Dân chủ và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa | Bài tập lớn môn Chủ nghĩa xã hội Neu
Dân chủ và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa | Tiểu luận môn Chủ nghĩa xã hội Neu được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học (LLNL1107)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45740413
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN Khoa Thống Kê --------***--------
BÀI TẬP LỚN HỌC PHẦN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI: Vấn đề xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay. Ý
nghĩa của việc nghiên cứu. Từ đó rút ra bài học.
Họ và tên: Nguyễn Hoàng An
Mã sinh viên: 11210229
Lớp tín chỉ: Chủ nghĩa xã hội(122)_09 Số thứ tự: 01
Giảng viên: TS. Lê Thị Hồng
Hà Nội, tháng 10 năm 2022 lOMoAR cPSD| 45740413 Mục lục
Mục lục.........................................................................................................1
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................2
NỘI DUNG...................................................................................................3
I. Quan niệm, quan điểm về gia đình và xây dựng gia đình......................3
1. Quan niệm gia đình dưới các góc độ.....................................................3
2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về gia đình..............................5
3. Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về vấn đề gia đình....6
3.1. Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về vấn đề gia
đình giai đoạn từ năm 1986 đến 2007...................................................6
3.2. Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về vấn đề gia
đình giai đoạn từ năm 2007 đến nay.....................................................9
3.3. Những nội dung cơ bản trong quan điểm, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta về xây dựng gia đình hạnh phúc.....................................11
II. Liên hệ thực tế việc xây dựng gia đình ở nước ta..............................12
1. Thành tựu đạt được.............................................................................12
2. Hạn chế và những vấn đề đặt ra trong thực tế.....................................14
III. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CHUNG...............................15
IV. Bài học rút ra cho bản
thân...............................................................16
KẾT LUẬN................................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................19 LỜI MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Gia đình là môi trường quen thuộc đối với tất cả mọi người khi bất cứ cá nhân
nào cũng đều có thể trực tiếp tham gia vào quá trình tạo lập, xây dựng một gia
đình. Mỗi một gia đình được coi là một tế bào của xã hội, bao gồm nhiều lĩnh vực
phong phú nhưng cũng rất phức tạp, mâu thuẫn và biến động. Do đó, gia đình là
vấn đề trọng yếu mà toàn nhân loại trong mọi thời đại đều dành sự quan tâm sâu
sắc đến. Đấ nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện quá
trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa mà thực chất là chuyển đổi căn bản toàn diện
các hoạt động sản xuất kinh doanh nghiệp vụ và quản lí kinh tế xã hội. Và cùng
với sự phát triển về các mặt khác của xã hội, các vấn đề mới được nảy sinh, trong 1 lOMoAR cPSD| 45740413
đó vấn đề gia đình là vấn đề trọng yếu chịu nhiều sự chi phối từ nền kinh tế, chính
trị, văn hóa của đất nước.
Chính vì lẽ đó, em đã quyết định lựa chọn đề tài “Vấn đề xây dựng gia đình
Việt Nam hiện nay. Ý nghĩa của việc nghiên cứu. Từ đó rút ra bài học.”. Đề tài
không chỉ mang ý nghĩa lý luận mà hơn nữa còn đem lại giá trị thực tiễn cao, là
một đề tài nóng hiện nay của Việt Nam. Giải quyết được vấn đề gia đình là một
bước tiến lớn thúc đẩy giải quyết các vấn đề nhức nhối của xã hội, tạo tiền đề
không chỉ cho sự phát triển của xã hội mà cả nền kinh tế chính trị nước nhà.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu những vấn đề cơ bảnnhư:
Đề tài nghiên cứu với mục đích làm sáng rõ những lý luận chung của chủ
nghĩa xã hội khoa học về vấn đề gia đình, và liên hệ với thực tiễn gia đình trong
thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cùng những bài học gia đình ở nước ta hiện nay. NỘI DUNG
I. QUAN NIỆM, QUAN ĐIỂM VỀ GIA ĐÌNH VÀ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH
1. Quan niệm gia đình dưới các góc độ
Theo Wikipedia, gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm xã hội
nhỏ mà các thành viên của nó gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết
thống hoặc quan hệ con nuôi, bởi tính cộng đồng về sinh hoạt, trách nhiệm đạo
đức với nhau nhằm đáp ứng những nhu cầu riêng của mỗi thành viên cũng như để
thực hiện tính tất yếu của xã hội về tái sản xuất con người. [Theo Trung tâm Thông
tin tổng hợp - 21/08/2006. “Bản sao đã lưu trữ”. Hội Liên hiệp phụ nữ
Việt Nam. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 10 năm 2006]
Vấn đề gia đình đã được nhiều nhà tư tưởng, nhiều trường phái triết học đề
cập dưới các góc độ khác nhau.
• Trong học thuyết Nho giáo, gia đình là đơn vị kết cấu cơ bản nhất của xã
hội, có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự ổn định của xã hội, với đạo
đức và cuộc sống của con người. Nho giáo cho rằng: “Gốc của thiên hạ ở nước;
gốc của nước ở nhà; gốc của nhà ở mỗi người (Thiên hạ chi bản tại quốc, quốc chi
bản tại gia, gia chi bản tại thân)” [Theo Mạnh tử - Tập hạ, Tứ thơ, 1996, Nxb.
Thuận Hóa, Huế, tr.13]. Nho giáo đã chỉ ra những quan hệ cơ bản giường cột gồm
có: quan hệ quân - thần, quan hệ phu - thê, quan hệ phụ - tử, quan hệ huynh - đệ, lOMoAR cPSD| 45740413
quan hệ bằng hữu. Như vậy, hơn nửa các mối quan hệ ấy thuộc phạm vi quan hệ
gia đình. Trung - hiếu - nhân - nghĩa - lễ - trí - tín cũng từ ấy mà ra. Gia đình là nơi
tu dưỡng, rèn luyện những đức tính căn bản của con người, là nơi rèn luyện đạo làm người.
