Bài 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA TÂM LÝ HỌC
KINH DOANH
Mục tiêu Kiến thức
- Người học cần nắm được kiến thức sâu, rộng, hiểu được các khái niệm, chức năng,
vai trò của tâm lý học kinh doanh
- Lịch sử hình thành và phát triển tâm lý học kinh doanh.
- Nắm được các hiện tượng, qui luật và cơ chế vận hành các qui luật tâm lý, tâm lý-xã
hội của cá nhân và nhóm người trong môi trường hoạt động kinh doanh.
- Nắm được các kiến thức về tập thể, các hiện tượng tâm hội phổ biến trong tập
thể sản xuất kinh doanh, vấn đề quảng cáo thương mại tâm người tiêu dùng. -
Nắm được các kiến thức về nhân cách nhà kinh doanh, kiến thức tâm lý trong quản trị
nhân sự trong các doanh nghiệp, động nguời lao động, vận dụng, kích thích lao
động, các hình thức đào tạo nhân sự
- Biết áp dụng các kiến thức tâm học kinh doanh đphân tích, đánh giá, giải quyết
các tình huống kinh doanh.
I- ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA TÂM LÝ HỌC KINH DOANH
1- Khái niệm tâm lý học và tâm lý học kinh doanh
a) Khái niệm về tâm lý học:
Tâm lý học là một môn khoa học nghiên cứu về các hiện tượng tâm lý người
b) Khái niệm về tâm lý học kinh doanh
Tâm học kinh doanh việc ứng dụng khoa học tâm người vào quá trình sản
xuất kinh doanh.
2- Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học và tâm lý học kinh doanh a) Đối tượng
nghiên cứu của tâm lý học
Đối tượng nghiên cứu của tâm học toàn bcác hiện tượng tâm với các
đặc điểm, quy luật và cơ chế của nó, những hiện tượng tâm lý này:
-Trước hết, có cơ sở tự nhiên là hoạt động của hệ thần kinh và hoạt động biến
đổi nội tiết (sinh lý).
Ví dụ: Khi sợ: Tái mét mặt, nổi hết cả da gà. Khi lo lắng: Mất ngủ, hoặc rối
loạn tiêu hóa.
- Thứ hai, những hiện tượng tâm này chỉ được nảy sinh hình thành trong
hoạt động, gắn liền với điều kiện xã hội - lịch sử cụ thể.
Ví dụ: Phong tục, tập quán, truyền thống, kinh nghiệm sống v.v...
b) Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học kinh doanh
Tâm học kinh doanh một trong hơn 30 chuyên ngành của tâm học. Đối tượng
của nó là nghiên cứu ứng dụng các qui luật tâm lý vào hoạt động kinh doanh, cụ thể là:
Nghiên cứu sự thích ứng của công việc SXKD với con người. Theo hướng này,
TLHKD chú ý tới các khía cạnh tâm lý của việc tổ chức quá trình sản xuất, kinh doanh.
Đặc biệt các vấn đề phân công lao động, tổ chức chế độ làm việc nghỉ ngơi hợp
lý, đưa yếu tố thẩm mỹ vào sản suất kinh doanh (chuyên ngành tâm lý học tổ chức lao
động khoa học nghiên cứu)
Nghiên cứu mối quan hệ của con người với nghề nghiệp. Theo hướng này các
nhà tâm lý học đã nghiên cứu sở tâm lý các phương pháp tâm học của việc phát
hiện, sử dụng bồi dưỡng nhân tài góp phần đắc lực cho công tác quản trị nhân sự.
Ứng dụng các dạng trắc nghiệm tâm để đo năng lực trí tuệ, phẩm chất nhân cách, ý
chí... của con người, giúp cho các nhà quản trị trong việc tuyển chọn, đánh giá, đề bạt
cán bộ, nhân viên của mình (chuyên ngành tâm lý học giám định lao động nghiên cứu).
Nghiên cứu sự thích ứng của con người với con người trong sản xuất kinh doanh.
Theo hướng này TLH KD nghiên cứu các mối quan hệ giữa con người với con người
trong tập thể, cụ thể bầu không khí tâm tập thể, sự hòa hợp hay không hòa hợp giữa
các thành viên; quan hgiữa nhà quản trị với nhân viên; vấn đề uy tín của nhà quản trị...
Nghiên cứu những vấn đtâm trong việc tiêu thụ sản phẩm. Theo hướng này
TLH KD tìm hiểu những qui luật tâm lý người trong các vấn đề như: tìm hiểu nhu cầu
thị hiếu khách hàng; phong tục tập quán của thị trường để nhà kinh doanh lập kế hoạch
sản xuất, thiết kế kiểu dáng, mẫu mã...; nghiên cứu những qui luật tâm áp dụng trong
nghệ thuật quảng cáo để giới thiệu hướng dẫn kích thích hành vi mua hàng của khách
hàng...
II. BẢN CHẤT CỦA HIỆN ỢNG TÂM LÝ NGƯỜI THEO
QUANĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định: Tâm người sản phẩm phản
ánh hiện thực khách quan vào não người thông qua hoạt động của chủ thể, tâm người
có bản chất hội – lịch sử. Cụ thể, bản chất hiện tượng tâm người thể hiện ở 3 luận
điểm sau:
1. Tâm lý là sản phẩm phản ánh hiện thực khách quan bằng hoạt động
củamỗi người
Khi hiện thực khách quan trực tiếp tác động vào giác quan và não, chúng sẽ để
lại hình ảnh của hiện thực quan trên não. Hình ảnh đó gọi là hình ảnh tâm lý.
Như vậy: Hình ảnh tâm kết quả của quá trình phản ánh hiện thực khách
quan vào não. Song, hình ảnh của phản ánh tâm khác xa về chất so với hình ảnh phản
ánh của các hình thức phản ánh khác (phản ánh học, vật lý, hóa học, sinh lý, hội…)
– đó là phản ánh tâm lý mang:
- Tính tích cực: kết quả của lần phản ánh trước ảnh hưởng trực tiếp tới
lần phản ánh sau. Nhờ đó con người tích lũy được kinh nghiệm trong cuộc sống, do đó
mới có sự tồn tại và phát triển. Tục ngữ có câu: “Mỗi lần ngã là mỗi lần bớt dại / ai nên
khôn mà chẳng dại đôi lần”.
- Tính sinh động, sáng tạo: Cùng một hiện thực khách quan tác động nhưng
ở những con người khác nhau và ngay trong cùng một con người thì sự phản ánh khác
nhau.
Ví dụ:
Cùng tình yêu: Đàn ông yêu bằng mắt - Phụ nữ yêu bằng tai.
Sự phản ánh tâm mang tính sinh động, ng tạo do nhiều yếu tố chi phối: Giới
tính, hoàn cảnh, thời đại, nền văn hóa, giai cấp, lứa tuổi, giáo dục, đặc điểm giải phẫu
sinh lý, trạng thái tâm sinh lý, nghề nghiệp v.v khác nhau thì sự phản ánh khác nhau.
