Học thuyết về nền kinh tế hỗn hợp và sự vận dụng ở Việt Nam | Tiểu luận Lịch sử các học thuyết kinh tế

Khoa học kinh tế đã có lịch sử từ lâu đời. Trước khi xuất hiện trường phái hiện đại  đã có những trường phái khác nhau cùng tồn tại và phát triển, ví dụ như trường  phái Keynes, trường phái cổ điển mới. Mỗi trường phái có những ưu và nhược  điểm riêng. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem

Thông tin:
10 trang 2 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Học thuyết về nền kinh tế hỗn hợp và sự vận dụng ở Việt Nam | Tiểu luận Lịch sử các học thuyết kinh tế

Khoa học kinh tế đã có lịch sử từ lâu đời. Trước khi xuất hiện trường phái hiện đại  đã có những trường phái khác nhau cùng tồn tại và phát triển, ví dụ như trường  phái Keynes, trường phái cổ điển mới. Mỗi trường phái có những ưu và nhược  điểm riêng. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem

26 13 lượt tải Tải xuống
TIỂU LUẬN
MÔN LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ
Đề tài:
Học thuyết về nền kinh tế hỗn hợp và sự vận dụng ở Việt Nam
Khoa học kinh tế đã lịch sử từ lâu đời. Trước khi xuất hiện trường
phái hiện đại đã những trường phái khác nhau cùng tồn tại phát triển,
ví dụ như trường phái Keynes, trường phái cổ điển mới. Mỗi trường phái có
những ưu và nhược điểm riêng, đến khi xuất hiện trường phái chính hiện đại
sự kết hợp chung lại của các trường phái, đó sự kết hợp thuyết của
trường phái Keynes, trường phái cổ điển một số trường phái khác để đưa
ra lý luận chung gọi là nền kinh tế hỗn hợp, tác giả tiêu biểu của trường phái
này là Samuelsontác phẩm này được trình bày thành hai phần: kinh tế vi
mô và kinh tế vĩ mô.
- Kinh tế vi mô: được dùng làm cơ sở cho sự hoạt động của các doanh
nghiệp
- Kinh tế học mô: phần này được dùng làm sở cho các chính
sách của Nhà nước. Trong tác phẩm kinh tế học này 2 tác giả đề cập tới
những lý luận sau:
+ Lý thuyết giới hạn của trường phái tân cổ điển
+ thuyết về sự thăng bằng tổng quát của tác giả
Leonwalvacic
+ Quy luật năng suất lao động bất tương xứng, Ricardo đã đề
cập tới
1
+ Thuyết 3 nhân tố của sản xuất, tác giả Say
+ Lý thuyết về mô hình số nhân của Keynes
Về mặt lịch sử thuyết về nền kinh tế hỗn hợp này xuất hiện từ cuối
thế kỷ 19. Sau chiến tranh thế giới thứ 2 được một số tác giả Mỹ tiếp
tục nghiên cứu phát triển. Sau khoảng thời gian trên Samuelson lại phát
triển thêm một bước nữa.
Nếu như trường phái cổ điển cổ điển mới say sưa với bàn tay
hình và thăng bằng tổng quát, thì Samuelson lại chủ trương phát triển kinh tế
dựa vào cả “hai bàn tay” tức chế thị trường tự do với các quy luật vốn
có của nó và sự can thiệp của chính phủ.
Samuelson cho rằng “điều hành một nền kinh tế không chính
phủ thì cũng như định vỗ tay bằng một bàn tay”.
Dựa vào chế thị trường nghĩa dựa vào bộ máy tự hoạt động
của cung cầu, giá cả với môi trường cạnh tranh, lợi nhuận các quy luật
vận hành khách quan. Nhưng thực tế kinh tế thị trường vẫn có những khuyết
tật, vẫn còn nhiều vấn đề tự không thể giải quyết được. vậy Nhà
nước phải can thiệp vào kinh tế thông qua việc thiết lập pháp luật, xác định
chính sách ổn định kinh tế mô, tác động vào việc phân bố tài nguyên, tác
động vào việc phân bố thu nhập. Qua đó đảm bảo hiệu quả, công bằng và ổn
định trong phát triển kinh tế. Nhà nước phải can thiệp vào kinh tế để ngăn
chặn khủng hoảng, thất nghiệp tạo việc làm đầy đủ, nhưng đồng thời phải
giữ trong khuôn khổ khôn ngoan của cạnh tranh.
Ngày nay “kinh tế hỗn hợp” đang thu hút sự quan tâm của các nhà
kinh tế mọi trường phái xu hướng khác nhau. Theo Samuelson, chế
thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế, trong đó cá nhân người tiêu dùng
và các nhà kinh doanh sản xuất tác động lẫn nhau qua thị trường để xác định
ba vấn đề trung tâm của một tổ chức kinh tế: sản xuất cái gì? sản xuất như
2
thế nào? sản xuất cho ai? Theo ông chế thị trường không phải một
sự hỗn độn mà đây là một trật tự kinh tế.
một chế tinh vi để hỗn hợp giữa người sản xuất người tiêu
dùng thông qua hệ thống giá cả. một phương tiện qua đó để tập
hợp những suy nghĩ và hành động của hàng triệu cá nhân trong xã hội.