• Khác với triết học phương Đông, các nhà triết học phương Tây cổ, trung
đại ít đề cập đến vấn đề gia đình, và cũng có những quan niệm khác nhau về vấn
đề này. Chẳng hạn, Platon cho rằng, để khắc phục tình trạng phân chia giàu nghèo
thì cần phải xóa bỏ gia đình và tư hữu. Ngược lại, Arixtốt lại đề cao vai trò của gia
đình đối với nhà nước, xã hội và con người. Ông cho rằng, nhà nước chỉ xuất hiện
khi có sự giao tiếp về lợi ích giữa nhiều gia đình và họ hàng về một cuộc sống đầy
đủ và hoàn thiện. Gia đình và cá nhân là “thiên chức tự nhiên” của nhà nước, vì
vậy con người về bản chất phải thuộc về nhà nước, vượt ra ngoài khuôn khổ nhà
nước thì con người không phải là con người phát triển về đạo đức hoặc đó là động
vật, hoặc đó là thượng đế [Theo Giáo trình Triết học Mác Lênin dùng cho các
trường cao đẳng và đại học, 2004, Nxb. Chính trị quốc gia, H., tr. 74]. Ông cho
rằng, nhà nước ra đời trên cơ sở gia đình, chính quyền nhà nước là sự tiếp tục chính
quyền trong gia đình. Nhìn chung, các nhà triết học phương Tây ít chú ý đến vấn
đề gia đình, hoặc chỉ đề cập đến gia đình và vai trò của nó khi nói đến nhà nước,
hôn nhân và chế độ sở hữu.
• Từ thế kỷ XVIII cho đến thế kỷ XX, khi các phong trào nữ quyền, các học
thuyết triết học nữ quyền xuất hiện và lan rộng, quan niệm về bình đẳng giới trong
gia đình và xã hội, về vai trò của người phụ nữ trong gia đình được quan tâm thì
vấn đề vai trò của gia đình cũng được đề cập đến nhiều hơn. Các nhà nữ quyền đã
dùng cách tiếp cận giới là phương pháp then chốt để nghiên cứu gia đình. Gia đình
được coi là thiết chế trung tâm của sự áp bức giới và là cội nguồn của các hình
thức áp bức khác đối với phụ nữ trong xã hội. “Khác với phương pháp tiếp cận
truyền thống coi gia đình là một thiết chế phổ biến, một yếu tố tự nhiên mang tính
sinh học, một đơn vị thống nhất và cùng có chung một lợi ích trong đó sinh đẻ,
nuôi con, làm việc nhà, chăm sóc các thành viên là “thiên chức” của người phụ nữ,
các nhà nữ quyền đã đi sâu phân tích những mối quan hệ bên trong gia đình và
những trải nghiệm của phụ nữ trong phạm vi gia đình” [Theo Nghiên cứu gia đình
lý thuyết nữ quyền, quan điểm giới, 2006, Nxb. Khoa học xã hội, H., tr.9]. Do vậy,
gia đình có vai trò to lớn ảnh hưởng đến vấn đề bình đẳng giới và vai trò của người
phụ nữ. Theo chủ nghĩa nữ quyền, gia đình phục vụ lợi ích của chế độ gia trưởng,
lợi ích của đàn ông. Người đầu tiên đưa ra quan điểm gia đình phục vụ lợi ích của 3 lOMoAR cPSD| 45740413
chế độ gia trưởng là nhà triết học và xã hội học người Pháp Simone de Beauvoir.
Theo ông, thiết chế gia đình, đơn vị cơ sở của xã hội là một thiết chế có tính gia
trưởng nhất, và gia đình cũng có một vị trí quan trọng trong việc xã hội hóa thế hệ
tiếp theo về các giá trị gia trưởng. Đối với các nhà nữ quyền, gia đình không phải
là một nguyên khối thống nhất. Mỗi thành viên gia đình có những trải nghiệm khác
nhau về cuộc sống gia đình do vị trí, vai trò khác nhau của họ trong gia đình.
Những thành viên đó với những hoạt động và quyền lợi khác nhau trong quá trình
tương tác sẽ tiến tới xung đột, mâu thuẫn với nhau. Gia đình cũng không phải là
một yếu tố tự nhiên mang tính chất sinh học có tính phổ biến mà là kết quả của
quan hệ xã hội và hoàn toàn có thể thay đổi.
Như vậy, xem xét gia đình với những quan điểm khác nhau, từ các góc
độ khác nhau, mục đích khác nhau… trong lịch sử cho thấy vai trò của gia
đình là vô cùng quan trọng. lOMoAR cPSD| 45740413
2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về gia đình
Theo Mác - Lênin và vai trò của gia đình là sự kế thừa có bổ sung những tư
tưởng trước đó, vì vậy cái nhìn về vai trò của gia đình ở đây trở nên khách quan,
toàn diện hơn, phản ánh chân thực về sự vận động, biến đổi cũng như vai trò của gia đình trong xã hội.
Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, khi nói về tiến trình phát triển của lịch sử
nhân loại, C.Mác và Ph.Ăngghen đã coi gia đình là một trong ba mối quan hệ của
con người đã được hình thành trong lịch sử nhân loại: Quan hệ thứ nhất là giữa
con người với tự nhiên; Quan hệ thứ hai là giữa con người với con người trong quá
trình sản xuất; và Quan hệ thứ ba là gia đình. Theo các ông, quan hệ gia đình “tham
dự ngay từ đầu vào quá trình phát triển của lịch sử: hằng ngày tái tạo ra đời sống
của bản thân mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi nảy nở -
đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái” [Theo C.Mác và Ph.Ăngghen
(1995),Toàn tập, Nxb. CTQG, H., T.3, tr.41,41]. Ba quan hệ này tồn tại đan xen
với nhau, hòa vào nhau, cùng tồn tại bên nhau.
Gia đình là một phạm trù lịch sử, mỗi thời đại lịch sử cũng như mỗi chế độ
xã hội đều sản sinh ra loại gia đình tương ứng, do đó, vai trò và chức năng của gia
đình ở mỗi thời đại cũng có sự thay đổi. Ở thời tiền sử, gia đình “là quan hệ xã hội
duy nhất”. Khi đó, gia đình có vai trò vừa là cộng đồng lao động, vừa là cộng đồng
sinh hoạt, là khuôn khổ tồn tại của xã hội; chức năng của gia đình cũng đồng thời
là chức năng của xã hội (gia đình - xã hội sơ khai), thực hiện chức năng gia đình
cũng là thực hiện chức năng xã hội và ngược lại. Chức năng gia đình không thể
khác hơn là kiếm sống và duy trì nòi giống.
Về sau, khi dân số tăng lên, nhiều nhu cầu mới xuất hiện. Khi nhu cầu của
con người phát triển lại xuất hiện những quan hệ xã hội mới làm cho gia đình từ
chỗ “là quan hệ duy nhất” trở thành “quan hệ phụ thuộc”[Theo C.Mác và
Ph.Ăngghen (1995),Toàn tập, Nxb. CTQG, H., T.3, tr.41,41]. Sự chuyển biến này
gắn liền với quá trình phân công lao động xã hội, với quá trình phát triển xã hội,
dẫn đến có sự độc lập tương đối của gia đình đối với xã hội, thậm chí có sự đối lập
giữa gia đình và xã hội.
Trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước,
Ph.Ăngghen phân tích rõ vai trò “tế bào xã hội” của gia đình; mối quan hệ biện
chứng giữa gia đình và xã hội. Ông khẳng định, một mặt, những điều kiện kinh tế
- xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định có tác dụng quyết định đến hình thức
tổ chức và kết cấu của gia đình. Mặt khác, gia đình và trình độ phát triển của gia 5 lOMoAR cPSD| 45740413
đình cũng có tác động rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội, ảnh
hưởng trực tiếp đến việc tái tạo ra bản thân con người, bảo vệ nòi giống cũng như
tái tạo ra sức lao động cho nền sản xuất xã hội.
Nhấn mạnh vai trò to lớn của gia đình đối với sự phát triển của lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất, C.Mác cho rằng, gia đình chính là “quan hệ xã hội duy
nhất” trong buổi đầu của lịch sử xã hội loài người. Nhờ quan hệ này, với chức năng
sinh con đẻ cái, quan hệ gia đình đã sản sinh ra và duy trì các quan hệ xã hội khác.
Với nghĩa đó, gia đình là một xã hội thu nhỏ: gia đình sản sinh ra các cá thể người,
gắn kết các cá thể người thành xã hội.
Về sau, khi dân số tăng lên, nhiều nhu cầu mới xuất hiện. Khi nhu cầu của
con người phát triển lại xuất hiện những quan hệ xã hội mới làm cho gia đình từ
chỗ “là quan hệ duy nhất” trở thành “quan hệ phụ thuộc”[C.Mác và Ph.Ăngghen:
Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.4]. Sự chuyển biến này gắn
liền với quá trình phân công lao động xã hội, với quá trình phát triển xã hội, dẫn
đến có sự độc lập tương đối của gia đình đối với xã hội, thậm chí có sự đối lập giữa gia đình và xã hội.
Bên cạnh vai trò của gia đình, C.Mác và Ph.Ăngghen không dừng lại ở chức
năng tái sản sinh con người, mà các ông rất lưu tâm đến vai trò kinh tế trong gia
đình, có khi ví như một đòn bẩy góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Hơn thế nữa,
chức năng văn hóa của gia đình có tác động đến việc bảo tồn và phát triển các di
sản văn hóa, các hệ giá trị và bản sắc dân tộc. Bản chất của gia đình đã chứa đựng
sẵn những nhân tố văn hóa nội sinh. Gia đình luôn giữ vai trò chuyển tải các giá
trị văn hóa của xã hội
3. Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về vấn đề gia đình
3.1. Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về vấn đề gia đình giai
đoạn từ năm 1986 đến 2007
Kế thừa và phát triển những quan điểm trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
Cộng sản Việt Nam rất quan tâm đến vấn đề gia đình và xây dựng gia đình trong
xã hội mới, coi gia đình là tế bào của xã hội, là nhân tố quan trọng quyết định sự
phát triển bền vững của xã hội Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Quan
tâm đến gia đình là đúng vì nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt
thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt hơn, hạt nhân của xã hội là gia
đình. Chính vì vậy, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội là phải chú ý hạt nhân cho
tốt”. [Theo Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb ST, H, 1989, tr 499] lOMoAR cPSD| 45740413
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI khẳng định: “Gia đình là tế bào của xã
hội, có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chế độ mới, nền kinh tế
mới, con người mới. Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng cần đề ra phương
hướng, chính sách và có biện pháp tổ chức thực hiện về xây dựng gia đình văn hóa
mới, bảo đảm hạnh phúc gia đình. Nâng cao trình độ tự giác xây dựng những quan
hệ tình cảm, đạo đức trong từng gia đình, bảo đảm sinh đẻ có kế hoạch và nuôi dạy
con ngoan, tổ chức tốt cuộc sống vật chất, văn hóa của gia đình” (Đảng Cộng sản
Việt Nam, 2005: 773-774). Gia đình được nhìn nhận là yếu tố cấu thành nên xã
hội, có vai trò quan trọng, quyết định đến sự thành công của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.
Tiếp nối tư tưởng Đổi mới được đặt ra từ Đại hội lần VI, Đại hội VII vào
tháng 6 năm 1991 đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đã đưa ra khái niệm về Con người mới - đó là
con người phát triển toàn diện cả về trí tuệ, năng lực, phẩm chất, đạo đức… Có
những con người mới như vậy, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội mới thành
công. Muốn có con người mới đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn khách quan
phải có sự “tổng hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, các đoàn thể, nhà
trường, gia đình…” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2007). Như vậy, Cương lĩnh 1991
đã chỉ rõ mối quan hệ mật thiết giữa các yếu tố của tam giác: gia đình - nhà trường
- xã hội trong việc giáo dục, hình thành nhân cách con người. Trong đó, “gia đình
là tế bào xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan
trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách”. Có thể nói, lần đầu tiên trong
một văn kiện của Đảng, vai trò của gia đình trong mối quan hệ với nhà trường và
xã hội đã được khẳng định như là yếu tố đầu tiên, liên tục và quan trọng nhất đối
với sự phát triển của mỗi con người.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII, 1996 đã chỉ rõ vị thế của gia đình trong
từng lĩnh vực cụ thể và thể hiện qua chủ trương hành động thực tế để xây dựng gia
đình hạnh phúc. Về xã hội, “Thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hoá
gia đình, các chính sách ưu đãi xã hội”. Về giáo dục và đào tạo là “Đề cao trách
nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội”.
Đại hội IX năm 2001 của Đảng tiếp tục nhấn mạnh đến vai trò của gia đình
với sự phát triển kinh tế xã hội, sự hình thành nhân cách, lối sống của mỗi người:
“Nêu cao trách nhiệm của gia đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng các thành
viên của mình có lối sống văn hóa, làm cho gia đình thực sự là tổ ấm của mỗi người
và là tế bào lành mạnh của xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016). Như vậy, 7 lOMoAR cPSD| 45740413
trước yêu cầu cấp thiết của thực tiễn, bên cạnh những chính sách là điều kiện để
xây dựng gia đình hạnh phúc thì Đảng đã khẳng định chính mỗi gia đình phải là
chủ thể quan trọng nhất, quyết định đến việc xây dựng gia đình hạnh phúc, để gia
đình không chỉ là tế bào của xã hội mà phải là những tế bào lành mạnh, là tổ ấm
thực sự của mỗi người.