- Tính chủ thể: mang đậm màu sắc nhân (hay nhóm người) mang hình ảnh
tâm lý đó, hay nói khác đi hình ảnh tâm hình ảnh chủ quan vthế giới khách quan.
Tính chủ thể của hình ảnh tâm lý thể hiện ở chỗ: mỗi chủ thể trong khi tạo ra hình ảnh
tâm về thế giới đã đưa vốn hiểu biết, vốn kinh nghiệm, đưa cái riêng của mình (về
nhu cầu, xu hướng, tính khí, năng lực)… vào trong hình ảnh đó, làm cho nó mang đậm
màu sắc chủ quan.
Tuy nhiên: Không phải cứ hiện thực khách quan trực tiếp tác động vào giác
quan não là có hình ảnh phản ánh tâm lý. muốn hình ảnh phản ánh tâm lý phải
thông qua con đường gián tiếp hoạt động (cầm nắm, đo đếm, sờ mó, v.v...) của mỗi
nhân thì thuộc tính của sự vật hiện tượng mới được bộc lộ, con người mới cảm nhận
được, mới có phản ánh tâm lý.
Qua việc phân tích luận điểm một của bản chất hiện tượng tâm lý người,
ta có thể rút ra một số kết luận cơ bản sau:
Tâm lý người mang tính sinh động, sáng tạo, chủ thể, vì thế trong kinh
doanh muốn thành công trong sản xuất tiêu thụ sản phẩm chúng ta phải hiểu đối
tượng khách hàng của mình:
Nếu khách hàng phụ nữ: Nói chung phụ nữ hiểu biết về hàng hóa tốt hơn
nam giới ( ngoại trừ hàng kim khí điện máy); tính toán tiền nong giỏi hơn, nhanh hơn;
họ chú ý nhiều hơn tới mốt lựa chọn kỹ về mặt này; thích mua hàng giảm giá, lựa
chọn lâu hơn họ cân nhắc nhiều yếu tố nam giới ít để ý; phụ nữ quan tâm nhiều
tới quầy trưng bày mẫu hàng, quảng cáo hàng
Nếu khách hàng nam giới: Do thiếu kinh nghiệm mua hàng, thiếu hiểu biết
về món hàng nên nam giới muốn được người bán tư vấn, khuyên nhủ trong khi mua
tiếp nhận những lời khuyên nhanh hơn phụ nữ; nam giới ít thích mua hàng giảm giá, hạ
giá như họ cho rằng đã mua phải mua đồ tốt, đồ “xịn”, họ thường chú ý tới chất lượng
nhiều hơn giá cả.
Nếu khách hàng là người cao tuổi: Người già thường dựa vào kinh nghiệm đã
trước đây. Họ thường ưa thích những hàng hóa họ biết ngày xưa; họ ít khả
năng so sánh một cách khách quan những hàng hóa đó với hàng hóa mới và giá cả hiện
nay; người già thường đánh giá ưu thế của món hàng nghiêng về gtrị thực tế của
như: bền, tiện dụng; hình thức như: mầu sắc, hình dáng; người cao tuổi đánh giá rất cao
sự tiện lợi, thực dụng của hàng hóa và sự phục vụ tận tình của người bán. Vì vậy, trưng
bày hàng cho người cao tuổi phải để những nơi tiện cho việc chọn hàng, phải ghi
giá cả, phục vụ chu đáo, thủ tục đơn giản, làm cho họ cảm thấy mình được chăm sóc.
Nếu khách hàng là trẻ em: Trẻ em chú ý và có ấn tượng về người bán hàng hơn
so với người lớn, vậy trong xử với chúng cần giữ đúng chuẩn mực đạo đức mà tr
em vẫn coi trọng người lớn; trẻ em thích người bán hàng quan tâm, niềm nở đối xử
với như người lớn; Người bán hàng không nên nôn nóng, vội vàng khi trẻ chưa
nói ngay được ý muốn, thể tính rụt rè, e thẹn chưa quen với việc mua bán; đặc biệt
trẻ em thường có tính bị ám thị cao, nên rất dễ nghe theo lời khuyên nhủ của người bán
hàng.
2. Tâm lý là chức năng của não
Mối liên hệ giữa não tâm một trong những vấn đề bản của việc giải
cơ sở tự nhiên, cơ sở vật chất của hiện tượng tâm lý người.
Khi hiện thực khách quan tác động vào não, bộ não nhận tác động của hiện
thực khách quan dưới dạng các xung động thần kinh, cùng với những biến đổi lý hóa ở
từng nơ-ron thần kinh, từng xi-náp, các trung khu thần kinh bộ phận dưới vỏ vỏ
não làm cho bnão hoạt động theo các quy luật thần kinh tạo nên hiện tượng tâm này
hay hiện tượng tâm lý khác theo cơ chế phản xạ.
Như vậy: Tâm kết quả của hệ thống chức năng những hoạt động phản xạ
của não. Do đó, các hiện tượng tâm vừa hoạt động phản ánh, vừa hoạt động
phản xạ.
Tuy nhiên:
- Không phải cứ não vỏ não là hiện tượng tâm lý. Đó mới là điều
kiện cần, cái quyết định tâm là chỗ: con người động não không. Nói vắn tắt: não
phải ở trạng thái hoạt động mới có tâm lý.
- Tâm không phải do não sinh ra giống như gan tiết ra mật. não chỉ
quy định hình thức biểu hiện của hiện tượng tâm lý, đó qui định tốc độ biểu hiện
nhanh hay chậm, cường độ mạnh hay yếu của hiện tượng tâm lý. Còn nội dung của hiện
tượng tâm lý do hiện thực khách quan, do kinh nghiệm sống, do hoạt động của cá nhân
qui định.
3. Tâm lý là kinh nghiệm xã hội lịch sử của loài người biến thành cái riêngcủa
từng người
Tâm người bao giờ cũng phản ánh, mang bản chất hội, mang tính lịch sử
của những điều kiện mà con người là một thành viên sống và hoạt động.
a. Bản chất xã hội của hiện tượng tâm lý
Bản chất xã hội của hiện tượng tâm lý thể hiện ở nội dung xã hội và nguồn gốc
xã hội:
- Nội dung xã hội: Tâm lý người là sản phẩm của hoạt động và giao lưu của
con người trong các quan hệ hội. thế, tâm người mang đầy đủ dấu ấn hội
lịch sử của loài người mà họ là một thành viên sống và hoạt động trong xã hội đó.
- Nguồn gốc hội: Tâm người nguồn gốc hiện thực khách quan
(thế giới tự nhiên, thế giới xã hội), trong đó nguồn gốc hội cái quyết định tâm
con người, thể hiện qua các mối quan hệ hội: đó quan hệ đạo đức, pháp quyền,
quan hgiữa con người với con người, quan hệ gia đình, làng xóm, cộng đồng v.v... Các
quan hệ này quyết định bản chất tâm người. Nếu thoát ly khỏi các quan hệ này thì
tâm con người smất bản nh con người, hoặc rối loạn, hoặc tâm lý phát triển không
bình thường.