“Một nền kinh tế thị trường một chế tinh vi để phối hợp một
cách không tự giác. một phương tiện giao tiếp để tập hợp tri thức
hành động của hàng triệu nhân khác nhau, không bộ não trung tâm
vẫn giải quyết bài toán máy tính lớn nhất hiện nay cũng không thể giải
nổi, không ai thiết kế ra nó. tự xuất hiện cũng như hội loài người,
đang thay đổi”. Trên thị trường thị trường hàng tiêu dùng, dịch vụ
thị trường các yếu tố sản xuất (lao động, đất đai, bản...) trong đó giá cả là
phương tiện phát tín hiệu của xã hội, sự biến động của nó làm trạng thái cân
bằng cung cầu biến đổi thường xuyên: kinh tế thị trường chịu sự điều khiển
của hai ông vua. Người tiêu dùng bỏ phiếu bằng đô la chọn điểm nằm trên
ranh giới khả năng sản xuất.
Thứ hai kỹ thuật hạn chế người tiêu dùng nền sản xuất không
vượt giới hạn khả năng sản xuất. Thị trường đóng vai trò hòa giải giữa sở
thích người tiêu dùng hạn chế kỹ thuật. Bàn tay hình đôi khi dẫn nền
kinh tế tới sai lầm các khuyết tật. Ô nhiễm môi trường, độc quyền phá
hoại cạnh tranh, khủng hoảng thất nghiệp, phân phối bất bình đẳng. Do đó
cần phối hợp với “bàn tay hữu hình” của thuế khóa, chỉ tiêu luật lệ của
chính phủ.
Trong cơ chế thị trường nhất thiết phải có 3 yếu tố là: hàng hóa, người
bán, và người mua.
Hàng hóa: gồm ba loại là: Hàng tiêu dùng, các dịch vụ, các yếu tố của
sản xuất. Gồm ba yếu tố (lao động, đất đai, bản). Những hàng hóa này
làm hình thành nên thị trường hàng tiêu dùng (thị trường đầu ra) thị
3
trường các yếu tố sản xuất (thị trường đầu vào). Đối với hàng hóa giá cả
khi nhiều người mua thì người bán sẽ tăng giá. Do đó dẫn tới việc tăng
cung.
Người bán người mua trên thị trường luôn luôn tác động lẫn nhau
để xác định 2 yếu tố là: giá cả hàng hóa và số lượng hàng hóa được bán trên
thị trường. Theo Samuelson trongchế thị trường có hệ thống tự tạo ra sự
cân đối giữa giá cả sản xuất giá cả trên thị trường tín hiệu hội để
giúp cho người sản xuất trả lời ba câu hỏi: sản xuất cái gì, sản xuất như thế
nào, sản xuất cho ai.
chế thị trường không phải bao giờ cũng hoàn toàn ưu việt
còn chứa đựng những yếu tố bất lợi đó chính những yếu tố để chính
phủ thể hiện vai trò của mình trong quá trình quản lý nền kinh tế. Cơ chế thị
trường dưới sự tác động của bàn tay vô hình thường dẫn tới những khuyết tật
sau:
- Do việc chạy theo lợi nhuận tối đa, cho nên các doanh nghiệp thường
hay làm ô nhiễm môi trường phá hoại cân bằng sinh thái.
- Cơ chế thị trường dễ dẫn tới sự độc quyền như vậy nó phá vỡ cơ chế
cạnh tranh tự do nó làm mất động lực cho sự phát triển kinh tế.
- chế thị trường gằn liền với các căn bệnh như: khủng hoảng, thất
nghiệp, đầu cơ, hàng giả, trốn thuế.
- chế thị trường dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo. Nguồn gốc sự
phân phối thu nhập không công bằng. Chính do những khuyết tật trên, cần
phải có sự kết hợp giữa bàn tay vô hình với sự can thiệp của chính phủ.
Để khắc phục được những khuyết tật trên của chế thị trường, cần
có vai trò can thiệp của chính phủ, theo Samuelson vai trò đó thể hiện ở bốn
chức năng cơ bản sau:
4
- Chính phủ phải xây dựng được hệ thống pháp luật để phục vụ cho
việc kinh doanh tạo được hành lang pháp lý cho kinh doanh. Cụ thể bao gồm
các vấn đề cơ bản sau:
+ Quản lý được tài sản của các doanh nghiệp
+ Quy định trách nhiệm các doanh nghiệp các tổ chức kinh
tế, nghĩa vụ doanh nghiệp đối với xã hội (thuế...)
- Sửa chữa, khắc phục những thất bại của thị trường, nhằm đảm bảo
cho thị trường hoạt động hiệu quả. Để làm được điều đó cần phải giải
quyết bốn vấn đề sau:
+ Ban hành luật chống độc quyền để duy trì được sự cạnh tranh,
làm tăng hiệu quả nền kinh tế.
