chi phí cơ hội không thay đổi. Nhưng phổ
biến hơn là, đường giới hạn năng lực sản xuất cong lồi. Khi đường giới hạn cong lồi, ta gặp quy
luật chi phí cơ hội ngày càng tăng.
Quy luật chi phí hội ngày càng tăng thắng thế, khi muốn thêm một số lượng
bằng nhau về mặt hàng, hội phải hi sinh ngày càng nhiều số lượng một mặt hàng khác.
Đường cong lồi của đường giới hạn khả năng sản xuất biểu thị quy luật chi phí cơ hội ngày
càng tăng. Chúng ta thấy quy luật chi phí cơ hội ngày càng tăng có quan hệ với quy luật lợi
suất giảm dần, nhưng không phải là một. Chúng ta nhận thấy rằng cùng với quy luật lợi suất
giảm dần, sản xuất thiết bị cơ bản và hàng tiêu dùng phải sử dụng các yếu tố sản xuất
( như lao động, thiết bị, đất đai…) theo những tỷ lệ hoặc cường độ khác nhau, nếu quy luật
chi phí cơ hội ngày càng tăng đúng, chẳng hạn để sản xuất lương thực cần đất đai lao
động, còn để sản xuất vải cần lao động còn đất đai không đáng kể, vậy giả sử đất đai là
cố định. Ta giả định hi sinh lượng hàng hoá công nghiệp (vải) để đưa lao động sang sản
xuất lương thực trên diện tích đất đai cố định. Tình huống này cho ta thấy rằng quy luật lợi
suất giảm dần phát huy tác dụng. Như vậy, mỗi lao động càng có ít diện tích sản xuất và do
đó đem lại ít sản phẩmmột đơn vị lương thực phải trả một lượng chi phí ngày càng cao
tính về mặt hi sinh sản xuất vải.
1.4.4. Ảnh hưởng của hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế là mối quan tâm duy nhất của kinh tế học nói chung, kinh tế vi mô nói
riêng
.
Hiệu quả, nói khái quát nghĩa không lãng phí, nhưng quan hệ chặt chẽ với việc sử
dụng năng lực sản xuất hiện. Một doanh nghiệp hoạt động hiệu quả khi không thể sản
xuất một mặt hàng khác với số lượng ít hơn, khi nằm trên đường gíới hạn năng lực sản xuất,
nhưng điểm có hiệu quả nhất là điểm cho phép vừa sản xuất tối đa các loại hàng hoá theo nhu cầu
thị trường sử dụng đầy đủ năng lực sản xuất. Dưới đường năng lực sản xuất không hiệu
quả, vì sử dụng không đầy đủ năng lực sản xuất. Ngoài đường năng lực sản xuất là không có trong
thực tế của doanh nghiêp vì không thực hiện được. Đường năng lực sản xuất thay đổi do quá trình
phát triển và suy thoái của doanh nghiêp.
Như vậy ta có thể nhấn mạnh mấy vấn đề về cơ bản về hiệu quả kinh tế theo quan điểm kinh
tế học vi mô.
Tất cả những quyết định sản xuất những cáitrên đường giới hạn năng lực sản xuất là
hiệu quả vì nó sử dụng hết nguồn lực .
Số lượng hàng hoá đạt trên đường giới hạn năng lực sản xuất càng lớn càng có hiệu quả .
Sự thoả mãn tối đa về mặt hàng, chất lượng, số lượng hàng hóa theo nhu cầu thị trường
trong giới hạn của đường năng lực sản xuất cho ta đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất .
| 1/23

Preview text:

CHƯƠNG 1
KINH TẾ VI MÔ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ
CƠ BẢN CỦA DOANH NGHIỆP
MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG -
Trang bị những kiến thức cơ bản về kinh tế vi mô, đối tượng, nội dung, phạm vi và phương
pháp nghiên cứu của kinh tế học nói chung và kinh tế vi mô nói riêng. -
Phân biệt được kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô, kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc -
Cách thức giải quyết những vấn đề kinh tế cơ bản của doanh nghiệp trong các mô hình kinh tế,
ảnh hưởng của các quy luật đến sự lựa chọn kinh tế tối ưu; vận dụng đường giới hạn khả năng
sản xuất để phân tích vấn đề nguồn lực khan hiếm và chi phí cơ hội. NỘI DUNG LÝ THUYẾT
1.1. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KINH TẾ VI MÔ
1.1.1Khái niệm kinh tế học và kinh tế học vi mô
Kinh tế học thực sự ra đời từ năm 1776 đánh dấu mốc quan trọng là tác phẩm “Bàn về nguồn
gốc của cải” của Adam Smith – nhà kinh tế học người Anh. Kinh tế học là môn khoa học nghiên
cứu cách thức mà cá nhân và xã hội lựa chọn việc sử dụng nguồn lực khan hiếm của mình như thế
nào. Các nhà kinh tế cho rằng vấn đề trọng tâm của kinh tế học là sự khan hiếm. Sự khan hiếm
nguồn lực đòi hỏi các cá nhân và xã hội phải đưa ra quyết định lựa chọn. Kinh tế học nghiên cứu
sự lựa chọn trong điều kiện nguồn lực khan hiếm. Sự khan hiếm xảy ra khi nguồn lực của nền kinh
tế không đủ để thỏa mãn cầu của tất cả các chủ thể trong nền kinh tế đó.
Trong thực tế không phải bất cứ cái gì chúng ta muốn đều có thể đạt được mà ngược lại, khả năng
đáp ứng nhu cầu của chúng ta luôn bị giới hạn, ít nhất là bị giới hạn bởi thu nhập, điều này thể
hiện sự khan hiếm về tiền bạc, đòi hỏi chúng ta phải có sự phân bổ hợp lý thu nhập sao cho nhu
cầu của chúng ta được thỏa mãn ở mức cao nhất. Nếu xét ở góc độ một doanh nghiệp hay một nền
kinh tế cũng vậy, nó cũng luôn phải đối mặt với sự khan hiếm về nguồn lực để sản xuất ra hàng
hóa, dịch vụ trong việc đáp ứng nhu cầu xã hội. Doanh nghiệp và nền kinh tế cũng phải tìm cách
phân bổ các nguồn lực sao cho có hiệu quả cao nhất.
Như vậy, vấn đề khan hiếm nguồn lực yêu cầu các nền kinh tế hay các doanh nghiệp phải giải
quyết đối với sự lựa chọn. Các nhà kinh tế cho rằng: “Kinh tế học là khoa học của sự lựa chọn”.
Kinh tế học tập trung vào việc sử dụng và quản lý các nguồn lực hạn chế để đạt được thỏa mãn tối
đa nhu cầu vật chất của con người. Kinh tế học nghiên cứu hành vi trong sản xuất, phân phối và
tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ trong điều kiện nguồn lực hạn chế.
Như vậy, Kinh tế học là môn khoa học xã hội nghiên cứu cách thức phân bổ và sử dụng nguồn
tài nguyên khan hiếm để đáp ứng nhu cầu vô hạn của con người.

Dựa vào hành vi kinh tế, các nhà kinh tế phân kinh tế học theo hai nhánh là Kinh tế học vi
mô và Kinh tế học vĩ mô.
Kinh tế vi mô là một môn khoa học quan tâm đến việc nghiên cứu, phân tích, lựa chọn các
vấn đề kinh tế cụ thể của các tế bào kinh tế trong một nền kinh tế. Kinh tế học vi mô nghiên cứu
những vấn đề tiêu dùng cá nhân, cung, cầu, sản xuất, chi phí, giá cả thị trường, lợi nhuận, cạnh
tranh của từng tế bào kinh tế. Còn kinh tế học vĩ mô tìm hiểu để cải thiện kết quả hoạt động của
toàn bộ nền kinh tế, nghiên cứu cả một bức tranh lớn, kinh tế vĩ mô quan tâm đến mục tiêu kinh tế của cả một quốc gia .
Kinh tế học vi mô tập trung nghiên cứu đến từng cá thể và các doanh nghiệp ... mà thực tế
đã tạo nên nền kinh tế.Nói một cách cụ thể là kinh tế học vi mô nghiên cứu xem họ đạt được mục
đích với nguồn tài nguyên hạn chế bằng cách nào và sự tác động của họ đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân ra sao.
Kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô tuy khác nhau nhưng đều là những nội dung quan
trọng của kinh tế học, không thể chia cắt nhau, mà bổ sung cho nhau, tạo thành hệ thống kiến thức
của kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Thực tế đã chứng minh, kết quả của kinh tế vĩ
mô phụ thuộc vào các hành vi của kinh tế vi mô, kinh tế quốc dân phụ thuộc vào sự phát triển của
doanh nghiệp, của tế bào kinh tế trong sự tác động ảnh hưởng của kinh tế vĩ mô, của nền kinh tế.
