-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Đề cương ôn tập | môn luật hành chính Việt Nam | trường Đại học Huế
Câu 1: Trình bày nguồn của luật hành chính.Câu 2: Quan hệ pháp luật hành chính.Câu 3: Các nguyên tắc trong quản lí hành chính nhà nước. Câu 4: Cấu thành vi phạm pháp luật hành chính. Câu 5: Phân loại quyết định hành chính. Câu 6: Cơ sở làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật hành chính. Cho ví dụ.Nguồn của luật hành chính là những văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục và dưới những hình thức nhất định, có nội dung là các quy phạm pháp luật hành chính, có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các đối tượng có liên quan và được bảo đảm thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước.Nguồn của luật hành chính không phải là tất cả các văn bản quy phạm pháp luật mà chi bao gồm những văn bản quy phạm pháp luật có các quy phạm pháp luật hành chính, tức là những quy phạm pháp luật được ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động quản lí hành chính nhà nước. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Luật hành chính (ĐHH) 8 tài liệu
Đại học Huế 272 tài liệu
Đề cương ôn tập | môn luật hành chính Việt Nam | trường Đại học Huế
Câu 1: Trình bày nguồn của luật hành chính.Câu 2: Quan hệ pháp luật hành chính.Câu 3: Các nguyên tắc trong quản lí hành chính nhà nước. Câu 4: Cấu thành vi phạm pháp luật hành chính. Câu 5: Phân loại quyết định hành chính. Câu 6: Cơ sở làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật hành chính. Cho ví dụ.Nguồn của luật hành chính là những văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục và dưới những hình thức nhất định, có nội dung là các quy phạm pháp luật hành chính, có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các đối tượng có liên quan và được bảo đảm thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước.Nguồn của luật hành chính không phải là tất cả các văn bản quy phạm pháp luật mà chi bao gồm những văn bản quy phạm pháp luật có các quy phạm pháp luật hành chính, tức là những quy phạm pháp luật được ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động quản lí hành chính nhà nước. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Luật hành chính (ĐHH) 8 tài liệu
Trường: Đại học Huế 272 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Đại học Huế
Preview text:
lO M oARcPSD| 47110589
ĐỀ CƯƠNG MÔN LUẬT HÀNH CHÍNH VIỆT NAM A. PHẦN LÍ THUYẾT
Câu 1: Trình bày nguồn của luật hành chính.
Nguồn của luật hành chính là những văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục và dưới những hình thức nhất định, có nội dung
là các quy phạm pháp luật hành chính, có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các đối tượng
có liên quan và được bảo đảm thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước.
Nguồn của luật hành chính không phải là tất cả các văn bản quy phạm pháp luật mà
chi bao gồm những văn bản quy phạm pháp luật có các quy phạm pháp luật hành chính,
tức là những quy phạm pháp luật được ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong hoạt động quản lí hành chính nhà nước.
Căn cứ vào cơ quan ban hành, nguồn của luật hành chính gồm sáu loại:
- Văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan quyền lực nhà nước.
- Văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước.
- Văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan hành chính nhànước.
- Văn bản quy phạm pháp luật của Toà án nhân dân tối cao và Việnkiểm sát nhân dân tối cao.
- Văn bản quy phạm pháp luật của Tổng kiểm toán nhà nước.- Văn bản pháp quy phạm pháp luật liên tịch.
a) Văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan quyền lực nhà nước.
- Luật: Luật là hình thức cao nhất của việc thực hiện quyền lực nhànước không
chỉ vì hiệu lực pháp lí của nó mà còn vì sự uỷ quyền pháp lí luật do chính những đại
biểu dân cử làm ra. Loại văn bản pháp luật này có hai đặc điểm là do cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất ban hành và có hiệu lực pháp lí cao hơn tất cả các văn bản quy
phạm pháp luật khác. Vị trí cao nhất của luật thể hiện ở chỗ chỉ Quốc hội mới có quyền
ban hành, sửa đổi, bổ sung, thay thế hay bãi bỏ luật. Mặt khác, mọi văn bản quy phạm
pháp luật do các cơ quan nhà nước ban hành đều bắt buộc phải có nội dung phù hợp
với luật và nhằm thi hành luật.
