Điều 5 trong Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo “Chuẩn mực và trách nhiệm khi tham gia mạng xã hội và các phương tiện truyền thông khác” | Bài tập Pháp luật và đạo đức báo chí truyền thông

“Thế giới song song” vẫn là những điều bí ẩn, chưa được xác thực hay nói cách khác đó còn là khái niệm viễn tưởng. Nhưng thực tế có một thế giới song song tồn  tại cùng với thế giới thực mà chúng ta đã và đang tham gia vào, đó chính là thế giới ảo được dựng lên bởi sự hình thành và phát triển của Mạng xã hội (social network)  hay các phương tiện truyền thông. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Thông tin:
43 trang 1 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Điều 5 trong Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo “Chuẩn mực và trách nhiệm khi tham gia mạng xã hội và các phương tiện truyền thông khác” | Bài tập Pháp luật và đạo đức báo chí truyền thông

“Thế giới song song” vẫn là những điều bí ẩn, chưa được xác thực hay nói cách khác đó còn là khái niệm viễn tưởng. Nhưng thực tế có một thế giới song song tồn  tại cùng với thế giới thực mà chúng ta đã và đang tham gia vào, đó chính là thế giới ảo được dựng lên bởi sự hình thành và phát triển của Mạng xã hội (social network)  hay các phương tiện truyền thông. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

31 16 lượt tải Tải xuống
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA PHÁT THANH – TRUYỀN HÌNH
BÀI TẬP LỚN
PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC BÁO CHÍ
Đề tài: Điều 5 trong Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo “Chuẩn mực
và trách nhiệm khi tham gia mạng hội và các phương tiện truyền thông khác”, anh
(chị) hiểu điều trên như thế nào? Liên hệ thực tế tại Việt Nam.
Họ và tên: Phạm Bạch Dương
Mã sinh viên: 2256070010
Lớp: Báo mạng điện tử K42
Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Thùy Vân Anh
MỤC LỤC
PHẦN I. MỞ ĐẦU...............................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................................................1
2. Đối tượng nghiên cứu, khách thể nghiên cứu.........................................................................3
3. Phạm vi nghiên cứu...................................................................................................................3
PHẦN II. NỘI DUNG CHÍNH...........................................................................................................3
1. Các khái niệm............................................................................................................................3
1.1 Đạo đức nghề nghiệp báo chí............................................................................................3
1.2 Mạng xã hội........................................................................................................................4
1.3 Chuẩn mực.........................................................................................................................4
1.4 Trách nhiệm.......................................................................................................................4
2. Quan điểm về Điều 5 trong Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo “Chuẩn
mực và trách nhiệm khi tham gia mạng xã hội và các phương tiện truyền thông khác”.. .......4
2.1 Vị trí....................................................................................................................................4
2.2 Quan điểm về Điều 5 trong Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo.........6
3. Thực trạng việc thực hiện theo điều 5 trong quy định đạo đức nghề nghiệp của người
làm báo Việt Nam hiện nay và những vấn đề liên quan.............................................................14
3.1 Những hành động tích cực trong thực hiện quy định của nhà báo...... ..........................14
3.2 Những hành vi tiêu cực trong thực hiện quy định và nguyên nhân............................22
3.3 Những vấn đề mạng xã hội tác động tới nhà báo..........................................................34
4. Đề xuất giải pháp.....................................................................................................................36
PHẦN III. KẾT LUẬN......................................................................................................................38
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................39
2
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế giới song song” vẫn những điều ẩn, chưa được xác thực hay nói cách
khác đó còn là khái niệm viễn tưởng. Nhưng thực tế có một thế giới song song tồn tại
cùng với thế giới thực chúng ta đã đang tham gia vào, đó chính thế giới ảo
được dựng lên bởi sự hình thành và phát triển của Mạng hội (social network) hay
các phương tiện truyền thông. Mạng hội các phương tiện truyền thông đang
chiếm lĩnh tác động sâu sắc tới cuộc sống con người mọi lúc, mọi nơi, mọi tầng
lớp và trong đó có nhà báo và những người công tác trong lĩnh vực báo chí.
Chúng ta đã biết bất cứ ngành nghề nào cũng cần có sự chuẩn mực và trách nhiệm,
không chỉ trong quá trình công tác còn trong cả đời sống hội. Như một giáo
viên không chỉ khi tham gia giảng dạy trên trường lớp mới cần sự chỉnh chu, chuẩn
mực trong cuộc sống cũng phải hành động đẹp đẽ, nhân văn trách nhiệm.
Tương tự, nhà báo cũng vậy. Ta thường nghĩ nhà báo thì đi liền với tạp chí, trang báo,
bản tin,… nhưng nhà báo cũng một nhân con người của truyền thông nên
họ cũng gắn liền với mạng hội- họ cũng con người của thế giới ảo. thế nhà
báo không chỉ cần chuẩn mực trách nhiệm trong công tác còn thể hiện điều đó
trong mọi hoạt động, đặc biệt là khi sử dụng mạng xã hội.
Báo chí mạng hội một mối quan hệ liên kết chặt chẽ không ngừng
tương tác với nhau. Đặc trưng sự bùng nổ của mạng hội các phương tiện
truyền thông đã mang lại cả những thách thức cơ hội cho báo chí. Những hội
đang được khai thác triệt để còn những thách thức thì đang được biến thành hội.
Ngày nay, những tờ báo điện tử, tạp chay kênh truyền hình đều tham gia vào các
nền tảng mạng hội như Facebook, Tiktok, Instagram,… những tài khoản riêng
nhận tương tác lớn từ công chúng. Hay những nhà báo cũng đều những i
khoản nhân phục vụ đời sống nhân trong công việc. Không chỉ riêng với
người đang hoạt động, mạng xã hội cũngdiễn đàn- nơi mà các nhà báo về hưu bày
tỏ quan điểm, phân tích sự việc, nơi tiếp cận với công chúng cũng nhận lại rất
1
nhiều tương tác. Đặc biệt hơn là tầng lớp giới trẻ đang học tập trong lĩnh vực báo chí,
những nhà báo tập sự đang phát triển và bùng nổ trên mạng xã hội với những bài viết,
phóng sự, video thu hút lượt tương tác khủng. Điều đó thể hiện sự hợp tác- bắt tay”
giữa báo chí mạng hội. Nhưng để việc “bắt tay” ấy có hiệu quả thì nhà báo hay
những nhân hoạt động trong lĩnh vực báo chí tất yếu phải đảm bảo sự chuẩn mực
trách nhiệm. Hiện nay, trong việc sử dụng mạng hội của nhà báo tồn tại rất
nhiều vấn đề nổi cộm liên quan. Bên cạnh những tích cực mang lại, vẫn hiện diện
những hạn chế, những vấn đề tiêu cực. Đó là những hành vi thiếu chuyên môn, những
hành động thiếu chuẩn mực thậm chí những hành vi vi phạm pháp luật cần đến sự
can thiệp mạnh tay từ quan chức năng, những sự việc đó không còn hiếm gặp.
Ngoài ra, còn những sự việc liên quan đến thái độ của sinh viên báo chí trên mạng
hội, những trang confesion đi liền với những bài phốt, những status tiêu cực,..
Những vấn đề này chủ yếu từ vấn đề phát ngôn, nhưng sức mạnh của lời nói
cùng lớn nền tảng nào thì vẫn phải uốn lưỡi bảy lần trước khi nói”. Hình ảnh
của nhà báo sau hàng loạt những sự kiện dần trở nên méo trong mắt công chúng,
ảnh hưởng vô cùng tới sự uy tín của nghề báo. Điều đó thể hiện tính cấp thiết của vấn
đề, chúng ta cần nghiên cứu sâu về vấn đề chuẩn mực trách nhiệm trong việc sử
dụng mạng xã hội của nhà báo để kịp thời có những giải pháp phù hợp và nắm bắt kịp
với xu thế.
Tiến sĩ Nguyễn Quang Hòa - Giảng viên Học viện Báo chí Tuyên truyền cho
rằng, khi đã nhà báo thì cần hết sức thận trọng khi phát ngôn trên mạng hội.
đấy chỉtrang nhân nhưng độc giả biết mình nhà báo thì họ vẫn đánh giá đó
quan điểm của một nhà báo, chứ không phải là của một người dân bình thường. Bởi vì
nhà báo là người của công chúng. Họmột chiến sĩ xung kích trên mặt trận văn hóa,
tư tưởng, tứcmột người làm chính trị.vậy, mọi lời nói, bài viết của họ cần phải
chuẩn mực. Vấn đề “chuẩn mực” “trách nhiệm” không chỉ riêng đối với những
người đang hoạt động trong nghề báo, còn cần thiết phải định hướng và xây dựng
phát triển trong tâm thức những nhà báo tập sự- những sinh viên báo chí truyền thông.
Bởi sự chuẩn mực trách nhiệm liên quan tới đạo đức đạo đức thì luôn phải rèn
2
luyện, tức cần phải đào tạo, rèn luyện từ sớm những phẩm chất này cho sinh viên
báo chí. Đặc biệt sinh viên Truyền hình, Báo mạng điện tử những chuyên ngành
liên quan trực tiếp với mạng hội như chúng ta càng phải đề cao rèn luyện. Từ sự
cần thiết cho việc xây dựng rèn luyện cho bản thân, sau chuẩn bị những hành
trang kinh nghiệm cho công tác hoạt động nghề nghiệp sau này bên cạnh đó bổ
sung thêm tài liệu cho những nghiên cứu liên quan, nhân em thấy vấn đề chuẩn
mực trách nhiệm trong việc sử dụng mạng hội của nhà báo đề tài quan trọng
cần nghiên cứu.
2. Đối tượng nghiên cứu, khách thể nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Điều 5 trong Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo “Chuẩn mực và
trách nhiệm khi tham gia mạng xã hội và các phương tiện truyền thông khác”
Thực trạng việc thực hiện điều 5 trong quy định đạo đức nghề nghiệp của
người làm báo
b. Khách thể nghiên cứu
Người làm báo Việt Nam (bao gồm: Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam, đười đã
được cấp Thẻ Nhà báo; người chưa được cấp Thẻ Nhà báo đang làm việc tại
các cơ quan báo chí; người hoạt động trong lĩnh vực báo chí nói chung.
3. Phạm vi nghiên cứu
Thời gian: 2018- 2023
Các cấp Hội Nhà báo Việt Nam phối hợp với các cơ quan báo chí và quản lý
báo chí.
PHẦN II. NỘI DUNG CHÍNH
1. Các khái niệm
1.1Đạo đức nghề nghiệp báo chí
Đạo đức nghề nghiệp một bộ phận của đạo đức hội. Đạo đức nghề
nghiệp bao gồm các nguyên tắc xử sự đúng đắn để ngăn ngừa những hành vi
không đúng đắn. Căn cứ vào những tiêu chuẩn đạo đức này dựa vào tính
3
chất của những hành vi, mỗi người sẽ phải điều chỉnh hành vi của mỗi người
phù hợp với lợi ích và sự tiến bộ xã hội.
Đạo đức nghề nghiệp báo chí hay đạo đức nghề nghiệp của nhà o”
những quy tắc, chuẩn mực quy định thái độ nh vi ứng xử của nhà báo
trong các mối quan hệ nghề nghiệp.
1.2Mạng xã hội
Mạng xã hội (social network) là hệ thống thông tin cung cấp cho cộng đồng
người sử dụng mạng các dịch vụ lưu trữ, cung cấp, sử dụng, tìm kiếm, chia sẻ
và trao đổi thông tin với nhau, bao gồm dịch vụ tạo trang thông tin điện tử cá
nhân, diễn đàn (forum), trò chuyện (chat) trực tuyến, chia sẻ âm thanh, hình
ảnh và các hình thức dịch vụ tương tự khác
1.3Chuẩn mực
Theo từ điển Tiếng Việt, “cái được chọn làm căn cứ để đối chiếu, đểchuẩn
hướng theo đó mà làm cho đúng”.