Kinh tế vĩ mô tạo hành lang, tạo môi trường, tạo điều kiện cho kinh tế vi mô phát triển. Trong
thực tiễn kinh tế và quản lý kinh tế, nếu chỉ giải quyết những vấn đề kinh tế vi mô hay quản lý sản
xuất kinh doanh mà không có sự điều chỉnh cần thiết của kinh tế vĩ mô, quản lý vĩ mô hay quản lý
nhà nước về kinh tế thì chẳng khác nào chỉ thấy từng cây mà không thấy cả rừng cây, chỉ thấy
từng tế bào kinh tế mà không thấy cả nền kinh tế.
Dựa vào cách tiếp cận kinh tế học được phân tích từ hai góc độ thực chứng và chuẩn tắc.
Kinh tế học thực chứng mô tả, phân tích, giải thích các sự kiện, hiện tượng kinh tế một cách
khách quan, khoa học. Để có thể nhận biết đâu là nghiên cứu kinh tế học thực chứng, chúng ta
xem xét nghiên cứu đó có trả lời cho các câu hỏi sau hay không? Vấn đề đó là gì? Là như thế nào?
Tại sao lại như vậy? Điều gì sẽ xảy ra nếu? Khi nghiên cứu kinh tế học thực chứng chúng ta xem
xét những luận điểm dưới dạng: Nếu điều này thay đổi thì điều kia sẽ xảy ra.
Ví dụ: Tỷ lệ thất nghiệp tang cao làm cho đời sống của người lao động gặp khó khăn.
Mục đích của kinh tế học thực chứng là muốn biết lý do vì sao nền kinh tế lại hoạt động như vậy.
Trên cơ sở đó dự đoán phản ứng của nó khi có sự thay đổi của hoàn cảnh, đồng thời chúng ta có
thể sử dụng các công cụ điều chỉnh để hạn chế tác động tiêu cực và khuyến khich mặt tích cực
nhằm đạt được những kết quả mong muốn.
Kinh tế học chuẩn tắc đề cập đến mặt đạo lý được giải quyết bằng sự lựa chọn, có nghĩa là
nó đưa ra quan điểm đánh giá hoặc lựa chọn cách thức giải quyết các vấn đề kinh tế. Phân tích
chuẩn tắc trả lời cho câu hỏi: Nên làm gì? Nên làm như thế nào? nó phụ thuộc vào giá trị cảm
nhận của mỗi cá nhân và rất khó có thể kiểm định được là đúng hay sai.
Ví dụ: Chính phủ nên mở rộng các chương trình đào tạo, nâng cao tay nghề cho người lao
động để giảm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên cho nền kinh tế.
Quan điểm thực chứng được hình thành dựa trên sự thống nhất mang tính phổ biến và
khách quan, nó là cơ sở cho các quan điểm về chuẩn tắc về những quyết định, chính sách nào là
nên làm. Hay nói cách khác, kinh tế học thực chứng là trung tâm của kinh tế học và kinh tế học
chuẩn tắc sẽ là nhân tố thúc đẩy và tạo ra hướng nghiên cứu mới cho kinh tế học thực chứng.
Việc nghiên cứu kinh tế thường được tiến hành từ kinh tế học thực chứng rồi chuyển sang kinh tế học chuẩn tắc
1.1.2. Đối tượng và nội dung nghiên cứu của kinh tế vi mô
Kinh tế học vi mô là một môn khoa học kinh tế, một môn khoa học cơ bản cung cấp kiến
thức lý luận và phương pháp kinh tế cho các môn quản lý doanh nghiệp trong các ngành kinh tế
quốc dân. Nó là khoa học về sự lựa chọn hoạt động kinh tế vi mô trong sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp. Đó là sự lựa chọn để giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản của một doanh nghiệp,
một tế bào kinh tế: Sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai.
Kinh tế học vi mô nghiên cứu tính quy luật, xu thế vận động tất yếu của các hoạt động kinh
tế vi mô, những khuyết tật của kinh tế thị trường va vai trò của sư điều tiết. Do đó, tuy nó khác với
môn khoa học về kinh tế học vĩ mô, về kinh tế và quản lý doanh nghiệp, nhưng có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Các môn khoa học về quản lý kinh tế và quản lý doanh nghiệp được xây dựng
cụ thể trên những cơ sở lý luận và phương pháp luận có tính khách quan của kinh tế học vi mô.
Mặt khác, khoa học kinh tế vĩ mô phải xuất phát và phải thúc đẩy cho kinh tế học vi mô phát triển hoàn thiện không ngừng.
Để thực sự trở thành một môn khoa học về sự lựa chọn, kinh tế học vi mô nghiên cứu
ba vấn đề cốt lõi trên, lựa chọn các vấn đề cơ bản, tính quy luật và xu hướng vận động của
kinh tế vi mô, những khuyết tật của kinh tế thị trường và vai trò của chính phủ, kinh tế vi
mô sẽ nghiên cứu tập trung vào một số nội dung quan trọng nhất như vấn đề kinh tế cơ bản:
cung và cầu, cạnh tranh và độc quyền, cầu về hàng hoá,cung và cầu về lao động, sản xuất
và chi phí, lợi nhuận và quyết định cung cấp, hạn chế của kinh tế thị trường và sự can thiệp
của chính phủ, doanh nghiệp nhà nước và tư nhân hoá...
1.1.3. Phương pháp nghiên cứu kinh tế vi mô
Kinh tế học vi mô là khoa học về kinh tế, là khoa học về sự lựa chọn các hoạt động
kinh tế vi mô tối ưu trong từng doanh nghiệp, từng tế bào kinh tế. Việc nghiên cứu kinh tế
vi mô cần căn cứ vào các luận điểm của Mác về kinh tế thị trường. Nó quan hệ chặt chẽ
với môn khoa học kinh tế vĩ mô và kinh tế doanh nghiệp , cho nên cũng có phương pháp
nghiên cứu chung, đồng thời cũng có những phương pháp cụ thể khác nhau.
a) Nghiên cứu những vấn đề lý luận, phương pháp luận và phương pháp lựa chọn kinh tế tối
ưu trong các hoạt động kinh tế vi mô. Muốn vậy, cần nắm vững khái niệm, định nghĩa, nội dung,
công thức tính toán, cơ sở hình thành các hoạt động kinh tế vi mô, quan trọng hơn là rút ra được
tính tất yếu và xu thế phát triển của nó. Lựa chọn kinh tế tối ưu các hoạt động kinh tế vi mô là vấn
đề cốt lõi xuyên suốt của kinh tế học vi mô, cho nên nghiên cứu các vấn đề cụ thể của kinh tế vi
mô phải luôn nắm vững bản chất và phương pháp lựa chọn.
b) Gắn chặt việc nghiên cứu lý luận, phương pháp luận với thực hành trong quá trình học
tập. Thực hành là một phương pháp rất quan trọng để củng cố, nâng cao những nhận thức về lý
luận, tập vận dụng lỹ luận, phương pháp luận để giải quyết những vấn đề cụ thể, các tình huống cụ
thể trong hoạt động kinh tế vi mô. Muốn vậy, phải làm các bài tập tình huống, chuẩn bị và tham
gia thảo luận, tranh luận khoa học các đề tài, nghiên cứu các tiểu luận và chuyên đề; tập giải thích;
phân tích và chứng minh các tình huống xảy ra trong hoạt động vi mô của các doanh nghiệp; tập
xây dựng các dữ kiện, các tình huống, phân tích và kiến nghị xử lý các tình huống đó một cách tối
ưu trong những điều kiện cho phép; xây dựng các sơ đồ, đồ thị phản ánh, biểu diễn tính quy luật,
xu thế phát triển của các hoạt động kinh tế vi mô trên đồ thị để làm rõ và sâu sắc hơn luận cứ khoa
học của các quyết định lựa chọn kinh tế.
c) Gắn chặt việc nghiên cứu lý luận, phương pháp luận với thực tiễn sinh động phong phú,
phức tạp của các hoạt động kinh tế vi mô của các doanh nghiệp ở Việt nam và các nước.
d) Cần hết sức coi trọng việc nghiên cứu, tiếp thu những kinh nghiệm thực tiễn về các hoạt
động kinh tế vi mô trong các doanh nghiệp tiên tiến của Việt Nam và của các nước trên thế giới.
e) Ngoài những phương pháp chung đã được vận dụng đối với môn học kinh tế vi mô nêu
trên, chúng ta thấy việc nghiên cứu kinh tế vi mô cần được áp dụng các phương pháp riêng như sau:
- Phương pháp mô hình hóa: Bao gồm việc xây dựng mô hình, phát triển mô hình bằng cách phân
tích dựa trên các dữ liệu thu thập được, kiểm chứng thực tế.
- Phương pháp so sánh tĩnh: Theo phương pháp này, các giả thuyết kinh tế về mối quan hệ giữa
các biến luôn phải đi kèm với giả định các yếu tố khác không đổi (Ceteris Paribus) trong mô hình đưa ra.