- Nghị quyết của Quốc hội: Nghị quyết của Quốc hội được ban hànhđể quyết
định nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội; dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân
sách trung ương; điều chính ngân sách nhà nước; phê chuẩn quyết toán ngân sách
nhà nước; quy định chế độ làm việc của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội
đồng dân tộc, các uỷ ban của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội; lO M oARcPSD| 47110589
phê chuẩn điều ước quốc tế và quyết định các vấn đề khác thuộc thẩm quyền của
Quốc hội. Những nghị quyết hoặc phần của nghị quyết có chứa dựng các quy phạm
pháp luật hành chính được coi là nguồn của luật hành chính. Ví dụ: Nghị quyết của
Quốc hội số 64/2013/QH13 ngày 28/11/2013 quy định một sơ điểm thi hành Hiến
pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Pháp lệnh của uỷ ban thường vụ Quốc hội: Pháp lệnh do uỷ banthường vụ
Quốc hội ban hành để quy định về các vấn đề được Quốc hội giao, sau một thời gian
thực hiện trình Quốc hội xem xét, quyết định ban hành luật. Pháp lệnh có hiệu lực pháp lí thấp hơn luật.
- Nghị quyết của hội đồng nhân dân
b) Văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước
Chủ tịch nước có quyền ban hành lệnh và quyết định để thực hiện những nhiệm vụ
của Chủ tịch nước do hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của
Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định. Phần lớn các văn bản do Chủ tịch nước ban hành là
văn bản áp dụng pháp luật. Những văn bản (hoặc phần văn bản) có chứa đựng quy phạm
pháp luật hành chính được coi là nguồn của luật hành chính. c) Văn bản quy phạm pháp
luật của cơ quan hành chính nhà nước
- Nghị định của Chính phủ
- Nghị quyết của Thủ tướng Chính phủ
- Thông tư của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ
- Quyết định của Ủy ban nhân dân
- Chỉ thị của Ủy ban nhân dân
d) Văn bản quy phạm pháp luật của Toà án nhân dân tối cao và Việnkiểm sát nhân dân tối cao
- Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao: Nghịquyết của
Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao được ban hành để hướng dẫn các toà
án áp dụng thống nhất pháp luật. Những nghị quyết có chứa đựng quy phạm pháp
luật hành chính được coi là nguồn của luật hành chính.
- Thông tư của Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Việnkiểm sát nhân dân tối cao
e) Văn bản quy phạm pháp luật của Tổng kiểm toán nhà nước
Tổng kiểm toán nhà nước ban hành văn bản quy phạm pháp luật dưới hình thức quyết
định. Quyết định của Tổng kiểm toán nhà nước được ban hành để quy định, hướng dẫn các
chuẩn mực kiểm toán nhà nước; quy định cụ thể quy trình kiểm toán, hồ sơ kiểm toán. f)
Văn bản quy phạm pháp luật liên tịch
- Văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các bộ trưởng, thủtrưởng cơ quan ngang bộ.
- Văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa Chánh án Toà án nhândân tối cao
với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan lO M oARcPSD| 47110589
ngang bộ với Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa Uỷ ban thường vụ Quốchội hoặc
Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội. Câu 2: Quan hệ
pháp luật hành chính.
Quan hệ pháp luật hành chính được xác định là một dạng cụ thể của quan hệ pháp
luật, là kết quả tác động của quy phạm pháp luật hành chính theo phương pháp mệnh lệnh
- đơn phương tới các quan hệ quản lí hành chính nhà nước.
Ngoài những đặc điểm chung như các quan hệ pháp luật khác, các quan hệ pháp luật
hành chính có những đặc điểm riêng biệt sau đây:
- Quan hệ pháp luật hành chính có thể phát sinh theo yêu cầu hợppháp của
chủ thể quản lí hay đối tượng quản lí hành chính nhà nước. Sở dĩ các quan hệ pháp
luật hành chính có đặc điểm này là vì việc điều chỉnh pháp lí đối với các quan hệ
quản lí hành chính nhà nước không chỉ nhằm mục đích bảo đảm lợi ích của Nhà nước
mà còn ảnh hưởng tới quyền lợi nhiều mặt của các cơ quan, tổ chức, cả nhân trong
xã hội. Thẩm quyền quản lí hành chính của Nhà nước chỉ có thể được thực hiện nếu
có sự tham gia tích cực từ phía các đối tượng quản lí. Mặt khác, nhiều quyền lợi của
đối tượng quản lí hành chính nhà nước chỉ có thể được bảo đảm nếu có sự hỗ trợ
tích cực của các chủ thể quản lí bằng những hành vi pháp lí cụ thể.