+ Ngăn chặn được những tác dụng xấu từ bên ngoài làm ảnh
hưởng tới tính hiệu quả của thị trường. Xảy ra trong hai trường hợp: Doanh
nghiệp làm ô nhiễm môi trường làm ảnh hưởng đến đời sống của mọi người,
nhưng không phải đền một khoản thiệt hại nào. Khi dân trong vùng
được hưởng một loại phúc lợi nào đó mà không phải trả tiền.
+ Chính phủ phải đảm nhiệm việc sản xuất các loại hàng hóa
công cộng như: quốc phòng, an ninh, chống thiên tai.
+ Thuế: nguồn thủ chủ yếu của ngân ch nhà nước, bảo
đảm chi tiêu của chính phủ việc chi tiêu đó nhằm để phục vụ các lợi ích
công cộng. Cho nên chính phủ người ban hành các chính sách về thuế
thực hiện việc thu thuế cũng như kiểm tra giám sát việc thực hiện các chính
sách thu thuế.
- Đảm bảo sự công bằng: Cơ chế thị trường luôn luôn dẫn đến sự phân
hóa giàu nghèo bất bình đẳng. vậy chức năng của chính phủ phải
chính sách phân phối thu nhập để phân phối lại thu nhập nhằm giảm bớt sự
5
chênh lệch giữa các thành viên trong xã hội. Nhà nước sử dụng một số công
cụ: Thuế thu nhập, chính phủ xây dựng một hệ thống hỗ trợ thu nhập để giúp
cho những người hoàn cảnh khó khăn, thất nghiệp, ốm đau... Chính phủ
còn thực hiện trợ cấp cho những người thu nhập thấp: như bán nhà với
giá rẻ, cho bảo hiểm y tế...
- Ổn định kinh tế mô: Một khuyết tật lớn của chế thị trường
chu kỳ kinh doanh dẫn đến những cuộc khủng hoảng mang tính chu kỳ.
vậy, chính phủ cần những biện pháp để kiểm soát các chu kỳ đó, theo
Samuelson cần sử dụng công cụ sau:
+ Sử dụng quyền lực về tiền tệ: Đó việc Nhà nước điều tiết
và lưu thông tiền tệ, điều khiển hoạt động của hệ thống Ngân hàng, để thông
qua đó xác định mức lãi suất và xác định các điều kiện tín dụng.
+ Nhà nước sử dụng quyền lực về tài chính: Đó là chính phủ
quyền đánh thuế, quyền ban hành các luật thuế mức thuế khác nhau.
Chính phủ thể sử dụng ngân sách của mình để chi tiêu cho những mục
đích đã được xác định trước.
Để thực hiện các chức năng kinh tế nêu trên, thực tế chính phủ đã phải
tiến hành sự lựa chọn. Sự lựa chọn này của chính phủ chỉ thoả mãn một cách
tương đối nhu cầu của các nhân. vậy sự lựa chọn của chính phủ cũng
có thể đúng, cũngthể sai. Do đó sự can thiệp của chính phủ có thể không
thực sự mang lại hiệu quả. vậy theo Samuelson cần thiết phải sự kết
hợp chặt chẽ giữa chế thị trường với vai trò điều tiết kinh tế của chính
phủ để điều hành nền kinh tế nói chung. Đó chính chế hỗn hợp, trong
đó chế thị trường để xác định giá cả, sản lượng bao nhiêu, còn về phần
chính phủ điều tiết nền kinh tế bằng pháp luật, bằng chi tiêu của ngân sách,
bằng thuế thu được từ các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất.
Để thấy được chế quản kinh tế mới nước ta, quản nền
kinh tế theo chế thị trường sự điều tiết của nhà nước, trước hết cần ta
6
cần thấy được những hạn chế của chế cũ. chế quản kinh tế
nước ta chế kế hoạch tập trung, bao cấp, những đặc trưng chủ yếu
sau đây:
- Quản nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính chủ yếu, điều đó
thể hiện việc chi tiết hóa quá đáng các nhiệm vụ do Trung ương giao cho
bằng một hệ thống các pháp lệnh từ trên xuống dưới.
- Các quan hành chính - kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động
sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, nhưng lại không chịu trách
nhiệm gì với các quyết định của mình.
- Coi thường quan hệ hàng hóa - tiền tệ hiệu quả quản kinh tế,
quản nền kinh tế kế hoạch hóa bằng chế độ cấp phát giao nộp sản
phẩm, quan hệ hiện vậtchủ yếu, do đó hạch toán chỉ là hình thức. Chế độ
bao cấp được thể hiện dưới các hình thức, bao cấp qua giá, chế độ cung cấp
cấp phát vốn của ngân sách không ràng buộc vật chất đối với người
được cấp phát vốn.
- Từ những đặc điểm trên dẫn đến một cách không tránh khỏi bộ máy
quản lý rất cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian và kém năng động, từ đó sinh
ra một đội ngũ cán bộ kém năng lực quản lý, không theo nghiệp vụ kinh
doanh, nhưng phong cách thì quan liêu bao cấp, cửa quyền. Cơ chế quan liêu
bao cấp đã tích góp những xu hướng tiêu cực, làm nảy sinh sự trì trệ, hình
thành cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội.