- Phương pháp phân tích cận biên: Đây là phương pháp đặc thù của kinh tế học nói chung và kinh
tế học vi mô nói riêng. Nó cũng là phương pháp cơ bản của sự lựa chọn kinh tế tối ưu bởi vì bất
cứ sự lựa chọn nào cũng phải dựa trên sự so sánh giữa lợi ích mang lại và chi phí bỏ ra. Phương
pháp phân tích cận biên được sử dụng để tìm ra điểm tối ưu của sự lựa chọn. Theo phương pháp
này, chúng ta phải so sánh lợi ích và chi phí tại mỗi đơn vị hàng hóa, dịch vụ được sản xuất (hoặc
tiêu dùng) tăng thêm. Lợi ích và chi phí đó được gọi là lợi ích cận biên và chi phí cận biên.
Bằng việc sử dụng tổng hợp các phương pháp nối trên, việc nghiên cứu kinh tế học vi mô sẽ
đạt chất lượng, hiệu quả cao và có thể kết luận rằng, muốn học tập tốt phải nắm được quy luật và
tính quy luật của các hoạt động và biết sử dụng tốt khoa học về sự lựa chọn trong các tình huống
khác nhau, trong hoạt động kinh doanh phức tạp của các doanh nghiệp .
1.2. Doanh nghiệp và những vấn đề kinh tế cơ bản của doanh nghiệp
1.2.1. Doanh nghiệp và chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp a. Doanh nghiệp .
Doanh nghiêp là đơn vị kinh doanh hàng hoá dịch vụ theo nhu cầu thị trường và xã hội để
đạt lợi nhuận tối đa và hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất .Một doanh nghiêp tiến hành kinh doanh
có hiệu quả là doanh nghiêp thoả mãn tối đa của thị trường và xã hội về hàng hoá, dịch vụ trong
giới hạn cho phép của nguồn lực hiện có và thu được lợi nhuận cao nhất, đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất
.
Có thể phân loại doanh nghiệp theo nhiều cách khác nhau:
-Theo ngành kinh tế kỹ thuật, ta có doanh nghiêp công nghiệp, xây dựng, doanh nghiêp
nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, doanh nghiệp thương nghiệp, doanh nghiệp vận tải, kinh
doanh du lịch, kinh doanh tiền tệ .v.v…
- Theo cấp quản lý , ta có doanh nghiệp do trung ương quản lý và doanh nghiệp địa phương quản lý.
-Theo hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất ta có đa hình thức tổ chức kinh doanh: Doanh
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp công tư hợp doanh , doanh nghiệp tập thể ( Hợp tác xã), doanh
nghiệp liên doanh, doanh nghiệp tư nhân, Công ty cổ phần, công ty TNHH. Trong những năm gần
đây chúng ta đã phát triển các tổng công ty và các tập đoàn sản xuất …Trong đó doanh nghiệp nhà
nước có vị trí chủ đạo trong hệ thống doanh nghiệp .
- Theo quy mô sản xuất kinh doanh, ta có doanh nghiệp quy mô lớn, quy mô vừa và quy mô
nhỏ, trong đó quy mô vừa và nhỏ với kỹ thuật hiện đại có nhiều ưu điểm trong điều kiện đổi mới
kinh tế của Việt Nam hiện nay.
- Theo trình độ kỹ thuật, có doanh nghiệp sử dụng lao động thủ công, doanh nghiệp nửa cơ
khí, cơ khí hoá và tự động hoá .
Các doanh nghiệp có quyền bình đẳng trước pháp luật của nhà nước trong sản xuất kinh
doanh, được quản lý theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Nhiệm vụ quyền hạn,
quyền lợi của các doanh nghiệp gắn chặt với nhau. Các doanh nghiệp được thành lập, hoạt động
và giải thể theo đúng quy định của của pháp luật. Các doanh nghiệp nhà nước thực hiện những
nhiệm vụ kinh tế, xã hội quan trọng nhất, được thành lập hoạt động và giải thể theo luật doanh
nghiệp nhà nước của mỗi nước. Các doanh nghiệp tư nhân do các nhân làm chủ và tự chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp là đơn vị kinh doanh có
mức vốn không thấp hơn vốn pháp định được thành lập, hoạt động và giải thể theo luật doanh
nghiệp tư nhân của mỗi nước. Công ty được tổ chức dưới hai hình thức: Công ty trách nhiệm hữu
hạn và công ty cổ phần. Công ty trách nhiệm hữu hạn là một loại doanh nghiệp , trong đó phần
góp vốn của các thành viên phải đóng góp đủ ngay khi thành lập công ty, công ty không được
phép phát hành bất cứ một loại chứng khoán nào. Công ty cổ phần là một loại doanh nghiêp trong
đó số cổ đông trong suốt thời gian hoạt động không ít hơn mức quy định cho phép của mỗi nước,
vốn điều lệ được chia làm nhiều phần bằng nhau, trị giá mỗi cổ phần được gọi là mệnh giá cổ
phiếu, mỗi cổ đông có thể mua một hoặc nhiều cổ phần theo quy định, công ty được thành lập,
hoạt động và giải thể theo luật công ty của mỗi nước .
b. Quá trình kinh doanh của doanh nghiệp
Quá trình kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế, kỹ thuật, xã hội của
từng loại doanh nghiêp, chúng ta có thể khái quát quá trình kinh doanh của một doanh nghiệp như sau:
Đối với các doanh nghiệp sản xuất của cải vật chất: Quá trình kinh doanh gọi là quá trình
sản xuất kinh doanh, đó là quá trình bao gồm từ việc đầu tiên là nghiên cứu, xác định nhu cầu thị
trường về hàng hoá và thu tiền về cho doanh nghiêp. Quá trình đó bao gồm rất nhiều giai đoạn,
mỗi giai đoạn phải thực hiện một số công việc cụ thể theo một công nghệ hợp lý, với một thời
gian nhất định, tiêu hao một lượng chi phí nhất định về các nguồn lực được sử dụng. Quá trình
kinh doanh bao gồm các giai đoạn chủ yếu sau:
- Nghiên cứu nhu cầu thị trường về hàng hoá và dịch vụ để quyết định xem sản xuất cái gì .
- Chuẩn bị đồng bộ các yếu tố đầu vào để thực hiện quyết định sản xuất như : lao động đất
đai, thiết bị, vật tư, kỹ thụât, công nghệ.v.v…
- Tổ chức tốt quá trình kết hợp chặt chẽ, khéo léo giữa yếu tố cơ bản của đầu vào để tạo ra
hàng hoá và dịch vụ, trong đó lao động là yết tố quyết định .
- Tổ chứ tốt quá trình tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ , bán hàng hoá thu tiền về .
Đối với các doanh nghiệp thương mại- Dịch vụ thì quá trình kinh doanh diễn ra chủ yếu là
mua và bán hàng hoá dịch vụ nên quá trình kinh doanh bao gồm các giai đoạn sau:
+ Nghiên cứu nhu cầu thị trường về hàng hoá và dịch vụ lựa chọn và giải quyết định
lượng hàng hoá cần mua để bán cho khách hàng theo nhu cầu thị trường .
+ Tổ chức việc mua bán hàng hoá, dịch vụ theo nhu cầu thị trường.
+ Tổ chức việc bao gói hoặc chế biến, bảo quản chuẩn bị hàng hoá, dịch vụ.
+ Tổ chức việc bán hàng hoá và thu tiền về cho doanh nghiệp và chuẩn bị cho quá trình kinh doanh tếp theo.
Doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ là một loại doanh nghiệp thực chất là làm nhiệm vụ buôn
bán hàng hóa ( tiền) do đó quá trình kinh doanh của nó bao gồm:
+ Nghiên cứu nhu cầu mua bán vay và gửi tiền ngoại tệ, nội tệ để quyết định lượng mua bán
và cho vay ngắn hạn và dài hạn .
+ Quy định các thủ tục cần thiết về mua, bán, vay và gửi tiền để bảo đảm an toàn, hạn chế
tới mức thấp nhất những rủi ro.
+ Tổ chức việc mua bán vay và gửi tiền theo thời gian quy định, tính toán lãi suất cho việc
mua, bán, vay và gửi theo quy định .
+ Bảo quản an toàn tuyệt đối số tiền bán ,mua, vay và gửi và kiểm tra việc thực hiện các quy định của khách hàng .
+ Phát hiện và xử lý kịp thời những rủi ro trong kinh doanh tiền tệ, rủi ro trong kinh doanh
tiền tệ là tổng hợp của nhiều sự rủi ro.
Như vậy nhìn tổng quát quá trình kinh doanh của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng tổng hợp
của rất nhiều nhân tố chính trị, kinh tế kỹ thuật, tổ chức, tâm lý và xã hội . Muốn cho quá trình
kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất với chi phí thấp nhất, trong đó nhân tố kinh tế có vai trò quyết
định trong nền kinh tế thị trường nhưng không được coi nhẹ những nhân tố xã hội nhất là những
nhân tố mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa.
c. Chu kỳ kinh doanh của doanh nghiêp
Một trong những biện pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả của kinh doanh là rút ngắn chu
kỳ kinh doanh. Chu kỳ kinh doanh là khoảng thời gian từ lúc bắt đầu khảo sát, nghiên cứu nhu
cầu thị trường về hàng hoá, dịch vụ, đến lúc bán xong hàng và thu tiền về
. Chu kỳ kinh doanh bao
gồm các loại thời gian chủ yếu sau:
- Thời gian nghiên cứu nhu cầu thị trường và quyết định sản xuất (Quyết định mua hàng hoá dịch vụ)
- Thời gian chuẩn bị các đầu vào cho sản xuất hoặc mua bán các hàng hoá, dịch vụ
- Thời gian tổ chức quá trình sản xuất hoặc bao gói, chế biến và mua bán, hoặc thời gian
bán, mua, thời hạn gửi , vay tiền .v.v..