Chuẩn mực tính từ miêu tả hành động, hành vi được thực hiện đúng theo
các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi của hội đối với mỗi cá nhân hay nhóm hội,
trong đó xác định ít nhiều sự chính xác về tính chất, mức độ, phạm vi, giới hạn
của cái thể, cái được phép, cái không được phép hay cái bắt buộc phải thực
hiện trong hành vi xã hội của mỗi người, nhằm củng cố, đảm bảo sự ổn định xã
hội, giữ gìn trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội.
1.4Trách nhiệm
Trách nhiệm công việc hay nghĩa vụ của mỗi người phải thực hiện hoặc
hoàn thành. Trách nhiệm là nghĩa vụ của bản thân với một công việc bất kỳ nào
đó trong ngày hoặc với bất kỳ một hoạt động hay vấn đề nào đó. Trách nhiệm
của nhân không chỉ với bản thân mình với công việc, với gia đình,
người thân với hội nơi bạn sinh sống. Tính trách nhiệm của mỗi nhân
cần thiết đối với sự phát triển bền vững của một quốc gia cả hội hiện
nay.
4
2. Quan điểm về Điều 5 trong Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm
báo “Chuẩn mực trách nhiệm khi tham gia mạng xã hội các phương
tiện truyền thông khác”.
2.1 Vị trí
10 điều Quy định đạo đức nghề nghiệp người làm báo Việt Nam đã được thảo
luận thông qua Tại Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Hội Nhà báo Việt
Nam ngày 15/12/2016. Ngày 16/12/2016, Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam
Thuận Hữu đã Quyết định số 483/QĐ-HNBVN ban hành Quy định đạo đức
nghề nghiệp người làm báo Việt Nam, trong đó nêu rõ: Quy định đạo đức nghề
nghiệp người làm báo Việt Nam gồm 10 điều, có hiệu lực từ ngày 1/1/2017.
Chuẩn mực trách nhiệm khi tham gia mạng hội các phương tiện
truyền thông khác” điều thứ 5 trong 10 điều Quy định đạo đức nghề nghiệp
của người làm báo. Trong đó:
Điều 1: Trung thành với sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; vì lợi ích của đất
nước, vì hạnh phúc của nhân dân; góp phần nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam
trên trường quốc tế.
Điều 2: Nghiêm chỉnh thực hiện Hiến pháp, Luật Báo chí, Luật bản quyền
và các quy định của pháp luật. Thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích; nội quy, quy
chế của cơ quan báo chí nơi công tác.
Điều 3: Hành nghề trung thực, khách quan, công tâm, không vụ lợi. Bảo
vệ công lý và lẽ phải. Không làm sai lệch, xuyên tạc, che giấu sự thật, gây chia
rẽ, kích động hội, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc tình đoàn kết,
hữu nghị giữa các quốc gia, dân tộc.
Điều 4: Nêu cao tinh thần nhân văn, tôn trọng quyền con người. Không
xâm phạm đời tư, làm tổn hại danh dự, nhân phẩm, lợi ích hợp pháp của tổ
chức và cá nhân.
Điều 5: Chuẩn mực trách nhiệm khi tham gia mạng hội các
phương tiện truyền thông khác.
5
Điều 6: Bảo vệ bí mật quốc gia, bí mật nguồn tin theo quy định của pháp luật.
Điều 7: Đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp.
Điều 8: Tích cực học tập, nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, ngoại
ngữ, phấn đấu vì một nền báo chí dân chủ, chuyên nghiệp và hiện đại.
Điều 9: Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt; Bảo vệ phát huy các giá
trị văn hóa Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Điều 10: Những người làm báo Việt Nam cam kết thực hiện những quy
định trên, đó là bổn phận và nguyên tắc hành nghề, là lương tâm và trách nhiệm
của người làm báo.
2.2 Quan điểm về Điều 5 trong Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm
báo
2.2.1 Phân tích về điều 5 trong Quy định đạo đức nghề nghiệp của người
làm báo
Từ khái niệm gốc của chuẩn mực” “trách nhiệm”, ta thể xây dựng cái nhìn
nét hơn về điều 5 trong Quy định đạo đức và nghề nghiệp người làm báo.
Trước hết đối với “chuẩn mực”, ý nghĩa của từ này trong quy định là nhà báo phải thực
hiện, hành động, phát ngôn đúng đắn theo những quy định đạo đức nghề nghiệp báo chí;
phù hợp với những nguyên tắc báo chí đã đề ra: tính khách quan chân thật, tính khuynh
hướng, tính nhân dân dân chủ, tính dân tộc quốc tế, tính nhân văn; bên cạnh đó
không được vi phạm vào những hành vi bị cấm không chỉ trong quá trình tác nghiệp
cả trong khi sử dụng mạng xã hội. Đồng thời nhà báo phải thực hiện đúng theo bộ quy tắc
Quy tắc sử dụng Mạng hội của người làm báo Việt Nam gồm 03 Chương 07 Điều
đã được Hội Nhà báo Việt Nam chính thức công bố hiệu lực bắt đầu từ ngày
01/01/2019. Tức những phát ngôn của nhà báo dưới hình thức status, bài viết, bình
luận, story, video,… đăng tải trên tài khoản nhân hay của quan đều phải tuân thủ
quy định, phù hợp quy tắc. Hay những bài viết mà nhà báo chia sẻ trên trang cá nhân phải
nội dung đúng đắn, tích cực, phù hợp với quan điểm đạo đức của Đảng. Không chỉ
chuẩn mực về mặt nội dung còn phải chuẩn mực về hình thức như tính chuyên môn
chính tả, ngữ pháp,… dụ như nhà báo muốn chia sẻ khoảnh khắc đời sống của họ lên
6
trang cá nhân, trước hết phải kiểm tra thông tin đó ảnh hưởng tới ai, khoảnh khắc hay
cảm xúc đó đã tích cực ý nghĩa hay chưa, hơn nữa là không để mắc lỗi chính tả
hình thức bố cục đẹp thể hiện tính chuyên nghiệp của nhà báo.
Còn đối với “trách nhiệm”, đúng như ý nghĩa gốc nhà báo phải có trách nhiệm đối với
mọi hoạt động của họ trên mạng hội. Từ những lời nói, bài viết, bình luận trên mạng
hội của họ mang ảnh hưởng tới nhân hay tổ chức nào họ đều phải chịu trách
nhiệm. Người bình thường đã phải trách nhiệm công dân, nhưng nhà báo còn phải
trách nhiệm hơn, “trách nhiệm công dân”, “trách nhiệm nghề nghiệp”. Họ là những người
hành nghề trong một nhóm nghề tương đối đặc biệt, được trang bị về năng chuyên
môn, họ diễn đàn những sản phẩm của họ tính chất định hướng luận, tác
động tới cả người dân cả các cấp lãnh đạo. Mỗi lời họ nói, mỗi sự thật họ viết ra đều
phải nghiêm túc vàđịnh hướng tốt. Quan trọng nhất vẫn là sự chân chính và xây dựng
hội. Đó vấn đề thuộc về đạo đức con người đặc biệt nhà báo, sự uy tín từ
thông tin họ mang lại càng phải đề cao. thế nhà báo phải đảm bảo được nội dung
của thông tin họ cung cấp và chia sẻ trên mạng xã hội. Ngoài ra, trách nhiệm của nhà báo
trên mạng hội còn phải truyền cảm hứng tích cực cho công chúng qua những nội
dung họ chia sẻ. Bởi nhà báo người của công chúng, người “xung kích trên mặt trận
văn hóa tưởng” nên họ sẽ nhiều người theo dõi tin tưởng, những thông tin nhà
báo mang lại sẽ được công chúng đánh giáảnh hưởng nhiều. Do đó nhà báo phải đảm
bảo tạo ra luồng tưởng thông tin tích cực đồng thời chịu trách nhiệm với những hàng
động của mình trên mạng hội gây ảnh hưởng tới người khác theo mọi chiều hướng.
Thừa nhận rằng trang cá nhân hay tài khoản cá nhân là vấn đề cá nhân của nhà báo nhưng
khi đã mang thẻ nhà báo thì chúng ta phải giữ trọn vẹn trách nhiệm trên mọi nền tảng
trong đó có mạng xã hội và các phương tiện truyền thông.
Mạng hội phương tiện truyền thông thế giới ảo tiềm ẩn nhiều vấn đề trực
tiếp ảnh hưởng tới cuộc sống người dân, các quan Nhà nước ta hay Hội Nhà Báo Việt
Nam đã nhận thức sớm được những vấn đề xảy ra kịp thời đưa ra những Quy tắc sử dụng
Mạng xã hội của người làm báo Việt Nam hay Quy định đạo đức nghề nghiệp người làm
báo. Đây bộ quy định chặt chẽ hướng đúng tới những vấn đề đã đang xảy ra, kịp
7
thời phòng ngừa những sự việc tiêu cực trên mạng xã hội. Trong đó điều 5 trong quy định
luôn được chú trọng đề cao. Quy định về tính “chuẩn mực” “trách nhiệm” trong
hoạt động trên mạng xã hội không chỉ là yêu cầu nhà báo cẩn thận, đúng chuyên môn mà
còn lời nhắc nhở cảnh giác với mọi hành động, quyết định trên mạng hội. Bởi
mạng xã hội là diễn đàn mở mà ai cũng có thể tham gia rất khó kiểm soát nên không tránh
được việc xuất hiện những hành vi lợi dụng uy tín nhà báo. Mọi thứ chúng ta hoạt động
trên mạng xã hội đều có thể và sẽ được sử dụng để chống lại chính chúng ta. Đơn giản chỉ
là mộtclick chuột có thể khiến nhà báo bước vào bẫy truyền thông. thế nhà báo
thái độ nghiêm túc với hoạt động của mình trên mạng hội bao nghiêu thì sẽ càng tốt
bấy nhiêu cho chính họ. Ngoài ra, quy định cũng là tiếng chuông nhắc nhà báo ý thức về
nghĩa vụ sứ mệnh của mình để thực hiện tốt điều đó trong mọi hành động. Những bài
viết, những phát ngôn, những thông tin chia sđều phải thông tin cung cấp kiến thức
tích cực cho công chúng, thể hiện đúng tưởng quan điểm của Đảng Nhà nước.
Những điều đó còn giúp nhà báo giữ một đời trong sạch, ý nghĩa từ đó tích cực cống
hiến cho công chúng. Hơn hết, mục đích quy định hướng tới đảm bảo một nguồn thông
tin, tư tưởng chuẩn mực trách nhiệm nền báo chí chất lượng để phục vụ cho hoạt động
công tác tư tưởng cho nhân dân.
“Chuẩn mực” và “trách nhiệm” là điều thiết yếu cần đề cao khi nhà báo sử dụng mạng
xã hội. Nhưng sự chuẩn mực và trách nhiệm nên được đặt trong khuôn phép của sự nhân
văn. Tức nhà báo quyền thực hiện đúng theo quy định, quy tắc hội nhà báo đặt
ra, được phép chia sẻ và phê bình, phân tích thông tin sự việc trên mạng xã hội, nhưng cốt
lõi phải hướng tới giá trị nhân văn. Nhân văn đây đơn giản giá trị con người, hành
động con người. dụ như nhà báo quyền phê bình những sự kiện tiêu cực trên
mạng xã hội, nhưng trước hết phải xem xét vấn đề đó có gây ảnh hưởng tới những người
liên quan hay không thông tin đó thực sự mang lại giá trị tốt tới cộng đồng hay
không. Chúng ta không thể lúc nào cũng tôn thờ quy tắc, quy định rằng điều tốt tuyên
dương và điều xấu thì phải lên án, phê phán và bài trừ. Những quy định, quy tắc đặt ra để
chúng ta thực hiện đúng đắn nhưng cuối cùng giá trị mà chúng ta hướng đến là cuộc sống
8
tốt hơn. thế phải xem xét việc thực hiện quá đúng theo quy định đã thực sự mang lại
cuộc sống tốt hơn hay chưa?