Chỉ thị số 49-CT/TW ngày 21/02/2005 của Ban Bí thư về xây dựng gia đình
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là một bước tiến quan trọng trong
quan điểm của Đảng; lần đầu tiên Ban Bí thư ra một Chỉ thị chuyên về gia đình,
đề cập đến tất cả khía cạnh: thực trạng, mục tiêu, giải pháp của xây dựng gia đình
trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. “Mục tiêu chủ yếu của công
tác gia đình trong thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá là ổn định, củng cố và
xây dựng gia đình theo tiêu chí mỗi cặp vợ chồng chỉ có một hoặc hai con, no ấm,
bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, để mỗi gia đình Việt Nam thực sự là tổ ấm của mỗi
người và là tế bào lành mạnh của xã hội”.
Ngày 01/5/2005, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em
ban hành Quyết định số 392/QĐ-DSGĐTE quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, cơ cấu tổ chức của Vụ Gia đình; quy định Vụ Gia đình là tổ chức của Ủy ban
Dân số, Gia đình và Trẻ em, có chức năng tham mưu giúp Bộ trưởng, Chủ nhiệm
Ủy ban quản lý nhà nước về lĩnh vực gia đình. Vụ Gia đình thực hiện 10 nhiệm vụ
và các nhiệm vụ khác do Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban giao theo đúng quy định
của Nhà nước và pháp luật. Như vậy, từ nhận thức về vai trò vị trí gia đình, sự cần
thiết cần có một cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, Đảng và Nhà nước đã thành
lập Vụ gia đình trực thuộc Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em.
Trong Chiến lược xây dựng gia đình Việt Nam giai đoạn 2005-2010, nhà
nước ta khẳng định mục tiêu chung nhất của công tác xây dựng gia đình thời kỳ
này là “từng bước ổn định, củng cố và xây dựng gia đình ít con (mỗi cặp vợ chồng
có một hoặc hai con), no ấm, tiến bộ, bình đẳng, hạnh phúc”. Chiến lược cũng đưa
ra hệ thống các giải pháp cụ thể và các đề án của Chiến lược để thực hiện được các
mục tiêu đề ra về gia đình.
Ngày 8/8/2007, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1001/QĐ-TTg
thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về việc giải thể Ủy ban Dân số, Gia đình và
Trẻ em sáp nhập sang các Bộ có liên quan thực hiện. Trong đó chức năng, nhiệm
vụ quản lý nhà nước về gia đình được chuyển sang Bộ VHTTDL.
3.2. Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về vấn đề gia đình giai
đoạn từ năm 2007 đến nay lOMoAR cPSD| 45740413
Cùng với sự thay đổi về cơ quan quản lý nhà nước, sau 20 năm đổi mới, tình
hình kinh tế - xã hội có nhiều biến đổi tạo nên thời cơ và thách thức mới đối với
từng gia đình Việt Nam. Khi sáp nhập lĩnh vực gia đình về Bộ VHTTDL, Đảng và
nhà nước ta nhấn mạnh đến vai trò của gia đình trong việc gìn giữ, phát huy truyền
thống văn hóa gia đình nói riêng, văn hóa dân tộc nói chung; coi văn hóa gia đình
là một bộ phận khăng khít của văn hóa dân tộc và không ai khác ngoài gia đình và
các thành viên gia đình là nơi lưu giữ, bảo tồn, nuôi dưỡng các giá trị văn hóa của
dân tộc Việt Nam, xây dựng mối quan hệ, văn hoá ứng xử từ các thành viên trong
gia đình nhằm mục tiêu xây dựng gia đình hạnh phúc.
Tại Đại hội XI, Đảng ta một lần nữa nhấn mạnh: “Xây dựng gia đình no ấm,
tiến bộ, hạnh phúc thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội” (Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bổ sung, phát triển năm 2011).
Quan điểm của Đảng cho thấy, muốn có một xã hội phát triển lành mạnh thì trước
hết từng “tế bào” phải phát triển bền vững. Gia đình không chỉ là “tế bào” tự nhiên
mà còn là một đơn vị kinh tế của xã hội.
Thông báo kết luận số 26 của Ban Bí thư đã “Khẳng định xây dựng gia đình
là vấn đề lớn, hết sức hệ trọng của dân tộc và của cả thời đại”. Tăng cường công
tác truyền thông, nâng cao nhận thức của các cấp uỷ đảng, chính quyền, các ban,
ngành, đoàn thể và cộng đồng về tầm quan trọng, vị trí và vai trò của gia đình và
công tác xây dựng gia đình trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (Ban Bí thư, 2011).
Trong Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09 tháng 6 năm 2014 đã nêu ra các
mục tiêu cụ thể trong đó nhấn mạnh “Phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã
hội trong việc xây dựng môi trường văn hóa, làm cho văn hóa trở thành nhân tố
thúc đẩy con người Việt Nam hoàn thiện nhân cách” (Ban Chấp hành Trung ương
Đảng, 2014). Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ cần được tập trung là “Thực hiện
chiến lược phát triển gia đình Việt Nam, xây dựng gia đình thực sự là nơi hình
thành, nuôi dưỡng nhân cách văn hóa và giáo dục nếp sống cho con người. Phát
huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn
minh. Xây dựng và nhân rộng các mô hình gia đình văn hóa tiêu biểu, có nền nếp,
ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo, vợ chồng hòa thuận, anh chị em
đoàn kết, thương yêu nhau...”.
Theo Báo cáo chính trị tại Đại hội XII của Đảng khi đề cập đến lĩnh vực gia
đình trong nội dung “Xây dựng, phát triển văn hóa, con người” đã đưa ra nhiệm
vụ sau “Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam. Phát huy giá trị truyền 9 lOMoAR cPSD| 45740413
thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh” (Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, 2016). Cũng tại Báo cáo này, Đảng xác định “Coi trọng
chăm sóc sức khỏe nhân dân, công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ và
chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em; xây dựng gia đình hạnh phúc. Tiếp tục đổi mới,
hoàn thiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình, chế độ thai sản, nghỉ dưỡng,
khám, chữa bệnh, bình đẳng giới. Thực hiện tốt chiến lược dân số, gia đình, chương
trình hành động vì trẻ em... đầu tư nâng cao chất lượng dân số, chỉ số phát triển
con người, bảo đảm tổng tỷ suất sinh thay thế, giảm dần sự mất cân bằng tỷ lệ giới
tính khi sinh và bảo đảm quyền trẻ em” (Ban Chấp hành Trung ương Đảng, 2016).
So với thời kỳ trước, thời kỳ này, vai trò của gia đình trong việc giáo dục đạo
đức, lối sống hình thành nhân cách người Việt Nam và việc gìn giữ phát huy văn
hóa gia đình được nhấn mạnh hơn; gia đình phải tập trung thực hiện vai trò, chức
năng này, cũng chính là để xây dựng gia đình hạnh phúc, xã hội phát triển bền vững.
Cụ thể hóa đường lối chủ trương của Đảng về gia đình, nhà nước ta ban hành
các chính sách, văn bản cụ thể về gia đình, tập trung vào mục tiêu xây dựng “gia
đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững” đã quy định trong Nghị
định số 02/2013/NĐ-CP (Bộ VHTTDL, 2013). Các văn bản được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt như Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm
nhìn 2030, Nghị quyết Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Thông
báo kết luận số 26 của Ban Bí thư, Đề án tổ chức các hoạt động hưởng ứng Ngày
Quốc tế Hạnh phúc 20/3 hằng năm, Chương trình hành động quốc gia về phòng
chống bạo lực gia đình, Quy chế phối hợp liên ngành về phòng, chống bạo lực gia
đình, Quyết định lấy tháng 6 hàng năm là Tháng hành động quốc gia về phòng,
chống bạo lực gia đình, Đề án về phát huy mối quan hệ tốt đẹp trong gia đình,
Chương trình giáo dục đời sống gia đình đến năm 2020, Chỉ thị của Thủ tướng
Chính phủ về tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình…
Thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, trong điều kiện tình hình thế
giới, khu vực và trong nước có cả thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen, nhất
là đại dịch Covid-19 đã và đang tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,
trước hết là từng gia đình ở cả trong công việc làm, học tập, sinh hoạt... không thể
không tác động sâu sắc đến gia đình ở nước ta hiện nay. Để mỗi gia đình ở nước
ta bền vững, là tế bào lành mạnh của xã hội và “... con người Việt Nam thực sự trở
thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc” [Theo lOMoAR cPSD| 45740413
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội 2021, tr. 116]
Cũng theo Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục xây dựng gia đình kiểu
mẫu ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền, vợ chồng hòa thuận, anh chị
em đoàn kết, thương yêu nhau” [Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2021, tr. 143].
Vị trí, vai trò của gia đình ở nước ta ngày càng được khẳng định và các gia
đình Việt Nam ngày càng “ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh” hơn để giữ vững
là hạt nhân xã hội, nâng cao chất lượng và cung cấp nguồn nhân lực, góp phần
“phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng
xã hội chủ nghĩa” [Theo Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2021, tr. 219]
3.3. Những nội dung cơ bản trong quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta về xây dựng gia đình hạnh phúc
Những nội dung cơ bản trong quan điểm, chính sách của Đảng và nhà nước
ta về xây dựng gia đình hạnh phúc được thể hiện ở điểm sau:
• Thứ nhất, gia đình là tế bào, là nền tảng của xã hội; là yếu tố cơ bản quyết
định đến sự thành công của công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Để gia đình Việt Nam phát huy đầy đủ vai trò của mình, Đảng và nhà
nước chủ trương xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh, là tế bào
lành mạnh của xã hội. Mọi chính sách về gia đình đều nhằm phục vụ mục tiêu này.
• Thứ hai, xây dựng gia đình hạnh phúc là sự tổng hòa, đồng bộ của hệ thống
các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong các lĩnh vực có liên quan;
đặc biệt là các chính sách về kinh tế hộ gia đình, xóa đói giảm nghèo, y tế, dân số
kế hoạch hóa gia đình, giáo dục… nhưng trong đó các yếu tố nội sinh từ gia đình
là phát huy giá trị các mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, giáo dục
đạo đức, lối sống, đời sống gia đình, phòng, chống bạo lực gia đình có vai trò quyết
định đến xây dựng gia đình hạnh phúc.
• Thứ ba, gia đình có vai trò quyết định đến việc xây dựng con người mới xã
hội chủ nghĩa. Được hội tụ đầy đủ các yếu tố như sức khỏe, trí tuệ, năng lực, bản
lĩnh chính trị, nhân cách, đạo đức. Vừa nắm bắt được những giá trị tiên tiến của
thế giới, vừa lưu giữ được những giá trị truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc
và phải dựa trên sự gắn kết ba mối quan hệ: gia đình - nhà trường - xã hội, đó chính
là nhân tố quyết định đến việc xây dựng gia đình hạnh phúc. 11 lOMoAR cPSD| 45740413
• Thứ tư là, gia đình là nơi lưu giữ, gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa truyền
thống tốt đẹp của dân tộc thông qua giáo dục gia đình, sự truyền đạt tiếp nối giữa
các thế hệ trong gia đình. Vì vậy các cấp, các ngành liên quan nên tập trung nhiệm
vụ giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình; cung cấp và hướng dẫn những kiến
thức, kỹ năng xây dựng đời sống gia đình.
• Cuối cùng, việc xây dựng gia đình hạnh phúc phải gắn với xây dựng từng
gia đình và trong các phong trào khác ở khu dân cư, thôn, xóm, ấp,..
Sau hơn 30 năm Đổi mới đất nước, nhất là từ khi Ban Bí thư ban hành Chỉ
thị số 49 CT/TW ngày 21/2/2005 về xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hóa
hiện đại hóa, gia đình Việt Nam đã có những đổi thay tiến bộ vượt trội về mọi mặt.
Kinh tế hộ gia đình đã có bước phát triển nhanh, trở thành bộ phận quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân, góp phần to lớn vào quá trình xoá đói giảm nghèo.
Công tác gia đình, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc được Đảng và nhà
nước luôn quan tâm, chú trọng, dành nhiều công sức, nguồn lực tổ chức, chỉ đạo,
thực hiện các chương trình, đề án quốc gia nhằm nâng cao năng lực các gia đình,
tạo điều kiện cho các gia đình tiếp cận các chính sách an sinh xã hội cơ bản... đặc
biệt là các gia đình khó khăn có điều kiện vươn lên xây dựng cuộc sống no ấm, tiến bộ, hạnh phúc.
II. LIÊN HỆ THỰC TẾ VIỆC XÂY DỰNG GIA ĐÌNH Ở NƯỚC TA
1. Thành tựu đạt được
Sau hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những
thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội, góp phần nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho mọi gia đình. Theo Ngân hàng Thế giới, những thành tựu
sau hơn 35 năm qua đã thúc đẩy phát triển kinh tế, nhanh chóng đưa Việt Nam từ
một trong những quốc gia nghèo trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung
bình thấp. Từ năm 2002 đến 2020, GDP đầu người tăng 3,6 lần, đạt gần 3.700
USD. Tỉ lệ nghèo (theo chuẩn 1,9 USD/ngày) giảm mạnh từ hơn 32% năm 2011 xuống còn dưới 2%.
Hệ thống pháp luật, chính sách về gia đình và liên quan đến gia đình ngày
càng hoàn thiện. Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ cho các gia đình
nghèo, đặc biệt khó khăn, gia đình có công với cách mạng, gia đình ở vùng sâu,
vùng xa, vùng khó khăn. Công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em đã đạt được những thành tích đáng kể, góp phần xây dựng gia
đình hạnh phúc, xã hội ngày càng ổn định và phát triển. Những năm qua, việc thành lOMoAR cPSD| 45740413
lập cơ quan quản lý nhà nước về gia đình và lấy ngày 28-6 hằng năm là Ngày Gia
đình Việt Nam đã khẳng định vai trò của gia đình đối với sự phát triển xã hội và
sự quan tâm của xã hội đối với gia đình trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Mới đây do đại dịch COVID-19, tăng trưởng GDP giảm xuống 2,58% vào
năm 2021 do sự xuất hiện của biến thể Delta nhưng GDP 6 tháng đầu năm 2022
đã tăng 6,42%, cao hơn tốc độ tăng 2,04% của 6 tháng đầu năm 2020 và tốc độ
tăng 5,74% của 6 tháng đầu năm 2021. (Theo Tổng Cục Thống kê)
Về công tác an sinh xã hội được triển khai tích cực, đời sống người dân được
đảm bảo, các chính sách hỗ trợ người lao đông gặ p khó khăn do ảnh hưởng ̣ từ dịch
Covid-19 theo các Nghị quyết của Chính phủ được thực hiên hiệ u quả.̣ Tính đến
ngày 15/6/2022, gói hỗ trợ theo Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày
01/7/2021 và Nghị quyết số 126/NQ-CP ngày 8/10/2021 đã triển khai được hơn
43,5 nghìn tỷ đồng, cho 36,7 triệu lượt người lao động và gần 381,7 nghìn đơn
vị/hộ kinh doanh sử dụng lao động; gói hỗ trợ theo Nghị quyết số 116/NQ-CP ngày
24/9/2021 với tổng mức hỗ trợ gần 38,4 nghìn tỷ đồng cho gần 13 triệu lượt lao
động và gần 346,7 nghìn đơn vị/hộ kinh doanh sử dụng lao động; gói hỗ trợ theo
Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 với mức hỗ trợ đạt 14,1 tỷ đồng cho
25.660 lao động của 487 đơn vị sử dụng lao đông. (Theo số liệu Tổng Cục ̣ Thống kê)
Cho đến nay, gia đình Việt Nam vẫn đóng vai trò là tế bào của xã hội, là thiết
chế của xã hội bền vững. Gia đình hạnh phúc là môt trong những yếu tộ́ quan trọng
để giúp mỗi người có được hạnh phúc thực sự. Bao thế hê người Việṭ Nam đã lớn
lên từ bài học giản dị qua lời ru của mẹ, của bà:
“Con người có tổ có tông
Như cây có cội như sông có nguồn”
Nhìn chung, tính cố kết, bền chặt của gia đình VN là khá cao do chịu ảnh
hưởng sâu sắc của gia đình truyền thống.
Quy mô gia đình ở VN đang có xu hướng nhỏ dần – gia đình hạt nhân tạo
điều kiện để quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, nhất là quan tâm, săn sóc con cái. Tuổi
kết hôn trung bình của người VN có xu hướng tăng lên (nhất là ở thành thị); khi
mà độ tuổi kết hôn trung bình từ 18 tuổi đã tăng lên thành 21 tuổi. Theo Niên giám
Thống kê 2021, tuổi kết hôn lần đầu trung bình trên cả nước năm 2021 là 26,2 tuổi.
Trong đó, độ tuổi kết hôn lần đầu trung bình vùng Đông Nam Bộ là cao nhất cả 13 lOMoAR cPSD| 45740413
nước, 27,9 tuổi. Đứng thứ hai là vùng Đồng bằng sông Cửu Long với 26,8 tuổi,
thứ ba là vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung với 26,2 tuổi. Người ở
vùng Đồng bằng sông Hồng kết hôn lần đầu trung bình năm 25,9 tuổi. Người dân
ở các vùng núi như Trung du miền núi phía Bắc và Tây Nguyên kết hôn muộn nhất,
với độ tuổi trung bình lần lượt là 23,7 và 25 tuổi.
Sự bình đẳng, dân chủ trong các gia đình ngày càng tăng; vợ chồng tôn trọng
nhau, cha mẹ lắng nghe con cái. Vị trí người phụ nữ được cải thiện rõ rệt khi mà
tính gia trưởng, độc đoán, quyền tuyệt đối của nam giới ngày một giảm dần.
Xã hội ngày càng phát triển, kéo theo những thành tựu của khoa học và công
nghệ nói chung và trong lĩnh vực y học nói riêng cũng phát triển không ngừng tạo
nên những tiến bộ trong công tác gia đình. Sự tiến bộ của khoa học và công nghệ
đáp ứng nhu cầu có con của những cặp vợ chồng hiếm muộn, nâng cao chất lượng
chăm sóc sức khỏe các tầng lớp dân cư, nâng cao tuổi thọ của người dân, giảm tỷ
lệ tử vong của người mẹ và con, đem lại niềm vui, hạnh phúc cho hàng triệu gia đình.
2. Hạn chế và những vấn đề đặt ra trong thực tế
Tổng cục Thống kê vừa công bố kết quả Khảo sát mức sống dân cư năm 2021,
tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận đa chiều năm 2021 là 4,4%, giảm 0,4% so với năm 2020,
Trung du và miền núi phía Bắc là vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất cả nước (13,4%).
Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm liên tục trong giai đoạn 2016 - 2021, trung bình mỗi năm
giảm khoảng 1%. Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần phải cố gắng hết sức giảm tỷ lệ hộ
nghèo xuống dưới mức thấp nhất có thể.
Theo Báo Đại Đoàn Kết ngày 28/06/2022 có chỉ ra số liệu thống kê cho thấy,
số vụ ly hôn ở Việt Nam hiện ở mức 60.000 vụ/năm, tương đương 0.75 vụ/1.000
dân. Tỷ lệ ly hôn so với kết hôn là 25%, có nghĩa rằng, cứ 4 cặp vợ chồng đi đăng
ký kết hôn thì một đôi ra tòa. Cuộc sống với nhiều mâu thuẫn khiến không chỉ các
cặp đôi trẻ mà nhiều cặp đôi đã chung sống với nhau lâu năm cũng đi đến quyết
định này. Điều này cho thấy, tỷ lệ ly hôn ở Việt Nam có xu hướng gia tăng.
Bên cạnh đó, một bộ phận các cặp vợ chồng vẫn còn ảnh hưởng của tư tưởng
trọng nam, dẫn đến mất cân bằng giới tính khi sinh, để lại những hậu quả xã hội ở
nhiều lĩnh vực kinh tế, hôn nhân gia đình, an ninh, trật tự xã hội.
Việt Nam đang trong giai đoạn dân số vàng, nhưng tốc độ già hóa đang tăng
nhanh. Trong đó, tuổi thọ trung bình là 73,6, liên tục tăng trong 20 năm qua. Dân lOMoAR cPSD| 45740413
số Việt Nam đang già hóa với tốc độ nhanh, từ 35,9% năm 2009 lên 48,8% năm
2019, do đó Việt Nam đang phải đối mặt với thách thức già hóa dân số.
Nạn tảo hôn, đa thê đang là một thực trạng nhức nhối và hết sức phức tạp
xuất hiện ở rất nhiều vùng miền trên cả nước nhất là ở vùng nông thôn, dân tộc
thiểu số. Theo thống kê, 11% phụ nữ tuổi từ 20 đến 49 đã kết hôn hoặc đã sống
chung như vợ chồng trước tuổi 18.
Một thực trạng phổ biến ở các vùng thành thị phát triển, trẻ em được tiếp xúc
nhiều với công nghệ trở “nghiện” game, nghiện điện thoại do thời buổi kinh tế thị
trường mở cửa phát triển khiến nhiều bậc cha mẹ khuyết thiếu thời gian bên gia
đình mà lao vào công việc, không có thời gian chăm lo con cái. Gia đình có xu
hướng nhường dần chức năng giáo dục cho nhà trường.
Xã hội hiện nay đang xuất hiện nhiều loại hình gia đình mới, trong đó có hộ
gia đình độc thân, làm mẹ đơn thân, tình trạng độc thân không muốn kết hôn cũng gia tăng. III.
Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CHUNG
Ở Việt Nam, gia đình là nền tảng, là tế bào của xã hội vì vậy tất cả đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước đều có tác động trực tiếp, liên quan mật thiết
đến vấn đề gia đình. Tùy vào điều kiện thực tiễn cụ thể, quan điểm và chính sách
này đều có những thay đổi nhất định nhưng vẫn giữ nguyên những giá trị cốt lõi.
Nhất là từ giai đoạn Đổi mới đến nay, quan điểm của Đảng, chính sách của nhà
nước về gia đình và xây dựng gia đình hạnh phúc càng đậm nét, phù hợp với nhu
cầu thực tiễn đất nước.
Sau hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước đã đạt được những
thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội, góp phần nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho mọi gia đình. Thực tiễn xây dựng gia đình Việt Nam trong
những năm qua đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận: mức sống của đại bộ
phận các gia đình đã được cải thiện đáng kể, công tác xoá đói, giảm nghèo, giải
quyết việc làm đã giúp cho hàng triệu gia đình thoát nghèo và nâng cao mức sống, chất lượng sống.
Mặt khác, gia đình Việt Nam hiện nay cũng đang chịu sự tác động tiêu cực từ
mặt trái của kinh tế thị trường, quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế. Gia đình đang biến đổi sâu sắc từ quy mô kết cấu đến các mối
quan hệ và giá trị. Gia đình Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức to
lớn: mặt trái của cơ chế thị trường đã tạo ra lối sống thực dụng; tuyệt đối hóa những 15 lOMoAR cPSD| 45740413
giá trị vật chất; một số giá trị đạo đức gia đình truyền thống bị đảo lộn. Đặc biệt,
các sản phẩm văn hoá độc hại từ bên ngoài du nhập vào đã dẫn đến nhiều tệ nạn
xã hội, khiến lối sống gia đình Việt Nam truyền thống có nguy cơ bị mai một.
Trước thực trạng này, việc giữ gìn và phát huy giá trị gia đình truyền thống càng
trở nên quan trọng và cấp bách hiện nay.
Vì vậy, vận dụng sáng tạo những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về
gia đình, vị trí của gia đình trong mối quan hệ cá nhân và xã hội, sự tác động biện
chứng của những yếu tố ấy và sự cần thiết phải giải quyết quan hệ bất bình đẳng
trong gia đình là những định hướng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Từ đó
có những định hướng đúng và biện pháp phù hợp để giải quyết những vấn đề đang
đặt ra đối với công tác quản lý nhà nước về gia đình ở nước ta là một trong những
nội dung có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển bền vững hiện nay. Tại Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, một lần nữa, Đảng ta đã khẳng định
thực hiện mục tiêu: “Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh”
[Theo Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Nxb CTQG, H.2016, tr.128] cũng chính là thể hiện quyết tâm cao trong hiện thực
hóa các mục tiêu trong Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020 và
tầm nhìn 2030 ở Việt Nam.
IV. BÀI HỌC RÚT RA CHO BẢN THÂN
Ở Việt Nam, học sinh chúng ta đã được tiếp cận với Bài 9: Xây dựng gia đình
văn hóa trong sách Giáo dục công dân lớp 7. Bài học mà ta rút ra được qua bài học
đó là gia đình là thứ quan trọng nhất đối với mỗi chúng ta. Vai trò của gia đình còn
ở việc gia đình là nơi chúng ta sống, chúng ta yêu thương, tâm sự, che chở cho
nhau trong mọi hoàn cảnh. Vì vậy, xây dựng gia đình văn hoá là trách nhiệm chung
của mỗi thành viên trong gia đình.
Còn đối với bộ phận sinh viên hiện nay là những thanh niên đã được tuyển
chọn qua các kỳ thi đánh giá năng lực và được đào tạo trong các trường đại học,
cao đẳng. Sinh viên là lớp người đang trưởng thành, đang chuẩn bị hành trang nghề
nghiệp cần thiết và chín muồi về nhân cách. Chúng ta càng phải thấm nhuần những
quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng
sản Việt Nam về vấn đề gia đình và xây dựng gia đình trong xã hội mới, coi gia
đình là tế bào của xã hội, là nhân tố quan trọng quyết định sự phát triển bền vững
trong mối quan hệ cá nhân và xã hội . lOMoAR cPSD| 45740413
Vì vậy để tiến tới xã hội càng ngày càng phát triển thì cần phát huy tính năng
động chủ quan biểu hiện qua sự tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức mỗi người
và vai trò con người tác động ngược lại thế giới.
Là sinh viên năm hai đại học Kinh tế quốc dân, em được sống trong một gia
đình hoàn chỉnh có mẹ làm giáo viên, bố làm bộ đội. Hơn ai hết, em hiểu rằng gia
đình là cái nôi bao bọc con trẻ, mà ở đó em được bố mẹ chỉ dạy cách sống, cách
đối nhân xử thế trong xã hội. Bố mẹ không chỉ tạo điều kiện cho em về vật chất để
sống và học tập mà còn góp phần không nhỏ trong quá trình phát triển nhân cách
toàn diện cho bản thân em khiến em vô cùng biết ơn. Sự quan tâm chia sẻ tạo nên
sự kết nối bền chặt giữa các thành viên trong gia đình. Với cuộc sống bận rộn như
hiện nay, chúng ta nên dành nhiều thời gian để cùng nhau trò chuyện, chia sẻ, bầu bạn cùng cha mẹ.
Mỗi thành viên trong gia đình đều có nghĩa vụ và trách nhiệm riêng. Như
chúng ta là con cái thì phải làm tốt nghĩa vụ học tập, hiếu thảo của mình. Đặc biệt
nhất là đối với những sinh viên xa nhà, chúng ta phải biết cách tự chăm sóc bản
thân và không làm bố mẹ lo lắng.
Trong gia đình thì ai cũng cần được tôn trọng thế hệ nào cũng vậy, từ nhỏ đến
lớn. Vì vậy, thay vì dùng những lời mắng nhiếc để chỉ trích nhau thì chúng ta nên
dành những lời hay ý đẹp, động viên nhau cố gắng thì khi đó giá đình mới bền vững.
Trên thực tế sinh viên ra trường hiện nay, chúng ta cần chuẩn bị hành trang
nghề nghiệp cần thiết và chín muồi về nhân cách trong thị trường lao động. Dù
kiếm tiền ít hay nhiều, chúng ta vẫn cần phải cố gắng để xây dựng cuộc sống hạnh
phúc của chính bản thân chúng ta. KẾT LUẬN
Tổng kết lại, trên cơ sở lý luận về gia đình và xây dựng gia đình cũng như
mỗi quan hệ giữa chúng, ta có thể rút ra kết luận: vật chất bao giờ cũng nằm giữa
vai trò quyết định đối với ý thức nhưng đồng thời ý thức cũng có tác động trở lại
vật chất. Mối quan hệ tác động qua lại này chỉ có thể thực hiện thông qua hoạt
động thực tiễn của con người. Chúng ta cần tuân thủ nguyên tắc tông trọng tính
khách quan và kết hợp phát huy tính năng động chủ quan. Nâng cao vai trò của ý
thức với vật chất bản chất cũng chính là tự giác cải thiện năng lực nhận thức các
quy luật khách quan kết hợp vận dụng các quy luật khách quan trong các hoạt động
thực tiễn và sinh hoạt hàng ngày. 17 lOMoAR cPSD| 45740413
Con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam chưa bao giờ dễ dàng, có
thể ví như một cuộc kháng chiến trường kỳ lâu dài đầy khó khăn của Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta. Muốn đất nước ta ngày càng đổi mới, ngày càng phát triển
bền vững và ổn định không chỉ ở khu vực Đông Nam Á mà còn ở toàn thế giới thì
đòi hỏi Đảng và Nhà nước sự kiên trì, kiên định, quyết tâm khắc phục khó khăn
cùng sự tỉnh táo, thông minh nhạy bén để thích ứng với tình hình thế giới biến đổi
từng ngày, từng phút. Bên cạnh đó nhân dân Việt Nam ta cũng cần ủng hộ, động
viên và giữ vững lòng tin với Đảng và Nhà nước, không lung lay trước những chiêu
trò chống phá, bôi nhọ của các thế lực thù địch, phản quốc.
Quán triệt phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, nắm rõ nội dung lý thuyết và vận dụng thành thạo phép duy vật biện chứng
vào nghiên cứu và quản lí kinh tế, phát huy mạnh mẽ hơn nữa mối quan hệ biện
chứng giữa kinh tế và chính trị trong công cuộc đổi mới. Nâng cao vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế, phát triển kinh tế Việt Nam và giữ ổn định chính trị đất
nước chính là mong muốn chung của mọi người dân, cũng là trách nhiệm cao cả
của thế hệ sinh viên Việt Nam.
Đây là nội dung bài tiểu luận của em, trong quá trình làm bài khó tránh khỏi
một số lỗi nhỏ. Kính mong thầy giáo giảng dạy bộ môn Triết học Mác – Lênin có
thể nhận xét và bổ sung những thiếu sót của em để em cải thiện sự hiểu biết về
kiến thức lý luận và thực tiễn.
Em xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt: 1.
“Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học (dành cho bậc đại học – không
chuyênlý luận chính trị)”, NXB Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội – 2019. 2.
“Gia đình học”, NXB Lý luận chính trị, Đặng Cảnh Khanh - Lê Thị Quý, HàNội – 2007.
Tài liệu trực tuyến: 1.
“Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay”, GS.TS.
LêThị Quý - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Giới và Phát triển, truy cập 20h39ph ngày 20/5/2021.
https://tcnn.vn/news/detail/41771/Co-so-ly-luan-va-thuc-tien-xay-dung-gia- dinhViet-Nam-hiennay.html lOMoAR cPSD| 45740413 2.
“Tiểu luận gia đình học những vấn đề cần quán triệt để xây dựng và củng
cốgia đìnhviệt nam trong thời đại mới”, Phạm Phúc Khánh, truy cập 7h35ph ngày 21/5/2021.
https://text.xemtailieu.net/tai-lieu/tieu-luan-gia-dinh-hoc-nhung-van-de-canquan-
triet-de-xay-dung-va-cung-co-gia-dinhviet-nam-trong-thoi-dai-moi 299889.html 3.
“Sự biến đổi chức năng của gia đình- lời cảnh báo từ tiểu thuyết viết về
nôngthôn Việt Nam đầu thế kỉ XXI”, Báo Văn nghệ quân đội, Hoàng Thị Kim
Oanh, truy cập 14h20ph ngày 20/5/2021.
http://vannghequandoi.com.vn/binh-luan-van-nghe/su-bien-doi-chuc-nang-
cuagia-dinh-loi-canh-bao-tu-tieu-thuyet-viet-ve-nong-thon-viet-nam-dau-the-ki xxi_11013.html 19