Ví dụ: Trong thực tế người ta đã tìm được những đứa trẻ bị thú nuôi: Về cấu tạo
hình hài là một con người, nhưng không có các phẩm chất tâm lý người như: Không có
dáng đứng thẳng và đi bằng hai chân, không có khả năng tư duy bằng ngôn ngữ, không
có khả năng lao động sáng tạo v.v...
b. Tính lịch sử của hiện tượng tâm lý
Tâm của mỗi nhân kết quả của quá trình tiếp thu lĩnh hội vốn kinh
nghiệm hội, nền văn a xã hội thông qua hoạt động giao tiếp - trong đó giáo dục
giữ vai trò chủ đạo. Trong tất cả các yếu tố trên: hoạt động của con người và mối quan
hệ giao tiếp của con người trong xã hội có tính quyết định.
Chính vì thế, tâm lý của mỗi cá nhân vừa mang những nét chung đặc trưng cho
xã hội lịch sử, vừa mang nét riêng tạo nên bản sắc của mỗi cá nhân.
Qua luận điểm này, trong sản xuất kinh doanh, muốn thành công chúng ta phải
tìm hiểu tâm lý thị trường, bởi vì, thị trườngnơi biểu hiện tập trung nhất của hiệu quả
SXKD.
Nhà kinh doanh không hiểu thị trường chẳng khác nào bắn mũi tên đi không
thấy đích. Nhờ nghiên cứu thị trường, nhà kinh doanh mới thể tránh bớt những
bấp bênh, những rủi ro trong công việc kinh doanh.
Một trong những yếu tố thị trường nhà kinh doanh phải đặc biệt quan tâm đó
tâm nhu cầu, thị hiếu của thị trường. Phương châm của bất cứ doanh nghiệp nào
trong chế thị trường: “ Hãy bán những thứ thị trường cần, chứ không bán những
thứ mà mình có”. Từ đó các doanh nghiệp nên tiến hành nghiên cứu tâm lý thị trường
một cách khoa học, thiết thực và kịp thời, phải biết tâm lý của người tiêu dùng như: thái
độ, thói quen, sở thích, thị hiếu...
Nhà kinh doanh phải biết phong tục, tập quán, thói quen, nhu cầu, tín ngưỡng,
sở thích...của từng vùng, từng địa phương khác nhau. Nắm bắt sự khác biệt nhu cầu
hàng hóa giữa thành thị và nông thôn, vùng công nghiệp, vùng nông nghiệp, vùng kinh
tế phát triển hoặc chậm phát triển, những vùng có khí hậu thời tiết khác nhau, giới tính,
nghề nghiệp...Trên sở đó nhà kinh doanh xây dựng kế hoạch sản xuất, thiết kế, cải
tiến mẫu mã, kiểu dáng hàng hóa, cách đóng gói bao bì, mầu sắc đề ra chiến lược
Marketing, chiến lược giá cả
Kết luận: Ba luận điểm trên giúp cho chúng ta hiểu một cách khoa học về bản
chất hiện tượng tâm lý người - Đó là hiện tượng tinh thần do hiện thực khách quan tác
động vào giác quan não một con người cụ thể gây ra, tính hội - lịch sử, nh
giai cấp, tính dân tộc, mang màu sắc riêng của bản thân mỗi người.
III. PHÂN LOẠI CÁC HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ
Có nhiều cách phân loại hiện tượng tâm lý. Song cách phân loại phổ biến dựa
theo thời gian tồn tại của chúng vị trí tương đối của chúng trong nhân cách. Theo
cách này, người ta chia ra ba loại chính:
1. Quá trình tâm lý
những hiện tượng tâm diễn ra mở đầu, diễn biến kết thúc,
thường diễn ra trong một thời gian ngắn, kết thúc tương đối ràng. Quá trình tâm
bao gồm 3 quá trình:
a. Quá trình nhận thức
quá trình phản ánh bản thân các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách
quan, bao gồm:
- Nhận thức cảm tính: Là quá trình phản ánh những thuộc tính bên ngoài
không bản chất của sự vật hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động vào các giác quan.
Giúp con người hiểu biết về thế giới khách quan. Bao gồm 2 mức độ nhận thức: Cảm
giác và tri giác.
- Nhận thức trung gian: Phản ánh thuộc tính khái quát bên ngơài không
bản chất của một nhóm sự vật hiện tượng cùng loại. Giúp con người lưu giữ được
hình ảnh của sự vật hiện tượng khi chúng thôi không còn trực tiếp tác động, đó là quá
trình: Trí nhớ.
- Nhận thức lý tính: Phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên
hệ quan hệ có tính quy luật của sự vật hiện tượng mà trước đó con người chưa biết.
Nhờ có nhận thức lý tính mà giúp con người cải tạo được thế giới khách quan. Nó bao
gồm 2 mức độ nhận thức: Tư duy và Tưởng tượng.
b. Quá trình xúc cảm
Là sự biểu thị thái độ của con người đối với đối tượng mà con người nhận thức
được như sự hài lòng, phấn khởi, buồn phiền, thất vọng, lo âu, chán nản v.v…
c. Quá trình ý chí và hành động ý chí
quá trình con người tác động vào thế giới khách quan nhằm cải tạo thế giới
khách quan.
2. Trạng thái tâm
hiện tượng tâm lý diễn ra trong một thời gian dài, việc mở đầu kết thúc
thường không rõ ràng, ví như: Hôm nay trời nhẹ lên cao, tôi buồn không hiểu sao
tôi buồn”.
Các trạng thái tâm lý thường gặp: bâng khuâng, do dự, hồi hộp, lo lắng, chú ý
3. Thuộc tính tâm lý
những hiện tượng tâm tương đối ổn định, khó hình thành khó mất đi,
tạo thành những nét riêng của nhân cách, chi phối các quá trình tâm lý và trạng thái tâm
lý của con người, nó bao gồm 4 thuộc tính sau :
- Xu hướng: là mặt chỉ đạo của nhân cách.
- Tính cách: là mặt bản chất, cái gốc của nhân cách.
- Khí chất: là sắc thái biểu hiện của tính cách.
- Năng lực: là khả năng hiện thực của một nhân cách.
IV- CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TÂM LÝ CON NGƯỜI
TRONG KINH DOANH.
1- Quan sát:
Là phương pháp dùng các giác quan để ghi nhận và đánh giá những đặc điểm
tâm lý thông qua những biểu hiện bên ngoài một cách có hệ thống và khoa học.
Tuy nhiên đây chỉ là phương pháp giúp ta định hướng ban đầu về đối tượng thôi,
bởi vì nó mang nhiều yếu tố chủ quan tùy theo kinh nghiệm và kỹ năng của người quan
sát.
Nhà quản trị có thể dùng phương pháp quan sát trong rất nhiều trường hợp:
- Quan sát để tìm hiểu tâm của một nhân khi tiếp xúc với mình (QSát
nhânviên, thủ trưởng, khách hàng, đối tác làm ăn...) để kịp thời điều chỉnh hành vi giao
tiếp.
dụ: trong 1 cuộc thương lượng hợp đồng, thông qua những cử chỉ biểu hiện bên
ngoài của đối tác, nhà kinh doanh thể đoán được rằng anh ta schấp nhận những
điều khoản mình đưa ra hay không?