Như vậy chu kỳ kinh doanh phụ thuộc vào quá trình kinh doanh. Trong chu kỳ kinh doanh,
thời gian sản xuất hàng hoá dịch vụ là lớn nhất, trong thời gian sản xuất hàng hoá, dịch vụ thì thời
gian công nghệ (chế tạo, chế biến) có vị trí quyết định .
Muốn giảm chu kỳ kinh doanh cần áp dụng nhiều biện pháp để đẩy nhanh quá trình kinh
doanh, trong đó phải hết sức coi trọng các biện pháp về kinh tế, tổ chức kỹ thuật công nghệ và
quản lý. Việc rút ngắn chu kỳ kinh doanh có ý nghĩa rất quan trọng đến việc tăng nhanh kết quả
kinh doanh và giảm các chi phí kinh doanh. Đó là điều kiện tăng hiệu quả kinh tế của doanh
nghiệp. Điều quan trọng ở đây là, doanh nghiệp muốn đề ra các biện pháp để đạt được hiệu quả
cao trong kinh doanh tồn tại và phát triển được trong cạnh tranh, cần phải giải quyết tốt những vấn
đề kinh tế cơ bản, những hoạt động có tính quy luật và xu hướng vận động của các hoạt động kinh
tế vi mô trong dn của mình .
1.2.2. Những vấn đề kinh tế cơ bản của một doanh nghiệp
Thực tế phát triển kinh tế ở các nước trên thế giới và Việt Nam đã cho thấy: Muốn phát triển
một doanh nghiệp đều phải giải quyết được ba vấn đề kinh tế cơ bản: Quyết định sản xuất cái gì?
Quyết định sản xuất như thế nào? Và quyết định sản xuất cho ai?
a. Quyết định sản xuất cái gì?
Quyết định sản xuất cái gì đòi hỏi phải làm rõ nên sản xuất hàng hoá, dịch vụ gì, với số
lượng bao nhiêu, lúc nào thì sản xuất.
Nhu cầu của thị trường về hàng hoá và dịch vụ rất phong phú đa dạng và ngày càng tăng về
số lượng và chất lượng như trên thực tế, nhu cầu có khả năng thanh toán lại thấp hơn, cho nên
muốn thoả mãn nhu cầu lớn, trong khi khả năng thanh toán có hạn, xã hội và con người phải lựa
chọn từng loại nhu cầu có lợi nhất cho xã hội, cho người tiêu dùng. Tổng số các nhu cầu có khả
năng thanh toán của thị trường, đây là căn cứ, là xuất phát điểm định hướng cho các chính phủ và
các nhà kinh doanh quyết định việc sản xuất và cung ứng của mình .
Trên cơ sơ nhu cầu của thị trường, các chính phủ và các nhà kinh doanh tính toán khả năng
sản xuất của nền kinh tế, của doanh nghiệp và các chi phí sản xuất tương ứng, để lựa chọn và
quyết định sản xuất cung ứng cái mà thị trường cần để có thể đạt lợi nhuận tối đa. Việc lựa chọn
để quyết định sản xuất cái gì chính là quyết định sản xuất những loại hàng hoá, dịch vụ nào, số
lượng bao nhiêu chất lượng thế nào, khi nào cần sản xuất và cung ứng. Cung cầu cạnh tranh trên
thị trường tác động qua lại với nhau để có ảnh hưởng trực tiếp đến việc xác định giá cả thị trường
và số lượng hàng hoá cần cung cấp trên một thị trường.
Giá cả thị trường là thông tin có ý nghĩa quyết định đối với việc lựa chọn sản xuất và cung
ứng những hàng hoá nào có lợi nhất cho cả cung và cầu trên thị trường.Giá cả trên thị trường là
bàn tay vô hình điều chỉnh quan hệ cung cầu và giúp chúng ta lựa chọn và quyết định sản xuất .
b. Quyết định sản xuất như thế nào?
Quyết định sản xuất như thế nào nghĩa là do ai và với những tài nguyên nào, phương pháp sản xuất nào.
Sau khi đã lựa chọn được cần sản xuất cái gì, các chính phủ,các nhà kinh doanh phải xem
xét và lựa chọn việc sản xuất như thế nào để cạnh tranh thắng lợi trên thị trường và có lợi nhuận
cao nhất. Động cơ lợi nhuận đã khuyến khích các dn tìm kiếm, lựa chọn các phương pháp sản xuất có hiệu quả nhất .
Phương pháp đó kết hợp tất cả các đầu vào để sản xuất ra đầu ra nhanh nhất sản xuất được
nhiều nhất và chất lượng cao nhất với chi phí thấp nhất. Nói một cách cụ thể là phải lựa chọn và
quyết định giao cho ai sản xuất hàng hoá dịch vụ này bằng nguyên vật liệu gì, thiết bị dụng cụ
nào, công nghệ sản xuất ra sao để đạt tới lợi nhuận cao nhất, thu nhập quốc dân lớn nhất. Để đứng
vững và cạnh tranh thắng lợi trên thị trường, các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới kỹ thuật và
công nghệ, nâng cao trình độ công nhân và lao động quản lý, nhằm tăng hàm lượng chất xám
trong hàng hoá và dịch vụ. Chất lượng hàng hoá dịch vụ là vấn đề có ý nghĩa quyết định sống còn
trong cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường, chất lượng cao bảo đảm chữ tín của doanh nghiệp với
bạn hàng chiếm lĩnh được thị trường và cạnh tranh thắng lợi .
c. Quyết định sản xuất cho ai?
Quyết định sản xuất cho ai đòi hỏi phải xác định rõ ai sẽ được hưởng và được lợi từ những
hàng hoá và dịch vụ của đất nước .
Thị trường quyết định giá cả của các yếu tố sản xuất, do đó thị trường cũng quyết định thu
nhập của các đầu ra-thu nhập về hàng hoá, dịch vụ, thu nhập của xã hội, thu nhập của tập thể hay
của cá nhân phụ thuộc vào quyền sở hữu và giá trị của các yếu tố sản xuất, phụ thuộc vào lượng
hàng hoá và giá cả của các hàng hoá, dịch vụ. Vấn đề mấu chốt ở đây cần cần giải quyết là những
hàng hoá và dịch vụ sản xuất phân phối cho ai để vừa có thể kích thích mạnh mẽ sự phát triển
kinh tế có hiệu quả cao, vừa bảo đảm sự công bằng xã hội.
Theo ngôn ngữ kinh tế học thì ba vấn đề kinh tế cơ bản nêu trên đều cần được giải quyết
trong mọi xã hội, dù là một nhà nước xã hội chủ nghĩa, một nhà nước công nghiệp tư bản, một
công xã, một bộ tộc, một địa phương, một ngành hay một doanh nghiệp .
Việc lựa chọn để quyết định tối ưu ba vấn đề ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế- xã
hội, khả năng và điều kiện, phụ thuộc vào việc lựa chọn hệ thống kinh tế để phát triển, vào vai trò,
trình độ và sự can thiệp của các chính phủ, và chế độ chính trị-xã hội của mỗi nước.
Ảnh hưởng của mô hình kinh tế đến việc lựa chọn các vấn đề kinh tế cơ bản của doanh nghiệp .
- Mô hình nền kinh tế chỉ huy (kế hoạch hoá tập trung): Đối với nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung, Nhà nước đứng ra giải quyết 3 vấn đề kinh tế cơ bản. Nhà nước giao chỉ tiêu pháp lệnh
cho các ngành, các địa phương và cơ sở sản xuất kinh doanh. Nhà nước tiến hành quốc doanh hóa
và tập thể hóa, xóa bỏ tư nhân, Nhà nước cấp phát vốn và vật tư cho các ngành, các địa phương và
cơ sở thực hiện nhiệm vụ. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ phải giao nộp sản phẩm và tích lũy cho
Nhà nước theo chỉ tiêu pháp lệnh. Nhà nước sử dụng chế độ phân phối bằng hiện vật cho các cơ
quan nhà nước, dùng chế độ tem phiếu để phân phối cho người tiêu dùng. * Đặc trưng:
- Không chấp nhận sự tồn tại của thị trường và sự chi phối của cạnh tranh cung - cầu.
- Việc lựa chọn phương án giải quyết 3 vấn để cơ bản của nền kinh tế cũng như các cơ
sở sản xuất đều do Nhà nước thực hiện. Nhà nước can thiệp trực tiếp và toàn diện vào các
hoạt động sản xuất kinh tế và tiêu dùng trong xã hội.
- Nhà nước quản lý tập trung, theo một kế hoạch thống nhất mọi hoạt động sản xuất - tiêu dùng.