- Nội dung của quan hệ pháp luật hành chính là các quyền và nghĩavụ pháp lí
hành chính của các bên tham gia quan hệ đó. Các bên tham gia quan hệ pháp luật
hành chính có thể là cơ quan nhà nước, tổ chức hay cá nhân; có thể nhân danh nhà
nước, vì lợi ích của Nhà nước hoặc nhân danh chính mình nhưng họ đều thực hiện
các quyền và nghĩa vụ do quy phạm pháp luật hành chính quy định. Việc quy định và
thực hiện các quyền và nghĩa vụ này là cần thiết đối với việc xác lập và duy trì trật tự
quản lí hành chính nhà nước.
- Một bên tham gia quan hệ pháp luật hành chính phải được sử dụngquyền lực
nhà nước. Về tư cách và cơ cấu chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính phải phù
hợp với tư cách và cơ cấu chủ thể của quan hệ quản lí hành chính nhà nước tương
ứng. Nếu một bên tham gia quan hệ quản lí hành chính nhà nước được sử dụng
quyền lực nhà nước (chủ thể quản lí hành chính nhà nước) thì chủ thể đó trong quan
hệ pháp luật hành chính tương ứng sẽ được xác định là chủ thể đặc biệt. Mặt khác,
trong quan hệ quản lí hành chính nhà nước, đổi tượng quản lí là bên chủ thể không
được sử dụng quyền lực nhà nước và có nghĩa vụ phục tùng việc sử dụng quyền lực
nhà nước của chủ thể quản lí thì trong quan hệ pháp luật hành chính tương ứng, các
đối tượng này được xác định là chủ thể thường.
- Trong một quan hệ pháp luật hành chính thì quyền của bên nàyứng với nghĩa
vụ của bên kia và ngược lại. Quan hệ pháp luật hành chính là quan hệ “quyền lực -
phục tùng”, quan hệ bất bình đẳng về ý chỉ giữa các bên tham gia. Chủ thể đặc biệt
tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính trên cơ sở quyền lực nhà nước và chủ
thể thường có nghĩa vụ chấp hành việc sử dụng quyền lực nhà nước của chủ thể đặc lO M oARcPSD| 47110589
biệt. Tuy nhiên, không có nghĩa là trong quan hệ pháp luật hành chính, chủ thể đặc
biệt chỉ có quyền và chủ thể thưởng chỉ có nghĩa vụ. Việc thực hiện thẩm quyền của
chủ thể đặc biệt vừa là quyền vừa là trách nhiệm của chủ thể này. Bên cạnh đó, chủ
thể thường tuy có nghĩa vụ chấp hành các mệnh lệnh của chủ thể đặc biệt song cũng
có những quyển nhất định xuất phát từ yêu cầu bảo đảm tính khách quan, đúng
pháp luật của các hành vi quản lí hành chính nhà nước hoặc đảm bảo các quyền và
lợi ích hợp pháp của họ như quyền yêu cầu, đề nghị, khiếu nại, tố cáo,… Việc thực
hiện thẩm quyền của chủ thể đặc biệt chỉ có hiệu lực khi nó làm phát sinh nghĩa vụ
chấp hành của chủ thể thường. Mặt khác, việc thực hiện quyền của chủ thể thường
trong quan hệ pháp luật hành chính chỉ có ý nghĩa thực sự nếu nó làm phát sinh
trách nhiệm tiếp nhận, xem xét giải quyết của chủ thể đặc biệt.
- Phần lớn các tranh chấp phát sinh trong quan hệ pháp luật hànhchính được
giải quyết theo thủ tục hành chính. Cũng như các công việc khác trong lĩnh vực quản
lí hành chính nhà nước, các tranh chấp phát sinh trong quan hệ pháp luật hành chính
cần phải được giải quyết theo thủ tục hành chính. Tuy nhiên, do tỉnh chất và yêu cầu
giải quyết một số tranh chấp phát sinh trong quan hệ pháp luật hành chính mà việc
giải quyết chúng còn có thể được thực hiện theo thủ tục tố tụng.