- Quan sát tâm của tập thể: dùng tai để lắng nghe những ý kiến luận của
tậpthể; dùng mắt để nhìn mọi hiện tượng xã hội xảy ra trong tập thể; quan sát tâm trạng
của tập thể, không khí tâm trong tập thể, những xung đột trong tập thể, quan sát
đời sống tập thể của nhân viên.
- Quan sát để tìm hiểu tâm thị trường: đó quan sát xu thế của thời trang,
“Mốt”để biết thị hiếu của khách hàng; Quan sát phong cách, thói quen mua hàng; quan
sát thái độ của khách hàng đối với một mặt hàng, kiểu dáng, mẫu mã mới tung ra ...
Tuy nhiên cần lưu ý: Khi quan sát một người, thông thường chúng ta ấn tượng
tốt hay xấu về họ nó phụ thuộc vào những đặc điểm ổn định, tướng mạo của họ - kiểu
trông mặt bắt hình dong” hay khôn ngoan lra mặt”. Tuy nhiên, những đặc
điểm tướng mạo (khuôn mặt, hình dáng cặp mắt, cái mũi, vầng trán, nước da, đôi bàn
tay...) chỉ cho ta định hướng, phán đoán ban đầu vngười đó chứ không nên tuyệt đối
hóa chúng, bởi vì, tướng mạo của con người chủ yếu là bẩm sinh, tiền định, mà tâm lý,
nh cách con người những yếu tố biến động theo điều kiện giáo dục, điều kiện hội.
Bởi vậy, nên dựa vào tình huống hoàn cảnh cụ thể để đánh giá: Ví dụ:
Người cử chỉ lúng túng, vội vã, nhịp thở gấp, nói ngắt quãng đang xúc động,
bất cần một cái gì đó.
Giọng trầm, nhịp độ hoạt động chậm là thể hiện sự buồn rầu.
Bồn chồn, mặt đỏ chuyển sang toát mồ hôi, hay động tác thừa là người đang
lo lắng, sợ hãi.
Nụ cười hồn nhiên, dáng đứng đàng hoàng kết hợp với ngôn ngữ mạch lạc
người tự tin, chân thành, thẳng thắn
Khi một người nói dối thường lấy tay che miệng, ấn ngón tay vào má, có khi giả
vờ ho, dụi mắt hoặc nhìn ra chỗ khác.
Muốn quan sát hiệu quả thu thập thông tin một cách khách quan, cần tuân
theo yêu cầu sau:
- Các đối tượng cần tìm hiểu phải được quan sát trong những điều kiện bình thường
của chúng.
- Phải có kế hoạch chi tiết cụ thể phù hợp với nhiệm vụ nghiên cứu: xác định mục
tiêu, đối tượng quan sát, nhiệm vụ, lựa chọn hình thức quan sát...
- Tốt nhất không đcho đối tượng biết mình đang bị quan sát để tránh hiện tượng
giả, mất tự nhiên.
- Phải quan sát đối tượng ở nhiều khía cạnh và trong các điều kiện khác nhau.
2- Phương pháp tiểu sử
Bản chất của phương pháp này là thu thập và phân tích các tài liệu tính chất tiểu
sử của một người cụ thhay một tập thể (thư từ, nhật ký, các tác phẩm văn học nghệ
thuật của một người, các tài liệu lưu trữ của tập thể...) nhằm làm hơn các đặc điểm
tâm lý của đối tượng đó và sự phát triển của chúng.
Nhà quản trị thể tìm hiểu nhân viên của mình thông qua các sản phẩm lao động
của họ. Chẳng hạn: khi xem một bản báo cáo, bản kế hoạch của nhân viên ta cũng
thể đánh giá được một cách tổng quát đạo đức, năng lực, trình độ của họ. Nhờ phương
pháp này nhiều khi nhà quản trị phát hiện ra các nhân tài, đào tạo htrở thành những
nhà quản trị giỏi.
3- Phương pháp thực nghiệm tự nhiên
phương pháp trong đó người ta chủ động tạo ra các tình huống hết sức tự nhiên
để đối tượng phải bộc lộ ra những phẩm chất tâm lý mà mình cần tìm hiểu
Thực nghiệm tự nhiên còn gọi phương pháp thử bằng tình huống, tức ta muốn
kiểm tra đặc điểm tâm nào của đối tượng thì ta đưa ra những tình huống giống như
trong thực tế để trong đó họ phải bộc lộ ra những đặc điểm mà mình cần quan tâm
Phương pháp này đã được người xưa dùng khá rộng rãi. Trong khi bàn vphép dùng
người, Gia Cát Lượng đã nói về phương pháp này:
“Cho việc khó để thử tài. / Hỏi lúc vội vàng để xem trí
Cho đi xa để xem trung. / Cho ở gần để xem kính
Giao vật chất để xem nhân. / Cho chén say để xem tính khí...”
Ngày nay các nhà quản trị dùng phương pháp này trong các trường hợp cụ thể sau:
- Khi muốn tìm hiểu tính cách của nhân viên
- Khi muốn kiểm tra năng lực của một cán bộ, nhân viên sắp được đề bạt. Ví dụ:
Cử một nhân viên, hay cán bộ sắp được đề bạt đi công tác, ông ta y nhiệm quyền giám
đốc cho nhân viên đó. Sau khi đi về, thủ trưởng kiểm tra lại các giấy tờ, tài liệu xem
người kia xử lý thế nào trong điều kiện do mình tạo ra.
- Khi muốn kiểm tra hình quản mới nhà quản trị định thi hành trong
tương lai. Trong quá trình thực nghiệm như vậy sẽ bộc lộ ra ưu, nhược điểm của các
thành viên, của hình quản mới. Trên cơ sở đó ta nhận xét, đánh giá nhân viên,
đề bạt cán bộ và đổi mới công tác quản lý.
4- Phương pháp đàm thoại
Là đặt ra cho đối tượng những câu hỏi trong các cuộc giao tiếp trực tiếp và dựa vào
câu trả lời, nhà quản trị tìm hiểu những đặc điểm tâm lý của họ.
Nhà quản trị thường dùng phương pháp này trong các trường hợp sau:
- Trong các cuộc giao tiếp bình thường với một nhân, ta thể đưa ra các câu
hỏi đtìm hiểu tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu, quan điểm, lập trường của nhân về
một vấn đề nào đó, cũng như tìm hiểu năng lực tư duy các phẩm chất khác của đối
tượng
- Nhà quản trị trực tiếp gặp gquần chúng để thăm ý kiến vmột vấn đề nào
đó thuộc đường lối chủ trương, chính sách, kế hoạch quản lý
- Cũng thể sử dụng phương pháp này để phỏng vấn dự tuyển viên trong quá
trình tuyển chọn nhân viên.

Preview text:

Bài 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA TÂM LÝ HỌC KINH DOANH
Mục tiêu Kiến thức
- Người học cần nắm được kiến thức sâu, rộng, hiểu được các khái niệm, chức năng,
vai trò của tâm lý học kinh doanh
- Lịch sử hình thành và phát triển tâm lý học kinh doanh.