- Người sản xuất - tiêu dùng không có mối quan hệ mật thiết vì các cơ sở sản xuất
thực hiện các quá trình sản xuất và giao nộp sản phẩm cho Nhà nước theo các chỉ tiêu kế
hoạch Nhà nước, để Nhà nước thực hiện quá trình phân phối sản phẩm cho người tiêu dùng
chứ không xuất phát từ nhu cầu người tiêu dùng. * Ưu điểm:
- Giải quyết những nhu cầu công cộng cho xã hội.
- Hạn chế phân hoá giàu nghèo. * Nhược điểm:
- Không thúc đẩy và kích thích sản xuất phát triển.
- Bộ máy quản lý công kềnh.
- Phân phối và sử dụng các nguồn lực kém hiệu quả.
- Gây ra sự trì trệ và bất công.
- Mô hình nền Kinh tế thị trường:
Là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, nghĩa là nền kinh tế hàng hoá tự điều
chính bằng "bàn tay vô hình" hay bằng các quy luật khách quan của kinh tế thị trường,
không có sự can thiệp của Chính phủ
. Để giải quyết 3 vấn đề kinh tế cơ bản, nền kinh tế thị
trường đều phải thông qua hoạt động của quan hệ cung cầu trên thị trường, quan hệ cạnh
tranh, giá cả thị trường. Cách thức giải quyết này xuất phát từ tư tưởng “bàn tay vô hình”
của Adam Smith. Giá cả thị trường có vai trò quyết định trong quá trình lựa chọn và ra
quyết định, giá cả thị trường do quan hệ cung cầu quyết định và phản ánh quan hệ cung cầu,
cạnh tranh trên thị trường, giá cả thị trường đóng vai trò quyết định - "là cơ sở để các doanh
nghiệp lựa chọn và quyết định sản xuất cái gì, bao nhiêu, như thế nào để lợi nhuận cực đại.
* Ưu điểm: Tác dụng tích cực trong việc phân phối và sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực của đất nước, ngành, địa phương và từng cơ sở kinh doanh.
* Nhược điểm: vấn đề xã hội, môi trường, phân hoá giàu nghèo, bất công xã hội...
- Mô hình nền kinh tế hỗn hợp: Nếu chỉ phát triển nền kinh tế theo mô hình nền kinh tế chỉ huy
hay nền kinh tế thị trường tự do sẽ là việc chúng ta vỗ tay bằng một bàn tay. Việc vận hành nền
kinh tế theo mô hình hỗn hợp được ví như hình ảnh vỗ tay có đủ cả hai bàn tay.
Nền kinh tế hỗn hợp là sự kết hợp giữa bàn tay vô hình (cơ chế thị trường) và bàn tay hữu hình
( Chính phủ) , có nghĩa là cần phát triển các quan hệ cung cầu, cạnh tranh, tôn trọng vai trò của giá
cả thị trường, lấy lợi nhuận làm mục tiêu và động cơ phấn đấu. Tuy nhiên, cũng rất cần thiết đó là
sự can thiệp của Nhà nước vào thị trường nhằm điều tiết thị trường hoạt động có hiệu quả hơn và
khắc phục được các khuyết tật cuat cơ chế thị trường. * Đặc trưng:
- Tôn trọng vai trò thị trường
- Tăng cường vai trò can thiệp của Nhà nước
- Các thể chế tư nhân và công cộng cùng kiểm soát nền kinh tế: Cơ chế "bàn tay vô hình"
cho phép thể chế tư nhân kiểm soát nền kinh tế, còn thể chế công cộng kiểm soát nền kinh tế bằng
pháp luật và các chính sách kinh tế vĩ mô.
1.3. Lý thuyết lựa chọn kinh tế
1.3.1. Những vấn đề cơ bản của lý thuyết lựa chọn
Việc lựa chọn kinh tế tối ưu cho các hoạt động kinh tế vi mô của một doanh nghiệp là vấn
đề đầu tiên có ý nghĩa quyết định đến vịêc bảo đảm hiệu quả kinh tế của các doanh nghiêp trong
quá trình kinh doanh.Nhưng sự lựa chọn kinh tế tối ưu các hoạt động kinh tế vi mô đều phải dựa
trên lý thuyết lựa chọn, chỉ có trên cơ sở đó mới xây dựng được các phương pháp ứng dụng trong
các trường hợp cụ thể, trong từng lĩnh vực hoạt động với từng loại doanh nghiệp cụ thể:
a. Lý thuyết lựa chọn tìm cách lý giải cách thức mà những nhân vật khác nhau sử dụng để
đưa ra những quyết định của mình. Nó cố gắng giải thích tại sao họ lựa chọn và cách thức lựa chọn của họ.
Khái niệm hữu ích nhất được sử dụng trong lý thuyết lựa chọn là khái niệm chi phí cơ hội.
Đây là một ý tưởng đơn giản, nhưng được vận dụng hết sức rộng rãi trong cuộc sống, nếu chúng
ta hiểu rõ khái niệm này, thì ta có được một công cụ xử lý một loạt vấn đề kinh tế khác nhau, một
loạt tình huống khác nhau xẩy ra trong hoạt động kinh tế .
Con người phải đối mặt với sự khan hiế m nguồn lực nên luôn phải lựa chọn tối ưu. Việc lựa
chọn sẽ đưa con người tới sự đánh đổi – Muốn sản xuất thêm một đơn vị hàng hóa này thì phải từ
bỏ một lượng hàng hóa khác. Đây chính là chi phí cơ hội để sản xuất một hàng hóa. Vậy chi phí cơ hội là gì?
Chi phí cơ hội: là giá trị của phương án tốt nhất bị bỏ qua khi thực hiện sự lựa chọn. Chi
phí cơ hội luôn xuất hiện khi tình trạng khan hiếm nguồn lực xảy ra, vì khi đó người ta sẽ buộc
phải đánh đổi, nếu tiến hành hoạt động này thì phải từ bỏ hoạt động khác. Chính vì vậy, khi đưa ra
bất cứ sự lựa chọn kinh tế nào, chúng ta cũng phải cân nhắc so sánh các phương án với nhau dựa
theo chi phí cơ hội của các phương án đó với nguyên tắc chọn phương án có chi phí cơ hội là nhỏ nhất.
Chúng ta cần chú ý chi phí cơ hội không phải là tổng giá trị các lựa chọn bị bỏ lỡ mà chỉ là
giá trị của lựa chọn tốt nhất có thể bởi vì người ta không thể nào cùng một lúc sử dụng nhiều lựa chọn thay thế được.
Theo quy luật chi phí cơ hội tăng lên, thì để thu nhập được nhiều hơn một loại hàng hoá nào
đó, chúng ta phải hi sinh một lượng lớn hơn các loại hàng hoá khác, do vậy người ta lý giải hành
vi kinh tế bằng cách luận chứng rằng, các tác nhân kinh tế sẽ lựa chọn hành động bằng cách cân
nhắc, so sánh những lợi ích do sự lựa chọn đó đem lại và chi phí tính theo những cơ hội đã bị bỏ
qua. Ví dụ khi quyết định sử dụng thời gian của mình trong ngày hôm nay, tôi đã chọn nghe
chuyên gia giảng nghe chuyên đề, vì những lợi ích đạt được sẽ lớn hơn là chi phí cơ hội trong
trường hợp sử dụng thời gian hiện có để đọc sách. Nghiên cứu quy luật chi phí cơ hội tăng lên là
một căn cứ cho việc lựa chọn tối ưu của nền kinh tế, nhưng sẽ không phải là căn cứ duy nhất cho
việc lựa chọn tối ưu của cả nền kinh tế và xã hội.
Chúng ta hãy phân tích một số góc độ về sự lựa chọn kinh tế. Trước hết, tại sao sự lựa chọn
lại là cần thiết ? Sự lựa chọn là cần thiết bởi vì các nguồn lực là có giới hạn (trong ví dụ nêu trên
cho thấy, thời gian đã được phân bổ cho một mục đích thì không thể sử dụng vào mục đích khác)
Đối với một người nông dân, đất đai có thể bị hạn chế- đã sử dụng trồng loại cây này rồi, thì
không thể dùng trồng loại cây khác. Một doanh nghiệp chỉ có một số vốn nhất định, nếu chúng đã
được sử dụng vào mục đích này thì không thể sử dụng vào mục đích khác. Một quốc gia cũng chỉ
có một số lượng nguồn lực hạn chế, nếu chúng được sử dụng vào một mục đích rồi thì không thể
sử dụng cho một mục đích khác .
Vấn đề thứ hai là: Tại sao sự lựa chọn lại có thể thực hiện được? Sự lựa chọn có thể thực
hiện được là vì một nguồn lực khan hiếm có thể sử dụng vào mục đích này hay mục đích khác.Ví
dụ người tiêu dùng có thể dùng nhiều loại hàng hoá khác nhau. Một doanh nghiệp có thể sản xuất
ra nhiều loại sản phẩm khác nhau. Người nông dân có thể sản xuất nhiều loại nông sản khác nhau
.Một hàng hoá nhất định có thể được sản xuất ra bằng nhiều loại đầu vào khác nhau. Vì thế, sự lựa
chọn phải được thực hiện trong tất cả những trường hợp này.