Bên cạnh việc chuẩn mực” trách nhiệm” trong sử dụng mạng hội các
phương tiện truyền thông, em cho rằng nhà báo còn phải sử dụng chúng một cách sáng
tạo”. Sự bùng nổ của công nghệ thông tin cùng mạng hội hiện nay cuộc đua của sự
sáng tạo, cái mới liên tục xuất hiện chiếm lĩnh. thế nhà báo một phần của nền báo
chí Việt Nam càng phải đổi mới sáng tạo trong thông tin và cách truyền tải thông tin.
Những giá trị mà nhà báo có là sự chính xác của thông tin, nguồn thông tin đa dạng, kinh
nghiệm hành nghề, năng khiếu phân tích sự uy tín, từ những nguồn vốn đó nhà báo
nên tận dụng điều đó lồng ghép trong sự sáng tạo, cập nhật xu hướng để tạo ra sản phẩm
truyền thông đặc biệt cho công chúng. Điển hình như thể loại Podcast đã phổ biến
các quốc gia phương Tây, nhưng Việt Nam lại phát triển chậm hiện tại mới thời
điểm đang thịnh hành trên nền tảng Tik Tok hay phương tiện truyền thông như Spotify,…
Trong khi đó báo phát thanh lại đang dần mất đi vị thế so với các loại hình báo chí khác
dù có nhiều nét tương đồng so với Podcast. Điều đặc biệt là “khả năng xử lý âm thanh tốt,
Đài Tiếng nói Việt Nam nhiều thế mạnh trong việc sản xuất podcast. - ông Đồng
Mạnh Hùng, Trưởng Ban Thư ký biên tập VOV, nhận định. thế, bằng sự sáng tạo
tận dụng những kinh nghiệm vốn Đài Tiếng nói Việt Nam để đưa Podcast phát
triển, đó cũng bước đi lên của nghe báo”. điều này không chỉ hội với Đài
Tiếng nói Việt Nam, nhân mỗi nhà báo với năng của mình đều thể tạo ra
những podcast của riêng mình với lợi thế sự thân mật và gần gũi đối với thính giả,
không chỉ padcast còn nhiều thể loại sáng tạo khác,… Như vậy việc sử dụng
sáng tạo mạng xã hội và phương tiện khác là điều cần thiết đối với nhà báo.
2.2.2 Liên hệ với những quy định, quy tắc khác
Quy tắc sử dụng Mạng xã hội của người làm báo Việt Nam
Trên cơ sở các quy định của Luật Báo chí năm 2016 và 10 điều Quy định đạo
đức nghề nghiệp người làm báo Việt Nam, sau khi lấy ý kiến rộng rãi các cấp
hội, các cơ quan báo chí, các chuyên gia và các nhà quản lý báo chí, theo Quyết
9
định số 1131/QĐ-HNBVN ngày 24/12/2018, Hội Nhà báo Việt Nam ban hành
Quy tắc sử dụng mạng xã hội của người làm báo Việt Nam.
CHƯƠNG I. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI
Điều 1. Mục đích
1. Quy định một số nguyên tắc, chuẩn mực trong việc sử dụng mạng xã hội
của người làm báo Việt Nam, bảo đảm phù hợp với các quy định của pháp luật
và đạo đức nghề nghiệp người làm báo.
2. Quy tắc quy định những việc điều cần làm những việc điều không được
làm khi sử dụng mạng xã hội.
Điều 2. Phạm vi và đối tượng áp dụng
1. Phạm vi: Các cấp Hội Nhà báo Việt Nam phối hợp với các cơ quan báo chí
và quản lý báo chí.
2. Đối tượng: Người làm báo Việt Nam (bao gồm: Hội viên Hội Nhà báo Việt
Nam, người đã được cấp Thẻ Nhà báo; người chưa được cấp Thẻ Nhà báo đang
làm việc tại các quan báo chí; người hoạt động trong lĩnh vực báo chí nói
chung)
CHƯƠNG II. QUY ĐỊNH CỤ THỂ
Điều 3. Những việc điều người làm bảo Việt Nam cần làm khi tham gia
mạng xã hội
1. Sử dụng tài khoản mạng xã hội của cá nhân mình để tương tác, chia sẻ, đăng
tải, cung cấp, định hướng thông tin có ích cho xã hội và đất nước.
2.Đăng tải bình luận, ý kiến nhận xét đúng mực, có văn hóa, có trách nhiệm về
những vấn đề mà dư luận xã hội quan tâm.
3. Thông báo cho cơ quan có thẩm quyền những thông tin sai sự thật bị phát tán
trên mạnghội có ảnh hưởng xấu, gây tổn hại đến lợi ích của cộng đồng, đất
nước, uy tín của tổ chức, cá nhân.
4. Phát hiện, khai thác kiểm chứng, chọn lọc thông tin về những vấn đề
mới của xã hội để phục vụ tác nghiệp báo chí.
10
Điều 4. Những việc điều người làm báo Việt Nam không được làm khi
tham gia mạng xã hội.
1. Vi phạm các quy định về quản lý, cung cấp, sử dụng thông tin trên mạng, các
quy định về bảo mật dữ liệu, tài liệu, quy định về bảo vệ bí mật thông tin riêng.
thông tin cá nhân của công dân và các quy định khác của pháp luật.
2. Đăng tải, gỡ bài viết, hình ảnh, âm thanh trên mạng xã hội mục đích tổng
tiền hoặc các mục đích không trong sáng khác
3. Đăng tải các tin, bài, hình ảnh, âm thanh trên mạng hội, đưa ra các bình
luận, chia sẻ quan điểm nhân hoặc trích đăng lại các bài phát biểu, ý kiến
trái với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng Nhà nước, trái với nội
dung, quan điểm của tác phẩm báo chi mà bản thân người làm bảo đó đã viết và
đăng tải, trái với quan điểm của cơ quan báo chỉ nơi mình công tác.
4. Bình luận, nhận xét, chia sẻ các thông tin có mục đích kích động, lôi kéo
người khác phản ứng tiêu cực về các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, hội,
an ninh, quốc phòng, đối ngoại... yếu tố phức tạp, nhạy cảm đang cần tạo
cách
nhìn, thái độ tích cực mang tính xây dựng của cộng đồng sự đồng thuận
hội.
5. Sao chép, chia sẻ, phát tàn tin, bài, tác phẩm, âm thanh, hình ảnh có được
bằng những cách thức không hợp pháp, vi phạm bản quyền
6. Thông tin vụ việc chưa được kiểm chứng, gây hoang mang trong nhân
dân, gây thiệt hại cho các hoạt động kinh tế - hội, gây khó khăn cho hoạt
động
của quan Nhà nước hoặc người thi hành công vụ, gây tổn hại về thể chất,
danh
dự, nhân phẩm của công dân; tuyên truyền, kích động bạo lực, cổ súy lối sống
đồi trụy, hủ tục tín dị đoan, các hành vi tiêu cực, phân biệt đối xử về giới,
vùng miền, dân tộc, chủng tộc.
11
7. Miêu tả thô thiển, phản cảm những hành động dâm ô, tội ác, thông tin không
phù hợp với thuần phong mỹ tục, truyền thống văn hóa của dân tộc đạo đức
xã hội
8. Sử dụng logo, hình ảnh, thông tin dữ liệu của tổ chức Hội Nhà báo Việt
Nam; sử dụng danh nghĩa Hội Nhà báo Việt Nam khi tham gia các diễn đàn,
trang mạng xã hội khi chưa được phép.
CHƯƠNG III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Điều 5. Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân
1. Các cấp Hội Nhà báo Việt Nam phối hợp với các quan báo chỉ trong
nước triển khai, tổ chức thực hiện Quy tắc.
2. Người đứng đầu các cấp Hội Nhà báo, các cơ quan báo chỉ có trách nhiệm tổ
chức quán triệt thực hiện Quy tắc, tổ chức kiểm tra, giám sát, đánh giá
kiểm điểm việc thực hiện, đưa vào tiêu chỉ để xếp loại thi đua hàng năm.
Trên cơ sở Quy tắc, căn cứ đặc thù, các cơ quan báo chí xây dựng quy tắc riêng
để điều chỉnh hànhngười làm báo thuộc cơ quan mình khi sử dụng mạng
hội (bao gồm cả những người chưa được cấp Thẻ nhà báo, chưa phải Hội
viên Hội Nhà báo Việt Nam).
3. Các quan báo chỉ tuyên truyền, phổ biến sâu rộng Quy tắc tới cán bộ,
nhân dân để cùng giám sát việc thực hiện ở các cấp, phát hiện, cổ vũ, động viên
những tập thể và cá nhân thực hiện tốt, phê phán các tập thể, cá nhân vi phạm.
4. Người làm báo Việt Nam ngoài việc thực hiện nghiêm quy định pháp luật,
quy định đạo đức nghề nghiệp cần nắm vững, thực hiện đúng, đầy đủ vận
động, giám sát, nhắc nhờ đồng nghiệp cùng thực hiện các quy định của Quy
tắc.
Điều 6. Khen thưởng, kỷ luật
1. Người làm báo Việt Nam thực hiện tốt Quy tắc sẽ được xem xét biểu
dương, khen thưởng theo quy định.
2. Người làm bào Việt Nam vì phạm Quy tắc, tùy mức độ sẽ bị nhắc nhở, phê
12
bình công khai trong các cơ quan, đơn vị. Trường hợp vi phạm nghiêm trọng sẽ
bị xem xét, xử theo Điều lệ Hội Nhà báo Việt Nam quy định của pháp
luật.
3. Hội đồng xử lý vi phạm đạo đức nghề nghiệp các cấp của Hội Nhà báo
Việt Nam căn cứ vào các quy định của Quy tắc để thực hiện đúng chức trách
của minh khi xem xét việc khen thưởng và kỷ luật hội viên, người làm bảo.
Điều 7. Điều khoản thi hành
Quy tắc được phổ biến đến các cấp Hội Nhà báo Việt Nam, các cơ quan báo
chỉ, cơ quan chỉ đạo, cơ quan quản lý nhà nước về báo chí, người làm báo Việt
Nam. Trong quá trình tổ chức thực hiện, nếu có vấn đề phát sinh, Hội Nhà báo
Việt Nam sẽ xem xét và điều hỉnh cho phù hợp.
Bộ Quy tắc sử dụng Mạng xã hội của người làm báo Việt Nam đã cụ thể hóa
Điều 5 trong Quy định đạo đức nghề nghiệp người làm báo Việt Nam: “Chuẩn
mực trách nhiệm khi tham gia mạng hội các phương tiện truyền
thông khác”. Nhà báo thực hiện chuẩn mực tức là thực hiện đúng theo quy tắc
đã đề ra, trường hợp nhà báo vi phạm sẽ chịu trách nhiệm theo pháp luật. Đây
sẽ mực thước cho nhà báo quy chiếu, xem xét từ đó cân nhắc cho mọi hoạt
động của mình trong sử dụng mạng hội các phương tiện truyền thông
khác, đảm bảo tạo ra một môi trường mạng xã hội tích cực và ý nghĩa đậm chất
báo chí, góp phần định hướng tư tưởng tốt đẹp cho công chúng.
Quy tắc ứng xử trên Mạng xã hội của The New York Times
Theo Tổng Biên tập New York Times- Dean Baquet, mạng xã hội giờ đây đóng
vai trò rất lớn trong nền báo chí thế giới, chính vậy để duy trì một tập đoàn tin
tức tốt nhất thế giới, New York Times cần phải giữ được sự hiện diện mạnh mẽ
trên mạng hội. Nắm được sức mạnh của mạng hội, New York Times cũng
hiểu rõ những vấn đề tiềm ẩn mà mạng xã hội mang lại: Mọi thông tin bạn đăng tải
trên mạng đều thể được sử dụng để chống lại bạn. Điều này liên quan trực tiếp
tới những nhà báo, phóng viên của New York Times- những người sức ảnh
13
hưởng trên Twitter, Facebook, Instagram các mạng hội khác. Đó do
New York Times đưa ra những quy định, hướng dẫn cụ thể về cách đưa thông tin
và sử dụng thông tin trên mạng xã hội. Bộ nguyên tắcnhững điều chúng ta cần
lưu ý :
Điều 02. Nhà báo cần lưu ý khi trình bày quan điểm liên quan đến một chủ để mà
tòa soạn đang tìm hiểu khách quan.