- Nắm được các hiện tượng, qui luật và cơ chế vận hành các qui luật tâm lý, tâm lý-xã
hội của cá nhân và nhóm người trong môi trường hoạt động kinh doanh.
- Nắm được các kiến thức về tập thể, các hiện tượng tâm lý xã hội phổ biến trong tập
thể sản xuất kinh doanh, vấn đề quảng cáo thương mại và tâm lý người tiêu dùng. -
Nắm được các kiến thức về nhân cách nhà kinh doanh, kiến thức tâm lý trong quản trị
nhân sự trong các doanh nghiệp, động cơ nguời lao động, vận dụng, kích thích lao
động, các hình thức đào tạo nhân sự

- Biết áp dụng các kiến thức tâm lý học kinh doanh để phân tích, đánh giá, giải quyết
các tình huống kinh doanh.
I- ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA TÂM LÝ HỌC KINH DOANH
1- Khái niệm tâm lý học và tâm lý học kinh doanh

a) Khái niệm về tâm lý học:
Tâm lý học là một môn khoa học nghiên cứu về các hiện tượng tâm lý người
b) Khái niệm về tâm lý học kinh doanh
Tâm lý học kinh doanh là việc ứng dụng khoa học tâm lý người vào quá trình sản xuất kinh doanh.
2- Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học và tâm lý học kinh doanh a) Đối tượng
nghiên cứu của tâm lý học

Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học là toàn bộ các hiện tượng tâm lý với các
đặc điểm, quy luật và cơ chế của nó, những hiện tượng tâm lý này:
-Trước hết, có cơ sở tự nhiên là hoạt động của hệ thần kinh và hoạt động biến
đổi nội tiết (sinh lý).
Ví dụ: Khi sợ: Tái mét mặt, nổi hết cả da gà. Khi lo lắng: Mất ngủ, hoặc rối loạn tiêu hóa.
- Thứ hai, những hiện tượng tâm lý này chỉ được nảy sinh và hình thành trong
hoạt động, gắn liền với điều kiện xã hội - lịch sử cụ thể.
Ví dụ: Phong tục, tập quán, truyền thống, kinh nghiệm sống v.v...
b) Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học kinh doanh
Tâm lý học kinh doanh là một trong hơn 30 chuyên ngành của tâm lý học. Đối tượng
của nó là nghiên cứu ứng dụng các qui luật tâm lý vào hoạt động kinh doanh, cụ thể là:
• Nghiên cứu sự thích ứng của công việc SXKD với con người. Theo hướng này,
TLHKD chú ý tới các khía cạnh tâm lý của việc tổ chức quá trình sản xuất, kinh doanh.
Đặc biệt là các vấn đề phân công lao động, tổ chức chế độ làm việc và nghỉ ngơi hợp
lý, đưa yếu tố thẩm mỹ vào sản suất kinh doanh (chuyên ngành tâm lý học tổ chức lao
động khoa học nghiên cứu)
• Nghiên cứu mối quan hệ của con người với nghề nghiệp. Theo hướng này các
nhà tâm lý học đã nghiên cứu cơ sở tâm lý và các phương pháp tâm lý học của việc phát
hiện, sử dụng và bồi dưỡng nhân tài góp phần đắc lực cho công tác quản trị nhân sự.
Ứng dụng các dạng trắc nghiệm tâm lý để đo năng lực trí tuệ, phẩm chất nhân cách, ý
chí... của con người, giúp cho các nhà quản trị trong việc tuyển chọn, đánh giá, đề bạt
cán bộ, nhân viên của mình (chuyên ngành tâm lý học giám định lao động nghiên cứu).
• Nghiên cứu sự thích ứng của con người với con người trong sản xuất kinh doanh.
Theo hướng này TLH KD nghiên cứu các mối quan hệ giữa con người với con người
trong tập thể, cụ thể là bầu không khí tâm lý tập thể, sự hòa hợp hay không hòa hợp giữa
các thành viên; quan hệ giữa nhà quản trị với nhân viên; vấn đề uy tín của nhà quản trị...
• Nghiên cứu những vấn đề tâm lý trong việc tiêu thụ sản phẩm. Theo hướng này
TLH KD tìm hiểu những qui luật tâm lý người trong các vấn đề như: tìm hiểu nhu cầu
thị hiếu khách hàng; phong tục tập quán của thị trường để nhà kinh doanh lập kế hoạch
sản xuất, thiết kế kiểu dáng, mẫu mã...; nghiên cứu những qui luật tâm lý áp dụng trong
nghệ thuật quảng cáo để giới thiệu hướng dẫn và kích thích hành vi mua hàng của khách hàng...
II. BẢN CHẤT CỦA HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ NGƯỜI THEO
QUANĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định: Tâm lý người là sản phẩm phản
ánh hiện thực khách quan vào não người thông qua hoạt động của chủ thể, tâm lý người
có bản chất xã hội – lịch sử. Cụ thể, bản chất hiện tượng tâm lý người thể hiện ở 3 luận điểm sau:
1. Tâm lý là sản phẩm phản ánh hiện thực khách quan bằng hoạt động củamỗi người
Khi hiện thực khách quan trực tiếp tác động vào giác quan và não, chúng sẽ để
lại hình ảnh của hiện thực quan trên não. Hình ảnh đó gọi là hình ảnh tâm lý.
Như vậy: Hình ảnh tâm lý là kết quả của quá trình phản ánh hiện thực khách
quan vào não. Song, hình ảnh của phản ánh tâm lý khác xa về chất so với hình ảnh phản
ánh của các hình thức phản ánh khác (phản ánh cơ học, vật lý, hóa học, sinh lý, xã hội…)
– đó là phản ánh tâm lý mang: -
Tính tích cực: Là kết quả của lần phản ánh trước ảnh hưởng trực tiếp tới
lần phản ánh sau. Nhờ đó con người tích lũy được kinh nghiệm trong cuộc sống, do đó
mới có sự tồn tại và phát triển. Tục ngữ có câu: “Mỗi lần ngã là mỗi lần bớt dại / ai nên
khôn mà chẳng dại đôi lần”. -
Tính sinh động, sáng tạo: Cùng một hiện thực khách quan tác động nhưng
ở những con người khác nhau và ngay trong cùng một con người thì sự phản ánh khác nhau. Ví dụ:
Cùng tình yêu: Đàn ông yêu bằng mắt - Phụ nữ yêu bằng tai.
Sự phản ánh tâm lý mang tính sinh động, sáng tạo do nhiều yếu tố chi phối: Giới
tính, hoàn cảnh, thời đại, nền văn hóa, giai cấp, lứa tuổi, giáo dục, đặc điểm giải phẫu
sinh lý, trạng thái tâm sinh lý, nghề nghiệp
v.v khác nhau thì sự phản ánh khác nhau.
- Tính chủ thể: mang đậm màu sắc cá nhân (hay nhóm người) mang hình ảnh
tâm lý đó, hay nói khác đi hình ảnh tâm lý là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan.