Đôi khi có một số yếu tố sản xuất khan hiếm nhất. Khi lựa chọn, người ta phải tập trung vào
nguồn lực khan hiếm đó- nó là giới hạn ràng buộc, hạn chế khả năng lựa chọn. Đối với một nhà
triệu phú, tiền có thể không phải là một giới hạn ràng buộc khi tiến hành lựa chọn các mặt hàng
tiêu dùng- thời gian có lẽ quan trọng. Ngược lại đối với một người nghèo thất nghiệp, thời gian có
thể là thứ rất sẵn, nhưng tiền lại rất khan hiếm .
Nói một cách chung hơn, các nguồn lực khan hiếm khác nhau có thể thay thế cho nhau trong
quá trình sản xuất, nhưng tổng số nguồn lực hiện có bị giới hạn bởi một giới hạn ngân sách nói
chung. Tương tự như vậy các hộ gia đình phải đối phó với một giới hạn ngân sách, khi lựa chọn
các mặt hàng tiêu dùng, sự lựa chọn mà một gia đình có thể thực hiện bị quy luật bởi ngân sách
gia đình và giá cả hàng hoá.
Tóm lại, cả người sản xuất và người tiêu dùng đều phải lựa chọn giữa các kết hợp đầu vào
và đầu ra khác nhau ( người sản xuất) và giữa các tập hợp hàng hoá khác nhau ( người tiêu dùng.
Nhưng sự lựa chọn được thực hiện như thế nào, đó là câu hỏi cần đặt ra để tiếp tục nghiên cứu .

b. Mục tiêu của sự lựa chọn
Sự lựa chọn được thực hiện trên cơ sở những mục tiêu của những tác nhân kinh tế, người ta
giả định rằng những mục tiêu này có thể được xác định bởi hạn chế về các ngân sách gia đình và
giá cả hàng hoá. Chi phí cho tiêu dùng tập hợp hàng hoá là cơ hội bị bỏ qua của sự tiêu dùng một
tập hợp hàng hoá khác hấp dẫn nhất đối với anh ta sau tập hợp hàng hoá đã chọn .
Người ta có nhiều cách để đánh giá chi phí cơ hội, ví dụ như chi phí tiết kiệm có thể được
coi là cơ hội bị bỏ qua để sử dụng ngay số thu nhập hiện có vào mục đích tiêu dùng. Chi phí của
lao động là cơ hội bị bỏ qua để không làm việc gì (nghỉ ngơi) chi phí của một việc nhận làm một
công việc nào đó là cơ hội bị bỏ qua của việc nhận một công việc hấp dẫn nhất sau công việc đó :
Vì thế khi ước tính số tiền phải trả cho một người công nhân, nhà kinh doanh cần nhận định
những cơ hội khác mà người công nhân có đựơc. Những người dân từ nông thôn di cư ra thành thị
nhận định về những cơ hội kiếm được thu nhập ở thành phố, khi so sánh với thu nhập bị bỏ qua ở nông thôn.
Nhà kinh doanh cũng có một hàm mục tiêu, và để đơn giản hoá vấn đề, người ta thường coi
đó là sự thay đổi mục tiêu đơn giản, duy nhất là lợi nhuận, mặc dầu anh ta có thể có những mục
tiêu khác, ví dụ như muốn có một cuộc sống yên tĩnh, một chỗ đứng trong xã hội, hay tránh gặp
phải những điều bất trắc. Đương nhiên dù cho các nhà kinh doanh có muốn tối đa hoá lợi nhuận
hay không, thì trong một nền kinh tế thị trường, kinh doanh vẫn phải kiếm được lợi nhuận để tồn
tại và có điều kiện phát triển trong cạnh tranh.
Khi theo đuổi mục tiêu lợi nhuận của mình, doanh nghiệp phải thường xuyên chạy theo
những cơ hội khác nhau mà nó có được chi phí cơ hội của việc theo đuổi một cơ hội sẽ là sự bỏ
qua cơ hội có lợi nhất sau cơ hội đã chọn. Không có các cơ hội khác nhau thì cũng không có chi phí cơ hội .
Khi một quyết định đã được thực hiện, những cơ hội trong tương lai cũng thay đổi. Trước
khi đầu tư những cơ hội mà người ta có thể lựa chọn bao gồm cả những phương án cho những
công trình đầu tư khác nhau ( hoặc không đầu tư). Một khi đầu tư đã được thực hiện, nhà máy đã
được xây dựng, cơ hội để sử dụng vốn đầu tư vào các hoạt động khác sẽ không còn nữa. Bây giờ
những phương án lựa chọn chỉ bao gồm việc sử dụng vốn đã được chôn chặt hoặc huỷ bỏ các công
trình đã đầu tư. Một chi phí đã bị chôn chặt không còn là chi phí nữa, bởi vì các cơ hội khác đã
biến mất. Bởi vậy khi quyết định tiếp tục sản xuất, sự chú ý được chuyển sang cho những chi phí
biến đổi hay lưu động, nghĩa là người ta chú ý đến những nguồn lực có thể sử dụng vào các công
việc khác và có chi phí cơ hội. Đối với một nhà máy đang hoạt động, thì nó có thể tiếp tục sản xuất
chừng nào doanh nghiệp còn tạo ra được một mức thu nhập vượt quá chi phí lưu động. Tuy nhiên
khi xem xét có cần thay thế nhà máy hay không, mức thu nhập dự kiến có thể phải đủ để bù đắp những chi phí về vốn .
Trong nền kinh tế thị trường, nhiều quyết định do các nhân vật khác nhau đưa ra có liên
quan đến những chi phí cơ hội được biểu thị bằng giá cả, một nhân tố xác định tỷ lệ thay thế lẫn
nhau của các nguyên liệu (hay đầu vào) thông qua một giao dịch diễn ra trên thị trường. Sự tồn tại
của giá cả và việc sử dụng của giá cả làm đơn giản hoá và rõ ràng hơn sự lựa chọn mà các tác
nhân kinh tế có thể thực hiện, đặc biệt là khi tất cả các loại giá đều có thể biểu thị bằng một đơn vị
tính toán tiền tệ. Khi đó gía cả tính bằng tiền khi mua một hàng hoá, thể hiện chi phí cơ hội của
việc bỏ qua không mua một hàng hoá khác. Số lượng ở đây được xác định bởi giá cả tính bằng
tiền của chúng. Khái niêm chi phí cơ hội cũng được sử dụng trong thương mại quốc tế. biện pháp
bảo hộ thị trường trong nước có liên quan đến việc bỏ qua cơ hội buôn bán. Thị trường quốc tế tạo
ra một cơ hội – một khoản chi phí do sử dụng các nguồn lực để sản xuất cho thị trường một nước
gây ra, là cơ hội bị bỏ qua việc tiêu dùng một mặt hàng thay thế được nhập khẩu. Vấn đề này trở
thành cơ sở cho lý thuyết về lợi thế so sánh .
Như vậy chúng ta đã thoả thuận về những cố gắng lý giải hành vi của các tác nhân kinh tế. Những
nội dung về chính sách kinh tế sẽ tập trung vào một mối quan tâm khác: đó là nhiệm vụ chủ quan về xác
định những phương án lựa chọn chính sách tốt nhất. Điều này có thể được phân tích thông qua việc vận
dụng khoa học kinh tế học phúc lợi và lý thuyết lựa chọn công cộng. Xã hội được coi là một loạt các mục
tiêu ( một hàm phúc lợi xã hội) mà nó tìm cách để tối đa hoá trong điều kiện có những giới hạn về nguồn
lực, điều này có thể được thực hiện khi đánh giá chi phí cơ hội của những sự lựa chọn công cộng. Khi đó
vấn đề then chốt cần giải quyết là giá cả hiện hành trên thị trường có thể cung cấp cho chúng ta một cơ sở
đáng tin cậy đến mức nào, để đo lường chi phí cơ hội của xã hội, khi chi phí này chênh lệch với chi phí đo
lường bằng gía cả thị trường .
1.3.2. Bản chất và phương pháp lựa chọn kinh tế tối ưu
a. Bản chất của sự lựa chọn kinh tế tối ưu:
Từ việc nghiên cứu lý thuyết lựa chọn ở trên, chúng ta phải hiểu bản chất của mọi sự lựa
chọn kinh tế bởi vì những quy định của từng cá nhân và doanh nghiệp có ảnh hưởng đến toàn bộ
nền kinh tế. Chẳng hạn, chúng ta phải hiểu tại sao chọn sản xuất sản phẩm này mà không sản xuất
sản phẩm khác. Nhưng chúng ta đã biết, để sản xuất bất cứ hàng hóa, dịch vụ nào cũng cần có các
tài nguyên hay các yếu tố sản xuất, các yếu tố sản xuất là những đầu vào, mà chúng ta sử dụng để
sản xuất hàng hoá dịch vụ mà chúng ta mong muốn- đầu ra. Không có các yếu tố sản xuất thì
không thể sản xuất được cái gì cả. Nhưng việc giới hạn cơ bản trong việc lựa chọn sản xuất và tiêu
dùng là sự khan hiếm các nguồn tài nguyên, đều khan hiếm so với mong muốn của chúng ta. Điều
đó chính là những sự lựa chọn khó khăn, trong số nguồn lực có hạn đòi hỏi chúng ta phải lựa chọn
để sản xuất hàng hoá, dịch vụ này thì sẽ mất một cơ hội để sản xuất hàng hoá khác, do đó phải lựa
chọn thế nào cho đạt tới tối ưu trong giới hạn của nguồn lực cho phép. Sự lựa chọn tối ưu cần
trước hết ưu tiên về mặt kinh tế, nhưng phải chú ý thoả đáng các vấn đề về xã hội ngay trong từng doanh nghiệp .