- Bên tham gia quan hệ pháp luật hành chỉnh vi phạm yêu cầu củapháp luật
hành chính phải chịu trách nhiệm pháp lí trước Nhà nước. Sở dĩ các quan hệ pháp
luật hành chính có đặc điểm này là vì những lí do sau đây:
+ Chủ thể đặc biệt tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính trên cơ sở quyền lực
nhà nước nên phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước khi sử dụng quyền lực ấy.
+ Chủ thể thường thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trước bên đại diện cho
Nhà nước, do đó phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước về tính hợp pháp của hành vi do
mình thực hiện trong quan hệ pháp luật hành chính;
+ Những vi phạm trên đều xâm hại đến trật tự quản lí hành chính nhà nước. Do đó,
bên vi phạm phải chịu trách nhiệm pháp lí trước Nhà nước về hành vi vi phạm của mình.
Như vậy, cho dù người vi phạm là chủ thể đặc biệt hay chủ thể thường thì họ đều có
nguy cơ phải chịu trách nhiệm pháp lí trước Nhà nước. Tất nhiên, không phải trong mọi
trường hợp chủ thể vi phạm yêu cầu của pháp luật hành chính đều phải chịu cùng một loại
trách nhiệm pháp lí trước Nhà nước. Tuỳ thuộc vào việc hành vi trái pháp luật hành chính
cấu thành loại vi phạm pháp luật nào mà Nhà nước sẽ truy cứu trách nhiệm hình sự, hành
chính, kỉ luật nhà nước đối với người vi phạm, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Tóm lại, quan hệ pháp luật hành chính là quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình
quản lí hành chính nhà nước, được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật hành chính giữa
các cơ quan, tổ chức, cá nhân mang quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật hành chính.
Câu 3: Các nguyên tắc trong quản lí hành chính nhà nước.
Các nguyên tắc cơ bản của quản lí hành chính nhà nước với nội dung rất đa dạng có
tính thống nhất và liên hệ chặt chẽ với nhau. Việc phân loại chúng một cách khoa học nhằm
xác định cụ thế vị trí, vai trò của chúng trong quản lí hành chính nhà nước. trên cơ sở đó lO M oARcPSD| 47110589
xây dựng và áp dụng chúng một cách có hiệu quá trong thực tiễn quản lí hành chính nhà nước là cần thiết.
Việc phân loại các nguyên tắc cơ bản của quản lí hành chính nhà nước cần dựa trên
những cơ sở khoa học về quản lí nhà nước. Về bản chất, quản lý nhà nước biểu hiện cụ thể
ở hoạt động tổ chức, bao gồm tổ chức chính trị và tổ chức kĩ thuật. Trên cơ sở này, các
nguyên tắc trong quản lí hành chính nhà nước thưởng được phân chia thành hai nhóm: Các
nguyên tắc chính trị - xã hội và các nguyên tắc tổ chức - kĩ thuật. Các nguyên tắc chính trị -
xã hội là các nguyên tắc chung, được quán triệt trong toàn bộ tổ chức và hoạt động của các
cơ quan nhà nước trong đó có hoạt động quản lí hành chính nhà nước. Đây là các nguyên
tắc thể hiện sâu sắc bàn chất giai cấp của nhà nước. Nhóm này bao gồm các nguyên tắc cơ bản sau đây:
- Nguyên tắc Đảng lãnh đạo trong quản lí hành chính nhà nước;
- Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản líhành chính nhà nước;
- Nguyên tắc tập trung dân chủ;- Nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc; - Nguyên tắc
pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Các nguyên tắc tổ chức - kĩ thuật là những nguyên tắc mang tính đặc thù cho hoạt
động quản lí hành chính nhà nước. Nội dung của những nguyên tắc này chi phối các yếu tố
mang tính chất kĩ thuật của hoạt động quan li hành chính nhà nước. Dù được thực hiện
trong điều kiện chính trị hoặc giai cấp như thế nào, hoạt động quản lí hành chính nhà nước
đều phải tuân theo các nguyên tắc đó. Bản thân nhóm nguyên tắc này gồm nhiều nguyên
tắc khác nhau nhưng trong phạm vì chương này chỉ đề cập hai nguyên tắc cơ bản sau đây:
- Nguyên tắc quản lí theo ngành, chức năng kết hợp với quản lí theođịa phương;
- Nguyên tắc quản lí theo ngành kết hợp với quản lí theo chức năngvà phối hợp quản lí liên ngành.
Câu 4: Cấu thành vi phạm pháp luật hành chính.
Để xác định một hành vi xảy ra có phải là vi phạm hành chinh hay không, cần xác định
các dấu hiệu pháp lí của các yếu tố cấu thành loại vi phạm pháp luật này. Những dấu hiệu
này được mô tả trong các văn bản pháp luật quy định về vi phạm hành chính, hình thức và
biện pháp xử lí vi phạm hành chính. Giống như bất kì loại vi phạm pháp luật nào, vi phạm
hành chính được cấu thành bởi bốn yếu bao gồm mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan
và khách thể. a) Mặt khách quan
Dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của vi phạm hành chính là hành vi vi phạm hành chính.
Đối với một số loại vi phạm hành chính cụ thể, dấu hiệu trong mặt khách quan có tính
chất phức tạp, không đơn thuần chỉ có một dấu hiệu nội dung trái pháp luật trong hành vi
mà còn có thể có sự kết hợp với những yếu tố khác. Thông thường, những yếu tố này có thể là:
+ Thời gian thực hiện hành vi vi phạm.
+ Địa điểm thực hiện hành vi vi phạm.
+ Công cụ, phương tiện vi phạm
+ Hậu quả và mối quan hệ nhân quả lO M oARcPSD| 47110589 b) Mặt chủ quan
Dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của vi phạm hành chính là dấu hiệu lỗi của chủ
thể vi phạm. Vi phạm hành chính phải là hành vi có lỗi thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô
ý. Nói cách khác, người thực hiện hành vi này phải trong trạng thái có đầy đủ khả năng nhận
thức và điều khiến hành vi của mình nhưng đã vô tình, thiếu thận trọng mà không nhận
thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội (lỗi vô ý) hoặc nhận thức được điều
đó nhưng vẫn cố tình thực hiện (lỗi cố ý). Khi có đủ căn cứ để cho rằng chủ thể thực hiện
hành vi trong tình trạng không có khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi,
chúng ta có thể kết luận rằng đã không có vi phạm hành chính xảy ra.
Ngoài lỗi là dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của mọi vi phạm hành chính, ở một
số trường hợp cụ thể, pháp luật còn xác định dấu hiệu mục đích là dấu hiệu bắt buộc của
một số loại vi phạm hành chính.
Chính vì thế, khi xử phạt cá nhân, tổ chức về loại vi phạm hành chính này cần phải xác định
rõ ràng hành vi của họ có thoả mãn đầy đủ dấu hiệu mục đích hay không, ngoài việc xem
xét các dấu hiệu khác. c) Chủ thể của vi phạm hành chính
Chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính là các tổ chức, cá nhân có năng lực chịu
trách nhiệm hành chính theo quy định của pháp luật hành chính.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, cá nhân là chủ thể của vi phạm hành chính
phải là người không mắc các bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác làm mất khả năng
nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi và đủ độ tuổi do pháp luật quy định, cụ thể là:
+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi là chủ thể của vị phạm hành chính trong trường
hợp thực hiện hành vi với lỗi cố ý.
+ Người từ đủ 16 tuổi trở lên có thể là chủ thể của vi phạm hành chính trong mọi trường hợp.
+ Tổ chức là chú thể vi phạm hành chính bao gồm: các cơ quan nhà nước, các tổ chức
xã hội, các đơn vị kinh tế, các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân và các tổ chức khác
được thành lập theo quy định của pháp luật
Cá nhân, tổ chức nước ngoài cũng là chủ thể vi phạm hành chính theo quy định của
pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia có
quy định khác. d) Khách thể của vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính cũng như mọi vi phạm pháp luật khác đều xâm hại đến các quan
hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Dấu hiệu khách thể để nhận biết về vi phạm hành chính
là hành vi vi phạm này đã xâm hại đến trật tự quản lí hành chính nhà nước được pháp luật
hành chính quy định và bảo vệ. Nói cách khác, vi phạm hành chính là hành vi trái với các
quy định của pháp luật về quản lý nhà nước trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội
như quy tắc về an toàn giao thông, quy tắc về an ninh trật tự, an toàn xã hội... Điều đó đã
được quy định trong các văn bản pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Câu 5: Phân loại quyết định hành chính.
Để phân loại quyết định hành chính chúng ta dựa vào một số căn cứ sau:
a) Căn cứ vào tính chất pháp lí lO M oARcPSD| 47110589
- Dựa vào cần cứ này thì quyết định hành chính được chia thành quyết định chủ đạo,
quyết định quy phạm và quyết định cá biệt.
+ Quyết định chủ đạo là loại quyết định mà các chủ thể có thẩm quyền ban hành nhằm
mục đích đưa ra những chủ trương, chính sách, những giải pháp lớn về quản lí hành chính
đối với cá nước, một vùng hoặc đối với một đơn vị hành chính nhất định. Chính vì vậy mà
thẩm quyền ra các quyết định chủ đạo này thường thuộc về những chủ thể có vị trí quan
trọng trong hệ thống hành chính. Về hình thức thì những quyết định thuộc loại này thường là những nghị quyết.
+ Quyết định quy phạm: Ban hành quyết định quy phạm là hoạt động mang tính đặc
trưng của các chủ thể được sử dụng quyền hành pháp, bởi là một trong những biểu hiện
của quyền hành pháp đó là hoạt động lập quy. Trên cơ sở luật, pháp lệnh các chủ thể trong
hệ thống hành chính nhà nước sẽ ban hành những quy phạm chủ yếu nhằm cụ thể hoá luật,
pháp lệnh để quản lí xã hội trên từng lĩnh vực, vì vậy quyết định quy phạm có ý nghĩa và vai
trò rất đặc biệt trong hệ thống văn bản pháp luật nói chung, văn bản hành chính nói riêng.
Với nội dung là những quy tắc xử sự, xác định các quyền và nghĩa vụ cho các đổi tượng liên
quan, quyết định quy phạm tạo ra một khuôn khổ pháp lí, trong đó các chủ thể của pháp
luật hành chính sẽ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
Theo quy định của pháp luật thì Chính phủ ra các quyết định quy phạm dưới hình thức
là những nghị định; Thủ tướng Chính phủ ra quyết định quy phạm với hình thức là những
quyết định, chỉ thị; bộ trưởng ra quyết định, chỉ thị; ủy ban nhân dân các cấp ra quyết định, chỉ thị..
+ Quyết định cá biệt: Trên cơ sở của quyết định quy phạm, quyết định cá biệt được
ban hành nhằm mục đích hướng đến việc cho các chủ thể pháp luật hành chính thực hiện
được các quyền cũng như nghĩa vụ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do vậy, đây là hoạt
động thường xuyên và cũng nhờ có các quyết định này mà pháp luật được thi hành. Vốn đi
là loại quyết định để áp dụng quy phạm pháp luật vì thế nó có đặc trưng riêng, ví dụ như
nó được áp dụng một lần, cho một hoặc một số đối tượng nhất định.
+ Các quyết định cá biệt được ban hành trên cơ sở của quyết định chủ đạo cũng như
quyết định quy phạm nhằm mục đích để các chủ thể có thẩm quyền giải quyết các công
việc cụ thể trên từng lĩnh vực của quản lí hành chính nhà nước.
b) Căn cứ vào chủ thể ban hành quyết định
Dựa vào căn cứ này chúng ta có các loại quyết định sau:
- Quyết định hành chính của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
+ Căn cứ vào hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của
ủy ban thường vụ Quốc hội: lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, Chính phủ ra quyết
định hành chính dưới hình thức là những nghị quyết, nghị định.
+ Căn cứ vào hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của
ủy ban thường vụ Quốc hội; lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; nghị quyết, nghị định
của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định hành chính dưới hình thức là các
quyết định và chỉ thị. lO M oARcPSD| 47110589
- Quyết định hành chính của các bộ và cơ quan ngang bộ
Theo quy định của pháp luật thì bộ là cơ quan quản lí nhà nước có thẩm quyền chuyên
môn, được sử dụng quyền hành pháp trong lĩnh vực chuyên môn do mình quản lí. Để thực
hiện quyền lực đó, người đứng đầu mỗi bộ, cơ quan ngang bộ đều có quyền ra các quyết
định hành chính dưới hình thức là những quyết định, chỉ thị và thông tư.