Tính chủ thể của hình ảnh tâm lý thể hiện ở chỗ: mỗi chủ thể trong khi tạo ra hình ảnh
tâm lý về thế giới đã đưa vốn hiểu biết, vốn kinh nghiệm, đưa cái riêng của mình (về
nhu cầu, xu hướng, tính khí, năng lực)… vào trong hình ảnh đó, làm cho nó mang đậm màu sắc chủ quan.
Tuy nhiên: Không phải cứ hiện thực khách quan trực tiếp tác động vào giác
quan và não là có hình ảnh phản ánh tâm lý. Mà muốn có hình ảnh phản ánh tâm lý phải
thông qua con đường gián tiếp hoạt động (cầm nắm, đo đếm, sờ mó, v.v...) của mỗi cá
nhân thì thuộc tính của sự vật hiện tượng mới được bộc lộ, con người mới cảm nhận
được, mới có phản ánh tâm lý.
Qua việc phân tích luận điểm một của bản chất hiện tượng tâm lý người,
ta có thể rút ra một số kết luận cơ bản sau:
Tâm lý người mang tính sinh động, sáng tạo, chủ thể, vì thế trong kinh
doanh muốn thành công trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chúng ta phải hiểu đối
tượng khách hàng của mình:
Nếu khách hàng là phụ nữ: Nói chung phụ nữ hiểu biết về hàng hóa tốt hơn
nam giới ( ngoại trừ hàng kim khí điện máy); tính toán tiền nong giỏi hơn, nhanh hơn;
họ chú ý nhiều hơn tới mốt và lựa chọn kỹ về mặt này; thích mua hàng giảm giá, lựa
chọn lâu hơn vì họ cân nhắc nhiều yếu tố mà nam giới ít để ý; phụ nữ quan tâm nhiều
tới quầy trưng bày mẫu hàng, quảng cáo hàng
Nếu khách hàng là nam giới: Do thiếu kinh nghiệm mua hàng, thiếu hiểu biết
về món hàng nên nam giới muốn được người bán tư vấn, khuyên nhủ trong khi mua và
tiếp nhận những lời khuyên nhanh hơn phụ nữ; nam giới ít thích mua hàng giảm giá, hạ
giá vì như họ cho rằng đã mua phải mua đồ tốt, đồ “xịn”, họ thường chú ý tới chất lượng nhiều hơn giá cả.
Nếu khách hàng là người cao tuổi: Người già thường dựa vào kinh nghiệm đã
có trước đây. Họ thường ưa thích những hàng hóa mà họ biết ngày xưa; họ ít có khả
năng so sánh một cách khách quan những hàng hóa đó với hàng hóa mới và giá cả hiện
nay; người già thường đánh giá ưu thế của món hàng nghiêng về giá trị thực tế của nó
như: bền, tiện dụng; hình thức như: mầu sắc, hình dáng; người cao tuổi đánh giá rất cao
sự tiện lợi, thực dụng của hàng hóa và sự phục vụ tận tình của người bán. Vì vậy, trưng
bày hàng cho người cao tuổi phải để ở những nơi tiện cho việc chọn hàng, phải ghi rõ
giá cả, phục vụ chu đáo, thủ tục đơn giản, làm cho họ cảm thấy mình được chăm sóc.
Nếu khách hàng là trẻ em: Trẻ em chú ý và có ấn tượng về người bán hàng hơn
so với người lớn, vì vậy trong cư xử với chúng cần giữ đúng chuẩn mực đạo đức mà trẻ
em vẫn coi trọng ở người lớn; trẻ em thích người bán hàng quan tâm, niềm nở đối xử
với nó như là người lớn; Người bán hàng không nên nôn nóng, vội vàng khi trẻ chưa
nói ngay được ý muốn, có thể vì tính rụt rè, e thẹn chưa quen với việc mua bán; đặc biệt
trẻ em thường có tính bị ám thị cao, nên rất dễ nghe theo lời khuyên nhủ của người bán hàng.
2. Tâm lý là chức năng của não
Mối liên hệ giữa não và tâm lý là một trong những vấn đề cơ bản của việc lý giải
cơ sở tự nhiên, cơ sở vật chất của hiện tượng tâm lý người.
Khi có hiện thực khách quan tác động vào não, bộ não nhận tác động của hiện
thực khách quan dưới dạng các xung động thần kinh, cùng với những biến đổi lý hóa ở
từng nơ-ron thần kinh, từng xi-náp, các trung khu thần kinh ở bộ phận dưới vỏ và vỏ
não làm cho bộ não hoạt động theo các quy luật thần kinh tạo nên hiện tượng tâm lý này
hay hiện tượng tâm lý khác theo cơ chế phản xạ.
Như vậy: Tâm lý là kết quả của hệ thống chức năng những hoạt động phản xạ
của não. Do đó, các hiện tượng tâm lý vừa là hoạt động phản ánh, vừa là hoạt động phản xạ.
Tuy nhiên: -
Không phải cứ có não và vỏ não là có hiện tượng tâm lý. Đó mới là điều
kiện cần, cái quyết định tâm lý là ở chỗ: con người có động não không. Nói vắn tắt: não
phải ở trạng thái hoạt động mới có tâm lý.
-
Tâm lý không phải do não sinh ra giống như gan tiết ra mật. Mà não chỉ
quy định hình thức biểu hiện của hiện tượng tâm lý, đó là qui định tốc độ biểu hiện
nhanh hay chậm, cường độ mạnh hay yếu của hiện tượng tâm lý. Còn nội dung của hiện
tượng tâm lý do hiện thực khách quan, do kinh nghiệm sống, do hoạt động của cá nhân qui định.
3. Tâm lý là kinh nghiệm xã hội lịch sử của loài người biến thành cái riêngcủa từng người
Tâm lý người bao giờ cũng phản ánh, mang bản chất xã hội, mang tính lịch sử
của những điều kiện mà con người là một thành viên sống và hoạt động.
a. Bản chất xã hội của hiện tượng tâm lý
Bản chất xã hội của hiện tượng tâm lý thể hiện ở nội dung xã hội và nguồn gốc xã hội: -
Nội dung xã hội: Tâm lý người là sản phẩm của hoạt động và giao lưu của
con người trong các quan hệ xã hội. Vì thế, tâm lý người mang đầy đủ dấu ấn xã hội
lịch sử của loài người mà họ là một thành viên sống và hoạt động trong xã hội đó. -
Nguồn gốc xã hội: Tâm lý người có nguồn gốc là hiện thực khách quan
(thế giới tự nhiên, thế giới xã hội), trong đó nguồn gốc xã hội là cái quyết định tâm lý
con người, thể hiện qua các mối quan hệ xã hội: đó là quan hệ đạo đức, pháp quyền,
quan hệ giữa con người với con người, quan hệ gia đình, làng xóm, cộng đồng v.v... Các
quan hệ này quyết định bản chất tâm lý người. Nếu thoát ly khỏi các quan hệ này thì
tâm lý con người sẽ mất bản tính con người, hoặc rối loạn, hoặc tâm lý phát triển không bình thường.
Ví dụ: Trong thực tế người ta đã tìm được những đứa trẻ bị thú nuôi: Về cấu tạo
hình hài là một con người, nhưng không có các phẩm chất tâm lý người như: Không có
dáng đứng thẳng và đi bằng hai chân, không có khả năng tư duy bằng ngôn ngữ, không
có khả năng lao động sáng tạo v.v...
b. Tính lịch sử của hiện tượng tâm lý
Tâm lý của mỗi cá nhân là kết quả của quá trình tiếp thu và lĩnh hội vốn kinh
nghiệm xã hội, nền văn hóa xã hội thông qua hoạt động và giao tiếp - trong đó giáo dục
giữ vai trò chủ đạo.
Trong tất cả các yếu tố trên: hoạt động của con người và mối quan
hệ giao tiếp của con người trong xã hội có tính quyết định.
Chính vì thế, tâm lý của mỗi cá nhân vừa mang những nét chung đặc trưng cho
xã hội lịch sử, vừa mang nét riêng tạo nên bản sắc của mỗi cá nhân.
Qua luận điểm này, trong sản xuất kinh doanh, muốn thành công chúng ta phải
tìm hiểu tâm lý thị trường, bởi vì, thị trường là nơi biểu hiện tập trung nhất của hiệu quả SXKD.
Nhà kinh doanh không hiểu thị trường chẳng khác nào bắn mũi tên đi không
thấy đích. Nhờ có nghiên cứu thị trường, nhà kinh doanh mới có thể tránh bớt những
bấp bênh, những rủi ro trong công việc kinh doanh.
Một trong những yếu tố thị trường mà nhà kinh doanh phải đặc biệt quan tâm đó
là tâm lý nhu cầu, thị hiếu của thị trường. Phương châm của bất cứ doanh nghiệp nào
trong cơ chế thị trường: “ Hãy bán những thứ thị trường cần, chứ không bán những
thứ mà mình có”.
Từ đó các doanh nghiệp nên tiến hành nghiên cứu tâm lý thị trường
một cách khoa học, thiết thực và kịp thời, phải biết tâm lý của người tiêu dùng như: thái
độ, thói quen, sở thích, thị hiếu...
Nhà kinh doanh phải biết phong tục, tập quán, thói quen, nhu cầu, tín ngưỡng,
sở thích...của từng vùng, từng địa phương khác nhau. Nắm bắt sự khác biệt nhu cầu
hàng hóa giữa thành thị và nông thôn, vùng công nghiệp, vùng nông nghiệp, vùng kinh
tế phát triển hoặc chậm phát triển, những vùng có khí hậu thời tiết khác nhau, giới tính,
nghề nghiệp...Trên cơ sở đó nhà kinh doanh xây dựng kế hoạch sản xuất, thiết kế, cải
tiến mẫu mã, kiểu dáng hàng hóa, cách đóng gói bao bì, mầu sắc và đề ra chiến lược
Marketing, chiến lược giá cả
Kết luận: Ba luận điểm trên giúp cho chúng ta hiểu một cách khoa học về bản
chất hiện tượng tâm lý người - Đó là hiện tượng tinh thần do hiện thực khách quan tác
động vào giác quan và não một con người cụ thể gây ra, có tính xã hội - lịch sử, tính
giai cấp, tính dân tộc, mang màu sắc riêng của bản thân mỗi người.

III. PHÂN LOẠI CÁC HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ
Có nhiều cách phân loại hiện tượng tâm lý. Song cách phân loại phổ biến là dựa
theo thời gian tồn tại của chúng và vị trí tương đối của chúng trong nhân cách. Theo
cách này, người ta chia ra ba loại chính:
1. Quá trình tâm lý
Là những hiện tượng tâm lý diễn ra có mở đầu, có diễn biến và có kết thúc,
thường diễn ra trong một thời gian ngắn, kết thúc tương đối rõ ràng. Quá trình tâm lý bao gồm 3 quá trình:
a. Quá trình nhận thức
Là quá trình phản ánh bản thân các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan, bao gồm: -
Nhận thức cảm tính: Là quá trình phản ánh những thuộc tính bên ngoài
không bản chất của sự vật hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động vào các giác quan.
Giúp con người hiểu biết về thế giới khách quan. Bao gồm 2 mức độ nhận thức: Cảm giác và tri giác. -
Nhận thức trung gian: Phản ánh thuộc tính khái quát bên ngơài không
bản chất của một nhóm sự vật hiện tượng cùng loại. Giúp con người lưu giữ được
hình ảnh của sự vật hiện tượng khi chúng thôi không còn trực tiếp tác động, đó là quá trình: Trí nhớ. -
Nhận thức lý tính: Phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên
hệ quan hệ có tính quy luật của sự vật hiện tượng mà trước đó con người chưa biết.
Nhờ có nhận thức lý tính mà giúp con người cải tạo được thế giới khách quan. Nó bao
gồm 2 mức độ nhận thức: Tư duy và Tưởng tượng.
b. Quá trình xúc cảm
Là sự biểu thị thái độ của con người đối với đối tượng mà con người nhận thức
được như sự hài lòng, phấn khởi, buồn phiền, thất vọng, lo âu, chán nản v.v…
c. Quá trình ý chí và hành động ý chí
Là quá trình con người tác động vào thế giới khách quan nhằm cải tạo thế giới khách quan.
2. Trạng thái tâm lý
Là hiện tượng tâm lý diễn ra trong một thời gian dài, việc mở đầu và kết thúc
thường không rõ ràng, ví như: “ Hôm nay trời nhẹ lên cao, tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”.
Các trạng thái tâm lý thường gặp: bâng khuâng, do dự, hồi hộp, lo lắng, chú ý…
3. Thuộc tính tâm lý
Là những hiện tượng tâm lý tương đối ổn định, khó hình thành và khó mất đi,
tạo thành những nét riêng của nhân cách, chi phối các quá trình tâm lý và trạng thái tâm
lý của con người, nó bao gồm 4 thuộc tính sau :
- Xu hướng: là mặt chỉ đạo của nhân cách.
- Tính cách: là mặt bản chất, cái gốc của nhân cách.
- Khí chất: là sắc thái biểu hiện của tính cách.
- Năng lực: là khả năng hiện thực của một nhân cách.
IV- CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TÂM LÝ CON NGƯỜI TRONG KINH DOANH. 1- Quan sát:
Là phương pháp dùng các giác quan để ghi nhận và đánh giá những đặc điểm
tâm lý thông qua những biểu hiện bên ngoài một cách có hệ thống và khoa học.
Tuy nhiên đây chỉ là phương pháp giúp ta định hướng ban đầu về đối tượng mà thôi,
bởi vì nó mang nhiều yếu tố chủ quan tùy theo kinh nghiệm và kỹ năng của người quan sát.
Nhà quản trị có thể dùng phương pháp quan sát trong rất nhiều trường hợp:
- Quan sát để tìm hiểu tâm lý của một cá nhân khi tiếp xúc với mình (QSát
nhânviên, thủ trưởng, khách hàng, đối tác làm ăn...) để kịp thời điều chỉnh hành vi giao tiếp.