Điều 03. Mọi hoạt động của nhà bảo trên các trang mạng hội đều mang tính
chất công khai và có thể tiết lộ một thông tin nào đó. Vì vậy, các nhà báo cần chú ý
mọi hoạt động của mình trên mạng xã hội để không gây ảnh hưởng đến toà soạn.
Điều 06. Trên mạng hội, nhà bảo cần thái độ tôn trọng công bằng với
người khác. Đặc biệt, nhà bảo cần chú ý khi trả lời các câu hỏi hay lời chỉ trích của
độc giả liên quan đến công việc trên mạng xã hội.
Điều 07. Khi nhận những lời bình luận với thái độ xấu, nhà báo cần biết cách kiềm
chế không nên trả lời. Trong một vài trường hợp, nhà báo thể im lặng hoặc
chặn người khác trên mạng xã hội nếu thấy cần thiết.
Điều 13. Nhà báo có thể sử dụng mạng xã hội để diễn đạt các phong cách giao tiếp
hoặc văn phong viết bài của mình. Tuy nhiên, những điều này cần được trình bày
dưới hình thức bài viết được đăng tải trên các trang báo của tòa soạn trước khi
đăng tải trên mạng xã hội.
Là quy định của một tờ báo cụ thể, New York Times đưa ra những nguyên tắc
chi tiết đối với nhà báo, đặc biệt là chú ý tới tác động của mạng xã hội đến với nhà
báo, nguyên tắc đặt ra tới cả vấn đề thái độ, cách trả lời câu hỏi hay trỉ trích của
độc giả. Đây là điều mà những quy định quy tắc của báo chí Việt Nam chưa đề cập
sâu sắc, trong khi đó đây vấn đề quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới nhà báo.
Đồng ý rằng trong quá trình đào tạo và công tác nhà báo đã có kinh nghiệm và bản
lĩnh đối mặt với câu hỏi từ công chúng, nhưng mạng hội nền tảng sức
mạnh vô cùng lớn. Đôi khi không phải vấn đề sai xót của nhà báo trong truyền tải
thông tin, nhưng dễ dàng bị lợi dụng hở gây khó khăn, tạo ra làn sóng
luận hay áp lực tinh thần với nhà báo. Khi đó nhà báo không đủ sức mạnh để
14
chống lại làn sóng dư luận gây ra hậu quả nghiêm trọng. Vì thế để bảo vệ nhà báo
xây dựng bản lĩnh nhà báo nhằm đối mặt với mọi tình thế của mạng hội,
chúng ta cần học hỏi và tham khảo những tích cực của nguyên tắc báo chí quốc thế
để bổ sung, hoàn thiện những quy tắc ứng xử cùa nhà báo trong mạng hội
quy định đạo đức nghề nghiệp.
3. Thực trạng việc thực hiện theo điều 5 trong quy định đạo đức nghề nghiệp của
người làm báo Việt Nam hiện nay và những vấn đề liên quan
3.1Những hành động tích cực trong thực hiện quy định của nhà báo
Với sự phát triển của Mạng xã hội và các phương tiện truyền thông, bất cứ ai đều
thể trở thành nguồn cung cấp thông tin, kể cả nhữngnhà báo công dân”. Lượng
thông tin của mạng hội cung cấp lượng tin khổng lồ với tốc độ nhanh tới chóng
mặt, đôi khi nó lất át cả thông tin từ báo chí. Nhưng lượng thông tin ấy có đủ các loại
thông tin tốt xấu, thật giả chẳng thể kiểm chứng, thế báo chí vẫn là chỗ dựa của
luận, nguồn tin đáng tin cậy với những thông tin được lọc kiểm chứng kỹ
lưỡng. Hiện nay, nhà báo đã sử dụng mạng hội như mộ công cụ để tác nghiệp, các
quan báo chí cũng đang tận dụng mạng hội để quang bá, lan tỏa thông tin báo
chí chính thống. thể thấy, mạng hội đã thể hiện được lợi thế trở thành một
phương thức kết nối giữa nguồn cung cấp thông tintiếp nhận thông tin, giữa chính
khách với cộng đồng xã hội. Những cuộc đối thoại giữa nhà báo và công chúng là điều
vô cùng cần thiết. Ngay trong cuộc sống hằng ngày chúng ta cũng thấy rõ được vai trò
của đối thoại, năm vừa qua chúng ta đã chứng kiến một vài vụ tự tử của một vài em
học sinh, trong đó một em để lại thư tuyệt mệnh, than vãn về việc bị học hành
quá tải. Sau những vụ tự tử những thư tuyệt mệnh kiểu như thế cái gì?
chính là cái chết của sự đối thoại. Học sinh không đối thoại được với thầy cô; cha mẹ
không đối thoại được với con cái. Trong hoạt động báo chí cũng vậy, Nhà báo hoạt
động phục vụ dân nên phải luôn lắng nghethấu hiểu dân, không thể truyền tin một
chiều, còn phải chú ý dân phản ứng thế nào về những điều mình nói. Trước đây,
báo chí truyền đạt thông tin tới công chúng qua truyền hình TV, phát thanh, báo in,..
đó truyền thông một chiều rất khó nhận được phản ánh, nắm bắt được ý dân,cùng
15
lắm chỉ là vài cú điện thoại gọi đến tòa soạn, hoặc đôi ba bức thư khán giả gửi. Nhưng
ngày nay mạng hội đã gắn kết nhân dân với nhà báo, công chúng dễ dàng để lại
phản hồi dưới bài viết về thông tin nhà báo đăng tải. Điều đó thể hiện tính phản biện
hội được phát triển, đó điều cần thiết cho hoạt động báo chí. Sự tương tác
thông qua mạng hội giúp điều chỉnh nhận thức, hành vi, định hướng luận tạo
hiệu ứng hội mạnh mẽ với những sự việc, nhất với những vấn đề thu hút sự chú
ý của dư luận.
Khi lướt mạng hội như Facebook, TikTok,.. chúng ta dễ dàng bắt gặp những
bài đăng, những buổi phát sóng trực tiếp của những kênh báo chính thống: Báo Thanh
Niên, Báo Nhân Dân,… hay nhà Đài truyền hình Việt Nam với những kênh: VTV,
Chuyển động 24H,… Công chúng thể dễ dàng cập nhật thông tin nhanh chóng
chính xác khi lướt mạng hội mà không cần truy cập vào trang Web hay trên TiVi.
Đồng thời mạng xã hội cho phép công chúng bình luận về những thông tin mà báo chí
đăng tải, họ có thể phản ánh, đánh giá hay bàn luận với nhau về thông tin tạo ra diễn
đàn mở, sản phẩm báo chí cũng trở nên đa chiều.
( Ảnh: Nguồn Facebook )
Điển hình như ta có thể bắt gặp chương trình của VTV- Đài truyền hình Việt Nam
trên mạng hội FaceBook. Cảnh báo về cạm bạy việc nhẹ lương cao của đội nhóm
16
lừa đảo được VTV đăng tin thu hút 2100K lượt xem, công chúng thể dễ dàng cập
nhật thông tin và cảnh giác hơn đề phòng báo vẹ bản thân đồng thời chia sẻ cho những
người xung quanh để bảo vệ cảnh giác. Hơn hết cùng công chúng lên án phê
phán những hành vi tàn nhẫn, vô lương tâm lừa đảo và bọc lột sức lao động của người
dân nghèo.
Trước những quy định, quy tắc về ứng xử trên mạng hội do Bộ Hội Nhà
báo Việt Nam ban hành, hay cụ thể là điều 5: Chuẩn mựctrách nhiệm khi tham
gia mạng hội các phương tiện truyền thông khác, các nhà báo khi tương tác
trên mạng hội đều nhìn nhận vai trò, tầm ảnh hưởng của mình trong phát ngôn,
hoạt độnghầu hết đều xem tài khoản mạng xã hội nhân như một tờ báo nhỏ với
những thông tin nhanh nhạy chuẩn xác, đảm bảo tính chuyên môn. Đồng ý rằng
ngày nay là thời đại của content ngắn, những thứ nhanh gọn lẹ,… nhưng dù trong thời
đại ưa chuộng tính nhanh chóng gắn gọn đến đâu thì những nội dung mang giá trị
và ảnh hưởng tích cực đến người đọc vẫn giữ sự thu hút riêng. Vì thế những bài đăng
của các nhà báo trên mạng xã hội dù “ nhiều chữ” nhưng đảm bảo đúng chuẩn mực và
trách nhiệm lại mang chất nhân riêng, sự chọn lọc đắt giá về ngôn từ sẽ luôn
nhóm độc giả trung thành ủng hộ và tương tác.
Nhà báo và bài đăng tích cực trên mạng xã hội Facebook
Chúng ta có thể nhắc tới nhiều nhà báo nổi tiếng trong nghề và là cái tên nổi bật với
những trang viết giá trị trên mạng hội Facebook cho độc giả như: Trương Anh
Ngọc, Lê Hồng Lâm, Đinh Đức Hoàng, Trần Thu Hà, Hoàng Nguyên Vũ,…
Một cái tên quen thuộc đối với khán giả cộng đồng mạng phải nhắc tới nhà báo
Trương Anh Ngọc- nhà báo truyền cảm hứng về những chuyến đi. Trương Anh Ngọc
nhà báo nổi tiếng, Trưởng quan thường trú của Thông tấn Việt Nam tại Ý
trong giai đoạn 2007–20102013–2016 và sở hữu một tài khoản Facebook hơn 270
nghìn người theo dõi. Về hoạt động trên mạng xã hội, Trương Anh Ngọc từng chia sẻ:
Làm infulencer[1] trên mạng hội, mình vừa phóng viên, vừa biên tập viên,
vừa chủ bút của tờ báo do chính mình tạo ra và Influencer trách nhiệm người
biết truyền sự tích cực đến cộng đồng”. Với tinh thần coi trang Facebook của mình
17
một trang báo và mình là chủ biên, nhà báo luôn có sự đầu tư cho tin tức của mình và
những thông tin ấy luôn mang lại năng lượng tích cực, cảm hứng xê- dịch cho công
chúng. Trương Anh Ngọc nói về những câu chuyện du lịch, những chặng đường thú vị
anh từng đi qua, những nơi chốn ý nghĩa giới thiệu cho mọi người,…
Điển hình như bài đăng về thước phim đẹp đẽ của bầu trời đêm Ngũ Chỉ Sơn, Lào
Cai, anh chia sẻ về đêm trải nghiệm bất ngờ bắt gặp khung cảnh huyền ảo của tự nhiên
cùng đồng đội. Vẻ đẹp của tự nhiên, của đất nước được anh phản ánh và truyền tải tới
cộng đồng, niềm tự hào tình yêu thiên nhiên đất nước dân tộc được tiếp tục thắp
sáng trong lòng công chúng. Cùng với đó những dòng chia sẻ về đam du lịch
cùng tư tưởng “Đi khi ta còn trẻ” liên tục được anh chia sẻ. Lời tâm sự như mang sức
gọi khiến độc giả muốn xách balo ngay lên và đi, lên đường khám phá và chinh phục,
chiêm ngưỡng những vùng đất mới. Nhà báo Trương Anh Ngọc đã thành công biến
trang cá nhân của mình thành trang báo tích cực, truyền cảm hứngnăng lượng tích
cực cho người trẻ. Những chia sẻ của anh luôn đậm tính nhân, con người phóng
khoáng của chính anh. Anh cho rằng những điều mình chia sẻ phải đến từ chính bản
thân mình, không vay mượn của ai khác, độc giả mạng xã hội rất tinh ý, họ sẽ nhận ra
ngay điều giả tạo, trích dẫn, lấy của người khác ghép vào của mình. Đó
chính là sự chuẩn mực trong sử dụng mạng xã hội của nhà báo dày kinh nghiệm.
( Ảnh: Nguồn Facebook)
18
| 1/43

Preview text:

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA PHÁT THANH – TRUYỀN HÌNH BÀI TẬP LỚN
PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC BÁO CHÍ
Đề tài: Điều 5 trong Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo “Chuẩn mực
và trách nhiệm khi tham gia mạng xã hội và các phương tiện truyền thông khác”, anh
(chị) hiểu điều trên như thế nào? Liên hệ thực tế tại Việt Nam.
Họ và tên: Phạm Bạch Dương
Mã sinh viên: 2256070010
Lớp: Báo mạng điện tử K42
Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Thùy Vân Anh MỤC LỤC
PHẦN I. MỞ ĐẦU...............................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................................................1
2. Đối tượng nghiên cứu, khách thể nghiên cứu.........................................................................3
3. Phạm vi nghiên cứu...................................................................................................................3
PHẦN II. NỘI DUNG CHÍNH...........................................................................................................3
1. Các khái niệm............................................................................................................................3 1.1
Đạo đức nghề nghiệp báo chí............................................................................................3 1.2
Mạng xã hội........................................................................................................................4 1.3
Chuẩn mực.........................................................................................................................4 1.4
Trách nhiệm.......................................................................................................................4
2. Quan điểm về Điều 5 trong Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo “Chuẩn
mực và trách nhiệm khi tham gia mạng xã hội và các phương tiện truyền thông khác”.
........4 2.1
Vị trí....................................................................................................................................4 2.2
Quan điểm về Điều 5 trong Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo.........6
3. Thực trạng việc thực hiện theo điều 5 trong quy định đạo đức nghề nghiệp của người
làm báo Việt Nam hiện nay và những vấn đề liên quan
.............................................................14 3.1
Những hành động tích cực trong thực hiện quy định của nhà báo................................14 3.2
Những hành vi tiêu cực trong thực hiện quy định và nguyên nhân............................22 3.3
Những vấn đề mạng xã hội tác động tới nhà báo..........................................................34
4. Đề xuất giải pháp.....................................................................................................................36
PHẦN III. KẾT LUẬN......................................................................................................................38
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................39 2 PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“ Thế giới song song” vẫn là những điều bí ẩn, chưa được xác thực hay nói cách
khác đó còn là khái niệm viễn tưởng. Nhưng thực tế có một thế giới song song tồn tại
cùng với thế giới thực mà chúng ta đã và đang tham gia vào, đó chính là thế giới ảo
được dựng lên bởi sự hình thành và phát triển của Mạng xã hội (social network) hay
các phương tiện truyền thông. Mạng xã hội và các phương tiện truyền thông đang
chiếm lĩnh và tác động sâu sắc tới cuộc sống con người ở mọi lúc, mọi nơi, mọi tầng
lớp và trong đó có nhà báo và những người công tác trong lĩnh vực báo chí.
Chúng ta đã biết bất cứ ngành nghề nào cũng cần có sự chuẩn mực và trách nhiệm,
không chỉ trong quá trình công tác mà còn trong cả đời sống xã hội. Như một giáo
viên không chỉ khi tham gia giảng dạy trên trường lớp mới cần sự chỉnh chu, chuẩn
mực mà trong cuộc sống cũng phải hành động đẹp đẽ, nhân văn và có trách nhiệm.
Tương tự, nhà báo cũng vậy. Ta thường nghĩ nhà báo thì đi liền với tạp chí, trang báo,
bản tin,… nhưng nhà báo cũng là một cá nhân và là con người của truyền thông nên
họ cũng gắn liền với mạng xã hội- họ cũng là con người của thế giới ảo. Vì thế nhà
báo không chỉ cần chuẩn mực và trách nhiệm trong công tác mà còn thể hiện điều đó
trong mọi hoạt động, đặc biệt là khi sử dụng mạng xã hội.
Báo chí và mạng xã hội có một mối quan hệ liên kết chặt chẽ và không ngừng
tương tác với nhau. Đặc trưng và sự bùng nổ của mạng xã hội và các phương tiện
truyền thông đã mang lại cả những thách thức và cơ hội cho báo chí. Những cơ hội
đang được khai thác triệt để còn những thách thức thì đang được biến thành cơ hội.
Ngày nay, những tờ báo điện tử, tạp chí hay kênh truyền hình đều tham gia vào các
nền tảng mạng xã hội như Facebook, Tiktok, Instagram,… có những tài khoản riêng
và nhận tương tác lớn từ công chúng. Hay những nhà báo cũng đều có những tài
khoản cá nhân phục vụ đời sống cá nhân và trong công việc. Không chỉ riêng với
người đang hoạt động, mạng xã hội cũng là diễn đàn- nơi mà các nhà báo về hưu bày
tỏ quan điểm, phân tích sự việc, nơi tiếp cận với công chúng và cũng nhận lại rất 1
nhiều tương tác. Đặc biệt hơn là tầng lớp giới trẻ đang học tập trong lĩnh vực báo chí,
những nhà báo tập sự đang phát triển và bùng nổ trên mạng xã hội với những bài viết,
phóng sự, video thu hút lượt tương tác khủng. Điều đó thể hiện sự hợp tác- “ bắt tay”
giữa báo chí và mạng xã hội. Nhưng để việc “bắt tay” ấy có hiệu quả thì nhà báo hay
những cá nhân hoạt động trong lĩnh vực báo chí tất yếu phải đảm bảo sự chuẩn mực
và trách nhiệm. Hiện nay, trong việc sử dụng mạng xã hội của nhà báo tồn tại rất
nhiều vấn đề nổi cộm liên quan. Bên cạnh những tích cực mang lại, vẫn hiện diện
những hạn chế, những vấn đề tiêu cực. Đó là những hành vi thiếu chuyên môn, những
hành động thiếu chuẩn mực thậm chí là những hành vi vi phạm pháp luật cần đến sự
can thiệp mạnh tay từ cơ quan chức năng, những sự việc đó không còn là hiếm gặp.
Ngoài ra, còn có những sự việc liên quan đến thái độ của sinh viên báo chí trên mạng
xã hội, những trang confesion đi liền với những bài phốt, những status tiêu cực,..
Những vấn đề này chủ yếu là từ vấn đề phát ngôn, nhưng sức mạnh của lời nói vô
cùng lớn dù ở nền tảng nào thì vẫn phải “ uốn lưỡi bảy lần trước khi nói”. Hình ảnh
của nhà báo sau hàng loạt những sự kiện dần trở nên méo mó trong mắt công chúng,
ảnh hưởng vô cùng tới sự uy tín của nghề báo. Điều đó thể hiện tính cấp thiết của vấn
đề, chúng ta cần nghiên cứu sâu về vấn đề chuẩn mực và trách nhiệm trong việc sử
dụng mạng xã hội của nhà báo để kịp thời có những giải pháp phù hợp và nắm bắt kịp với xu thế.
Tiến sĩ Nguyễn Quang Hòa - Giảng viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền cho
rằng, khi đã là nhà báo thì cần hết sức thận trọng khi phát ngôn trên mạng xã hội. Dù
đấy chỉ là trang cá nhân nhưng độc giả biết mình là nhà báo thì họ vẫn đánh giá đó là
quan điểm của một nhà báo, chứ không phải là của một người dân bình thường. Bởi vì
nhà báo là người của công chúng. Họ là một chiến sĩ xung kích trên mặt trận văn hóa,
tư tưởng, tức là một người làm chính trị. Vì vậy, mọi lời nói, bài viết của họ cần phải
chuẩn mực. Vấn đề “chuẩn mực” và “trách nhiệm” không chỉ là riêng đối với những
người đang hoạt động trong nghề báo, mà còn cần thiết phải định hướng và xây dựng
phát triển trong tâm thức những nhà báo tập sự- những sinh viên báo chí truyền thông.
Bởi sự chuẩn mực và trách nhiệm liên quan tới đạo đức mà đạo đức thì luôn phải rèn 2
luyện, tức là cần phải đào tạo, rèn luyện từ sớm những phẩm chất này cho sinh viên
báo chí. Đặc biệt là sinh viên Truyền hình, Báo mạng điện tử những chuyên ngành
liên quan trực tiếp với mạng xã hội như chúng ta càng phải đề cao rèn luyện. Từ sự
cần thiết cho việc xây dựng và rèn luyện cho bản thân, sau là chuẩn bị những hành
trang kinh nghiệm cho công tác hoạt động nghề nghiệp sau này bên cạnh đó là bổ
sung thêm tài liệu cho những nghiên cứu liên quan, cá nhân em thấy vấn đề chuẩn
mực và trách nhiệm trong việc sử dụng mạng xã hội của nhà báo là đề tài quan trọng cần nghiên cứu.
2. Đối tượng nghiên cứu, khách thể nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
 Điều 5 trong Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo “Chuẩn mực và
trách nhiệm khi tham gia mạng xã hội và các phương tiện truyền thông khác”
 Thực trạng việc thực hiện điều 5 trong quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo
b. Khách thể nghiên cứu
 Người làm báo Việt Nam (bao gồm: Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam, đười đã
được cấp Thẻ Nhà báo; người chưa được cấp Thẻ Nhà báo đang làm việc tại
các cơ quan báo chí; người hoạt động trong lĩnh vực báo chí nói chung.
3. Phạm vi nghiên cứu  Thời gian: 2018- 2023
 Các cấp Hội Nhà báo Việt Nam phối hợp với các cơ quan báo chí và quản lý báo chí.
PHẦN II. NỘI DUNG CHÍNH 1. Các khái niệm
1.1Đạo đức nghề nghiệp báo chí
Đạo đức nghề nghiệp là một bộ phận của đạo đức xã hội. Đạo đức nghề
nghiệp bao gồm các nguyên tắc xử sự đúng đắn để ngăn ngừa những hành vi
không đúng đắn. Căn cứ vào những tiêu chuẩn đạo đức này và dựa vào tính 3
chất của những hành vi, mỗi người sẽ phải điều chỉnh hành vi của mỗi người
phù hợp với lợi ích và sự tiến bộ xã hội.
Đạo đức nghề nghiệp báo chí hay “ đạo đức nghề nghiệp của nhà báo” là
những quy tắc, chuẩn mực quy định thái độ và hành vi ứng xử của nhà báo
trong các mối quan hệ nghề nghiệp. 1.2 Mạng xã hội
Mạng xã hội (social network) là hệ thống thông tin cung cấp cho cộng đồng
người sử dụng mạng các dịch vụ lưu trữ, cung cấp, sử dụng, tìm kiếm, chia sẻ
và trao đổi thông tin với nhau, bao gồm dịch vụ tạo trang thông tin điện tử cá
nhân, diễn đàn (forum), trò chuyện (chat) trực tuyến, chia sẻ âm thanh, hình
ảnh và các hình thức dịch vụ tương tự khác 1.3 Chuẩn mực
 Theo từ điển Tiếng Việt, chuẩn là “cái được chọn làm căn cứ để đối chiếu, để
hướng theo đó mà làm cho đúng”.
Chuẩn mực là tính từ miêu tả hành động, hành vi được thực hiện đúng theo
các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi của xã hội đối với mỗi cá nhân hay nhóm xã hội,
trong đó xác định ít nhiều sự chính xác về tính chất, mức độ, phạm vi, giới hạn
của cái có thể, cái được phép, cái không được phép hay cái bắt buộc phải thực
hiện trong hành vi xã hội của mỗi người, nhằm củng cố, đảm bảo sự ổn định xã
hội, giữ gìn trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội. 1.4 Trách nhiệm
Trách nhiệm là công việc hay nghĩa vụ của mỗi người phải thực hiện hoặc
hoàn thành. Trách nhiệm là nghĩa vụ của bản thân với một công việc bất kỳ nào
đó trong ngày hoặc với bất kỳ một hoạt động hay vấn đề nào đó. Trách nhiệm
của cá nhân không chỉ là với bản thân mình mà với công việc, với gia đình,
người thân và với xã hội nơi bạn sinh sống. Tính trách nhiệm của mỗi cá nhân
là cần thiết đối với sự phát triển bền vững của một quốc gia và cả xã hội hiện nay. 4
2. Quan điểm về Điều 5 trong Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm
báo “Chuẩn mực và trách nhiệm khi tham gia mạng xã hội và các phương
tiện truyền thông khác”. 2.1 Vị trí
 10 điều Quy định đạo đức nghề nghiệp người làm báo Việt Nam đã được thảo
luận và thông qua Tại Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Hội Nhà báo Việt
Nam ngày 15/12/2016. Ngày 16/12/2016, Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam
Thuận Hữu đã ký Quyết định số 483/QĐ-HNBVN ban hành Quy định đạo đức
nghề nghiệp người làm báo Việt Nam, trong đó nêu rõ: Quy định đạo đức nghề
nghiệp người làm báo Việt Nam gồm 10 điều, có hiệu lực từ ngày 1/1/2017.
Chuẩn mực và trách nhiệm khi tham gia mạng xã hội và các phương tiện
truyền thông khác” là điều thứ 5 trong 10 điều Quy định đạo đức nghề nghiệp
của người làm báo. Trong đó:
Điều 1: Trung thành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; vì lợi ích của đất
nước, vì hạnh phúc của nhân dân; góp phần nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
Điều 2: Nghiêm chỉnh thực hiện Hiến pháp, Luật Báo chí, Luật bản quyền
và các quy định của pháp luật. Thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích; nội quy, quy
chế của cơ quan báo chí nơi công tác.
Điều 3: Hành nghề trung thực, khách quan, công tâm, không vụ lợi. Bảo
vệ công lý và lẽ phải. Không làm sai lệch, xuyên tạc, che giấu sự thật, gây chia
rẽ, kích động xã hội, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc và tình đoàn kết,
hữu nghị giữa các quốc gia, dân tộc.
Điều 4: Nêu cao tinh thần nhân văn, tôn trọng quyền con người. Không
xâm phạm đời tư, làm tổn hại danh dự, nhân phẩm, lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân.
Điều 5: Chuẩn mực và trách nhiệm khi tham gia mạng xã hội và các
phương tiện truyền thông khác. 5
Điều 6: Bảo vệ bí mật quốc gia, bí mật nguồn tin theo quy định của pháp luật.
Điều 7: Đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp.
Điều 8: Tích cực học tập, nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, ngoại
ngữ, phấn đấu vì một nền báo chí dân chủ, chuyên nghiệp và hiện đại.
Điều 9: Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt; Bảo vệ và phát huy các giá
trị văn hóa Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Điều 10: Những người làm báo Việt Nam cam kết thực hiện những quy
định trên, đó là bổn phận và nguyên tắc hành nghề, là lương tâm và trách nhiệm của người làm báo.
2.2 Quan điểm về Điều 5 trong Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo
2.2.1 Phân tích về điều 5 trong Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo
Từ khái niệm gốc của “ chuẩn mực” và “trách nhiệm”, ta có thể xây dựng cái nhìn rõ
nét hơn về điều 5 trong Quy định đạo đức và nghề nghiệp người làm báo.
Trước hết đối với “chuẩn mực”, ý nghĩa của từ này trong quy định là nhà báo phải thực
hiện, hành động, phát ngôn đúng đắn theo những quy định đạo đức nghề nghiệp báo chí;
phù hợp với những nguyên tắc báo chí đã đề ra: tính khách quan chân thật, tính khuynh
hướng, tính nhân dân và dân chủ, tính dân tộc và quốc tế, tính nhân văn; bên cạnh đó là
không được vi phạm vào những hành vi bị cấm không chỉ trong quá trình tác nghiệp mà
cả trong khi sử dụng mạng xã hội. Đồng thời nhà báo phải thực hiện đúng theo bộ quy tắc
Quy tắc sử dụng Mạng xã hội của người làm báo Việt Nam gồm 03 Chương và 07 Điều
đã được Hội Nhà báo Việt Nam chính thức công bố và có hiệu lực bắt đầu từ ngày
01/01/2019. Tức là những phát ngôn của nhà báo dưới hình thức status, bài viết, bình
luận, story, video,… đăng tải trên tài khoản cá nhân hay của cơ quan đều phải tuân thủ
quy định, phù hợp quy tắc. Hay những bài viết mà nhà báo chia sẻ trên trang cá nhân phải
có nội dung đúng đắn, tích cực, phù hợp với quan điểm đạo đức của Đảng. Không chỉ
chuẩn mực về mặt nội dung mà còn phải chuẩn mực về hình thức như tính chuyên môn
chính tả, ngữ pháp,… Ví dụ như nhà báo muốn chia sẻ khoảnh khắc đời sống của họ lên 6
trang cá nhân, trước hết phải kiểm tra thông tin đó có ảnh hưởng tới ai, khoảnh khắc hay
cảm xúc đó đã tích cực và có ý nghĩa hay chưa, hơn nữa là không để mắc lỗi chính tả và
hình thức bố cục đẹp thể hiện tính chuyên nghiệp của nhà báo.
Còn đối với “trách nhiệm”, đúng như ý nghĩa gốc nhà báo phải có trách nhiệm đối với
mọi hoạt động của họ trên mạng xã hội. Từ những lời nói, bài viết, bình luận trên mạng
xã hội của họ có mang ảnh hưởng tới cá nhân hay tổ chức nào họ đều phải chịu trách
nhiệm. Người bình thường đã phải có trách nhiệm công dân, nhưng nhà báo còn phải có
trách nhiệm hơn, “trách nhiệm công dân”, “trách nhiệm nghề nghiệp”. Họ là những người
hành nghề trong một nhóm nghề tương đối đặc biệt, được trang bị về kĩ năng chuyên
môn, họ có diễn đàn và những sản phẩm của họ có tính chất định hướng dư luận, nó tác
động tới cả người dân và cả các cấp lãnh đạo. Mỗi lời họ nói, mỗi sự thật họ viết ra đều
phải nghiêm túc và có định hướng tốt. Quan trọng nhất vẫn là sự chân chính và xây dựng
xã hội. Đó là vấn đề thuộc về đạo đức con người mà đặc biệt là nhà báo, sự uy tín từ
thông tin mà họ mang lại càng phải đề cao. Vì thế nhà báo phải đảm bảo được nội dung
của thông tin họ cung cấp và chia sẻ trên mạng xã hội. Ngoài ra, trách nhiệm của nhà báo
trên mạng xã hội là còn phải truyền cảm hứng tích cực cho công chúng qua những nội
dung họ chia sẻ. Bởi nhà báo là người của công chúng, người “xung kích trên mặt trận
văn hóa tư tưởng” nên họ sẽ có nhiều người theo dõi và tin tưởng, những thông tin nhà
báo mang lại sẽ được công chúng đánh giá và ảnh hưởng nhiều. Do đó nhà báo phải đảm
bảo tạo ra luồng tư tưởng thông tin tích cực đồng thời chịu trách nhiệm với những hàng
động của mình trên mạng xã hội gây ảnh hưởng tới người khác theo mọi chiều hướng.
Thừa nhận rằng trang cá nhân hay tài khoản cá nhân là vấn đề cá nhân của nhà báo nhưng
khi đã mang thẻ nhà báo thì chúng ta phải giữ trọn vẹn trách nhiệm trên mọi nền tảng
trong đó có mạng xã hội và các phương tiện truyền thông.
Mạng xã hội và phương tiện truyền thông là thế giới ảo tiềm ẩn nhiều vấn đề và trực
tiếp ảnh hưởng tới cuộc sống người dân, các cơ quan Nhà nước ta hay Hội Nhà Báo Việt
Nam đã nhận thức sớm được những vấn đề xảy ra kịp thời đưa ra những Quy tắc sử dụng
Mạng xã hội của người làm báo Việt Nam hay Quy định đạo đức nghề nghiệp người làm
báo. Đây là bộ quy định chặt chẽ hướng đúng tới những vấn đề đã và đang xảy ra, kịp 7
thời phòng ngừa những sự việc tiêu cực trên mạng xã hội. Trong đó điều 5 trong quy định
luôn được chú trọng và đề cao. Quy định về tính “chuẩn mực” và “trách nhiệm” trong
hoạt động trên mạng xã hội không chỉ là yêu cầu nhà báo cẩn thận, đúng chuyên môn mà
còn là lời nhắc nhở và cảnh giác với mọi hành động, quyết định trên mạng xã hội. Bởi
mạng xã hội là diễn đàn mở mà ai cũng có thể tham gia rất khó kiểm soát nên không tránh
được việc xuất hiện những hành vi lợi dụng uy tín nhà báo. Mọi thứ chúng ta hoạt động
trên mạng xã hội đều có thể và sẽ được sử dụng để chống lại chính chúng ta. Đơn giản chỉ
là một cú click chuột có thể khiến nhà báo bước vào bẫy truyền thông. Vì thế nhà báo có
thái độ nghiêm túc với hoạt động của mình trên mạng xã hội bao nghiêu thì sẽ càng tốt
bấy nhiêu cho chính họ. Ngoài ra, quy định cũng là tiếng chuông nhắc nhà báo ý thức về
nghĩa vụ và sứ mệnh của mình để thực hiện tốt điều đó trong mọi hành động. Những bài
viết, những phát ngôn, những thông tin chia sẻ đều phải là thông tin cung cấp kiến thức
tích cực cho công chúng, thể hiện đúng tư tưởng quan điểm của Đảng và Nhà nước.
Những điều đó còn giúp nhà báo giữ một đời tư trong sạch, ý nghĩa từ đó tích cực cống
hiến cho công chúng. Hơn hết, mục đích quy định hướng tới đảm bảo một nguồn thông
tin, tư tưởng chuẩn mực trách nhiệm – nền báo chí chất lượng để phục vụ cho hoạt động
công tác tư tưởng cho nhân dân.
“Chuẩn mực” và “trách nhiệm” là điều thiết yếu cần đề cao khi nhà báo sử dụng mạng
xã hội. Nhưng sự chuẩn mực và trách nhiệm nên được đặt trong khuôn phép của sự nhân
văn. Tức là nhà báo có quyền thực hiện đúng theo quy định, quy tắc mà hội nhà báo đặt
ra, được phép chia sẻ và phê bình, phân tích thông tin sự việc trên mạng xã hội, nhưng cốt
lõi phải hướng tới giá trị nhân văn. Nhân văn ở đây đơn giản là giá trị con người, hành
động vì con người. Ví dụ như nhà báo có quyền phê bình những sự kiện tiêu cực trên
mạng xã hội, nhưng trước hết phải xem xét vấn đề đó có gây ảnh hưởng tới những người
liên quan hay không và thông tin đó có thực sự mang lại giá trị tốt tới cộng đồng hay
không. Chúng ta không thể lúc nào cũng tôn thờ quy tắc, quy định rằng điều tốt là tuyên
dương và điều xấu thì phải lên án, phê phán và bài trừ. Những quy định, quy tắc đặt ra để
chúng ta thực hiện đúng đắn nhưng cuối cùng giá trị mà chúng ta hướng đến là cuộc sống 8
tốt hơn. Vì thế phải xem xét việc thực hiện quá đúng theo quy định đã thực sự mang lại
cuộc sống tốt hơn hay chưa?
Bên cạnh việc “ chuẩn mực” và “ trách nhiệm” trong sử dụng mạng xã hội và các
phương tiện truyền thông, em cho rằng nhà báo còn phải sử dụng chúng một cách “ sáng
tạo”. Sự bùng nổ của công nghệ thông tin cùng mạng xã hội hiện nay là cuộc đua của sự
sáng tạo, cái mới liên tục xuất hiện và chiếm lĩnh. Vì thế nhà báo một phần của nền báo
chí Việt Nam càng phải đổi mới và sáng tạo trong thông tin và cách truyền tải thông tin.
Những giá trị mà nhà báo có là sự chính xác của thông tin, nguồn thông tin đa dạng, kinh
nghiệm hành nghề, năng khiếu phân tích và sự uy tín, từ những nguồn vốn đó nhà báo
nên tận dụng điều đó lồng ghép trong sự sáng tạo, cập nhật xu hướng để tạo ra sản phẩm
truyền thông đặc biệt cho công chúng. Điển hình như thể loại Podcast dù đã phổ biến ở
các quốc gia phương Tây, nhưng ở Việt Nam lại phát triển chậm và hiện tại mới là thời
điểm đang thịnh hành trên nền tảng Tik Tok hay phương tiện truyền thông như Spotify,…
Trong khi đó báo phát thanh lại đang dần mất đi vị thế so với các loại hình báo chí khác
dù có nhiều nét tương đồng so với Podcast. Điều đặc biệt là “khả năng xử lý âm thanh tốt,
Đài Tiếng nói Việt Nam có nhiều thế mạnh trong việc sản xuất podcast.” - ông Đồng
Mạnh Hùng, Trưởng Ban Thư ký biên tập VOV, nhận định. Vì thế, bằng sự sáng tạo và
tận dụng những kinh nghiệm vốn có Đài Tiếng nói Việt Nam có để đưa Podcast phát
triển, đó cũng là bước đi lên của “ nghe báo”. Và điều này không chỉ là cơ hội với Đài
Tiếng nói Việt Nam, mà cá nhân mỗi nhà báo với kĩ năng của mình đều có thể tạo ra
những podcast của riêng mình mà với lợi thế là sự thân mật và gần gũi đối với thính giả,
và không chỉ là padcast mà còn nhiều thể loại sáng tạo khác,… Như vậy việc sử dụng
sáng tạo mạng xã hội và phương tiện khác là điều cần thiết đối với nhà báo.
2.2.2 Liên hệ với những quy định, quy tắc khác
Quy tắc sử dụng Mạng xã hội của người làm báo Việt Nam
Trên cơ sở các quy định của Luật Báo chí năm 2016 và 10 điều Quy định đạo
đức nghề nghiệp người làm báo Việt Nam, sau khi lấy ý kiến rộng rãi các cấp
hội, các cơ quan báo chí, các chuyên gia và các nhà quản lý báo chí, theo Quyết 9
định số 1131/QĐ-HNBVN ngày 24/12/2018, Hội Nhà báo Việt Nam ban hành
Quy tắc sử dụng mạng xã hội của người làm báo Việt Nam.
CHƯƠNG I. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI Điều 1. Mục đích
1. Quy định một số nguyên tắc, chuẩn mực trong việc sử dụng mạng xã hội
của người làm báo Việt Nam, bảo đảm phù hợp với các quy định của pháp luật
và đạo đức nghề nghiệp người làm báo.
2. Quy tắc quy định những việc điều cần làm và những việc điều không được
làm khi sử dụng mạng xã hội.
Điều 2. Phạm vi và đối tượng áp dụng
1. Phạm vi: Các cấp Hội Nhà báo Việt Nam phối hợp với các cơ quan báo chí và quản lý báo chí.
2. Đối tượng: Người làm báo Việt Nam (bao gồm: Hội viên Hội Nhà báo Việt
Nam, người đã được cấp Thẻ Nhà báo; người chưa được cấp Thẻ Nhà báo đang
làm việc tại các cơ quan báo chí; người hoạt động trong lĩnh vực báo chí nói chung)
CHƯƠNG II. QUY ĐỊNH CỤ THỂ
Điều 3. Những việc điều người làm bảo Việt Nam cần làm khi tham gia mạng xã hội
1. Sử dụng tài khoản mạng xã hội của cá nhân mình để tương tác, chia sẻ, đăng
tải, cung cấp, định hướng thông tin có ích cho xã hội và đất nước.
2.Đăng tải bình luận, ý kiến nhận xét đúng mực, có văn hóa, có trách nhiệm về
những vấn đề mà dư luận xã hội quan tâm.
3. Thông báo cho cơ quan có thẩm quyền những thông tin sai sự thật bị phát tán
trên mạng xã hội có ảnh hưởng xấu, gây tổn hại đến lợi ích của cộng đồng, đất
nước, uy tín của tổ chức, cá nhân.
4. Phát hiện, khai thác có kiểm chứng, có chọn lọc thông tin về những vấn đề
mới của xã hội để phục vụ tác nghiệp báo chí. 10
Điều 4. Những việc điều người làm báo Việt Nam không được làm khi
tham gia mạng xã hội.
1. Vi phạm các quy định về quản lý, cung cấp, sử dụng thông tin trên mạng, các
quy định về bảo mật dữ liệu, tài liệu, quy định về bảo vệ bí mật thông tin riêng.
thông tin cá nhân của công dân và các quy định khác của pháp luật.
2. Đăng tải, gỡ bài viết, hình ảnh, âm thanh trên mạng xã hội vì mục đích tổng
tiền hoặc các mục đích không trong sáng khác
3. Đăng tải các tin, bài, hình ảnh, âm thanh trên mạng xã hội, đưa ra các bình
luận, chia sẻ quan điểm cá nhân hoặc trích đăng lại các bài phát biểu, ý kiến
trái với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, trái với nội
dung, quan điểm của tác phẩm báo chi mà bản thân người làm bảo đó đã viết và
đăng tải, trái với quan điểm của cơ quan báo chỉ nơi mình công tác.
4. Bình luận, nhận xét, chia sẻ các thông tin có mục đích kích động, lôi kéo
người khác phản ứng tiêu cực về các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,
an ninh, quốc phòng, đối ngoại... có yếu tố phức tạp, nhạy cảm đang cần tạo cách
nhìn, thái độ tích cực mang tính xây dựng của cộng đồng và sự đồng thuận xã hội.
5. Sao chép, chia sẻ, phát tàn tin, bài, tác phẩm, âm thanh, hình ảnh có được
bằng những cách thức không hợp pháp, vi phạm bản quyền
6. Thông tin vụ việc chưa được kiểm chứng, gây hoang mang trong nhân
dân, gây thiệt hại cho các hoạt động kinh tế - xã hội, gây khó khăn cho hoạt động
của cơ quan Nhà nước hoặc người thi hành công vụ, gây tổn hại về thể chất, danh
dự, nhân phẩm của công dân; tuyên truyền, kích động bạo lực, cổ súy lối sống
đồi trụy, hủ tục mê tín dị đoan, các hành vi tiêu cực, phân biệt đối xử về giới,
vùng miền, dân tộc, chủng tộc. 11
7. Miêu tả thô thiển, phản cảm những hành động dâm ô, tội ác, thông tin không
phù hợp với thuần phong mỹ tục, truyền thống văn hóa của dân tộc và đạo đức xã hội
8. Sử dụng logo, hình ảnh, thông tin dữ liệu của tổ chức Hội Nhà báo Việt
Nam; sử dụng danh nghĩa Hội Nhà báo Việt Nam khi tham gia các diễn đàn,
trang mạng xã hội khi chưa được phép.
CHƯƠNG III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Điều 5. Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân
1. Các cấp Hội Nhà báo Việt Nam phối hợp với các cơ quan báo chỉ trong cá
nước triển khai, tổ chức thực hiện Quy tắc.
2. Người đứng đầu các cấp Hội Nhà báo, các cơ quan báo chỉ có trách nhiệm tổ
chức quán triệt và thực hiện Quy tắc, tổ chức kiểm tra, giám sát, đánh giá và
kiểm điểm việc thực hiện, đưa vào tiêu chỉ để xếp loại thi đua hàng năm.
Trên cơ sở Quy tắc, căn cứ đặc thù, các cơ quan báo chí xây dựng quy tắc riêng
để điều chỉnh hành vì người làm báo thuộc cơ quan mình khi sử dụng mạng xã
hội (bao gồm cả những người chưa được cấp Thẻ nhà báo, chưa phải là Hội
viên Hội Nhà báo Việt Nam).
3. Các cơ quan báo chỉ tuyên truyền, phổ biến sâu rộng Quy tắc tới cán bộ,
nhân dân để cùng giám sát việc thực hiện ở các cấp, phát hiện, cổ vũ, động viên
những tập thể và cá nhân thực hiện tốt, phê phán các tập thể, cá nhân vi phạm.
4. Người làm báo Việt Nam ngoài việc thực hiện nghiêm quy định pháp luật,
quy định đạo đức nghề nghiệp cần nắm vững, thực hiện đúng, đầy đủ và vận
động, giám sát, nhắc nhờ đồng nghiệp cùng thực hiện các quy định của Quy tắc.
Điều 6. Khen thưởng, kỷ luật
1. Người làm báo Việt Nam thực hiện tốt Quy tắc sẽ được xem xét biểu
dương, khen thưởng theo quy định.
2. Người làm bào Việt Nam vì phạm Quy tắc, tùy mức độ sẽ bị nhắc nhở, phê 12
bình công khai trong các cơ quan, đơn vị. Trường hợp vi phạm nghiêm trọng sẽ
bị xem xét, xử lý theo Điều lệ Hội Nhà báo Việt Nam và quy định của pháp luật.
3. Hội đồng xử lý vi phạm đạo đức nghề nghiệp các cấp của Hội Nhà báo
Việt Nam căn cứ vào các quy định của Quy tắc để thực hiện đúng chức trách
của minh khi xem xét việc khen thưởng và kỷ luật hội viên, người làm bảo.
Điều 7. Điều khoản thi hành
Quy tắc được phổ biến đến các cấp Hội Nhà báo Việt Nam, các cơ quan báo
chỉ, cơ quan chỉ đạo, cơ quan quản lý nhà nước về báo chí, người làm báo Việt
Nam. Trong quá trình tổ chức thực hiện, nếu có vấn đề phát sinh, Hội Nhà báo
Việt Nam sẽ xem xét và điều hỉnh cho phù hợp.
Bộ Quy tắc sử dụng Mạng xã hội của người làm báo Việt Nam đã cụ thể hóa
Điều 5 trong Quy định đạo đức nghề nghiệp người làm báo Việt Nam: “Chuẩn
mực và trách nhiệm khi tham gia mạng xã hội và các phương tiện truyền
thông khác”. Nhà báo thực hiện chuẩn mực tức là thực hiện đúng theo quy tắc
đã đề ra, trường hợp nhà báo vi phạm sẽ chịu trách nhiệm theo pháp luật. Đây
sẽ là mực thước cho nhà báo quy chiếu, xem xét từ đó cân nhắc cho mọi hoạt
động của mình trong sử dụng mạng xã hội và các phương tiện truyền thông
khác, đảm bảo tạo ra một môi trường mạng xã hội tích cực và ý nghĩa đậm chất
báo chí, góp phần định hướng tư tưởng tốt đẹp cho công chúng.
Quy tắc ứng xử trên Mạng xã hội của The New York Times
Theo Tổng Biên tập New York Times- Dean Baquet, mạng xã hội giờ đây đóng
vai trò rất lớn trong nền báo chí thế giới, chính vì vậy để duy trì một tập đoàn tin
tức tốt nhất thế giới, New York Times cần phải giữ được sự hiện diện mạnh mẽ
trên mạng xã hội. Nắm được sức mạnh của mạng xã hội, New York Times cũng
hiểu rõ những vấn đề tiềm ẩn mà mạng xã hội mang lại: Mọi thông tin bạn đăng tải
trên mạng đều có thể được sử dụng để chống lại bạn. Điều này liên quan trực tiếp
tới những nhà báo, phóng viên của New York Times- những người có sức ảnh 13
hưởng trên Twitter, Facebook, Instagram và các mạng xã hội khác. Đó là lý do
New York Times đưa ra những quy định, hướng dẫn cụ thể về cách đưa thông tin
và sử dụng thông tin trên mạng xã hội. Bộ nguyên tắc có những điều chúng ta cần lưu ý :
Điều 02. Nhà báo cần lưu ý khi trình bày quan điểm liên quan đến một chủ để mà
tòa soạn đang tìm hiểu khách quan.
Điều 03. Mọi hoạt động của nhà bảo trên các trang mạng xã hội đều mang tính
chất công khai và có thể tiết lộ một thông tin nào đó. Vì vậy, các nhà báo cần chú ý
mọi hoạt động của mình trên mạng xã hội để không gây ảnh hưởng đến toà soạn.
Điều 06. Trên mạng xã hội, nhà bảo cần có thái độ tôn trọng và công bằng với
người khác. Đặc biệt, nhà bảo cần chú ý khi trả lời các câu hỏi hay lời chỉ trích của
độc giả liên quan đến công việc trên mạng xã hội.
Điều 07. Khi nhận những lời bình luận với thái độ xấu, nhà báo cần biết cách kiềm
chế và không nên trả lời. Trong một vài trường hợp, nhà báo có thể im lặng hoặc
chặn người khác trên mạng xã hội nếu thấy cần thiết.
Điều 13. Nhà báo có thể sử dụng mạng xã hội để diễn đạt các phong cách giao tiếp
hoặc văn phong viết bài của mình. Tuy nhiên, những điều này cần được trình bày
dưới hình thức bài viết và được đăng tải trên các trang báo của tòa soạn trước khi
đăng tải trên mạng xã hội.
Là quy định của một tờ báo cụ thể, New York Times đưa ra những nguyên tắc
chi tiết đối với nhà báo, đặc biệt là chú ý tới tác động của mạng xã hội đến với nhà
báo, nguyên tắc đặt ra tới cả vấn đề thái độ, cách trả lời câu hỏi hay trỉ trích của
độc giả. Đây là điều mà những quy định quy tắc của báo chí Việt Nam chưa đề cập
sâu sắc, trong khi đó đây là vấn đề quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới nhà báo.
Đồng ý rằng trong quá trình đào tạo và công tác nhà báo đã có kinh nghiệm và bản
lĩnh đối mặt với câu hỏi từ công chúng, nhưng mạng xã hội là nền tảng có sức
mạnh vô cùng lớn. Đôi khi không phải vấn đề sai xót của nhà báo trong truyền tải
thông tin, nhưng dễ dàng bị lợi dụng sơ hở và gây khó khăn, tạo ra làn sóng dư
luận hay áp lực tinh thần với nhà báo. Khi đó nhà báo không có đủ sức mạnh để 14
chống lại làn sóng dư luận gây ra hậu quả nghiêm trọng. Vì thế để bảo vệ nhà báo
và xây dựng bản lĩnh nhà báo nhằm đối mặt với mọi tình thế của mạng xã hội,
chúng ta cần học hỏi và tham khảo những tích cực của nguyên tắc báo chí quốc thế
để bổ sung, hoàn thiện những quy tắc ứng xử cùa nhà báo trong mạng xã hội và
quy định đạo đức nghề nghiệp.
3. Thực trạng việc thực hiện theo điều 5 trong quy định đạo đức nghề nghiệp của
người làm báo Việt Nam hiện nay và những vấn đề liên quan
3.1 Những hành động tích cực trong thực hiện quy định của nhà báo
Với sự phát triển của Mạng xã hội và các phương tiện truyền thông, bất cứ ai đều
có thể trở thành nguồn cung cấp thông tin, kể cả những “nhà báo công dân”. Lượng
thông tin của mạng xã hội cung cấp là lượng tin khổng lồ với tốc độ nhanh tới chóng
mặt, đôi khi nó lất át cả thông tin từ báo chí. Nhưng lượng thông tin ấy có đủ các loại
thông tin tốt xấu, thật giả và chẳng thể kiểm chứng, vì thế báo chí vẫn là chỗ dựa của
dư luận, là nguồn tin đáng tin cậy với những thông tin được lọc và kiểm chứng kỹ
lưỡng. Hiện nay, nhà báo đã sử dụng mạng xã hội như mộ công cụ để tác nghiệp, các
cơ quan báo chí cũng đang tận dụng mạng xã hội để quang bá, lan tỏa thông tin báo
chí chính thống. Có thể thấy, mạng xã hội đã thể hiện được lợi thế trở thành một
phương thức kết nối giữa nguồn cung cấp thông tin và tiếp nhận thông tin, giữa chính
khách với cộng đồng xã hội. Những cuộc đối thoại giữa nhà báo và công chúng là điều
vô cùng cần thiết. Ngay trong cuộc sống hằng ngày chúng ta cũng thấy rõ được vai trò
của đối thoại, năm vừa qua chúng ta đã chứng kiến một vài vụ tự tử của một vài em
học sinh, trong đó có một em để lại lá thư tuyệt mệnh, than vãn về việc bị học hành
quá tải. Sau những vụ tự tử và những lá thư tuyệt mệnh kiểu như thế là cái gì? Nó
chính là cái chết của sự đối thoại. Học sinh không đối thoại được với thầy cô; cha mẹ
không đối thoại được với con cái. Trong hoạt động báo chí cũng vậy, Nhà báo hoạt
động phục vụ dân nên phải luôn lắng nghe và thấu hiểu dân, không thể truyền tin một
chiều, mà còn phải chú ý dân phản ứng thế nào về những điều mình nói. Trước đây,
báo chí truyền đạt thông tin tới công chúng qua truyền hình TV, phát thanh, báo in,..
đó là truyền thông một chiều rất khó nhận được phản ánh, nắm bắt được ý dân,cùng 15
lắm chỉ là vài cú điện thoại gọi đến tòa soạn, hoặc đôi ba bức thư khán giả gửi. Nhưng
ngày nay mạng xã hội đã gắn kết nhân dân với nhà báo, công chúng dễ dàng để lại
phản hồi dưới bài viết về thông tin nhà báo đăng tải. Điều đó thể hiện tính phản biện
xã hội được phát triển, mà đó là điều cần thiết cho hoạt động báo chí. Sự tương tác
thông qua mạng xã hội giúp điều chỉnh nhận thức, hành vi, định hướng dư luận tạo
hiệu ứng xã hội mạnh mẽ với những sự việc, nhất là với những vấn đề thu hút sự chú ý của dư luận.
Khi lướt mạng xã hội như Facebook, TikTok,.. chúng ta dễ dàng bắt gặp những
bài đăng, những buổi phát sóng trực tiếp của những kênh báo chính thống: Báo Thanh
Niên, Báo Nhân Dân,… hay nhà Đài truyền hình Việt Nam với những kênh: VTV,
Chuyển động 24H,… Công chúng có thể dễ dàng cập nhật thông tin nhanh chóng và
chính xác khi lướt mạng xã hội mà không cần truy cập vào trang Web hay trên TiVi.
Đồng thời mạng xã hội cho phép công chúng bình luận về những thông tin mà báo chí
đăng tải, họ có thể phản ánh, đánh giá hay bàn luận với nhau về thông tin tạo ra diễn
đàn mở, sản phẩm báo chí cũng trở nên đa chiều.
( Ảnh: Nguồn Facebook )
Điển hình như ta có thể bắt gặp chương trình của VTV- Đài truyền hình Việt Nam
trên mạng xã hội FaceBook. Cảnh báo về cạm bạy việc nhẹ lương cao của đội nhóm 16
lừa đảo được VTV đăng tin thu hút 2100K lượt xem, công chúng có thể dễ dàng cập
nhật thông tin và cảnh giác hơn đề phòng báo vẹ bản thân đồng thời chia sẻ cho những
người xung quanh để bảo vệ và cảnh giác. Hơn hết là cùng công chúng lên án và phê
phán những hành vi tàn nhẫn, vô lương tâm lừa đảo và bọc lột sức lao động của người dân nghèo.
Trước những quy định, quy tắc về ứng xử trên mạng xã hội do Bộ và Hội Nhà
báo Việt Nam ban hành, hay cụ thể là điều 5: Chuẩn mực và trách nhiệm khi tham
gia mạng xã hội và các phương tiện truyền thông khác, các nhà báo khi tương tác
trên mạng xã hội đều nhìn nhận rõ vai trò, tầm ảnh hưởng của mình trong phát ngôn,
hoạt động và hầu hết đều xem tài khoản mạng xã hội cá nhân như một tờ báo nhỏ với
những thông tin nhanh nhạy và chuẩn xác, đảm bảo tính chuyên môn. Đồng ý rằng
ngày nay là thời đại của content ngắn, những thứ nhanh gọn lẹ,… nhưng dù trong thời
đại có ưa chuộng tính nhanh chóng gắn gọn đến đâu thì những nội dung mang giá trị
và ảnh hưởng tích cực đến người đọc vẫn giữ sự thu hút riêng. Vì thế những bài đăng
của các nhà báo trên mạng xã hội dù “ nhiều chữ” nhưng đảm bảo đúng chuẩn mực và
trách nhiệm lại mang chất cá nhân riêng, sự chọn lọc đắt giá về ngôn từ sẽ luôn có
nhóm độc giả trung thành ủng hộ và tương tác.
Nhà báo và bài đăng tích cực trên mạng xã hội Facebook
Chúng ta có thể nhắc tới nhiều nhà báo nổi tiếng trong nghề và là cái tên nổi bật với
những trang viết giá trị trên mạng xã hội Facebook cho độc giả như: Trương Anh
Ngọc, Lê Hồng Lâm, Đinh Đức Hoàng, Trần Thu Hà, Hoàng Nguyên Vũ,…
Một cái tên quen thuộc đối với khán giả cộng đồng mạng phải nhắc tới nhà báo
Trương Anh Ngọc- nhà báo truyền cảm hứng về những chuyến đi. Trương Anh Ngọc
là nhà báo nổi tiếng, Trưởng cơ quan thường trú của Thông tấn xã Việt Nam tại Ý
trong giai đoạn 2007–2010 và 2013–2016 và sở hữu một tài khoản Facebook hơn 270
nghìn người theo dõi. Về hoạt động trên mạng xã hội, Trương Anh Ngọc từng chia sẻ:
“ Làm infulencer[1] trên mạng xã hội, mình vừa là phóng viên, vừa là biên tập viên,
vừa là chủ bút của tờ báo do chính mình tạo ra và Influencer có trách nhiệm là người
biết truyền sự tích cực đến cộng đồng”. Với tinh thần coi trang Facebook của mình là 17
một trang báo và mình là chủ biên, nhà báo luôn có sự đầu tư cho tin tức của mình và
những thông tin ấy luôn mang lại năng lượng tích cực, cảm hứng xê- dịch cho công
chúng. Trương Anh Ngọc nói về những câu chuyện du lịch, những chặng đường thú vị
anh từng đi qua, những nơi chốn ý nghĩa giới thiệu cho mọi người,…
Điển hình như bài đăng về thước phim đẹp đẽ của bầu trời đêm Ngũ Chỉ Sơn, Lào
Cai, anh chia sẻ về đêm trải nghiệm bất ngờ bắt gặp khung cảnh huyền ảo của tự nhiên
cùng đồng đội. Vẻ đẹp của tự nhiên, của đất nước được anh phản ánh và truyền tải tới
cộng đồng, niềm tự hào và tình yêu thiên nhiên đất nước dân tộc được tiếp tục thắp
sáng trong lòng công chúng. Cùng với đó là những dòng chia sẻ về đam mê du lịch
cùng tư tưởng “Đi khi ta còn trẻ” liên tục được anh chia sẻ. Lời tâm sự như mang sức
gọi khiến độc giả muốn xách balo ngay lên và đi, lên đường khám phá và chinh phục,
chiêm ngưỡng những vùng đất mới. Nhà báo Trương Anh Ngọc đã thành công biến
trang cá nhân của mình thành trang báo tích cực, truyền cảm hứng và năng lượng tích
cực cho người trẻ. Những chia sẻ của anh luôn đậm tính cá nhân, con người phóng
khoáng của chính anh. Anh cho rằng những điều mình chia sẻ phải đến từ chính bản
thân mình, không vay mượn của ai khác, độc giả mạng xã hội rất tinh ý, họ sẽ nhận ra
ngay điều gì là giả tạo, là trích dẫn, là lấy của người khác ghép vào của mình. Đó
chính là sự chuẩn mực trong sử dụng mạng xã hội của nhà báo dày kinh nghiệm.
( Ảnh: Nguồn Facebook) 18