- Quyết định hành chính của ủy ban nhân dân
Ủy ban nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định được
quyền ra quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành những văn bản đó. Chủ tịch ủy ban
nhân dân cũng có quyền ban hành quyết định hành chính dưới hình thức quyết định và chỉ
thị nhưng đó chỉ là những quyết định cá biệt (Ví dụ: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính).
- Quyết định hành chính của các cơ quan chuyên môn thuộc ủy bannhân dân
Các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân (gồm các sở, phòng, ban) với tư cách
là cơ quan giúp việc về chuyên môn cho ủy ban nhân dân được quyền ra các quyết định
hành chính dưới hình thức quyết định và chỉ thị (quyết định cá biệt).
- Quyết định hành chính liên tịch
Đây là loại quyết định khác với những loại quyết định trên về chủ thể ra quyết định.
Các loại quyết định trên chỉ do một chủ thể duy nhất ban hành để thực hiện quyền lực nhà
nước còn quyết định hành chính liên tịch được ban hành bởi nhiều cơ quan nhà nước khác
nhau, thậm chí còn có cả sự phối hợp của tổ chức xã hội. Dĩ nhiên, những loại quyết định
loại này không nhiều so với những quyết định trên. Quyết định hành chính liên tịch có hình
thức là những thông tư liên tịch, nghị quyết liên tịch.
Câu 6: Cơ sở làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật hành chính. Cho ví dụ.
Cơ sở làm phát sinh, thay đổi, hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật hành chính là: Quy
phạm pháp luật, sự kiện pháp lí và năng lực chủ thể của cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan.
Trong đó, quy phạm pháp luật hành chính, năng lực chủ thể của cơ quan, tổ chức, cá nhân
liên quan là điều kiện chung cho việc phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ pháp luật hành chính.
Sự kiện pháp lí hành chính là những sự kiện thực tế mà việc xuất hiện, thay đổi hay
chấm dứt chúng được pháp luật hành chính gắn với việc làm phát sinh, thay đổi hoặc làm
chấm dứt các quan hệ pháp luật vành chính.
Cũng như các sự kiện pháp lí khác, sự kiện pháp lí hành chính chủ yếu được phân loại thành:
+ Sự biến là những sự kiện xảy ra theo quy luật khách quannkhông chịu sự chi phối
của con người mà việc xuất hiện, thay đổi hay chấm dứt chủng được pháp luật hành chính
gắn với việc làm phát sinh, thay đổi hoặc làm chấm dứt các quan hệ pháp luật hành chính.
Ví dụ: Sự kiện thiên tai, dịch bệnh, sự cố kĩ thuật v.v...
+ Hành vi là sự kiện pháp lí chịu sự chi phối bởi ý chí của con người, mà việc thực hiện
hay không thực hiện chúng được pháp luật hành chính gắn với việc làm phát sinh, thay đổi
hoặc làm chấm dứt các quan hệ pháp luật hành chính. Ví dụ: Hành vi khiếu nại đối với quyết lO M oARcPSD| 47110589
định hành chính, hành vi hành chính là sự kiện pháp lí hành chính làm phát sinh quan hệ
pháp luật hành chính giữa người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đó với người khiếu nại
và người bị khiếu nại.
Thực tiễn pháp lí cho thấy việc phân biệt sự kiện pháp lí hành chính với các sự kiện
pháp lí khác chỉ có tính chất tương đối. Vì sự kiện pháp lí hành chính chỉ là một bộ phận của
sự kiện pháp lí nói chung và có nhiều sự kiện pháp lí hành chính đồng thời là sự kiện pháp
lí của một số quan hệ pháp luật khác. Ví dụ: Sự kiện cấp giấy chứng nhận kết hôn không chỉ
là sự kiện pháp lí làm chấm dứt quan hệ pháp luật hành chính về việc đăng kí kết hôn mà
còn là sự kiện pháp lí làm phát sinh quan hệ vợ chồng giữa hai người được cấp giấy chứng
nhận kết hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình.
Như vậy, nếu quy phạm pháp luật hành chính và năng lực chủ thể của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân liên quan là điều kiện chung cho việc phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các
quan hệ pháp luật hành chính thì sự kiện pháp lí hành chính là điều kiện thực tế cụ thể và
trực tiếp làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ đó.