Nguyên nhân của sự thất bại của cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan
liêu, bao cấp chỗ chế quản kinh tế được xác lập dựa trên sự phủ
nhận quy luật khách quan: quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Với tính chất và trình đồ của lực
lượng sản xuất của Việt Nam trước đây cũng như bây giờ thì quan hệ sản
xuất phù hợp với nó chưa thể là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa – quan hệ
sản xuất được xác lập trong chế cũ. Chính vậy, chế thị trường với
7
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là cơ chế tốt nhất điều tiết nền kinh tế
của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên chế đó không phải
cơ chế hoàn hảo cho mọi nền kinh tế, trong đó có nền kinh tế của Việt Nam.
Vì vậy, chính phủ cần thể hiện đúng vai trò của mình trong quá trình quản lý
nền kinh tế. Như vậy, đồng thời với việc chuyển nền kinh tế nước ta từ nền
kinh tế hàng hóa giản đơn, co hẹp sang nền kinh tế hàng hóa theo đúng
nghĩa của nó, chúng ta cũng phải chuyển từ chế tập trung quan liêu bao
cấp sang chế thị trường sự quản của Nhà nước, theo định hướng
XHCN.
Thực tế của quá trình chuyển đổi kéo dài gần hai mươi năm qua đã
chứng minh tính đúng đắn của việc thiết lập nền kinh tế hàng hoá được quản
theo chế thị trường nước ta. Quản nền kinh tế theo chế thị
trường sự quản lý của nhà nước đã phát huy được những mặt tích cực
sau:
+ Khuyến khích mọi tiềm năng của các chủ thể trong nền kinh tế, tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của họ. Nhờ đó động viên được
các nguồn lực của xã hội và sử dụng tiết kiệm các nguồn lực đó, thúc đẩy sự
ứng dụng kỹ thuật mới vào sản xuất và phát triển nền kinh tế hàng hóa.
+ Nhờ thị trường thể thỏa mãn nhu cầu về hàng ngàn vạn loại sản
phẩm khác nhau cho tiêu dùng nhân cho sản xuất. Những nhiệm vụ
này nếu Nhà nước thực hiện phải cần một khối lượng lớn.
+ Thị trường luôn linh hoạt, có khả năng thích nghi cao hơn khi những
điều kiện kinh tế thay đổi làm thích ứng kịp thời khối lượng cấu của
sản xuất với khối lượng và cơ cấu của nhu cầu.
Những kết quả trên thể được gói gọn qua các chỉ tiêu kinh tế
hội. Bảng dưới đây mô tả các chỉ tiêu đó:
Chỉ tiêu Năm 1995 Năm 1997 Năm 2000
8
GDP (tỷ đồng) 195.567 231.264 273.582
Tỷ lệ tăng trưởng GDP (%) 8,2 6,8
Xuất khẩu (triệu đô la Mỹ) 5.198 9.145 14.448
Những chỉ tiêu trên tuy chưa thực chi tiết những cũng phần nào nói
lên những tiến bộ vượt bậc trong nền kinh tế cũng như cơ chế quản lý kinh tế
ở Việt Nam. Ví dụ, trước năm 1986, nền sản xuất nông nghiệp của Việt Nam
không đủ cung ứng cho nhu cầu trong nước, hàng năm chính phủ phải nhập
khẩu một lượng lớn lương thực để đáp ứng nhu cầu của nhân dân, thì đến
nay Việt Nam đã nước đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo. Sản
xuất đã đáp ứng đủ tiêu dùng và có tích luỹ.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đó, nền kinh tế hàng hoá
Việt Nam cũng không tránh khỏi những mặt hạn chế. Đó là:
+ Mục đích của doanh nghiệp lợi nhuận tối đa, do đó họ thể lạm
dụng tài nguyên của xã hội, vì vậy xã hội sẽ phải chịu một khoản phụ phí do
khai thác khó khăn hơn. Có thể gây ô nhiễm không khí và nguồn nước mà xã
hội phải gánh chịu.
+ Cơ chế thị trường gây ra sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội, sự bất
bình đẳng lớn.
+ Một nền kinh tế do thị trường điều tiết, khó tránh khỏi những thăng
trầm, sự khủng hoảng kinh tế.
Tóm lại, do chế thị trường những khuyết tật của Nhà
nước phải can thiệp vào kinh tế tuy nhiên mức độ khác nhau ở mỗi nước. Sự
can thiệp vào kinh tế đó nhằm đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định
đạt được hiệu quả kinh tế - hội giải quyết những vấn đề hội
9
chế thị trường không làm được. Như vậy, nền kinh tế hỗn hợp là nền kinh tế
vận hành theo cơ chế thị trường nhưng có sự tham gia quản lý của nhà nước.
Ở Việt Nam, nền kinh tế hàng hoá đã và đang từng bước được xác lập
đi kèm với chế quản dựa trên những quy luật thị trường kết
hợp với vai trò quản của nhà nước với mục đích phát huy tối đa tính ưu
việt của cơ chế thị trường, đồng thời hạn chế những khuyết tất mà cơ chế thị
trường mắc phải. Nhà nước đảm bảo phát huy mọi tiềm năng sẵn của tất
cả các chủ thể trong nền kinh tế, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, hạn
chế độc quyền, đảm bảo nền kinh tế phát triển theo đúng định hướng XHCN.
Đảm bảo thực hiện những mục tiêu xã hội.
10
| 1/10

Preview text:

TIỂU LUẬN
MÔN LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ Đề tài:
Học thuyết về nền kinh tế hỗn hợp và sự vận dụng ở Việt Nam
Khoa học kinh tế đã có lịch sử từ lâu đời. Trước khi xuất hiện trường
phái hiện đại đã có những trường phái khác nhau cùng tồn tại và phát triển,
ví dụ như trường phái Keynes, trường phái cổ điển mới. Mỗi trường phái có
những ưu và nhược điểm riêng, đến khi xuất hiện trường phái chính hiện đại
là sự kết hợp chung lại của các trường phái, đó là sự kết hợp lý thuyết của
trường phái Keynes, trường phái cổ điển và một số trường phái khác để đưa
ra lý luận chung gọi là nền kinh tế hỗn hợp, tác giả tiêu biểu của trường phái
này là Samuelson và tác phẩm này được trình bày thành hai phần: kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô.
- Kinh tế vi mô: được dùng làm cơ sở cho sự hoạt động của các doanh nghiệp
- Kinh tế học vĩ mô: phần này được dùng làm cơ sở cho các chính
sách của Nhà nước. Trong tác phẩm kinh tế học này 2 tác giả có đề cập tới những lý luận sau:
+ Lý thuyết giới hạn của trường phái tân cổ điển
+ Lý thuyết về sự thăng bằng tổng quát của tác giả Leonwalvacic
+ Quy luật năng suất lao động bất tương xứng, Ricardo đã đề cập tới 1
+ Thuyết 3 nhân tố của sản xuất, tác giả Say
+ Lý thuyết về mô hình số nhân của Keynes
Về mặt lịch sử lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp này xuất hiện từ cuối
thế kỷ 19. Sau chiến tranh thế giới thứ 2 nó được một số tác giả ở Mỹ tiếp
tục nghiên cứu và phát triển. Sau khoảng thời gian trên Samuelson lại phát
triển thêm một bước nữa.
Nếu như trường phái cổ điển và cổ điển mới say sưa với bàn tay vô
hình và thăng bằng tổng quát, thì Samuelson lại chủ trương phát triển kinh tế
dựa vào cả “hai bàn tay” tức là cơ chế thị trường tự do với các quy luật vốn
có của nó và sự can thiệp của chính phủ.
Samuelson cho rằng “điều hành một nền kinh tế mà không có chính
phủ thì cũng như định vỗ tay bằng một bàn tay”.
Dựa vào cơ chế thị trường có nghĩa là dựa vào bộ máy tự hoạt động
của cung cầu, giá cả với môi trường cạnh tranh, lợi nhuận và các quy luật
vận hành khách quan. Nhưng thực tế kinh tế thị trường vẫn có những khuyết
tật, vẫn còn nhiều vấn đề mà tự nó không thể giải quyết được. Vì vậy Nhà
nước phải can thiệp vào kinh tế thông qua việc thiết lập pháp luật, xác định
chính sách ổn định kinh tế vĩ mô, tác động vào việc phân bố tài nguyên, tác
động vào việc phân bố thu nhập. Qua đó đảm bảo hiệu quả, công bằng và ổn
định trong phát triển kinh tế. Nhà nước phải can thiệp vào kinh tế để ngăn
chặn khủng hoảng, thất nghiệp tạo việc làm đầy đủ, nhưng đồng thời phải
giữ trong khuôn khổ khôn ngoan của cạnh tranh.
Ngày nay “kinh tế hỗn hợp” đang thu hút sự quan tâm của các nhà
kinh tế ở mọi trường phái và xu hướng khác nhau. Theo Samuelson, cơ chế
thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế, trong đó cá nhân người tiêu dùng
và các nhà kinh doanh sản xuất tác động lẫn nhau qua thị trường để xác định
ba vấn đề trung tâm của một tổ chức kinh tế: sản xuất cái gì? sản xuất như 2
thế nào? và sản xuất cho ai? Theo ông cơ chế thị trường không phải là một
sự hỗn độn mà đây là một trật tự kinh tế.
Là một cơ chế tinh vi để hỗn hợp giữa người sản xuất và người tiêu
dùng thông qua hệ thống giá cả. Nó là một phương tiện mà qua đó để tập
hợp những suy nghĩ và hành động của hàng triệu cá nhân trong xã hội.
“Một nền kinh tế thị trường là một cơ chế tinh vi để phối hợp một
cách không tự giác. Nó là một phương tiện giao tiếp để tập hợp tri thức và
hành động của hàng triệu cá nhân khác nhau, không có bộ não trung tâm nó
vẫn giải quyết bài toán mà máy tính lớn nhất hiện nay cũng không thể giải
nổi, không ai thiết kế ra nó. Nó tự xuất hiện và cũng như xã hội loài người,
nó đang thay đổi”. Trên thị trường có thị trường hàng tiêu dùng, dịch vụ và
thị trường các yếu tố sản xuất (lao động, đất đai, tư bản...) trong đó giá cả là
phương tiện phát tín hiệu của xã hội, sự biến động của nó làm trạng thái cân
bằng cung cầu biến đổi thường xuyên: kinh tế thị trường chịu sự điều khiển
của hai ông vua. Người tiêu dùng bỏ phiếu bằng đô la chọn điểm nằm trên
ranh giới khả năng sản xuất.
Thứ hai là kỹ thuật hạn chế người tiêu dùng vì nền sản xuất không
vượt giới hạn khả năng sản xuất. Thị trường đóng vai trò hòa giải giữa sở
thích người tiêu dùng và hạn chế kỹ thuật. Bàn tay vô hình đôi khi dẫn nền
kinh tế tới sai lầm và các khuyết tật. Ô nhiễm môi trường, độc quyền phá
hoại cạnh tranh, khủng hoảng thất nghiệp, phân phối bất bình đẳng. Do đó
cần phối hợp với “bàn tay hữu hình” của thuế khóa, chỉ tiêu và luật lệ của chính phủ.
Trong cơ chế thị trường nhất thiết phải có 3 yếu tố là: hàng hóa, người bán, và người mua.
Hàng hóa: gồm ba loại là: Hàng tiêu dùng, các dịch vụ, các yếu tố của
sản xuất. Gồm ba yếu tố (lao động, đất đai, tư bản). Những hàng hóa này
làm hình thành nên thị trường hàng tiêu dùng (thị trường đầu ra) và thị 3
trường các yếu tố sản xuất (thị trường đầu vào). Đối với hàng hóa có giá cả
khi có nhiều người mua thì người bán sẽ tăng giá. Do đó dẫn tới việc tăng cung.
Người bán và người mua trên thị trường luôn luôn tác động lẫn nhau
để xác định 2 yếu tố là: giá cả hàng hóa và số lượng hàng hóa được bán trên
thị trường. Theo Samuelson trong cơ chế thị trường có hệ thống tự tạo ra sự
cân đối giữa giá cả và sản xuất giá cả trên thị trường là tín hiệu xã hội để
giúp cho người sản xuất trả lời ba câu hỏi: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai.
Cơ chế thị trường không phải bao giờ cũng hoàn toàn ưu việt mà nó
còn chứa đựng những yếu tố bất lợi và đó chính là những yếu tố để chính
phủ thể hiện vai trò của mình trong quá trình quản lý nền kinh tế. Cơ chế thị
trường dưới sự tác động của bàn tay vô hình thường dẫn tới những khuyết tật sau:
- Do việc chạy theo lợi nhuận tối đa, cho nên các doanh nghiệp thường
hay làm ô nhiễm môi trường phá hoại cân bằng sinh thái.
- Cơ chế thị trường dễ dẫn tới sự độc quyền như vậy nó phá vỡ cơ chế
cạnh tranh tự do nó làm mất động lực cho sự phát triển kinh tế.
- Cơ chế thị trường gằn liền với các căn bệnh như: khủng hoảng, thất
nghiệp, đầu cơ, hàng giả, trốn thuế.
- Cơ chế thị trường dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo. Nguồn gốc là sự
phân phối thu nhập không công bằng. Chính do những khuyết tật trên, cần
phải có sự kết hợp giữa bàn tay vô hình với sự can thiệp của chính phủ.
Để khắc phục được những khuyết tật trên của cơ chế thị trường, cần
có vai trò can thiệp của chính phủ, theo Samuelson vai trò đó thể hiện ở bốn chức năng cơ bản sau: 4
- Chính phủ phải xây dựng được hệ thống pháp luật để phục vụ cho
việc kinh doanh tạo được hành lang pháp lý cho kinh doanh. Cụ thể bao gồm
các vấn đề cơ bản sau:
+ Quản lý được tài sản của các doanh nghiệp
+ Quy định trách nhiệm các doanh nghiệp và các tổ chức kinh
tế, nghĩa vụ doanh nghiệp đối với xã hội (thuế...)
- Sửa chữa, khắc phục những thất bại của thị trường, nhằm đảm bảo
cho thị trường hoạt động có hiệu quả. Để làm được điều đó cần phải giải quyết bốn vấn đề sau:
+ Ban hành luật chống độc quyền để duy trì được sự cạnh tranh,
làm tăng hiệu quả nền kinh tế.
+ Ngăn chặn được những tác dụng xấu từ bên ngoài làm ảnh
hưởng tới tính hiệu quả của thị trường. Xảy ra trong hai trường hợp: Doanh
nghiệp làm ô nhiễm môi trường làm ảnh hưởng đến đời sống của mọi người,
nhưng không phải đền bù một khoản thiệt hại nào. Khi dân cư trong vùng
được hưởng một loại phúc lợi nào đó mà không phải trả tiền.
+ Chính phủ phải đảm nhiệm việc sản xuất các loại hàng hóa
công cộng như: quốc phòng, an ninh, chống thiên tai.
+ Thuế: Là nguồn thủ chủ yếu của ngân sách nhà nước, bảo
đảm chi tiêu của chính phủ và việc chi tiêu đó nhằm để phục vụ các lợi ích
công cộng. Cho nên chính phủ là người ban hành các chính sách về thuế và
thực hiện việc thu thuế cũng như kiểm tra giám sát việc thực hiện các chính sách thu thuế.
- Đảm bảo sự công bằng: Cơ chế thị trường luôn luôn dẫn đến sự phân
hóa giàu nghèo bất bình đẳng. Vì vậy chức năng của chính phủ là phải có
chính sách phân phối thu nhập để phân phối lại thu nhập nhằm giảm bớt sự 5
chênh lệch giữa các thành viên trong xã hội. Nhà nước sử dụng một số công
cụ: Thuế thu nhập, chính phủ xây dựng một hệ thống hỗ trợ thu nhập để giúp
cho những người có hoàn cảnh khó khăn, thất nghiệp, ốm đau... Chính phủ
còn thực hiện trợ cấp cho những người có thu nhập thấp: như bán nhà với
giá rẻ, cho bảo hiểm y tế...
- Ổn định kinh tế vĩ mô: Một khuyết tật lớn của cơ chế thị trường là
chu kỳ kinh doanh dẫn đến những cuộc khủng hoảng mang tính chu kỳ. Vì
vậy, chính phủ cần có những biện pháp để kiểm soát các chu kỳ đó, theo
Samuelson cần sử dụng công cụ sau:
+ Sử dụng quyền lực về tiền tệ: Đó là việc Nhà nước điều tiết
và lưu thông tiền tệ, điều khiển hoạt động của hệ thống Ngân hàng, để thông
qua đó xác định mức lãi suất và xác định các điều kiện tín dụng.
+ Nhà nước sử dụng quyền lực về tài chính: Đó là chính phủ có
quyền đánh thuế, có quyền ban hành các luật thuế và mức thuế khác nhau.
Chính phủ có thể sử dụng ngân sách của mình để chi tiêu cho những mục
đích đã được xác định trước.
Để thực hiện các chức năng kinh tế nêu trên, thực tế chính phủ đã phải
tiến hành sự lựa chọn. Sự lựa chọn này của chính phủ chỉ thoả mãn một cách
tương đối nhu cầu của các cá nhân. Vì vậy sự lựa chọn của chính phủ cũng
có thể đúng, cũng có thể sai. Do đó sự can thiệp của chính phủ có thể không
thực sự mang lại hiệu quả. Vì vậy theo Samuelson cần thiết phải có sự kết
hợp chặt chẽ giữa cơ chế thị trường với vai trò điều tiết kinh tế của chính
phủ để điều hành nền kinh tế nói chung. Đó chính là cơ chế hỗn hợp, trong
đó cơ chế thị trường để xác định giá cả, sản lượng bao nhiêu, còn về phần
chính phủ điều tiết nền kinh tế bằng pháp luật, bằng chi tiêu của ngân sách,
bằng thuế thu được từ các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất.
Để thấy rõ được cơ chế quản lý kinh tế mới ở nước ta, quản lý nền
kinh tế theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, trước hết cần ta 6
cần thấy được những hạn chế của cơ chế cũ. Cơ chế quản lý kinh tế cũ ở
nước ta là cơ chế kế hoạch tập trung, bao cấp, có những đặc trưng chủ yếu sau đây:
- Quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, điều đó
thể hiện ở việc chi tiết hóa quá đáng các nhiệm vụ do Trung ương giao cho
bằng một hệ thống các pháp lệnh từ trên xuống dưới.
- Các cơ quan hành chính - kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động
sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, nhưng lại không chịu trách
nhiệm gì với các quyết định của mình.
- Coi thường quan hệ hàng hóa - tiền tệ và hiệu quả quản lý kinh tế,
quản lý nền kinh tế và kế hoạch hóa bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản
phẩm, quan hệ hiện vật là chủ yếu, do đó hạch toán chỉ là hình thức. Chế độ
bao cấp được thể hiện dưới các hình thức, bao cấp qua giá, chế độ cung cấp
và cấp phát vốn của ngân sách mà không ràng buộc vật chất đối với người được cấp phát vốn.
- Từ những đặc điểm trên dẫn đến một cách không tránh khỏi bộ máy
quản lý rất cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian và kém năng động, từ đó sinh
ra một đội ngũ cán bộ kém năng lực quản lý, không theo nghiệp vụ kinh
doanh, nhưng phong cách thì quan liêu bao cấp, cửa quyền. Cơ chế quan liêu
bao cấp đã tích góp những xu hướng tiêu cực, làm nảy sinh sự trì trệ, hình
thành cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội.
Nguyên nhân của sự thất bại của cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan
liêu, bao cấp là ở chỗ cơ chế quản lý kinh tế được xác lập dựa trên sự phủ
nhận quy luật khách quan: quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Với tính chất và trình đồ của lực
lượng sản xuất của Việt Nam trước đây cũng như bây giờ thì quan hệ sản
xuất phù hợp với nó chưa thể là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa – quan hệ
sản xuất được xác lập trong cơ chế cũ. Chính vì vậy, cơ chế thị trường với 7
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là cơ chế tốt nhất điều tiết nền kinh tế
của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên cơ chế đó không phải là
cơ chế hoàn hảo cho mọi nền kinh tế, trong đó có nền kinh tế của Việt Nam.
Vì vậy, chính phủ cần thể hiện đúng vai trò của mình trong quá trình quản lý
nền kinh tế. Như vậy, đồng thời với việc chuyển nền kinh tế nước ta từ nền
kinh tế hàng hóa giản đơn, co hẹp sang nền kinh tế hàng hóa theo đúng
nghĩa của nó, chúng ta cũng phải chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN.
Thực tế của quá trình chuyển đổi kéo dài gần hai mươi năm qua đã
chứng minh tính đúng đắn của việc thiết lập nền kinh tế hàng hoá được quản
lý theo cơ chế thị trường ở nước ta. Quản lý nền kinh tế theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước đã phát huy được những mặt tích cực sau:
+ Khuyến khích mọi tiềm năng của các chủ thể trong nền kinh tế, tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của họ. Nhờ đó mà động viên được
các nguồn lực của xã hội và sử dụng tiết kiệm các nguồn lực đó, thúc đẩy sự
ứng dụng kỹ thuật mới vào sản xuất và phát triển nền kinh tế hàng hóa.
+ Nhờ thị trường có thể thỏa mãn nhu cầu về hàng ngàn vạn loại sản
phẩm khác nhau cho tiêu dùng cá nhân và cho sản xuất. Những nhiệm vụ
này nếu Nhà nước thực hiện phải cần một khối lượng lớn.
+ Thị trường luôn linh hoạt, có khả năng thích nghi cao hơn khi những
điều kiện kinh tế thay đổi làm thích ứng kịp thời khối lượng và cơ cấu của
sản xuất với khối lượng và cơ cấu của nhu cầu.
Những kết quả trên có thể được gói gọn qua các chỉ tiêu kinh tế xã
hội. Bảng dưới đây mô tả các chỉ tiêu đó: Chỉ tiêu Năm 1995 Năm 1997 Năm 2000 8 GDP (tỷ đồng) 195.567 231.264 273.582
Tỷ lệ tăng trưởng GDP (%) 8,2 6,8
Xuất khẩu (triệu đô la Mỹ) 5.198 9.145 14.448
Những chỉ tiêu trên tuy chưa thực chi tiết những cũng phần nào nói
lên những tiến bộ vượt bậc trong nền kinh tế cũng như cơ chế quản lý kinh tế
ở Việt Nam. Ví dụ, trước năm 1986, nền sản xuất nông nghiệp của Việt Nam
không đủ cung ứng cho nhu cầu trong nước, hàng năm chính phủ phải nhập
khẩu một lượng lớn lương thực để đáp ứng nhu cầu của nhân dân, thì đến
nay Việt Nam đã là nước đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo. Sản
xuất đã đáp ứng đủ tiêu dùng và có tích luỹ.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đó, nền kinh tế hàng hoá ở
Việt Nam cũng không tránh khỏi những mặt hạn chế. Đó là:
+ Mục đích của doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa, do đó họ có thể lạm
dụng tài nguyên của xã hội, vì vậy xã hội sẽ phải chịu một khoản phụ phí do
khai thác khó khăn hơn. Có thể gây ô nhiễm không khí và nguồn nước mà xã hội phải gánh chịu.
+ Cơ chế thị trường gây ra sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội, sự bất bình đẳng lớn.
+ Một nền kinh tế do thị trường điều tiết, khó tránh khỏi những thăng
trầm, sự khủng hoảng kinh tế.
Tóm lại, do cơ chế thị trường có những khuyết tật của nó mà Nhà
nước phải can thiệp vào kinh tế tuy nhiên mức độ khác nhau ở mỗi nước. Sự
can thiệp vào kinh tế đó nhằm đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định
đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội và giải quyết những vấn đề xã hội mà cơ 9
chế thị trường không làm được. Như vậy, nền kinh tế hỗn hợp là nền kinh tế
vận hành theo cơ chế thị trường nhưng có sự tham gia quản lý của nhà nước.
Ở Việt Nam, nền kinh tế hàng hoá đã và đang từng bước được xác lập
và đi kèm với nó là cơ chế quản lý dựa trên những quy luật thị trường kết
hợp với vai trò quản lý của nhà nước với mục đích phát huy tối đa tính ưu
việt của cơ chế thị trường, đồng thời hạn chế những khuyết tất mà cơ chế thị
trường mắc phải. Nhà nước đảm bảo phát huy mọi tiềm năng sẵn có của tất
cả các chủ thể trong nền kinh tế, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, hạn
chế độc quyền, đảm bảo nền kinh tế phát triển theo đúng định hướng XHCN.
Đảm bảo thực hiện những mục tiêu xã hội. 10