Chính sự lựa chọn đúng đắn sẽ cho phép chúng ta có thể thu nhiều lợi ích nhất từ những
nguồn lực mà chúng ta có. Lợi ích ở đây phải xem xét cả về mặt kinh tế, cả về mặt xã hội cả về
mặt an toàn và an ninh quốc gia ... nhưng trong kinh doanh thì lợi ích là lợi ích kinh tế cao nhất
của doanh nghiệp, là tiêu chuẩn của sự lựa chọn .
Có thể nói việc lựa chọn sản xuất cái gì -Kết hợp đầu ra cho phù hợp với đầu vào có hạn là
những quyết định kinh tế quan trọng nhất của một nền kinh tế, một doanh nghiệp cũng như của một cá nhân.
Từ nhận thức trên có thể khảng định rằng, bản chất của sự lựa chọn kinh tế là căn cứ
vào nhu cầu vô hạn của con người,của xã hội, của thị trường đề ra các quyết định tối ưu về
sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai trong giới hạn cho phép của nguồn lực hiện có
.
b. Phương pháp tiến hành lựa chọn kinh tế
Trong việc lựa chọn kinh tế tối ưu, thông thường người ta sử dụng mô hình toán với các bài
toán tối ưu. Nhưng ràng buộc quan trọng nhất là giới hạn của đường năng lực sản xuât, điều đó
cũng có nghĩa là, việc chúng ta có thể sản xuất cái gì và bao nhiêu trong một khoảng thời gian nào
đó, luôn luôn có một giới hạn nhất định của nguồn lực cho phép. Dù trong tương lai giới hạn này
có thể bị xóa bỏ hoàn toàn, điều đó không làm cho những sự lựa chọn ngày nay của chúng ta dễ
dàng hơn chút nào cả. Việc lựa chọn kinh tế để có những quyết định tối ưu của chúng ta được tiến
hành và được minh hoạ trên đường giới hạn năng lực sản xuất không nói gì về lý do chỉ chọn sự
kết hợp này mà lại không chọn sự kết hợp khác. Phải nhấn mạnh rằng tất cả luận cứ khách quan và
chủ quan về sự lựa chọn các quyết định kinh tế tối ưu đều phải nằm trên đường giới hạn của năng lực sản xuất hiện có.
Đường giới hạn khả năng sản xuất là một trong những công cụ kinh tế đơn giản nhất có thể
minh họa rõ ràng tính khan hiếm nguồn lực và sự lựa chọn kinh tế.
Xây dựng đường giới hạn khả năng sản xuất
Để sản xuất cần phải có những nguồn lực và công nghệ nhất định. Tuy nhiên, những nguồn
lực và công nghệ mà chúng ta hiện có là có giới hạn chứ không phải là vô hạn. Do đó, xã hội
không thể có mọi thứ mà họ muốn vì bị giới hạn bởi khả năng sản xuất.
Các giả định cần thiết trong việc xây dựng đường giới hạn khả năng sản xuất (sử dụng phương
pháp trừu tượng hóa, đơn giản hóa để nghiên cứu bản chất vấn đề với những giả thiết):
- Thứ nhất: Nền kinh tế chỉ sản xuất hai loại hàng hóa (quần áo và lương thực).
- Thứ hai: Số lượng nguồn lực sẵn có trong nền kinh tế là cố định.
- Thứ ba: Trình độ công nghệ là cố định.
Ví dụ: Xét một nền kinh tế có các khả năng sản xuất như sau ( các khả năng sản xuất có thể thay thế nhau) Khả năng Lương thực Quần áo (Triệu tấn) (Triệu bộ) A 0 50 B 5 40 C 10 30 D 15 20 E 20 10 F 25 0
Hình 1.1. Đường giới hạn khả năng sản xuất
Đường giới hạn khả năng sản xuất (PPF- Production Posibilities Frontier) là một tập hợp
các phối hợp tối đa số lượng các sản phẩm mà nền kinh tế có thể sản xuất được, là đường gồm tập
hợp tất cả các điểm biểu thị sự kết hợp các nguồn lực thích hợp để sản xuất ra một khối lượng sản
phẩm nhất định của nền kinh tế. Đường PPF cho biết các mức phối hợp tối đa của sản lượng mà
nền kinh tế có thể sản xuất được khi sử dụng toàn bộ nguồn lực sẵn có.
Những phương án nằm trên đường PPF như A, B, C, D, E, F là những phương án tối ưu. Ta
nhận thấy rằng, đường PPF có dáng cong lồi ra phía ngoài (cong lõm về gốc tọa độ). Các khoảng
dịch chuyển từ A B C… mỗi đoạn tương ứng với việc chuyển một phần nguồn lực từ ngành quần
áo sang ngành sản xuất lương thực và mỗi lần chuyển này làm giảm sản lượng trong ngành quần
áo nhưng lại tăng sản lượng trong ngành lương thực. Với mỗi một lần chuyển nguồn lực, chúng ta
nhận được ít hơn sản lượng lương thực sản xuất thêm và phải chịu mất một lượng tăng thêm của sản lượng quần áo.
Đường giới hạn khả năng sản xuất cũng cho ta thấy, những điểm nằm phía ngoài đường giới
hạn khả năng sản xuất (ví dụ như điểm J trong hình 1.1) là những điểm không thể đạt được vì
không đủ nguồn lực sản xuất. Còn những điểm nằm phía trong đường giới hạn khả năng sản xuất
(ví dụ như điểm I trong hình 1.1) là những điểm chưa hiệu quả vì chưa sử dụng hết các nguồn lực
hiện có hay nói cách khác nguồn lực còn dư thừa.
Như vậy hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng sản lượng một loại hàng hoá
này, mà không cắt giảm sản lượng một loại hàng hoá khác. Một nền kinh tế có hiệu quả, một
doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thì các điểm lựa chọn đều nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất của nó.
Đường giới hạn của năng lực sản xuất sẽ ứng dụng để tìm kiếm sự lựa chọn tối ưu, chẳng
hạn: trong nền kinh tế thị trường, theo quan hệ Cung- Cầu, nguồn lực càng khan hiếm thì việc lựa
chọn càng chặt chẽ; cạnh tranh càng gay gắt thì sự lựa chọn càng phức tạp.
- Để lựa chọn tối ưu, cần khai thác, sử dụng đầy đủ và có hiệu quả các nguồn lực hiện có, để
thoả mãn tối đa nhu cầu của thị trường về xã hội, đạt lợi nhuận cao, đạt hiệu quả kinh tế- xã hội lớn.
- Góp phần làm sáng tỏ việc lựa chọn ba vấn đề kinh tế cơ bản: sản xuất cái gì ? sản xuất
như thế nào? sản xuất cho ai ? trong giới hạn của nguồn lực cho phép.
- Giúp cho người lựa chọn tối ưu nhu cầu của cuộc sống, sự thích nghi về phát triển của
mình trong từng thời kỳ từng hoàn cảnh cụ thể.
1.4. Ảnh hưởng của quy luật khan hiếm, lợi suất giảm dần, chi phí cơ hội ngày càng tăng và
hiệu quả đến việc lựa chọn kinh tế tối ưu

Việc lựa chọn kinh tế tối ưu ba vấn đề kinh tế đã nêu trên chịu ảnh hưởng và tác động mạnh
của nhiều quy luật, trong đó có quy luật khan hiếm, lợi suất giảm dần, chi phí cơ hội ngày càng tăng và hiệu quả.
1.4.1. Ảnh hưởng của quy luật khan hiếm
Sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai, sẽ chẳng thành vấn đề nếu tài
nguyên đó không bị hạn chế .