Ví dụ: trong 1 cuộc thương lượng hợp đồng, thông qua những cử chỉ biểu hiện bên
ngoài của đối tác, nhà kinh doanh có thể đoán được rằng anh ta sẽ chấp nhận những
điều khoản mình đưa ra hay không?

- Quan sát tâm lý của tập thể: dùng tai để lắng nghe những ý kiến dư luận của
tậpthể; dùng mắt để nhìn mọi hiện tượng xã hội xảy ra trong tập thể; quan sát tâm trạng
của tập thể, không khí tâm lý trong tập thể, những xung đột trong tập thể, và quan sát
đời sống tập thể của nhân viên.
- Quan sát để tìm hiểu tâm lý thị trường: đó là quan sát xu thế của thời trang,
“Mốt”để biết thị hiếu của khách hàng; Quan sát phong cách, thói quen mua hàng; quan
sát thái độ của khách hàng đối với một mặt hàng, kiểu dáng, mẫu mã mới tung ra ...
Tuy nhiên cần lưu ý: Khi quan sát một người, thông thường chúng ta có ấn tượng
tốt hay xấu về họ nó phụ thuộc vào những đặc điểm ổn định, tướng mạo của họ - kiểu
trông mặt mà bắt hình dong” hay là “khôn ngoan nó lộ ra mặt”. Tuy nhiên, những đặc
điểm tướng mạo (khuôn mặt, hình dáng cặp mắt, cái mũi, vầng trán, nước da, đôi bàn
tay...) chỉ cho ta định hướng, phán đoán ban đầu về người đó chứ không nên tuyệt đối
hóa chúng, bởi vì, tướng mạo của con người chủ yếu là bẩm sinh, tiền định, mà tâm lý,
tính cách con người là những yếu tố biến động theo điều kiện giáo dục, điều kiện xã hội.
Bởi vậy, nên dựa vào tình huống hoàn cảnh cụ thể để đánh giá: Ví dụ:
• Người có cử chỉ lúng túng, vội vã, nhịp thở gấp, nói ngắt quãng là đang xúc động,
bất cần một cái gì đó.
• Giọng trầm, nhịp độ hoạt động chậm là thể hiện sự buồn rầu.
• Bồn chồn, mặt đỏ chuyển sang toát mồ hôi, hay có động tác thừa là người đang lo lắng, sợ hãi.
• Nụ cười hồn nhiên, dáng đứng đàng hoàng kết hợp với ngôn ngữ mạch lạc là
người tự tin, chân thành, thẳng thắn
• Khi một người nói dối thường lấy tay che miệng, ấn ngón tay vào má, có khi giả
vờ ho, dụi mắt hoặc nhìn ra chỗ khác.
Muốn quan sát có hiệu quả và thu thập thông tin một cách khách quan, cần tuân theo yêu cầu sau:
- Các đối tượng cần tìm hiểu phải được quan sát trong những điều kiện bình thường của chúng.
- Phải có kế hoạch chi tiết cụ thể phù hợp với nhiệm vụ nghiên cứu: xác định mục
tiêu, đối tượng quan sát, nhiệm vụ, lựa chọn hình thức quan sát...
- Tốt nhất không để cho đối tượng biết là mình đang bị quan sát để tránh hiện tượng giả, mất tự nhiên.
- Phải quan sát đối tượng ở nhiều khía cạnh và trong các điều kiện khác nhau.
2- Phương pháp tiểu sử
Bản chất của phương pháp này là thu thập và phân tích các tài liệu có tính chất tiểu
sử của một người cụ thể hay một tập thể (thư từ, nhật ký, các tác phẩm văn học nghệ
thuật của một người, các tài liệu lưu trữ của tập thể...) nhằm làm rõ hơn các đặc điểm
tâm lý của đối tượng đó và sự phát triển của chúng.
Nhà quản trị có thể tìm hiểu nhân viên của mình thông qua các sản phẩm lao động
của họ. Chẳng hạn: khi xem một bản báo cáo, bản kế hoạch của nhân viên ta cũng có
thể đánh giá được một cách tổng quát đạo đức, năng lực, trình độ của họ. Nhờ phương
pháp này nhiều khi nhà quản trị phát hiện ra các nhân tài, đào tạo họ trở thành những nhà quản trị giỏi.
3- Phương pháp thực nghiệm tự nhiên
Là phương pháp trong đó người ta chủ động tạo ra các tình huống hết sức tự nhiên
để đối tượng phải bộc lộ ra những phẩm chất tâm lý mà mình cần tìm hiểu
Thực nghiệm tự nhiên còn gọi là phương pháp thử bằng tình huống, tức là ta muốn
kiểm tra đặc điểm tâm lý nào của đối tượng thì ta đưa ra những tình huống giống như
trong thực tế để trong đó họ phải bộc lộ ra những đặc điểm mà mình cần quan tâm
Phương pháp này đã được người xưa dùng khá rộng rãi. Trong khi bàn về phép dùng
người, Gia Cát Lượng đã nói về phương pháp này:
“Cho việc khó để thử tài. / Hỏi lúc vội vàng để xem trí
Cho đi xa để xem trung. / Cho ở gần để xem kính
Giao vật chất để xem nhân. / Cho chén say để xem tính khí...”
Ngày nay các nhà quản trị dùng phương pháp này trong các trường hợp cụ thể sau:
- Khi muốn tìm hiểu tính cách của nhân viên
- Khi muốn kiểm tra năng lực của một cán bộ, nhân viên sắp được đề bạt. Ví dụ:
Cử một nhân viên, hay cán bộ sắp được đề bạt đi công tác, ông ta ủy nhiệm quyền giám
đốc cho nhân viên đó. Sau khi đi về, thủ trưởng kiểm tra lại các giấy tờ, tài liệu xem
người kia xử lý thế nào trong điều kiện do mình tạo ra.
- Khi muốn kiểm tra mô hình quản lý mới mà nhà quản trị định thi hành trong
tương lai. Trong quá trình thực nghiệm như vậy sẽ bộc lộ ra ưu, nhược điểm của các
thành viên, của mô hình quản lý mới. Trên cơ sở đó mà ta nhận xét, đánh giá nhân viên,
đề bạt cán bộ và đổi mới công tác quản lý.
4- Phương pháp đàm thoại
Là đặt ra cho đối tượng những câu hỏi trong các cuộc giao tiếp trực tiếp và dựa vào
câu trả lời, nhà quản trị tìm hiểu những đặc điểm tâm lý của họ.
Nhà quản trị thường dùng phương pháp này trong các trường hợp sau:
- Trong các cuộc giao tiếp bình thường với một cá nhân, ta có thể đưa ra các câu
hỏi để tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu, quan điểm, lập trường của cá nhân về
một vấn đề nào đó, cũng như tìm hiểu năng lực tư duy và các phẩm chất khác của đối tượng
- Nhà quản trị trực tiếp gặp gỡ quần chúng để thăm dò ý kiến về một vấn đề nào
đó thuộc đường lối chủ trương, chính sách, kế hoạch quản lý
- Cũng có thể sử dụng phương pháp này để phỏng vấn dự tuyển viên trong quá
trình tuyển chọn nhân viên.