Nếu có thế sản xuất một số lượng vô tận về mọi hàng hoá hoặc nếu thoả mãn được đầy đủ
mọi nhu cầu của con người, thì nếu có sản xuất quá nhiều một loại hàng hoá nào đó cũng không
sao: hoặc có kết hợp lao động, máy móc thiết bị về vật liệu một cách không khôn ngoan cũng
chẳng sao. Bởi vì tất cả mọi người muốn bao nhiêu cũng có, nên phân phối hàng hoá về thu nhập
như thế nào giữa các giai cấp và con người cũng không sao. Nhưng thực tế cuộc sống lại không
như vậy, mọi hàng hoá đều không cho không, bởi vì nguồn lực hạn chế, tài nguyên ngày một khan
hiếm và cạn kiệt. Mặc dù tiêu dùng của con người hiện vẫn còn nhiều hoang phí, về trên thực tế,
kinh tế học phải xét đến tình trạng hàng hoá còn khan hiếm. Mặc dù có nhiều người giàu có,
nhưng thế giới vẫn còn hàng tỷ người đang sống nghèo khó. Mức sản xuất tăng cao hơn, nhưng
cũng mang theo nó mức tiêu thụ ngày càng tăng, tình trạng khan hiếm còn gay gắt. Nhu cầu ngày
càng tăng, càng đa dạng và phong phú, nhất là về chất lượng hàng hóa và dịch vụ ngày càng cao,
chẳng hạn người ta muốn có nước máy trong nhà, hệ thống sưởi ấm, điều hoà nhiệt độ, tủ lạnh,
học hành, phim ảnh, tivi, sách báo…. nhưng tài nguyên để thoả mãn nhu cầu trên lại có hạn, ngày
một khan hiếm và cạn kiệt: Lao động, đất đai, khoán sản, hải sản lâm sản ...
Do vậy, vấn đề lựa chọn kinh tế tối ưu ngày càng phải đặt ra một cách nghiêm túc, gay gắt
và thực hiện rất khó khăn. Đó là đòi hỏi tất yếu của nhu cầu ngày một tăng về tài nguyên ngày một
khan hiếm. Các doanh nghiệp phải chọn lựa các vấn đề kinh tế cơ bản của mình trong giới hạn cho
phép của khả năng sản xuất hiện có mà xã hội đã phân phối cho. Hãy xem một doanh nghiệp có số
người nhất định, trình độ văn hoá và kỹ thuật của họ như vậy: với nhà xưởng, máy móc, thiết
bị và phương tiện; cùng với đất đai, nguyên vật liệu và nhiên liệu động lực, hoặc vốn cố định và
vốn lưu động nhất định, thì khi quyết định sản xuất cái gì và như thế nào, doanh nghiệp phải thật
sự dựa vào giới hạn của năng lực sản xuất hiện có để quyết định xem những nguồn lực đó phải
được phân bổ như thế nào giữa các khâu công việc để làm sao thoả mãn tối đa nhu cầu thị trường
và đạt lợi nhuận cao nhất. Đó là sự lựa chọn của doanh nghiệp trong điều kiện giới hạn của nguồn lực cho phép .
1.4.2. Ảnh hưởng của quy luật lợi suất giảm dần
Chúng ta có thể sử dụng đường giới hạn năng lực sản xuất để minh hoạ một trong những
mối quan hệ kinh tế quan trọng nhất quy luật lợi suất giảm dần. Quy luật này nói nên mối liên hệ
không phải là giữa hai loại hàng hoá ( thiết bị cơ bản và hàng tiêu dùng) mà là giữa đầu vào của
quá trình sản xuất( như lao động) và đầu ra mà nó góp phần sản xuất .
- Quy luật lợi suất giảm dần đề cập khối lượng đầu ra có thêm ngày càng giảm, khi ta liên
tiếp bỏ ra những đơn vị bằng nhau của một đầu vào biến đổi ( như lao động) với một số lượng cố
định của một đầu vào khác (như đất đai ) chẳng hạn một trang trại trồng ngô. Nếu một lao động bỏ
vào đó có sản lượng 2000kg ngô: khi tăng thêm một lao động nữa thì sản lượng đạt 3000kg ngô
liên tiếp tăng thêm một lao động nữa thì sản lượng đạt 3500kg ngô …Như vậy, tăng lao động thứ
nhất thì sản lượng tăng thêm 1000kg ngô, nhưng tăng lao động thứ 2 thì sản lượng được tăng lên 500kg ngô.
- Lợi suất theo quy mô không đổi, tình huống này được lý giải như sau: Sự tăng thêm cân
đối về quy mô sản xuất, khi tất cả các đầu vào đều tăng theo một tỷ lệ và đầu ra cũng tăng theo
một tỷ lệ đó. Lợi suất theo quy mô không đổi xảy ra khi sự nhân đôi tất cả các đầu vào( lao động,
đất đai, tư bản) đem lại kết quả nhân đôi đầu ra. Nhưng thực tế của sản xuất kinh doanh lại không
đơn giản như vậy, mà xảy ra như sau: Có thể thời gian đầu ta tăng các đầu vào đồng bộ sẽ cho ta
tăng tỷ lệ đầu ra tương ứng ( như trên); nếu tiếp tục tăng đầu vào nữa, đến mức sẽ làm cho năng
suất giảm xuống vào núc đó tỷ lệ đầu ra không tương ứng với đầu vào.
Từ đây có thể kết luận rằng, quy luật lợi suất giảm dần có nội dung chủ yếu là một sự tăng
lên của một đầu vào biến đổi so với một đầu vào khác cố định, trong một trình độ kỹ thuật nhất
định, sẽ nâng cao tổng sản lượng; nhưng ở một điểm nào đó, sản lượng tăng thêm được nhờ cùng
một lượng bổ sung ở đầu vào có khả năng ngày một nhỏ hơn.
Quy luật này giúp cho các doanh nghiệp tính toán lựa chọn đầu tư các đầu vào một cách tối ưu hơn
1.4.3. Ảnh hưởng của quy luật chi phí cơ hội ngày càng tăng
Nếu đường giới hạn năng lực sản xuất là một đường thẳng thì chi phí cơ hội để có thêm vải
khi hi sinh lương thực sẽ không đổi. Đây là trường hợp chi phí cơ hội không thay đổi. Nhưng phổ
biến hơn là, đường giới hạn năng lực sản xuất cong lồi. Khi đường giới hạn cong lồi, ta gặp quy
luật chi phí cơ hội ngày càng tăng.
Quy luật chi phí cơ hội ngày càng tăng thắng thế, khi muốn có thêm một số lượng
bằng nhau về mặt hàng, xã hội phải hi sinh ngày càng nhiều số lượng một mặt hàng khác.
Đường cong lồi của đường giới hạn khả năng sản xuất biểu thị quy luật chi phí cơ hội ngày
càng tăng. Chúng ta thấy quy luật chi phí cơ hội ngày càng tăng có quan hệ với quy luật lợi
suất giảm dần, nhưng không phải là một. Chúng ta nhận thấy rằng cùng với quy luật lợi suất
giảm dần, sản xuất thiết bị cơ bản và hàng tiêu dùng phải sử dụng các yếu tố sản xuất
( như lao động, thiết bị, đất đai…) theo những tỷ lệ hoặc cường độ khác nhau, nếu quy luật
chi phí cơ hội ngày càng tăng là đúng, chẳng hạn để sản xuất lương thực cần đất đai và lao
động, còn để sản xuất vải cần lao động còn đất đai không đáng kể, vì vậy giả sử đất đai là
cố định. Ta giả định hi sinh lượng hàng hoá công nghiệp (vải) để đưa lao động sang sản
xuất lương thực trên diện tích đất đai cố định. Tình huống này cho ta thấy rằng quy luật lợi
suất giảm dần phát huy tác dụng. Như vậy, mỗi lao động càng có ít diện tích sản xuất và do
đó đem lại ít sản phẩm và một đơn vị lương thực phải trả một lượng chi phí ngày càng cao
tính về mặt hi sinh sản xuất vải.
1.4.4. Ảnh hưởng của hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế là mối quan tâm duy nhất của kinh tế học nói chung, kinh tế vi mô nói riêng .
Hiệu quả, nói khái quát nghĩa là không lãng phí, nhưng nó quan hệ chặt chẽ với việc sử
dụng năng lực sản xuất hiện có. Một doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả khi nó không thể sản
xuất một mặt hàng khác với số lượng ít hơn, khi nó nằm trên đường gíới hạn năng lực sản xuất,
nhưng điểm có hiệu quả nhất là điểm cho phép vừa sản xuất tối đa các loại hàng hoá theo nhu cầu
thị trường và sử dụng đầy đủ năng lực sản xuất. Dưới đường năng lực sản xuất là không có hiệu
quả, vì sử dụng không đầy đủ năng lực sản xuất. Ngoài đường năng lực sản xuất là không có trong
thực tế của doanh nghiêp vì không thực hiện được. Đường năng lực sản xuất thay đổi do quá trình
phát triển và suy thoái của doanh nghiêp.
Như vậy ta có thể nhấn mạnh mấy vấn đề về cơ bản về hiệu quả kinh tế theo quan điểm kinh tế học vi mô.
Tất cả những quyết định sản xuất những cái gì trên đường giới hạn năng lực sản xuất là có
hiệu quả vì nó sử dụng hết nguồn lực .
Số lượng hàng hoá đạt trên đường giới hạn năng lực sản xuất càng lớn càng có hiệu quả .
Sự thoả mãn tối đa về mặt hàng, chất lượng, số lượng hàng hóa theo nhu cầu thị trường
trong giới hạn của đường năng lực sản xuất cho ta đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất .